



Preview text:
lOMoAR cPSD| 45470709
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
HỌC KỲ II NĂM HỌC 2021 – 2022
( Phần dành cho sinh viên/ học viên ) Bài thi hc p
hầần: Kinh tếế chính tr Mác- Lếnin Sốố báo danh:
………05…………………….
Mã sốố đềầ thi:
………………………….…………
Lp: ………2217RLCP1211……………….
Ngày thi: ……17/04…… Tng sốố trang : …4… H và
tền: ………Nguyếễn Xuân Anh……..
……………21D290103………………… Điểm kết luận:
GV chầốm thi 1 :
…….………………………......
GV chầốm thi 2 :
…….………………………......
Câu 1: Vận dụng lý luận về hàng hóa của C.Mác đề xuất giải pháp phát triển một doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất mà anh (chị) biết?
1) Lý luận về hàng hóa của C. Mác
* Khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Sản phẩm của lao động là hàng hóa khi được đưa ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán trên thị
trường. Hàng hóa có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể.
* Thuộc tính của hàng hóa
Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của hàng hóa
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất hoặc nhu cầu tinh thần; có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá
nhân, có thể là nhu cầu cho sản xuất. Nền sản xuất càng phát triển, khoa học - công nghệ càng
hiện đại, càng giúp con người phát hiện thêm các giá trị sử dụng của sản phẩm. 1 lOMoAR cPSD| 45470709
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua. Cho nên vì
vậy, người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình sản xuất ra sao
cho ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
Giá trị của hàng hóa
Để nhận biết được thuộc tính giá trị của hàng hóa, cần xét trong mối quan hệ trao đổi.
Ví dụ, có một quan hệ trao đổi như sau: xA=yB
Ở đây, số lượng x đơn vị hàng hóa A được trao đổi lấy số lượng y đơn vị hàng hóa B. Tỷ lệ trao
đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau này được gọi là giá trị trao đổi.
Sở dĩ các hàng hóa trao đổi được với nhau là vì giữa chúng có một điểm chung. Điểm chung đó
không phải là giá trị sử dụng mặc dù giá trị sử dụng là yếu tố cần thiết để quan hệ trao đổi được diễn ra.
Nếu gạt giá trị sử dụng hay tính có ích của các sản phẩm sang một bên thì giữa chúng có điểm
chung duy nhất: đều là sản phẩm của lao động; một lượng lao động bằng nhau đã hao phí để tạo
ra số lượng các giá trị sử dụng trong quan hệ trao đổi đó.
Vậy, giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. *Tính
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa Lao động cụ thể
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên
môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng lao động, công cụ, phương pháp lao
động riêng và kết quả riêng. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Lao động cụ thể phản ánh tính chất tư nhân của lao động sản xuất hàng hóa bởi việc sản xuất cái
gì, như thế nào là việc riêng của mỗi chủ thể sản xuất.
Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa không kể đến hình thức cụ
thể của nó; đó là sự hao phí sức lao động nói chung của người sản xuất hàng hoá về cơ bắp, thần kinh, trí óc.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá.
Lao động trừu tượng phản ánh tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa. *
Lượng giá trị và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động đã hao phí để tạo ra hàng hóa. Lượng lao động đã
hao phí được tính bằng thời gian lao động. Thời gian lao động này phải được xã hội chấp nhận,
không phải là thời gian lao động của đơn vị sản xuất cá biệt, mà là thời gian lao động xã hội cần thiết = 2 lOMoAR cPSD| 45470709
Xét về mặt cấu thành, lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa được sản xuất ra bao hàm: hao phí
lao động quá khứ (chứa trong các yếu tố vật tư, nguyên nhiên liệu đã tiêu dùng để sản xuất ra
hàng hóa đó) + hao phí lao động mới kết tinh thêm
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa Một là, năng suất lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động, được tính bằng số lượng sản phẩm
sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hay số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động gồm: i) trình độ khéo léo trung bình của người
lao động; ii) mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng khoa học vào quy trình công
nghệ; iii) sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất; iv) quy mô và hiệu xuất của tư liệu sản xuất;
v) các điều kiện tự nhiên.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động trong sản xuất. Tăng
cường độ lao động là tăng mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động. Trong chừng
mực xét riêng vai trò của cường độ lao động, việc tăng cường độ lao động làm cho tổng số sản
phẩm tăng lên. Tổng lượng giá trị của tất cả hàng hóa gộp lại tăng lên. Song, lượng thời gian lao
động xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa không thay đổi; vì tăng cường
độ lao động chỉ nhấn mạnh tăng mức độ khẩn trương, tích cực của hoạt động lao động thay vì
lười biếng mà sản xuất ra số lượng hàng hóa ít hơn.
Hai là, tính chất phức tạp của lao động.
Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn so
với lao động giản đơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân bội lên. Đây là cơ sở
lý luận quan trọng để cả nhà quản trị và người lao động xác định mức thù lao cho phù hợp với
tính chất của hoạt động lao động trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội.
2) Vận dụng lý luận về hàng hóa của C.Mác đề xuất giải pháp phát triển một doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực sản xuất.
Trong thời đại 4.0, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ các công ty công
nghệ mọc lên như nấm.Và để một công ty công nghệ sản xuất điện thoại thông minh như BKAV
tồn tại và phát triển lâu dài trong thị trường này là một bài toán khó. Sau đây là những đề xuất
giải pháp phát triển cho công ty BKAV:
Thứ nhất : Doanh nghiệp cần trú trọng tính đột phá, sáng tạo, hoàn thiện của sản phẩm.
Vì theo như lý luận về hàng hóa của C.Mác thì nền sản xuất càng phát triển, khoa học - công
nghệ càng hiện đại, càng giúp con người phát hiện thêm các giá trị sử dụng của sản phẩm. Giá trị
sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng nhằm đáp ứng yêu cầu của người mua. Cho nên vì vậy,
người sản xuất phải chú ý hoàn thiện giá trị sử dụng của hàng hóa do mình sản xuất ra sao cho
ngày càng đáp ứng nhu cầu khắt khe và tinh tế hơn của người mua.
Thứ hai : Tận dụng hiệu quả các yếu tố về tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên nhằm
tăng năng suất doanh nghiệp như sử dụng hợp lí các nguồn nguyên liệu sẵn có, giá rẻ trong nước lOMoAR cPSD| 45470709 3
để đưa vào lắp ráp, đặt nhà máy ở nơi có vị trí địa lý thuận lợi (như là gần nguồn nguyên liệu,
gần trục giao thông, gần nơi tiêu thụ…). Sử dụng nguồn nhân công dồi dào giá rẻ có sẵn trong
nước để giảm chi phí sản xuất đến mức thấp nhất mà vẫn đảm bảo được năng suất. Chi phí sản
xuất giảm đồng nghĩa với việc giá thành của sản phẩm cũng giảm theo. Mở rộng quy mô sản
xuất và tăng hiệu suất của tư liệu sản xuất
Thứ ba : Phải biết tự chủ, tư duy sáng tạo để tạo ra giá trị riêng cho sản phẩm của doanh
nghiệp sản xuất, không dựa dẫm, sao chép công nghệ, ý tưởng của các hãng lớn. Hiện nay đất
nước láng giềng Trung Quốc được coi là một cường quốc công nghệ, họ có rất nhiều các tập
đoàn công nghệ lớn cũng như nguyên vật liệu có sẵn rẻ mạt để bán lại cho các doanh nghiệp sản
xuất công nghệ ở Việt Nam. Và BKAV cũng là doanh nghiệp ăn cắp chất xám và nhập những
nguyên liệu kém chất lượng này về để sản xuất và điều này là không nên. Vì giá trị hàng hóa
theo C.Mác chính là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa và lao động
trừu tượng chính là cơ sở để so sánh, trao đổi các giá trị sử dụng khác nhau. Doanh nghiệp không
thể ăn cắp chất xám, dùng nguyên vật liệu rẻ mạt để đánh lừa người tiêu dùng được, điều này chỉ
giúp doanh nghiệp tồn tại trong thời gian ngắn. Vậy nên doanh nghiệp cần đổi mới ngay tư duy,
biết tự làm chủ công nghệ.
Thứ tư : Nâng cao trình độ tay nghề của công nhân sản xuất, kết hợp máy móc hiện đại
giúp tăng năng suất, độ chính xác của sản phẩm tạo ra. Tăng cường độ lao động làm cho tổng sản
phẩm tăng lên, điều này quyết định bởi yếu tố tuyển chọn công nhân như sức khỏe, thể chất, tâm
lý, trình độ. Có những chế độ đãi ngộ tốt cho công nhân viên, giúp họ có một tâm lý tốt, có trách
nhiệm hơn trong công việc và gắn bó với doanh nghiệp lâu dài hơn. Câu 2: Ta có:
Tổng lợi nhuận = Tổng tư bản đầu tư x Tỷ suất lợi nhuận bình quân
= 600 x 13% = 78 (triệu USD)
Tổng tư bản cho vay = Tổng tư bản đầu tư – Tư bản công nghiệp tự có
= 600 – 600 x 60% (triệu USD)
= 600 – 360 = 240 (triệu USD)
Lợi tức của các nhà tư bản cho vay = Tổng tư bản cho vay x Tỷ suất lợi tức
= 240 x 8% = 19,2 (triệu USD)
Lợi nhuận của các nhà tư bản công nghiệp = Tổng lợi nhuận – Lợi tức của các nhà tư bản
cho vay = 78 – 19,2 = 58,8 (triệu USD)