





Preview text:
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC 
HỌC KỲ 2 NĂM HỌC 2020-2021  PHẦN TỰ L Ậ U N 
I. PHẦN THÔNG TIN SINH VIÊN (SV ghi đầy đủ các mục trong phần I, để trống mục mã phách;  chữ ký số 1, số 2)  Tên học phần thi:  NHẬP MÔN KHOA HỌC G Á I O DỤC  Mã phách: ………….  (do phòng Đào tạo ghi)  Ngày thi:  02/7/2021  Phòng thi số: PSE 2009-1  Họ tên sinh viên:  Nguyễn Thị Thanh Thư  Mã đề: ………………  Ngày sinh:  02/05/2002  Mã số sinh viên: 20010262  Số trang giấy thi1:  ……... trang. 
Kí danh (Username) trên Moodle:  nguyenthanhthu 
Họ tên và chữ ký cán bộ ban hỗ trợ 
Số 1: ………………………….......................... 
và chấm thi trực tuyến:    (Do cán bộ làm thi ghi) 
Số 2: …………………………………………...      Rọc phách ở đây         
II. PHẦN THÔNG TIN CHUNG (SV chỉ ghi vào mục số trang giấy thi, để trống các mục khác trong phần II)  Ghim  các 
trang Số trang giấy thi1: ………trang (SV ghi vào mục này trước khi nộp bài thi)  giấy 
Điểm kết luận của phần thi tự luận  thi ở 
Mã phách: ………………  đây  (do cán bộ chấm thi ghi)  (do phòng Đào tạo ghi)  Bằng số  Bằng chữ 
Cán bộ chấm thi 1: ……….. 
…………………………… 
…………………………….   
Cán bộ chấm thi 2: ……….   
……………………………… 
III. PHẦN BÀI LÀM (Phần dành cho Sinh viên làm bài thi tự luận)              Trang 1 trong tổng số 6    trang   Câu 1:  Các nhiệm vụ g á
i o dục và các con đường giáo dục : + Các nhiệm vụ g á i o dục là :
Nhiệm vụ giáo dục hay nội dung giáo dục là một vấn đề lớn của lý luận giáo dục, là 
thành tố quan trọng của lý luận giáo dục. Nội dung giáo dục trong nhà trường rất toàn 
diện, được xây dựng xuất phát từ mục đích giáo dục và từ yêu cầu khách quan của đất  nước của thời đại. 
1. Nâng cấp đội ngũ giáo viên 
2. Đổi mới cán bộ quản l  ý giáo dục, đào tạo 
3. Đổi mới giáo trình, giáo án 
4. Tăng cường kỷ cương thi cử  5. Tích cực xã hội hó  a giáo dục, đào tạo 
Nội dung giáo dục bao gồm các mặt sau đây : 
- Giáo dục ý thức công dân. 
- Giáo dục văn hoá thẩm mỹ 
- Giáo dục lao động – hướng nghiệp. 
- Giáo dục thể chất – quân sự.  - Giáo dục môi trường.  - Giáo dục dân số.  - Giáo dục giới tính. 
+ Các con đường giáo dục :
Giáo dục là quá trình tác động để hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ theo mục đích 
xã hội. Quá trình này được thực hiện bằng các con đường quan trọng sau đây. 
1. Giáo dục thông qua dạy học 
2. Giáo dục thông qua tổ chức các hoạt động phong phú và đa dạng 
3. Giáo dục thông qua hoạt động tập thể (sinh hoạt tập thể)  4. Tự giáo dục 
Các con đường giáo dục không phải là riêng rẽ, tách rời mà là một hệ thống gắn bó, 
thống nhất, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Phối hợp tốt các con đường giáo dục chính là 
nguyên tắc và cũng là nghệ thuật giáo dục.  Trang 2 trong tổng số 6    trang   + Ví dụ : Nhiệm vụ g á
i o dục “Đổi mới giáo trình, giáo án” được thực hiện bằng nhiều 
con đường giáo dục khác nhau. Có thể thực hiện bằng con đường giáo dục “Giáo dục 
thông qua dạy học”. Để đổi mới giáo trình, giáo án thì mình dựa vào các buổi dạy học 
trên lớp để từ đó rút ra nhận xét, kinh nghiệm rồi dẫn đến đổi mới giáo trình, giáo án. 
Xong cũng có thể thực hiện bằng con đường giáo dục “Giáo dục thông qua tổ chức 
các hoạt động phong phú và đa dạng” vì có thể nhờ đó mà hiểu sâu hơn về những 
thiếu sót trong kiến thức, trong khả năng nhận thức của học sinh mà từ đó sẽ đổi mới 
được giáo trình, giáo án … 
+ Ví dụ : Nhiệm vụ “Tăng cườn 
g kỷ cương thi cử” có thể thực hiện bằng con đường 
giáo dục “Giáo dục thông qua dạy học” hoặc “Giáo dục thông qua tổ chức các hoạt 
động phong phú và đa dạng”    Câu 2: 
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển của mỗi cá nhâ , n song không nên 
tuyệt đối hóa vai trò của của giáo dục. Giáo dục là chìa khóa nhưng không phải là 
chiếc chìa vạn năng, bởi giáo dục chỉ vạch ra phương hướng và thúc đẩy cho sự hình 
thành và phát triển mỗi cá nhâ .
n Còn cá nhân có phát triển theo hướng đó hay không 
và phát triển đến mức độ nào thì giáo dục không quyết định trực tiếp được mà cái 
quyết định trực tiếp lại chính là hoạt động ý thức, lao động của cá nhân. Do đó cần 
phải cải tiến ngành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việ tổ chức hoạt động, tổ 
chức quan hệ giao tiếp, hoạt động cùng nhau trong mối quan hệ xã hội, quan hệ nhóm 
và tập thể. Giáo dục và tự giáo dục, đó là con đường chính xác nhất để cá nhân hoàn 
thiện nhân cách của chính mình. 
Giáo dục là quá trình tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến 
đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của ngời dạy và người học theo hướng tích 
cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý 
thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển của con người 
trong xã hội đương đại. 
Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ sự tác động của gia đình, nhà trường, xã hội 
(bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác) đến con người. 
Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xe, như quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, 
hành vi con người (giáo dục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục lối sống, hành vi) 
Giáo dục giữ một vai trò rất quan trọng, mà theo quan điểm của tâm lý học và giáo 
dục hiện đại, giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong việc phát triển mỗi cá nhân. Những 
tác động của giáo dục bắt đầu ngay từ khi con người có ý thức và tự ý thức.   
 1. Giáo Dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển mỗi cá nhân: 
Một đứa trẻ khi sinh ra chưa nhận thức được những mặt tốt đẹp hay xấu xa của thế 
giới, chúng chưa hình thành khái niệm về điều thiện điều ác cũng chưa hiểu đâu là  Trang 3 trong tổng số 6    trang  
những giá trị nhân văn tốt đẹp mà con người ta cần hướng tới. Và giáo dục, chính là 
cách nhanh nhất, chính xác nhất để dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của 
trẻ em theo chiều hướng đó. 
Ngay từ nhỏ, chúng ta đã được cha mẹ, thầy cô giáo dạy rằng phải biết lễ phép với 
ông bà, cha mẹ, phải biết kính trên nhường dưới, phải ngoan ngoãn, lễ phép, chào 
hỏi, phải biết yêu thương đoàn kết, giúp đỡ bạn bè và những người xung quanh,... Đó 
chính là những tác động của giáo dục trong việc hình thành, phát triển của con người 
từ rất sớm. Giáo dục bước đầu định hình và xây dựng những giá trị, chỉ là những 
hành động, những lối ứng xử từ đó dần tạo nên tính cách của con người.    2. G á
i o Dục có thể đem lại cho con người những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền 
hay môi trường tự nhiên không thể đem lại được. 
Con người trong quá trình lớn lên có thể tự nhận thức, tự học hỏi những điều trong 
cuộc sống xung quanh. Những yếu tố bẩm sinh – di truyền giúp con người tồn tại và 
duy trì sự sống như các quá trình sinh lý, cảm xúc, khả năng tự vệ,... Những yếu tố 
môi trường tự nhiên cũng dần tác động hình thành nên nhân cách con người như 
phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa,... Bên cạnh đó, có những yếu tố con 
người chỉ có được nhờ vào quá trình giáo dục, nhờ vào quá trình hướng dẫn, chỉ dạy 
của người khác. Nếu không có việc giáo dục, con người nhất định không thể học 
được những kỹ năng này, bởi những kỹ năng, kiến thức đó không tự nhiên mà có, con 
người phải trải qua quá trình giáo dục và tự giáo dục. 
Ví dụ: Nếu đứa trẻ sinh ra không bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển 
của cơ thể, đến một giai đoạn nhất định đứa trẻ sẽ biết đi, biết nói. Nhưng muốn đọc 
được sách báo, viết thư hay đặc biệt là những kỹ xảo nghề nghiệp thì nhất thiết con  người phải học.   
3. Giáo dục có thể phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố khác chi phối sự hình 
thành mỗi cá nhân (yếu tố sinh thể, hoàn cảnh sống…) 
Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tự phát của môi trường, xã 
hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Tác 
động này của giáo dục được áp dụng rất nhiều trong việc điều trị tâm lý, hòa nhập trẻ 
tự kỷ, công tác giáo dục trẻ em hư hoặc cải tạo lao động đối với người phạm pháp. 
- Các yếu tố bẩm sinh - di truyền, môi trường và hoạt động các nhân đều có ảnh 
hưởng đến sự phát triển mỗi cá nhân ở các mức độ khác nhau, tuy nhiên yếu tố giáo 
dục lại có thể tác động đến các yếu tố này để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát  triển mỗi cá nhâ . n 
 - Đối với di truyền: Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con 
người có trong chương trình gen được phát triển. Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự 
hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể, phát hiện những tư chất của cá nhân 
và tạo điều kiện để phát huy năng khiếu thành năng lực cụ thể. Giáo dục tìm cách 
khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế những khó khăn của người khuyết 
tật trong sự phát triển mỗi cá nhâ 
n (phục hồi chức năng hoặc hướng dẫn sử dụng  Trang 4 trong tổng số 6    trang  
công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn góp phần tăng cường nhận thức trong xã hội 
về trách nhiệm của cộng đồng đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội 
chia sẻ, hỗ trợ người khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình. 
 - Đối với môi trường: Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị 
kiến thức và ý thức bảo vệ môi trường của con người, khắc phục được sự mất cân 
bằng sinh thái, làm cho môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn. Giáo dục 
tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức năng kinh tế - xã hội, chức 
năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng – văn hóa của giáo dục. Giáo dục còn làm 
thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như gia đình, nhà trường và các nhóm 
bạn bè, khu phố…, để các môi trường nhỏ tạo nên những tác động lành mạnh. tích 
cực đến sự phát triển mỗi cá nhân. Hiện nay công tác giáo dục xã hội đang chú tâm 
xây dựng gia đình là một mái ấm dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; nhà trường 
là một môi trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân cư là khu vực văn hóa 
của một xã hội văn minh tiến bộ. 
- Đối với hoạt động cá nhân: Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ 
ích, lành mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân (sân chơi ở các 
nhà văn hóa cho mọi lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại địa 
phương, …). Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục của cá nhân. Tự giáo dục thể hiện 
tính chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm chuyển hóa 
các yêu cầu của giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản thân. Nếu cá nhân 
thiếu khả năng tự giáo dục thì các phẩm chất và năng lực của họ sẽ hình thành ở mức 
độ thấp hoặc thậm chí không thể hình thành. Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá 
nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy 
đủ sẽ giúp con người hình thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những tác 
động tiêu cực của xã hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ có những người biết 
tự giáo dục mới là những người thực sự có giáo dục. 
4. Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật của con người 
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh – di truyền 
không bình thường, hoàn cảnh bị tai nạn hay chiến tranh gây nên. Những người 
khuyết tật bị hạn chế một phần năng lực, suy giảm khả năng lao động cũng như khả 
năng giao tiếp, tiếp thu. Vì vậy, giáo dục góp phần bù đắp, hoàn thiện những khiếm 
khuyết ấy, giúp họ tồn tại, lao động, phục hồi những chức năng đã mất hoặc có thể 
phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường. 
Thực tế có thể thấy rất nhiều trường hợp người khuyết tật nhờ có quá trình giáo dục 
mà trở thành thiên tài, phát huy được những năng lực hơn người. Câu chuyện nổi 
tiếng về nhà diễn giả hàng đầu thế giới – người đã truyền cảm hứng và nghị lực cho 
biết bao con người – nhà văn Helen Keller. Khi chào đời được khoảng 19 tháng, bà bị 
ốm nặng sốt cao viêm màng não và không may hỏng mất đôi mắt, và sau đó tai cũng 
bị điếc, Helen gần như không thể nghe hay nhìn thấy những gì xung quanh mình từ  Trang 5 trong tổng số 6    trang  
khi còn rất nhỏ. Nhưng nhờ cố gắng nỗ lực dạy dỗ của mẹ và cô gia sư Anne 
Sullivan, Helen dần có thể giao tiếp và học tập như người bình thường. Anne thường 
xuyên tập cho Keller ghép chữ cái, sau 3 tháng, thông qua ngôn ngữ động tác tay và 
sờ xem cử động môi của Anne, Keller đã học được hơn 400 từ đơn cùng một số đoản 
ngữ. Năm Keller 8 tuổi, Keller đã bộc lộ rõ tài năng vượt trội về các môn toán, địa lý, 
sinh học, tập đọc; em còn học cả bơi, chèo thuyền, cưỡi ngựa, đi xe.Năm 1900 Keller 
thi đậu vào trường Radcliffe College, học tài liệu chữ nổi dành cho người mù. Với 
nghị lực phi thường, Helen Keller trở thành người mù - điếc đầu tiên tốt nghiệp đại 
học, là nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội, diễn giả người Mỹ. Bà là người khiếm thị, 
khiếm thính đầu tiên của nước Mỹ giành học vị Cử nhân Nghệ thuật. Helen chính là 
tác giả của câu nói nổi tiếng: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi chỉ đến khi tôi gặp 
một người khóc vì không có chân để đi giày”.    5. G á
i o Dục có thể đón trước sự phát triển, “hoạch định nhân cách tương lai” để tác 
động hình thành và phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội. 
Những tác động tự phát của xã hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của 
nó, như môi trường lớp học giúp con người hòa đồng, đoàn kết với tập thể, môi 
trường làm việc giúp con người chuyên nghiệp, trách nhiệm hơn. 
Nhưng để đi trước hiện tại, hướng tới những giá trị, phẩm chất mà con người, xã hội 
cần có trong tương lai thì chỉ có giáo dục mới có thể định hướng, đi trước hiện thực, 
xây dựng con người với những phẩm chất cần có cho tương lai, cần có cho xã hội 
mới. Đây chính là tính chất tiên tiến của giáo dục. 
Chẳng hạn, mục tiêu giáo dục của chúng ta là xây dựng con người mới xã hội chủ 
nghĩa. Bằng những phương pháp giáo dục, định hướng ngay từ khi còn trên ghế nhà 
trường, qua các môn học như Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – L - ê nin, 
Tư tưởng Hồ Chí Minh, … . Qua các phương tiện thông tin đại chúng, các biện pháp 
tuyên truyền giáo dục như phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ 
Chí Minh”,... Quá trình giáo dục hướng con người tới việc hoàn thiện bản thân, hoàn 
thiện, trau dồi những kỹ năng cần có trong tương lai để trở thành con người có ích, 
trở thành công dân toàn cầu.    Trang 6 trong tổng số 6    trang