lOMoARcPSD| 47206071
1
Câu hỏi
Câu 1 (5 điểm): Anh (Chị) hãy làm rõ nội dung Chính Cương của Đảng Lao động Việt
Nam được thông qua tại Đại hội II (2/1951). Theo Anh (Chị) điểm mới, sáng tạo trong
Chính Cương (2/1951) là gì?
Câu 2 (5 điểm): Anh (Chị) hãy làm rõ thành tựu 35 năm đổi mới đất nước trên lĩnh vực
đối ngoại và rút ra nhận xét?
Bài Làm
Câu 1:
a. Anh (Chị) hãy làm rõ nội dung Chính Cương của Đảng Lao động Việt Nam được
thông qua tại Đại hội II (2/1951)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, tại xã
Vinh Quang (nay Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự Đại hội
158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên
toàn Đảng.
Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt Nam, được những người cộng sản Lào và
Campuchia nhất trí tán thành, Đại hội quyết định: Do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công
nhân nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần một đảng riêng. Việt
Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Sau Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu thảo luận Báo cáo
chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều
lệ Đảng của Lê Văn Lương…
Báo cáo chính trị đã tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam trong
nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau; rút ra bài học
trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2020– 2021
Bài thi học phần:
Lịch Sử Đảng Cộng Sản
Việt Nam
Mã số đề thi:
27
16/12/2021
Tổng số trang
:
07
Số báo danh
:
40
Lớp:
0131
2183
HCMI
Họ và tên:
Bùi Chiến Quốc
Điểm kết luận:
GV chấm thi 1:
GV chấm thi 2:
lOMoARcPSD| 47206071
2
tiêu diệt thực dân Pháp đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn
toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra những chính
sách biện pháp tích cực tăng cường lực ợng trang, củng cố các đoàn thể quần chúng,
đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng ờng đoàn kết quốc tế;
đẩy mạnh ng tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ,
chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” để lãnh đạo đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn.
Báo cáo của Tổng tTrường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng Việt
Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nội
dung bản của của báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động Việt
Nam được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
- Xác định tính chất của hội Việt Nam lúc này 3 tính chất: “dân chủ nhân dân,
một phần thuộc địa nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa
chế độ dân chủ nhân dân với các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
Đối tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và
can thiệp Mỹ, và phong kiến phản động.
- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và
nửa phong kiến, làm cho người y có ruộng; phát triển chế đdân chủ nhân dân, gây
sở cho chủ nghĩa xã hội”. Nhưng nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng
nhiệm vụ chính lúc này là tập trung đấu tranh chống xâm lược, hoàn thành công cuộc giải
phóng dân tộc.
- Động lực của cách mạng Việt Nam được xác gồm có bốn giai cấp là: giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân
sĩ (thân hào, địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó lấy nền tảng là giai cấp công, giai cấp
nông và lao động trí óc; giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam.
- Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất định
sẽ tiến lên chủ nghĩa hội. Cách mạng Việt Nam cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là quá trình lâu dài, các giai đoạn phát triển tương ứng với những nhiệm vụ trung
tâm, đó là: hoàn thành giải phóng dân tộc; a bỏ tàn tích phong kiến nửa phong kiến,
thực hiện triệt để người cầy ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới y
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Nội dung của Chính cương còn nêu ra 15 chính sách lớn của Đảng trong giai đoạn hiện ta
nhằm tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi đặt sở kiến thiết quốc gia, thực
hiện chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam, làm tiền đề tiến lên chủ nghĩa hội. Điều lệ
mới của Đảng được Đại hội thông qua 13 chương, 71 điều, trong đó xác định mục
đích, n chcủa Đảng phấn đấu “để phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân
lOMoARcPSD| 47206071
3
lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số Việt Nam”. Điều lệ Đảng cũng nêu ra những
quy định về đảng viên, về nền tảng tưởng của Đảng, nguyên tắc hoạt động của Đảng
Lao động Việt Namnhấn mạnh: “trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công nhân
nhân dân lao động của dân tộc một. Chính Đảng Lao động Việt Nam là đảng
của giai cấp công nhân nhân dân lao động, cho nên phải Đảng của dân tộc Việt
Nam”.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức 10 ủy viên dự
khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết
và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Tờng Chinh được bầu lại làm
Tổng Bí thư.
Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội kháng chiến
kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn xây dựng Đảng Lao động
Việt Nam” Tuy nhiên, Đại hội cũng hạn chế, khuyết điểm về nhận thức mắc vào
tưởng “tả” khuynh, giáo điều, rập khuôn máy móc, đưa cả lý luận Xtalin, tưởng Mao
Trạch Đông vào làm “nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng
b. Điểm mới, sáng tạo trong Chính Cương (2/1951) là:
Đại hội đại biểu lần II của Đảng được xem như là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong
quá trình lãnh đạo trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã đưa Đảng
Cộng sản Việt Nam từ việc hoạt động bí mật, dưới tên gọi Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác
Đông Dương, ra hoạt động công khai trở lại dưới tên gọi mới Đảng Lao động Việt
Nam.
- Đại hội II thể hiện ở sự thống nhất của “ý Đảng, lòng Dân”; sự kết hợp giữa trí tuệ
của đội tiền phong lãnh đạo với mong muốn, khát vọng độc lập dân tộc tự do, hạnh phúc
của nhân dân
- Những nội dung mà Đại hội xác định như: “phải tập trung mọi lực lượng để kháng
chiến, đặng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc”. “Tiêu diệt thực dân Pháp đánh
bại can thiệp Mỹ”, “Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn” đã trở thành kim chỉ nam,
lời hiệu triệu khơi dậy sức mạnh vĩ đại, tinh thần đoàn kết của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc khẳng định, sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là
tiến tới chủ nghĩa xã hội, quyết không thể có một con đường nào khác, Chính cương Đảng
Lao động Việt Nam đã trở thành văn kiện có giá trị sâu sắc về tổng kết thực tiễn và lý luận
cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc đối với tiến trình phát triển cách mạng Việt Nam sau này.
- Thực hiện những chủ trương, quyết sách đúng đắn của Đại hội II, những năm 1951
- 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tiến lên giành thắng lợi với
Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp
phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện cho miền
Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
lOMoARcPSD| 47206071
4
- Những quyết sách sáng suốt ý nghĩa to lớn tinh thần đoàn kết “quyết chiến,
quyết thắng” của Đại hội II tiếp tục lan tỏa, là động lực quan trọng, nền tảng vững chắc để
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam, từng
bước giành thắng lợi, với đỉnh cao Đại thắng mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đại hội II bài học sâu sắc về quan điểm kiên định vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; kiên
định giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa hội; nắm chắc quan điểm
bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, mở rộng
hợp tác quốc tế trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa.
Những quyết sách từ Đại hội thấm nhuần bài học “dân là gốc” được đúc rút từ lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước giữ ớc của dân tộc ta, cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân, thể hiện “ý Đảng, lòng Dân” hòa chung trong khát vọng giành độc lập,
giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội II cho ta cơ sở để khẳng định rằng, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân
tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; cho chúng ta niềm tin vững
chắc vào đường lối đổi mới đúng đắn, ng tạo của Đảng ta, vào tương lai rạng ngời của
đất nước và dân tộc. Với những mục tiêu, định hướng, các nhiệm vụ trọng tâm các đột
phá chiến lược đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra, chúng ta càng thêm ý c
quyết tâm lập nên kỳch phát triển mới, vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 2 : Anh (Chị) hãy làm thành tựu 35 năm đổi mới đất nước trên lĩnh vực đối ngoại
và rút ra nhận xét?
Trong 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp, khó lường. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trong công tác đối ngoại.
Thứ nhất, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình quốc tế trong nước, Đảng ta đã xác định
hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ
đó những chủ trương, chỉ đạo đúng đắn cho công tác đối ngoại hội nhập quốc tế,
ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. Bộ Chính trđã thông qua Nghị quyết tăng cường
và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại Đảng trong tình hình mới. Chính phủ đã nhiều
nghị định hướng dẫn, tổ chức triển khai công tác đối ngoại hội nhập quốc tế trong các
lĩnh vực. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược hội nhập quốc tế đến m 2020,
tầm nhìn đến năm 2030. Các bộ, ban, ngành, địa phương đã xây dựng nhiều đề án, chương
trình hành động để thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại hội nhập quốc tế. Thứ hai: đối
ngoại đã góp phần củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để
phát triển đất nước. Đến nay, Việt Nam đã quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, trong đó quan hệ đối tác chiến lược đối tác toàn diện với
lOMoARcPSD| 47206071
5
30 nước, bao gồm 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ
Nhóm các ớc công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) tất cả các thành viên ASEAN.
Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng 111 quốc gia, Quốc hội Việt Nam
quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan
hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài.
Thứ ba: hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều đột phá, qua đó đã mở rộng thị trường xuất khẩu,
thu hút vốn nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam đã quan hệ
thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với
Việt Nam. Chúng ta đã tham gia quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, chế hợp tác
kinh tế - phát triển ng đầu như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế
giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, chúng ta đã tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do
(FTA), trong đó có các FTA “thế hệ mới” như: Hiệp định Đối tác toàn diện tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu
(EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Thứ tư: vị thế quốc tế của đất nước không ngừng được nâng cao thông qua việc nâng tầm
đối ngoại đa phương và đảm nhận thành công nhiều trọng trách quốc tế quan trọng. Đến
nay, Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu.
Việt Nam đã 2 lần làm Chủ tịch ASEAN (2010, 2020); làm Chủ tịch Tổ chức Liên nghị
viện ASEAN (AIPO, 2002), Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) (2010,
2020), 2 lần trúng cử với số phiếu ủng hộ rất cao để trở thành Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 2020-2021), 2 lần nước chủ
nhà APEC (2006 2017); đăng cai thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về
ASEAN năm 2018; tổ chức tốt cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ 2 (2019). Việt
Nam cũng tích cực tham gia các diễn đàn đa phương chính đảng như: Cuộc gặp quốc tế
các đảng cộng sản công nhân (IMWCP), Ủy ban thường trực Hội nghị quốc tế các chính
đảng châu Á (ICAPP); tích cực thúc đẩy hợp tác qua các kênh ngoại giao nghị viện như:
Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA), Liên minh Nghị viện thế giới (IPU); tham gia
tích cực Diễn đàn Nhân dân ASEAN. Chúng ta tích cực tham gia o hoạt động gìn giữ
hòa bình của Liên hợp quốc.
Thứ năm: đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Chúng ta đã bản xây dựng được đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu
nghị, hợp tác với các nước láng giềng. Trên biển, chúng ta kiên quyết bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng của đất ớc; kiên trì giải quyết
tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế.
Thứ sáu: công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt nhiều kết quả quan trọng, thể hiện
chủ trương đại đoàn kết dân tộc cũng như tình cảm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước
trong việc chăm lo cho cộng đồng và phát huy mạnh mẽ nguồn lực của kiều bào. Công tác
bảo hộ công dân được triển khai đồng bộ hiệu quả. 5 năm qua, chúng ta đã triển khai
công tác bảo hộ đối với trên 50.000 công dân, trên 600 vụ việc/1.000 tàu/với gần 10.000
lOMoARcPSD| 47206071
6
ngư dân; tổ chức gần 800 chuyến bay đưa trên 200.000 công dân về nước an toàn trong đại
dịch Covid-19.
Thứ bảy: trong hai m qua, giữa bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế
giới trong nước, chúng ta đã triển khai ng tác ngoại giao y tế ngoại giao vắc xin
rất kịp thời hiệu quả. Đến nay, Việt Nam đã nhận được trên 151 triệu liều vắc xin và
nhiều trang thiết bị y tế, góp phần quan trọng cho công tác phòng, chống dịch đi đôi với
phục hồi phát triển kinh tế - hội. Việt Nam cũng đã viện trợ vật y tế tài chính
cho trên 50 quốc gia tổ chức quốc tế, thể hiện vai trò “thành viên trách nhiệm”
trong cộng đồng quốc tế.
Nhận xét
Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những
năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó do Ðảng ta
đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được
nhân dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng
đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - -nin, ởng Hồ Chí Minh,
kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định ởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ
trương, quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong
nước. Ðó là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính mạng con người, không để ai b
bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc
phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống
Song bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể như: Công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu luận còn bất cập, chưa làm một số vấn đề đặt ra
trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp skhoa học hoạch định đường
lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Kinh tế phát
triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cầu thực tế nguồn lực được huy
động; kinh tế chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao. Chất lượng,
hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát
triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc
nảy sinh, nhất các vấn đề hội quản hội chưa được nhận thức đầy đủ giải
quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một
số mặt, lĩnh vực, còn một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành
quả của công cuộc đổi mới
Từ đó rút ra những bài học
Thứ nhất: bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng, sự quản thống
nhất của Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành toàn bộ hệ thống chính
trị. Sự lãnh đạo của Đảng điều kiện tiên quyết đối với mọi thắng lợi của công tác đối
lOMoARcPSD| 47206071
7
ngoại, phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên mặt trận đối ngoại. Thứ
hai: nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá;
vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách ợc, "dĩ bất biến ứng
vạn biến"; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Thứ ba: chiến lược đối ngoại của Việt Nam đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn kết hài hoà, chặt chẽ, có hiệu quả với đường
lối, chính sách quốc phòng, an ninh phát triển kinh tế, văn hoá, hội. Kết hợp sc
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt sự phát triển của đất nước vào dòng chảy của thời
đại, từ đó xây dựng, triển khai các đường lối, chính sách phù hợp, phát huy tối đa sức mạnh
dân tộc, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thứ tư: đánh giá
dự báo đúng tình hình trong nước quốc tế; không ngừng sáng tạo, đổi mới duy
trong hoạch định triển khai chính sách đối ngoại, phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc
và xu thế thời đại.
Thứ năm: nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước. Từ phá thế bao vây cấm vận, tiến
tới chủ động thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa
các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khhợp tác bền vữngvà hội nhập
quốc tế sâu rộng, toàn diện.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47206071
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2020– 2021
Bài thi học phần: Lịch Sử Đảng Cộng Sản Số báo danh : 40 Việt Nam Lớp: 2183 HCMI0131
Mã số đề thi: 27
Ngày thi: 16/12/2021 Tổng số trang : 07
Họ và tên: Bùi Chiến Quốc Điểm kết luận: GV chấm thi 1: GV chấm thi 2: Câu hỏi
Câu 1 (5 điểm): Anh (Chị) hãy làm rõ nội dung Chính Cương của Đảng Lao động Việt
Nam được thông qua tại Đại hội II (2/1951). Theo Anh (Chị) điểm mới, sáng tạo trong
Chính Cương (2/1951) là gì?
Câu 2 (5 điểm): Anh (Chị) hãy làm rõ thành tựu 35 năm đổi mới đất nước trên lĩnh vực
đối ngoại và rút ra nhận xét? Bài Làm Câu 1: a.
Anh (Chị) hãy làm rõ nội dung Chính Cương của Đảng Lao động Việt Nam được
thông qua tại Đại hội II (2/1951)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, tại xã
Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự Đại hội
có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên toàn Đảng.
Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt Nam, được những người cộng sản Lào và
Campuchia nhất trí tán thành, Đại hội quyết định: Do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công
nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một đảng riêng. Ở Việt
Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Sau Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo
chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển
dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều
lệ Đảng của Lê Văn Lương…
Báo cáo chính trị đã tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam trong
nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau; rút ra bài học
trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt 1 lOMoAR cPSD| 47206071
là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn
toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra những chính
sách và biện pháp tích cực tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng,
đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế;
đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ,
chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” để lãnh đạo đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng Việt
Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nội
dung cơ bản của của báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao động Việt
Nam được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây: -
Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân,
một phần thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa
chế độ dân chủ nhân dân với các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
Đối tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và
can thiệp Mỹ, và phong kiến phản động. -
Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và
nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ
sở cho chủ nghĩa xã hội”. Nhưng nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng
nhiệm vụ chính lúc này là tập trung đấu tranh chống xâm lược, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc. -
Động lực của cách mạng Việt Nam được xác gồm có bốn giai cấp là: giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân
sĩ (thân hào, địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó lấy nền tảng là giai cấp công, giai cấp
nông và lao động trí óc; giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. -
Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất định
sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đây là quá trình lâu dài, có các giai đoạn phát triển tương ứng với những nhiệm vụ trung
tâm, đó là: hoàn thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến,
thực hiện triệt để người cầy có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới xây
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Nội dung của Chính cương còn nêu ra 15 chính sách lớn của Đảng trong giai đoạn hiện ta
nhằm tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia, thực
hiện chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam, làm tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội. Điều lệ
mới của Đảng được Đại hội thông qua có 13 chương, 71 điều, trong đó xác định rõ mục
đích, tôn chỉ của Đảng là phấn đấu “để phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân 2 lOMoAR cPSD| 47206071
lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số Việt Nam”. Điều lệ Đảng cũng nêu ra những
quy định về đảng viên, về nền tảng tư tưởng của Đảng, nguyên tắc hoạt động của Đảng
Lao động Việt Nam và nhấn mạnh: “trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự
khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết
và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội kháng chiến
kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động
Việt Nam” Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết điểm về nhận thức là mắc vào tư
tưởng “tả” khuynh, giáo điều, rập khuôn máy móc, đưa cả lý luận Xtalin, tưởng Mao
Trạch Đông vào làm “nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng
b. Điểm mới, sáng tạo trong Chính Cương (2/1951) là:
Đại hội đại biểu lần II của Đảng được xem như là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong
quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã đưa Đảng
Cộng sản Việt Nam từ việc hoạt động bí mật, dưới tên gọi Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác
ở Đông Dương
, ra hoạt động công khai trở lại dưới tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam.
- Đại hội II thể hiện ở sự thống nhất của “ý Đảng, lòng Dân”; sự kết hợp giữa trí tuệ
của đội tiền phong lãnh đạo với mong muốn, khát vọng độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân
- Những nội dung mà Đại hội xác định như: “phải tập trung mọi lực lượng để kháng
chiến, đặng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc”. “Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh
bại can thiệp Mỹ”, “Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn” đã trở thành kim chỉ nam,
lời hiệu triệu khơi dậy sức mạnh vĩ đại, tinh thần đoàn kết của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc khẳng định, sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là
tiến tới chủ nghĩa xã hội, quyết không thể có một con đường nào khác, Chính cương Đảng
Lao động Việt Nam
đã trở thành văn kiện có giá trị sâu sắc về tổng kết thực tiễn và lý luận
cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc đối với tiến trình phát triển cách mạng Việt Nam sau này.
- Thực hiện những chủ trương, quyết sách đúng đắn của Đại hội II, những năm 1951
- 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tiến lên giành thắng lợi với
Chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp
phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện cho miền
Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. 3 lOMoAR cPSD| 47206071
- Những quyết sách sáng suốt có ý nghĩa to lớn và tinh thần đoàn kết “quyết chiến,
quyết thắng” của Đại hội II tiếp tục lan tỏa, là động lực quan trọng, nền tảng vững chắc để
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược ở miền Nam, từng
bước giành thắng lợi, với đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
- Đại hội II là bài học sâu sắc về quan điểm kiên định và vận dụng, phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; kiên
định giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; nắm chắc quan điểm
bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, mở rộng
hợp tác quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những quyết sách từ Đại hội thấm nhuần bài học “dân là gốc” được đúc rút từ lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân, thể hiện “ý Đảng, lòng Dân” hòa chung trong khát vọng giành độc lập,
giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội II cho ta cơ sở để khẳng định rằng, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là nhân
tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; cho chúng ta niềm tin vững
chắc vào đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, vào tương lai rạng ngời của
đất nước và dân tộc. Với những mục tiêu, định hướng, các nhiệm vụ trọng tâm và các đột
phá chiến lược đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra, chúng ta càng có thêm ý chí
quyết tâm lập nên kỳ tích phát triển mới, vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 2 : Anh (Chị) hãy làm rõ thành tựu 35 năm đổi mới đất nước trên lĩnh vực đối ngoại và rút ra nhận xét?
Trong 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, tình hình thế giới có nhiều diễn biến
phức tạp, khó lường. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa
dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trong công tác đối ngoại.
Thứ nhất, trên cơ sở đánh giá đúng tình hình quốc tế và trong nước, Đảng ta đã xác định
hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ
đó có những chủ trương, chỉ đạo đúng đắn cho công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế,
ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết tăng cường
và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại Đảng trong tình hình mới. Chính phủ đã có nhiều
nghị định hướng dẫn, tổ chức triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong các
lĩnh vực. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược hội nhập quốc tế đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030. Các bộ, ban, ngành, địa phương đã xây dựng nhiều đề án, chương
trình hành động để thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thứ hai: đối
ngoại đã góp phần củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để
phát triển đất nước. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 4 lOMoAR cPSD| 47206071
30 nước, bao gồm 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ
Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và tất cả các thành viên ASEAN.
Đảng ta đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, Quốc hội Việt Nam có
quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan
hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài.
Thứ ba: hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều đột phá, qua đó đã mở rộng thị trường xuất khẩu,
thu hút vốn nước ngoài, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam đã có quan hệ
thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với
Việt Nam. Chúng ta đã tham gia và có quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, cơ chế hợp tác
kinh tế - phát triển hàng đầu như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế
giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, chúng ta đã tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do
(FTA), trong đó có các FTA “thế hệ mới” như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu
(EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Thứ tư: vị thế quốc tế của đất nước không ngừng được nâng cao thông qua việc nâng tầm
đối ngoại đa phương và đảm nhận thành công nhiều trọng trách quốc tế quan trọng. Đến
nay, Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu.
Việt Nam đã 2 lần làm Chủ tịch ASEAN (2010, 2020); làm Chủ tịch Tổ chức Liên nghị
viện ASEAN (AIPO, 2002), Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) (2010,
2020), 2 lần trúng cử với số phiếu ủng hộ rất cao để trở thành Ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021), 2 lần là nước chủ
nhà APEC (2006 và 2017); đăng cai thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về
ASEAN năm 2018; tổ chức tốt cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ 2 (2019). Việt
Nam cũng tích cực tham gia các diễn đàn đa phương chính đảng như: Cuộc gặp quốc tế
các đảng cộng sản và công nhân (IMWCP), Ủy ban thường trực Hội nghị quốc tế các chính
đảng châu Á (ICAPP); tích cực thúc đẩy hợp tác qua các kênh ngoại giao nghị viện như:
Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA), Liên minh Nghị viện thế giới (IPU); tham gia
tích cực Diễn đàn Nhân dân ASEAN. Chúng ta tích cực tham gia vào hoạt động gìn giữ
hòa bình của Liên hợp quốc.
Thứ năm: đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Chúng ta đã cơ bản xây dựng được đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu
nghị, hợp tác với các nước láng giềng. Trên biển, chúng ta kiên quyết bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng của đất nước; kiên trì giải quyết
tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế.
Thứ sáu: công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt nhiều kết quả quan trọng, thể hiện
rõ chủ trương đại đoàn kết dân tộc cũng như tình cảm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước
trong việc chăm lo cho cộng đồng và phát huy mạnh mẽ nguồn lực của kiều bào. Công tác
bảo hộ công dân được triển khai đồng bộ và hiệu quả. 5 năm qua, chúng ta đã triển khai
công tác bảo hộ đối với trên 50.000 công dân, trên 600 vụ việc/1.000 tàu/với gần 10.000 5 lOMoAR cPSD| 47206071
ngư dân; tổ chức gần 800 chuyến bay đưa trên 200.000 công dân về nước an toàn trong đại dịch Covid-19.
Thứ bảy: trong hai năm qua, giữa bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế
giới và trong nước, chúng ta đã triển khai công tác ngoại giao y tế và ngoại giao vắc xin
rất kịp thời và hiệu quả. Đến nay, Việt Nam đã nhận được trên 151 triệu liều vắc xin và
nhiều trang thiết bị y tế, góp phần quan trọng cho công tác phòng, chống dịch đi đôi với
phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam cũng đã viện trợ vật tư y tế và tài chính
cho trên 50 quốc gia và tổ chức quốc tế, thể hiện rõ vai trò “thành viên có trách nhiệm”
trong cộng đồng quốc tế. Nhận xét
Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những
năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có
đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được
nhân dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng
đã nhận thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ
trương, quyết sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong
nước. Ðó là cơ sở để năm 2020, với phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị
bỏ lại phía sau, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc
phục hậu quả bão lụt ở các tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống
Song bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có hạn chế, khuyết điểm. Cụ thể như: Công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra
trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học hoạch định đường
lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Kinh tế phát
triển chưa bền vững, chưa tương xứng tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy
động; kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao. Chất lượng,
hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát
triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc
nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải
quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Trên một
số mặt, lĩnh vực, còn một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành
quả của công cuộc đổi mới
Từ đó rút ra những bài học
Thứ nhất: bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống
nhất của Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và toàn bộ hệ thống chính
trị. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đối với mọi thắng lợi của công tác đối 6 lOMoAR cPSD| 47206071
ngoại, phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên mặt trận đối ngoại. Thứ
hai:
nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá;
vừa hợp tác vừa đấu tranh; kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược, "dĩ bất biến ứng
vạn biến"; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Thứ ba: chiến lược đối ngoại của Việt Nam đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn kết hài hoà, chặt chẽ, có hiệu quả với đường
lối, chính sách quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt sự phát triển của đất nước vào dòng chảy của thời
đại, từ đó xây dựng, triển khai các đường lối, chính sách phù hợp, phát huy tối đa sức mạnh
dân tộc, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thứ tư: đánh giá
và dự báo đúng tình hình trong nước và quốc tế; không ngừng sáng tạo, đổi mới tư duy
trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc và xu thế thời đại.
Thứ năm: nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước. Từ phá thế bao vây cấm vận, tiến
tới chủ động thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa
các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vữngvà hội nhập
quốc tế sâu rộng, toàn diện. 7