MỞ ĐẦU: ĐÀO DIỆU LINH
-------------------------------------------------------------------------------------------------
1. LUẬN VLỢI ÍCH KINH TVAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN
1.1. luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.1.1. Khái niệm
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường
nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Đến nay, đặc
trưng của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam được xác
định ngày càng sâu sắc.
1.1.2. Mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phương thức để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa hội, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”. Đây
sự khác biệt bản của kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa với kinh tế
thị trường bản chủ nghĩa. Đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
quá trình phát triển kinh tế thị trường Việt Nam còn gắn với xây dựng quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp nhằm ngày càng hoàn thiện sở kinh tế - hội của chủ
nghĩa hội.
1.1.3. Đặc trưng
Sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ một chế độ sở hữu về
liệu sản xuất chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân sở hữu tập thể).
Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên
thực tế nhiều hình thức sở hữu về liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu
hữu.
cấu kinh tế: nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác bộ phận hợp
thành của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, kinh tế
nhân một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
mức đóng góp vốn các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên
tắc của chế thị trường sự quản của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước
chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết
định phân phối lần đầu Nhà nước thực hiện phân phối lại.
chế vận hành: Kết hợp giữa chế thị trường với vai trò quản lý, điều
hành của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát
triển kinh tế - hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008,
Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
Việt Nam nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự
chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa hội các yếu tố bảo đảm
tính định hướng hội chủ nghĩa. Đây cũng nền kinh tế tổ chức, kế
hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sự quản của
Nhà nước hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
vừa phát huy những ưu thế của kinh tế thị trường kinh tế kế hoạch, vừa
loại bỏ những khuyết tật của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phương tiện, công cụ: nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà
nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ
nghĩa hội. chế vận hành của kinh tế thị trường một chế mở, bị
điều tiết bởi các quy luật kinh tế bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên
kinh tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền
sản xuất toàn cầu.
THUYẾT TRÌNH: TẠ THỊ HƯỜNG
---------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2. luận về lợi ích kinh tế & quan hệ lợi ích kinh tế
1.2.1. Lợi ích kinh tế
1.2.1.1. Khái niệm, bản chất lợi ích kinh tế
Khái niệm : Lợi ích kinh tế lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện
các hoạt động kinh tế của con người
Lợi ích kinh tế thể tồn tại dưới nhiều hình thức như : lợi nhuận, tiền
lương, tiền thưởng, lợi tức….
VD : Các thương nhân hoạt động buôn bán kinh doanh thì lợi ích kinh tế
lợi nhuận họ thu được sau khi thực hiện các hoạt động đó
Để tồn tại phát triển thì con người cần được thỏa mãn những nhu cầu về
vật chất cũng như tinh thần chính thế lợi ích kinh tế cũng được chia
làm 2 loại : lợi ích vật chất lợi ích tinh thần. Tùy theo điều kiện lịch sử
cụ thể để thể quyết định lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần song lợi ích
vật chất đóng vai trò quyết định trong lợi ích kinh tế
Bản chất :
+ Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích động của các quan hệ giữa các chủ
thể trong nền sản xuất hội. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu hiện
mức độ của cải vật chất mỗi người được, khi tham gia vào các hoạt động
kinh tế - hội. Về khía cạnh y, Ph. Ănghen viết: “những quan hệ kinh tế
của một hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thái lợi ích”.
Phản ánh quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tham gia các
hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho bản thân.
VD : hoạt động bán quần áo , lúc này mục đích kinh doanh chủ thể đang hoạt
động đạt được lợi nhuận. lợi nhuận thu được chính lợi ích kinh tế,từ
hoạt động buôn bán đó trong quá trình buôn bán thì người bán phải gắn với
nhiều chủ thể kinh tế khác, tham gia vào các mối quan hệ giữa con người với con
người để tạo ra của cải vật chất cho bản thân như tham gia vào các hội nhóm bán
hàng , hội sỉ lẻ quần áo, liên kết với nguồn nhập hàng để được giá sỉ các
đều hướng tới lợi ích kinh tế
+ Lợi ích kinh tế hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất
quyết định. Không lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất
sản phẩm của những quan hệ sản xuất. Các thành viên trong hội xác lập các
quan hệ kinh tế với nhau trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế họ
thể được.
+
Phương thức mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người được quy
định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất địa vị của họ trong hệ thống
các quan hệ sản xuất hội đó
vd : trong 1 doanh nghiệp chủ doanh nghiệp người sở hữu liệu sản xuất như
máy móc, trang thiết bị, vật tư, vốn,... nên lợi ích kinh tế của chủ doanh nghiệp sẽ
khác so với lợi ích kinh tế của người làm thuê chỉ sở hữu sức lao động thôi
+ Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ hội nhất định sẽ quy định hệ
thống lợi ích kinh tế của hội đó. Các quan hệ hội luôn mang tính lịch sử, do
vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất hội của giai
đoạn lịch sử đó.
Vd : Trong thời chiến tranh chưa giành được độc lập chính quyền về tay
nhân dân, người nông dân trồng lúa, ngô làm nông nghiệp chủ yếu để phục vụ
kháng chiến, lợi ích kinh tế người nông dân làm ra ko hoàn toàn thuộc về họ
nhưng sau khi chiến tranh kết thúc giành được độc lập chính phủ đã ban hành các
chính sách mới về ruộng đất cho người nông dân cho nên hiện nay hầu hết người
nông dân trồng lúa ngô đều được hưởng gần như hoàn toàn lợi ích kinh tế họ
làm ra
THUYẾT TRÌNH: HOÀNG DƯƠNG LIỄU
----------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.1.2. Đặc trưng, vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế-xã hội
Đặc trưng :
+ Lợi ích kinh tế mang : Phương thức mức độ thỏa mãn các tính khách quan
nhu cầu vật chất phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, địa vị của các chủ thể
kinh tế. Những nhân tố đó mang tính khách quan nên lợi ích kinh tế cũng mang
tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người
+ Lợi ích kinh tế :Quá trình phân phối trực tiếp phụ thuộc vào quan hệ phân phối
thu nhập tùy thuộc vào các yếu tố như trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, chế thị trường. Thu nhập biểu hiện, thước đo việc thực
hiện các lợi ích kinh tế mức thu nhập trực tiếp quyết định phương thức mức
độ thoả mãn nhu cầu của các chủ thể trong chế thị trường. Phân phối thu nhập
lại được thực hiện theo những nguyên tắc khác nhau, tùy thuộc trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất chế kinh tế. Nếu các chủ thể kinh tế
nhận thức đúng đắn các nguyên tắc phân phối, mức thu nhập hợp họ được
hưởng hành động phù hợp với nhận thức thì lợi ích kinh tế trở thành động lực
cho sự phát triển. Ngược lại, những đòi hỏi không hợp về thu nhập hay lợi ích
kinh tế sẽ rào cản cho sự phát triển.
+ Lợi ích kinh tế : Để đạt được lợi ích kinh tế của mình, các chủquan hệ hội
thể phải tương tác, hình thành các mối quan hệ hợp tác. Một mối quan hệ công
bằng, hợp lý, đồng thuận sẽ thúc đẩy nhanh hơn chủ thể đạt được lợi ích kinh tế
mong muốn.
Vd : Nhà phân phối các sản phẩm cám chăn nuôi muốn đạt được lợi ích
kinh tế của mình cần hình thành các mối quan hệ hợp tác, hợp tác với nơi
mình bán lẻ, hợp tác với nhà sản xuất, hợp tác với bên vận chuyển… Tôn
trọng lợi ích của nhau đặt mức thu nhập của mình trong mối quan hệ với
thu nhập của các chủ thể khác liên quan
+ Lợi ích kinh tế mang tính lịch sử : Mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của
con người cao hay thấp còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất quan hệ sản xuất. những nhân tố đó không ngừng vận động biến đổi làm
cho lợi ích kinh tế cũng không ngừng vận động biến đổi theo vậy cần xem xét
mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế, xem xét trong hiện tại, quá khứ tương lai
vd : Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội, nước ta phát triển theo
nền kinh tế thị trường, tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu
khác nhau về liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó , hệ thống lợi
ích kinh tế cũng mang tính đa dạng phát triển hơn so với thời phát
triển theo nền kinh tế tập trung bao cấp
THUYẾT TRÌNH: NGUYỄN THỊ LAN
---------------------------------------------------------------------------------------
Vai trò :
+ mục tiêu động lực trực tiếp của các chủ thể kinh tế hoạt động kinh tế :
Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết để thỏa mãn các nhu cầu vật
chất, nâng cao phương thức mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất của bản thân.
+ Trong nền kinh tế thị trường, phương thức mức độ phụ thuộc thỏa mãn nhu
cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, phương
thức mức độ thỏa mãn nhu cầu càng tốt. vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải
hành động để nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai
cấp tầng lớp hội, đặc biệt của người dân vừa sở bảo đảm cho sự ổn định
phát triển hội vừa biểu hiện sự phát triển
+ theo đuổi lợi ích của mình các chủ thể kinh tế đã đóng góp vào sự phát
triển của nền kinh tế
Vd: nhân viên trong phòng phát triển sản phẩm để đạt được lơi ích kinh tế thỏa
mãn nhu cầu của mình không ngừng làm việc, phát triển ra sản phẩm mới để
nâng cao thu nhập cũng đồng thời cũng giúp doanh nghiệp phát triển hơn
+ động lực của các hoạt động chính trị- hội :
Phương thức mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc vào địa vị
con người trong hệ thống quan hệ sản xuất hội nên để thực hiện được lợi ích của
mình, các chủ thể kinh tế còn đấu tranh với nhau để thực hiện quyền sở hữu liệu
sản xuất, sở hữu các nguồn lực. kinh tế quan hệ chặt chẽ với chính trị -
hội nên các chủ thể kinh tế còn phải tìm cách nắm quyền thống trị về chính trị-
hội thúc đẩy các hoạt động chính trị- hội phát triển hơn
+ sở thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích hội, lợi ích n hóa :
Nguyên nhân quan trọng đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, kinh tế
quyết định chính trị , văn hóa, hội. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều
kiện vật chất cho sự hình thành thực hiện lợi ích chính trị , lợi ích hội, lợi ích
văn hóa. Lợi ích kinh tế mang tính khách quan động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế- hội. Điều cần lưu ý là, chỉ khi sự đồng thuận, thống nhất giữa
các lợi ích kinh tế thì lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trò của mình. Ngược
lại, việc theo đuổi những lợi ích kinh tế không chính đáng, không hợp lý, không
hợp pháp sẽ trở thành trở ngại cho sự phát triển kinh tế- hội
vd : những người buôn bán ma túy, chất cấm thực hiện lợi ích kinh tế làm
những điều trái pháp luật điều này sẽ gây trở ngại cho sự phát triển chính trị,
hội…..
Lợi ích kinh tế mang tính khách quan động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế - hội. C.Mác đã chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của hội
không phải quá trình nhận thức, các quan hệ của đời sống vật chất,
tức các lợi ích kinh tế của con người”.
Việt Nam, trong một thời gian rất dài, rất nhiều do, các lợi ích kinh tế,
nhất lợi ích nhân, không được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện
chế thị trường, quan điểm của Đảng Nhà nước ta là: coi lợi ích kinh tế
động lực của các hoạt động kinh tế; phải tôn trọng lợi ích nhân chính đáng.
Điều này góp phần tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm
vừa qua.
THUYẾT TRÌNH: HOÀNG DƯƠNG LIỄU
--------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.2. Quan hệ lợi ích kinh tế
1.2.2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế
sự thiết lập những tương tác giữa con người với con người, giữa các cộng đồng
người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia
với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối
liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất kiến trúc thượng tầng
tương ứng của 1 giai đoạn phát triển hội nhất định.
1.2.2.2. Sự thống nhất mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
Thống nhất:
- Quan hệ lợi ích kinh tế thống nhất với nhau 1 chủ thể thể trở thành bộ
phận cấu thành của chủ thể khác. Do đó khi lợi ích của chủ thể nào được
thực hiện thì lợi ích của chủ thể kia cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực
hiện. Chẳng hạn, mỗi một nhân người lao động lợi ích riêng của bản
thân dồng thời mỗi nhân kia cũng bộ phận cấu thành của doanh
nghiệp đóng góp cho lợi ích chung ấy. Doanh nghiệp hoạt dộng càng
hiệu quả lợi ích doanh nghiệp càng được bảo đảm thì lợi ích người lao
động càng được thực hiện tốt: việc làm được bảo đảm, thu nhập ổn địnhvà
được nâng cao. .. Ngược lại, lợi ích người lao động không được thực hiện tốt
thìngười lao động càng hăng say làm việc trách nhiệm với doanh nghiệp
càng cao vàtừ đó lợi ích doanh nghiệp không được thực hiện tốt.
Mâu thuẫn:
- Những quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau do những chủ thể kinh tế
thể hành động theo các cách thức trái ngược nhau nhằm thoả mãn những
lợi ích của mình. Sự đối lập nhau đạt đến mức độ nhất định sẽ trở thành mâu
thuẫn. dụ, do lợi ích kinh tế nên những nhân, doanh nghiệp khi làm
hàng giả, buôn lậu, trốn thuế. .. thì lợi ích của nhân, doanh nghiệp lợi
ích hội đối lập với nhau. Khi đó, chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều
lợi nhuận thì lợi ích kinh tế của người tiêu dung của hội càng bị tồn
hại.
- tiền lưong của người lao động bị giảm xuống sẽ làm tăng lợi nhuận của chủ
doanh nghiẹp; nhà nước giảm thuế thu nhập sẽ khiến lợi nhuận doanh nghiệp
tăng.
THUYẾT TRÌNH: NGUYỄN THỊ THÙY LINH
----------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất hội
- Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
- Hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế bản
*Quan hệ lợi ích giữa người lao động người sử dụng lao động
: Nếu hoạt động sản xuất - kinh doanh diễn ra trôi chảy, người sử dụng lao động
thu được lợi nhuận; người lao động nhận được tiền lương. Như vậy, lợi ích kinh tế
của người lao động người sử dụng lao động quan hệ chặt chẽ, thống nhất với
nhau; muốn thực hiện lợi ích của mình, chủ thể này phải tôn trọng bảo vệ lợi ích
của chủ thể kia.
Ngược lại, nếu tình hình thị trưởng không thuận lợi, người sử dụng lao động ít,
thậm chí không lợi nhuận, phá sản thì người lao động sẽ bị giảm lương, thậm
chí mất việc.
*Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động.
Những người sử dụng lao động liên minh với nhau trong xử sự với người lao động,
chủ ngân hàng, chủ đất, nhà nước... để được những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất - kinh doanh. Những điều này làm cho lợi ích của họ thống nhất với nhau
trở thành giai tầng của hội (tầng lớp doanh nhân).
Đồng thời, mục tiêu lợi nhuận, những người sử dụng lao động sẽ cạnh tranh với
nhau để được những điều kiện sản xuất - kinh doanh thuận lợi hơn.
*Quan hệ lợi ích giữa những người lao động.
Trên thị trường lao động, đối mặt với người mua, người lao động phải đoàn kết,
hợp tác với nhau để hạn chế việc bán sức lao động với giá rẻ, đòi tăng lương, giảm
giờ làm... Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ thể thực
hiện được các yêu sách của mình (trong những phạm vi nhất định) đối với những
người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, sức lao động không thể chờ giá lên mới bản nên bên cạnh sự liên minh,
những người lao động thường phải cạnh tranh với nhau.
*Quan hệ giữa lợi ích nhân, lợi ích nhóm lợi ích hội.
- Lợi ích nhân: gắn với từng thành viên hội như người lao động, người sử
dụng lao động, công chức, viên chức nhà nước... nhân đều thành viên của
hội nên lợi ích nhân của mỗi mỗi người quan hệ chặt chẽ với lợi ích hội
- Lợi ích nhóm: lợi ích của các nhân của tổ chức hoạt động trong cùng
ngành cùng lĩnh vực sự liên kết với nhau để thể hiện tốt lợi ích riêng
- Lợi ích hội: tổng các lợi ích nhân. Lợi ích nhân được thực hiện sẽ
làm phát triển nền kinh tế thực hiện được lợi ích kinh tế của hội
- Nhóm lợi ích: Nhóm lợi ích bao gồm lợi ích của các chủ thể hoạt động trong các
lĩnh vực khác nhau, quan hệ chặt chẽ với nhau
THUYẾT TRÌNH: NGÔ THẢO LINH
--------------------------------------------------------------------------------------------------
1.3. Vai trò của Nhà nước trong đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế phát
triển nền kinh tế thị trường định ớng XHCN VN
Hài hòa các lợi ích kinh tế sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của các
chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn, xung đột lợi ích kinh tế được hạn chế, tránh
được va chạm, xung đột. Mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát
triển cả chiều rộng chiều sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh
tế, góp phần thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt lợi ích hội
Để sự hài hòa giữa các lợi ích kinh tế chỉ kinh tế thị trường không đủ
các lợi ích kinh tế luôn vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, cần sự can
thiệp của nhà nước. Đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế sự can thiệp của nhà nước
vào các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các công cụ giáo dục, pháp luật, hành chính,
kinh tế,… nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế, hạn chế mâu thuẫn,
tăng cường sự thống nhất, xử kịp thời khi xung đột.
Dưới đây một số vai trò quan trọng của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các
quan hệ lợi ích kinh tế:
1/ Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi
ích của các chủ thể kinh tế:
- Trước tiên nhà nước phải giữ vững ổn định về chính trị. Muốn thể tạo lập
được môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu thì phải đầu
xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế ( bao gồm hệ thống đường bộ,
đường sắt, đường sông, đường hàng không…) Xây dựng được môi trường
pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế
trong ngoài nước, đặc biệt lợi ích của đất nước, đưa ra các chính sách
phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn.
- Để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế nhân phát triển
Việt Nam. Tại đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) với phương châm nhìn
thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói sự thật, Đảng ta đã thẳng thắn
nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức thực tiễn quá trình
xây dựng, phát triển kinh tế.
- Phải chính sách mở đường cho người lao động tự tạo ra việc làm, kích
thích mọi người đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để
tích luỹ, mở rộng tái sản xuất trên quy toàn hội. Khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp nhân lớn, cho phép thí điểm thành lập các tập đoàn
kinh tế nhân. kinh tế nhân một trong những động lực của nền kinh tế.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh.
2/ Điều hòa lợi ích giữa nhân doanh nghiệp hội
- Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tác động của các quy luật
thị trường, sự phân hóa về mức thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp dân
mang tính tất yếu.
- nhà nước cần các chính sách (chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính
sách xuất nhập khẩu,…) trước hết chính sách phân phối thu nhập nhằm
bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Phải thừa nhận sự chênh lệch về mức
thu nhập giữa các tập thể, các nhân khách quan. phải ngăn chặn sự
chênh lệch thu nhập quá đáng bằng cách phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, phát triển khoa học công nghệ để nâng cao thu nhập cho các chủ thể
kinh tế.
+ : nhằm làm giảm chi phí cho DN, tận Đơn giản hóa các thủ tục hành chính
dụng được các hội kinh doanh, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp đất nước
+ về kinh tế thị trường pháp Nâng cao dân trí, hiểu biết của mọi công dân
luật của Nhà nước, chấp hành nghiêm các quy định của nhà nước
+ phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường: Tạo lập môi trường văn hóa
con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ chữ tín
- Để hạn chế mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế, nhà nước còn phải đánh thuế thu
nhập với những người thu nhập cao trợ cấp, hỗ trợ cho những người thu nhập
thấp. Điều quan trọng hơn, các chính sách phân phối phân phối lại thu nhập của
nhà nước phải công bằng, hợp được các chủ thể liên quan tự giác thực
hiện.
- Hoàn thiện sử dụng hợp các công cụ điều tiết thu nhập: bao gồm
+ Thuế thu nhập nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, trợ cấp cho những người
hoàn cảnh đặc biệt,…
+ Các chính sách tiền lương, tiền thưởng, chính sách bình ổn giá, chinh sách hỗ trợ
người nghèo trong tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục,…
=> Để thể hoàn thiện các công cụ này, đất nước cần những chuyên gia giỏi,
am hiểu thực tiễn. phải phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước Đồng thời,
trong từng thời kỳ; phải giải trình của công khai, minh bạch trách nghiệm
các quan công quyền.
THUYẾT TRÌNH: ĐÀO DIỆU LINH
--------------------------------------------------------------------------------------------------
3/ Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích ảnh hưởng tiêu cực đối với sự
phát triển hội
- Nhà nước phải bộ máy liêm chính, hiệu lực chăm lo đời sống vật chất cho mọi
người dân. Thực hiện công khai, minh bạch mọi chế, chính sách quy định
của nhà nước. Nhờ đó, người dân, doanh nghiệp cán bộ, công chức nhà nước
hiểu được quyền lợi, trách nhiệm của mình.
- Cần các chính sách khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện
giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp để lợi ích kinh tế thật sự động lực của các
hoạt động kinh tế:
+ Tuyên truyền, giáo dục, vấn người lao động người sử dụng lao động
cần phải hiểu được các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường cùng với
những quy định để sự phân chia hợp lý, công bằng giữa tiền lương lợi nhuận.
+ Chủ doanh nghiệp cần phải hiểu, tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, hiểu
các chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
+ Các hiện tượng vi phạm các quy định cần được xử nghiêm minh.
+ Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát
triển hội. Chống mọi hình thức thu nhập bất hợp pháp: Đảng nhà nước ta coi
tham nhũng quốc nạn coi chống tham nhũng nhiệm vụ quan trọng đặc biệt.
4/ Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế:
- Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế khách quan, nếu không kiểm soát tốt thể
dẫn đến xung đột, dưới những hình thức cụ thể mít tinh, biểu tình, bãi công, đập
phá công xưởng,.. Sự xung đột giữa các chủ thể sẽ làm tổn hại đến lợi ích kinh tế
của nhiều bên, đặc biệt lợi ích của đất nước.
mâu thuẫn chuẩn bị chu đáo các giải pháp đối phó.
- Để giảm thiểu hậu quả khi mâu thuẫn phát sinh, các chủ thể lợi ích liên quan
cần trực tiếp trao đổi, thảo luận kịp thời; căn cứ vào các quy định của pháp
luật, tôn trọng lợi ích của nhau đặt lợi ích của cộng đồng, đất nước lên đầu
- Nhà nước công bằng, bình đẳng, phải xây dựng thực thi hệ thống pháp luật
bảo vệ được các lợi ích chính đáng của chủ thể kinh tế.
- Trong một strường hợp, Nhà nước phải các chủ thể tham gia trực tiếp, hỗ trợ
giải quyết mâu thuẫn.
THUYẾT TRÌNH: THỊ DIỆU LINH
----------------------------------------------------------------------------------------------------
2. THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI
HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1/ Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
- Nhà nước tiếp tục đổi mới duy luận, quan điểm về mối quan hệ giữa thị
trường với quản nhà nước, giữa kinh tế nhân với kinh tế nhà nước, nhưng
trong duy của một số nhà lãnh đạo, quản đặc biệt trong xử thực tiễn thì
vẫn coi nhẹ tác động của chế thị trường quá coi trọng vai trò can thiệp của
Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhất doanh nghiệp khu
vực kinh tế nhân. Hiện tượng cấm đoán, cấp phép, ra các điều kiện kinh doanh
vẫn rất tràn lan nặng nề, đang cản trở các nhà kinh doanh, chủ đầu tư, nhà lập
nghiệp....
- Hoàn thiện xây dựng thực thi pháp luật chính sách đối với kinh tế nhân.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã chỉ ra những hạn chế cả phía quản nhà nước
bản thân các doanh nghiệp kinh tế nhân như “thể chế về phát triển doanh
nghiệp, doanh nhân còn nhiều bất cập. …Vi phạm pháp luật cạnh tranh không
lành mạnh trong kinh tế nhân còn khá phổ biến” ... Như vậy, hoàn thiện xây
dựng thực thi pháp luật chính sách đối với kinh tế nhân một đòi hỏi cấp
thiết.
- Tạo lập môi trường thông tin thuận lợi cho kinh tế nhân hoạt động. Thông tin
trên thế giới cũng như nước ta đang bùng nổ, các phương tiện thông tin hiện đại
đang phát triển như bão thời thuận lợi cho kinh tế nhân hoạt động cải
cách bộ máy quản nhà nước. Nhưng trên thực tế thông tin quản thì không
được kịp thời, đầy đủ, sâu rộng, còn thông tin phản hồi từ doanh nghiệp thì bị sai
lệch, bóp méo đã đang gây khó khăn cho cả phía Nhà nước doanh nghiệp,
làm cho môi trường thông tin bị rối loạn.
=> Nhà nước vừa phải tạo lập môi trường thông tin lành mạnh, trung thực, không
dối trá, vừa thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa dịch vụ hành
chính công để tiết kiệm thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính cho
người dân doanh nghiệp. Các quan quản nhà nước tạo lập các kênh tiếp
nhận kiến nghị, phản ánh, thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của dân doanh nghiệp, tổ
chức đối thoại giữa quan quản nhà nước với người dân, doanh nghiệp nhằm
nắm bắt xử kịp thời các nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc liên quan đến phát
triển kinh tế nhân.
- Xây dựng bộ máy công quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đây vấn đề rất lớn,
vừa cấp bách, vừa lâu dài nhưng hiện tại còn rất bất cập. Như phát biểu khai mạc
Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Tổng thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Cho
đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc,
kém hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo;
cấu bên trong chưa hợp lý…” từ đó vừa tốn kém chi thường xuyên cho hành
chính công, vừa gây nhũng nhiễu đối với các chủ doanh nghiệp nhân.
2/ Điều hòa lợi ích giữa nhân doanh nghiệp hội
- Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ lợi ích,
nhất giữa lợi ích nhân lợi ích hội . Nâng cao nhận thức của các chủ thể
lợi ích để các chủ thể lợi ích xác định quyền lợi nghĩa vụ của mình trong các
quan hệ lợi ích, tránh xung đột lợi ích giữa các chủ thể. Chủ thể của lợi ích hội
chủ yếu Đảng, Nhà nước cũng cần nhận thức được rằng, muốn thực hiện tốt các
mục tiêu phát triển kinh tế - hội, phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của mọi
nhân, của từng đối tượng, nhất quan tâm đến những người công với cách
mạng, những đối tượng yếu thế trong hội.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối tổ chức thực hiện tốt các
chính sách trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích nhân lợi ích hội.
+ Cần tiếp tục thực hiện nhất quán một chế độ pháp kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo chế thị trường, bình đẳng
cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật, tạo hội ngang nhau trong việc tiếp cận các
nguồn lực.
+ Cụ thể hóa các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp
cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế, trong đó, tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy phát triển doanh nghiệp đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật sự trở thành
lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội
nhập kinh tế quốc tế.
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế nhân thực
sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành phát
triển các tập đoàn kinh tế nhân mạnh, công nghệ hiện đại, năng lực quản trị
tiên tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ vừa. Xóa bỏ
độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, nhất với doanh nghiệp nhà nước.
- Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách an sinh hội trong toàn hội,
nhất đối với các đối tượng còn nhiều khó khăn như nông dân, công nhân, những
đồng bào vùng sâu, vùng xa, đối tượng chính sách... thực hiện tốt chính sách xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện thật tốt các chế độ, chính sách, nâng cao đời sống đối
với các đối tượng công với cách mạng, đảm bảo cho họ được hưởng thụ các giá
trị căn bản của sự phát triển như đời sống vật chất, y tế, giáo dục, hưởng thụ các
giá trị văn hóa - hội khác.
- Thực hiện tốt chính sách tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương đã được ban
hành, đảm bảo tiền lương thực sự đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động, đặc biệt đối với người công nhân; chính sách đãi ngộ
xứng đáng đối với những nhân tài của từng lĩnh vực, địa phương.
- Thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm ngăn chặn những
hành vi tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm.
+ Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt hơn nữa các biện pháp công khai, minh bạch
để phòng ngừa các hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí. Nâng cao năng lực,
hiệu quả sử dụng tài sản công, phát huy tốt trách nhiệm giải trình, thực hiện tốt các
biện pháp công khai tài chính, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức,
viên chức...
+ Cần tăng cường pháp chế hội chủ nghĩa, xử nghiêm minh những trường
hợp vi phạm tội tham ô, tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng
kém chất lượng... đây những hành vi phá hoại nghiêm trọng các quan hệ lợi ích,
gây tổn hại tới cả lợi ích nhân các mục tiêu của lợi ích hội.
- Cần tích cực khuyến khích mỗi nhân tích cực vươn lên trong học tập, lao động,
sản xuất - kinh doanh, lập thân, lập nghiệp bằng nhiều chế, chính sách cụ thể,
nhất trong khởi nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển.
3/ Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích ảnh hưởng tiêu cực đối với sự
phát triển hội
- Kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách trong tình
hình hiện nay, quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước, sự thành bại
của công cuộc đổi mới; góp phần ngăn chặn sự suy thoái về tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng. Hiện nay, “nhóm lợi ích” đã hình
thành, ăn sâu, tác động mạnh đến mọi ngành, lĩnh vực của đời sống hội mọi
quy mô, cấp độ, đặc biệt trong việc hoạch định, thực thi chính sách. Mặc Đảng
Nhà nước ta đã nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực, nhưng thực tế hội cho thấy nguy đáng lo ngại tham nhũng, tiêu cực
hiện tượng chuyển dần sang “chủ nghĩa bản thân hữu” do hoạt động của “lợi
ích nhóm” gây nên. Do vậy, đấu tranh kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” đang
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Đảng Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
- Cần giải pháp tình thế, kiên quyết, kịp thời, tạo chuyển biến rệt, đồng thời
biện pháp dài hạn về phòng, chống tận gốc “nhóm lợi ích”. Tại Hội nghị toàn
quốc tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2015, triển khai nhiệm vụ trọng tâm
năm 2016, ngày 26- 3-2016, Tổng thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Chúng ta
phải dũng khí, dám ngăn những việc làm không đúng, chống cho được tệ
phái, cục bộ, lợi ích nhóm cũng không bị lợi ích nào cám dỗ, không để bị chi
phối bởi quan hệ nhân, thân quen không trong sáng. Cần tiến hành đồng bộ,
kiên quyết, kiên trì, làm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài; đồng thời lựa chọn
những giải pháp mang tính đột phá, phù hợp với từng thời điểm để tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo quyết liệt.
THUYẾT TRÌNH: TRỊNH THỊ PHƯƠNG LINH
-------------------------------------------------------------------------------------------------
4/ Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
- Hoàn thiện Bộ luật Lao động của Việt Nam theo hướng hài hòa lợi ích giữa người
sử dụng lao động người lao động. Sở người sử dụng lao động trong thời gian
qua chưa đảm bảo lợi ích cho người lao động hệ thống pháp luật của Việt Nam
còn bất cập, chưa thực sự chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở, lạc hậu, chưa phù hợp với
thực tế, chưa đủ sức điều chỉnh các quan hệ lao động vốn năng động phức
tạp, thậm chí những điều khoản ý đã gây thiệt thòi về lợi ích cho người lao
động. vậy, cần hoàn thiện các quy định về pháp luật để công nhân đắp hao
phí thể lực, điều kiện nâng cao trình độ văn hóa, thể đảm đương trách nhiệm
nuôi dạy con cái, được sống đúng với giá trị sức lao động họ bỏ ra.
- Đẩy mạnh tuyên truyền cho người sử dụng lao động thực hiện đúng các quy định
của pháp luật về lao động. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần đa dạng
về hình thức, phương pháp, phù hợp với từng đối tượng, huy động sự tham gia của
nhiều chủ thể, đảm bảo cho pháp luật đến được với cả người sử dụng lao động
người lao động.
- Xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp
Việt Nam. Một doanh nghiệp văn hóa trước hết phải doanh nghiệp trách
nhiệm hội, trách nhiệm đối với người lao động đối với môi trường sinh
thái. Văn hóa doanh nghiệp thì Nhà nước cũng cần nhiều biện pháp để giúp các
chủ doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của việc tôn trọng lợi ích của
người lao động, sẽ tăng cường sự gắn với doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp
phát triển bền vững, cần tránh duy “ăn xổi thì”, chỉ quan tâm đến lợi nhuận
trước mắt của các doanh nghiệp làm tổn hại đến lợi ích của người lao động.
- Tăng cường thanh tra kiểm tra việc thực hiện pháp luật xử nghiêm các
trường hợp vi phạm. Nhà nước cũng cần hoàn thiện bộ máy thanh tra kiểm tra
về pháp luật lao động đẩy mạnh số lượng các cuộc thanh tra kiểm tra trong
các sở, doanh nghiệp sử dụng lao động để đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện trên thực tế, hạn chế các trường hợp chủ sử dụng lao động không thực hiện
đúng pháp luật lao động, vi phạm quyền lợi ích hợp pháp.
3. KẾT LUẬN
Đề tài đã khái quát được một số vấn đề chung về vai trò của Nhà nước trong việc
đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế. Theo đó, Nhà nước đóng một vai trò
quan trọng trong nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam với mục tiêu chung
xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong quá trình điều hành, cần tôn trọng các nguyên tắc quy luật kinh tế thị
trường các cam kết hội nhập quốc tế nhằm tạo môi trường động lực cạnh
tranh đầy đủ, minh bạch, khai thác các nguồn lực không ngừng nâng cao hiệu
quả đầu hội.
Bên cạnh đó, để hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước ta đã thực
hiện những chính sách để bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế, điều hòa lợi ích giữa nhân
doanh nghiệp, kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích ảnh hưởng tiêu cực đối
với sự phát triển giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
đồng thời cũng ban hành các khung khổ pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế;
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, bảo đảm cho thị trường phát triển
lành mạnh, tuân thủ các quy luật của KTTT, đồng thời các chính sách đảm bảo
an sinh hội, phát triển con người một cách toàn diện, ban hành, thực thi các
chính sách liên quan đến tiền tệ quản các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế bắt đầu của thời đại 4.0 thì vai trò của Nhà
nước trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế ngày một quan trọng trong nền
KTTT định hướng XHCN Việt Nam. Nhờ Nhà nước đứng đầu cùng với
những chính sách thích hợp hiệu quả trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế đã giúp
cho nền kinh tế Việt Nam ngày một lớn mạnh minh bạch, công bằng văn
minh. Tđó cũng làm phát huy được vai trò của Nhà nước, nâng cao hiệu quả sử
dụng của các thể chế, chính sách, xây dựng củng cố niềm tin sự trung thành
của người dân đối với Nhà nước ta.
THUYẾT TRÌNH: NGUYỄN VÂN LY

Preview text:

MỞ
ĐẦU: ĐÀO LÊ DIỆU LINH
-------------------------------------------------------------------------------------------------
1. LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1.1. Lí luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 1.1.1. Khái niệm
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là mô hình tổng quát, là đường lối chiến lược
nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay, đặc
trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác
định ngày càng sâu sắc. 1.1.2. Mục tiêu
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh”. Đây là
sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa. Đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại,
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn gắn với xây dựng quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp nhằm ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội. 1.1.3. Đặc trưng
Sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu về tư
liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể).
Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên
thực tế có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
Cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên
tắc của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước
là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết
định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
Cơ chế vận hành: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò quản lý, điều
hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008,
Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự
chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm
tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền kinh tế có tổ chức, có kế
hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
vừa phát huy những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa
loại bỏ những khuyết tật của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Phương tiện, công cụ: nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế,
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà
nước sử dụng như một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị
điều tiết bởi các quy luật kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên
kinh tế thị trường tạo ra khả năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu. THUYẾT TRÌNH: TẠ THỊ HƯỜNG
---------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2. Lí luận về lợi ích kinh tế & quan hệ lợi ích kinh tế 1.2.1. Lợi ích kinh tế
1.2.1.1. Khái niệm, bản chất lợi ích kinh tế
Khái niệm : Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện
các hoạt động kinh tế của con người
Lợi ích kinh tế có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như : lợi nhuận, tiền
lương, tiền thưởng, lợi tức….
VD : Các thương nhân hoạt động buôn bán kinh doanh thì lợi ích kinh tế là
lợi nhuận mà họ thu được sau khi thực hiện các hoạt động đó
Để tồn tại và phát triển thì con người cần được thỏa mãn những nhu cầu về
vật chất cũng như tinh thần và chính vì thế lợi ích kinh tế cũng được chia
làm 2 loại là : lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Tùy theo điều kiện lịch sử
cụ thể để có thể quyết định lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần song lợi ích
vật chất đóng vai trò quyết định trong lợi ích kinh tế Bản chất :
+ Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể trong nền sản xuất xã hội. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu hiện ở
mức độ của cải vật chất mà mỗi người có được, khi tham gia vào các hoạt động
kinh tế - xã hội. Về khía cạnh này, Ph. Ănghen viết: “những quan hệ kinh tế
của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thái lợi ích”.
Phản ánh quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tham gia các
hoạt động đó để tạo ra của cải vật chất cho bản thân.
VD : hoạt động bán quần áo , lúc này mục đích kinh doanh mà chủ thể đang hoạt
động là đạt được lợi nhuận. Mà lợi nhuận thu được chính là lợi ích kinh tế,từ
hoạt động buôn bán đó và trong quá trình buôn bán thì người bán phải gắn với
nhiều chủ thể kinh tế khác, tham gia vào các mối quan hệ giữa con người với con
người để tạo ra của cải vật chất cho bản thân như tham gia vào các hội nhóm bán
hàng , hội sỉ lẻ quần áo, liên kết với nguồn nhập hàng để có được giá sỉ Dù các
chủ thể kinh tế có khác nhau về tính chất công việc nhưng động cơ hợp tác của họ
đều hướng tới lợi ích kinh tế
+ Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất
quyết định. Không có lợi ích kinh tế nằm ngoài những quan hệ sản xuất mà nó là
sản phẩm của những quan hệ sản xuất. Các thành viên trong xã hội xác lập các
quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm chứa những lợi ích kinh tế mà họ có thể có được.
+ Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người được quy
định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và địa vị của họ trong hệ thống
các quan hệ sản xuất xã hội đó
vd : trong 1 doanh nghiệp chủ doanh nghiệp là người sở hữu tư liệu sản xuất như
máy móc, trang thiết bị, vật tư, vốn,... nên lợi ích kinh tế của chủ doanh nghiệp sẽ
khác so với lợi ích kinh tế của người làm thuê chỉ sở hữu sức lao động mà thôi
+ Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chế độ xã hội nhất định sẽ quy định hệ
thống lợi ích kinh tế của xã hội đó. Các quan hệ xã hội luôn mang tính lịch sử, do
vậy, lợi ích kinh tế trong mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Vd : Trong thời kì chiến tranh chưa giành được độc lập và chính quyền về tay
nhân dân, người nông dân trồng lúa, ngô làm nông nghiệp chủ yếu để phục vụ
kháng chiến, lợi ích kinh tế mà người nông dân làm ra ko hoàn toàn thuộc về họ
nhưng sau khi chiến tranh kết thúc giành được độc lập chính phủ đã ban hành các
chính sách mới về ruộng đất cho người nông dân cho nên hiện nay hầu hết người
nông dân trồng lúa ngô đều được hưởng gần như hoàn toàn lợi ích kinh tế mà họ làm ra THUYẾT
TRÌNH: HOÀNG DƯƠNG LIỄU
----------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.1.2. Đặc trưng, vai trò của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế-xã hội Đặc trưng :
+ Lợi ích kinh tế mang tính khách quan : Phương thức và mức độ thỏa mãn các
nhu cầu vật chất phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, địa vị của các chủ thể
kinh tế. Những nhân tố đó mang tính khách quan nên lợi ích kinh tế cũng mang
tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người + Lợi ích kinh tế :Quá trình phân phối
trực tiếp phụ thuộc vào quan hệ phân phối
thu nhập tùy thuộc vào các yếu tố như trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, cơ chế thị trường. Thu nhập là biểu hiện, là thước đo việc thực
hiện các lợi ích kinh tế vì mức thu nhập trực tiếp quyết định phương thức và mức
độ thoả mãn nhu cầu của các chủ thể trong cơ chế thị trường. Phân phối thu nhập
lại được thực hiện theo những nguyên tắc khác nhau, tùy thuộc trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế kinh tế. Nếu các chủ thể kinh tế
nhận thức đúng đắn các nguyên tắc phân phối, mức thu nhập hợp lý mà họ được
hưởng và hành động phù hợp với nhận thức thì lợi ích kinh tế trở thành động lực
cho sự phát triển. Ngược lại, những đòi hỏi không hợp lý về thu nhập hay lợi ích
kinh tế sẽ là rào cản cho sự phát triển. + Lợi ích kinh tế là
: Để đạt được lợi ích kinh tế của mình, các chủ quan hệ xã hội
thể phải tương tác, hình thành các mối quan hệ hợp tác. Một mối quan hệ công
bằng, hợp lý, đồng thuận sẽ thúc đẩy nhanh hơn chủ thể đạt được lợi ích kinh tế mong muốn.
Vd : Nhà phân phối các sản phẩm cám chăn nuôi muốn đạt được lợi ích
kinh tế của mình cần hình thành các mối quan hệ hợp tác, hợp tác với nơi
mình bán lẻ, hợp tác với nhà sản xuất, hợp tác với bên vận chuyển… Tôn
trọng lợi ích của nhau và đặt mức thu nhập của mình trong mối quan hệ với
thu nhập của các chủ thể khác có liên quan
+ Lợi ích kinh tế mang tính lịch sử : Mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của
con người cao hay thấp còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. những nhân tố đó không ngừng vận động và biến đổi làm
cho lợi ích kinh tế cũng không ngừng vận động và biến đổi theo vì vậy cần xem xét
mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế, xem xét trong hiện tại, quá khứ và tương lai
vd : Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta phát triển theo
nền kinh tế thị trường, tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, do đó , hệ thống lợi
ích kinh tế cũng mang tính đa dạng và phát triển hơn so với thời kì phát
triển theo nền kinh tế tập trung bao cấp THUYẾT TRÌNH: NGUYỄN THỊ LAN
--------------------------------------------------------------------------------------- Vai trò :
+ Là mục tiêu và động lực trực tiếp của các chủ thể kinh tế và hoạt động kinh tế :
Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết để thỏa mãn các nhu cầu vật
chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất của bản thân.
+ Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ phụ thuộc thỏa mãn nhu
cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, phương
thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải
hành động để nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai
cấp tầng lớp xã hội, đặc biệt của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và
phát triển xã hội vừa là biểu hiện sự phát triển
+ Vì theo đuổi lợi ích của mình mà các chủ thể kinh tế đã đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế
Vd: nhân viên trong phòng phát triển sản phẩm vì để đạt được lơi ích kinh tế thỏa
mãn nhu cầu của mình mà không ngừng làm việc, phát triển ra sản phẩm mới để
nâng cao thu nhập và cũng đồng thời cũng giúp doanh nghiệp phát triển hơn
+ Là động lực của các hoạt động chính trị- xã hội :
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc vào địa vị
con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được lợi ích của
mình, các chủ thể kinh tế còn đấu tranh với nhau để thực hiện quyền sở hữu tư liệu
sản xuất, sở hữu các nguồn lực. Vì kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính trị - xã
hội nên các chủ thể kinh tế còn phải tìm cách nắm quyền thống trị về chính trị- xã
hội và thúc đẩy các hoạt động chính trị- xã hội phát triển hơn
+ Là cơ sở thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích văn hóa :
Nguyên nhân quan trọng là đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, kinh tế
quyết định chính trị , văn hóa, xã hội. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều
kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị , lợi ích xã hội, lợi ích
văn hóa. Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế- xã hội. Điều cần lưu ý là, chỉ khi có sự đồng thuận, thống nhất giữa
các lợi ích kinh tế thì lợi ích kinh tế mới thực hiện được vai trò của mình. Ngược
lại, việc theo đuổi những lợi ích kinh tế không chính đáng, không hợp lý, không
hợp pháp sẽ trở thành trở ngại cho sự phát triển kinh tế- xã hội
vd : những người buôn bán ma túy, chất cấm vì thực hiện lợi ích kinh tế mà làm
những điều trái pháp luật điều này sẽ gây trở ngại cho sự phát triển chính trị, xã hội…..
Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế - xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của xã hội
không phải là quá trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời sống vật chất,
tức là các lợi ích kinh tế của con người”.
Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì rất nhiều lý do, các lợi ích kinh tế,
nhất là lợi ích cá nhân, không được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện
cơ chế thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: coi lợi ích kinh tế là
động lực của các hoạt động kinh tế; phải tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng.
Điều này góp phần tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm vừa qua. THUYẾT
TRÌNH: HOÀNG DƯƠNG LIỄU
--------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.2. Quan hệ lợi ích kinh tế
1.2.2.1. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế
Là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con người, giữa các cộng đồng
người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia
với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối
liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tương ứng của 1 giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
1.2.2.2. Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế Thống nhất: - Quan
hệ lợi ích kinh tế thống nhất với nhau vì 1 chủ thể có thể trở thành bộ
phận cấu thành của chủ thể khác. Do đó khi lợi ích của chủ thể nào được
thực hiện thì lợi ích của chủ thể kia cũng trực tiếp hoặc gián tiếp được thực
hiện. Chẳng hạn, mỗi một cá nhân người lao động có lợi ích riêng của bản
thân và dồng thời mỗi cá nhân kia cũng là bộ phận cấu thành của doanh
nghiệp và đóng góp cho lợi ích chung ấy. Doanh nghiệp hoạt dộng càng có
hiệu quả và lợi ích doanh nghiệp càng được bảo đảm thì lợi ích người lao
động càng được thực hiện tốt: việc làm được bảo đảm, thu nhập ổn địnhvà
được nâng cao. .. Ngược lại, lợi ích người lao động không được thực hiện tốt
thìngười lao động càng hăng say làm việc và trách nhiệm với doanh nghiệp
càng cao vàtừ đó lợi ích doanh nghiệp không được thực hiện tốt. Mâu thuẫn:
- Những quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau do những chủ thể kinh tế
có thể hành động theo các cách thức trái ngược nhau nhằm thoả mãn những
lợi ích của mình. Sự đối lập nhau đạt đến mức độ nhất định sẽ trở thành mâu
thuẫn. Ví dụ, do lợi ích kinh tế nên những cá nhân, doanh nghiệp khi làm
hàng giả, buôn lậu, trốn thuế. .. thì lợi ích của cá nhân, doanh nghiệp và lợi
ích xã hội đối lập với nhau. Khi đó, chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều
lợi nhuận thì lợi ích kinh tế của người tiêu dung và của xã hội càng bị tồn hại.
- tiền lưong của người lao động bị giảm xuống sẽ làm tăng lợi nhuận của chủ
doanh nghiẹp; nhà nước giảm thuế thu nhập sẽ khiến lợi nhuận doanh nghiệp tăng. … THUYẾT
TRÌNH: NGUYỄN THỊ THÙY LINH
----------------------------------------------------------------------------------------------------
1.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội
- Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
- Hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.2.4. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản
*Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động
: Nếu hoạt động sản xuất - kinh doanh diễn ra trôi chảy, người sử dụng lao động
thu được lợi nhuận; người lao động nhận được tiền lương. Như vậy, lợi ích kinh tế
của người lao động và người sử dụng lao động có quan hệ chặt chẽ, thống nhất với
nhau; muốn thực hiện lợi ích của mình, chủ thể này phải tôn trọng và bảo vệ lợi ích của chủ thể kia.
Ngược lại, nếu tình hình thị trưởng không thuận lợi, người sử dụng lao động có ít,
thậm chí không có lợi nhuận, phá sản thì người lao động sẽ bị giảm lương, thậm chí mất việc.
*Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động.
Những người sử dụng lao động liên minh với nhau trong xử sự với người lao động,
chủ ngân hàng, chủ đất, nhà nước... để có được những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất - kinh doanh. Những điều này làm cho lợi ích của họ thống nhất với nhau và
trở thành giai tầng của xã hội (tầng lớp doanh nhân).
Đồng thời, vì mục tiêu lợi nhuận, những người sử dụng lao động sẽ cạnh tranh với
nhau để có được những điều kiện sản xuất - kinh doanh thuận lợi hơn.
*Quan hệ lợi ích giữa những người lao động.
Trên thị trường lao động, đối mặt với người mua, người lao động phải đoàn kết,
hợp tác với nhau để hạn chế việc bán sức lao động với giá rẻ, đòi tăng lương, giảm
giờ làm... Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ có thể thực
hiện được các yêu sách của mình (trong những phạm vi nhất định) đối với những
người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, sức lao động không thể chờ giá lên mới bản nên bên cạnh sự liên minh,
những người lao động thường phải cạnh tranh với nhau.
*Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội.
- Lợi ích cá nhân: gắn với từng thành viên xã hội như người lao động, người sử
dụng lao động, công chức, viên chức nhà nước... Vì nhân đều là thành viên của xã
hội nên lợi ích cá nhân của mỗi mỗi cá người có quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội
- Lợi ích nhóm: Là lợi ích của các cá nhân của tổ chức hoạt động trong cùng
ngành cùng lĩnh vực có sự liên kết với nhau để thể hiện tốt lợi ích riêng
- Lợi ích xã hội: Là tổng các lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân được thực hiện sẽ
làm phát triển nền kinh tế thực hiện được lợi ích kinh tế của xã hội
- Nhóm lợi ích: Nhóm lợi ích bao gồm lợi ích của các chủ thể hoạt động trong các
lĩnh vực khác nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau THUYẾT TRÌNH: NGÔ THẢO LINH
--------------------------------------------------------------------------------------------------
1.3. Vai trò của Nhà nước trong đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích kinh tế phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN
Hài hòa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của các
chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn, xung đột lợi ích kinh tế được hạn chế, tránh
được va chạm, xung đột. Mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát
triển cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh
tế, góp phần thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội
Để có sự hài hòa giữa các lợi ích kinh tế chỉ có kinh tế thị trường là không đủ vì
các lợi ích kinh tế luôn vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, mà cần có sự can
thiệp của nhà nước. Đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế là sự can thiệp của nhà nước
vào các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các công cụ giáo dục, pháp luật, hành chính,
kinh tế,… nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế, hạn chế mâu thuẫn,
tăng cường sự thống nhất, xử lý kịp thời khi có xung đột.
Dưới đây là một số vai trò quan trọng của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các
quan hệ lợi ích kinh tế:
1/ Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi
ích của các chủ thể kinh tế:
- Trước tiên nhà nước phải giữ vững ổn định về chính trị. Muốn có thể tạo lập
được môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu thì phải đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế ( bao gồm hệ thống đường bộ,
đường sắt, đường sông, đường hàng không…) Xây dựng được môi trường
pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế
trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích của đất nước, đưa ra các chính sách
phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn.
- Để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển ở
Việt Nam. Tại đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) với phương châm nhìn
thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã thẳng thắn
nhìn nhận những sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức và thực tiễn quá trình
xây dựng, phát triển kinh tế.
- Phải có chính sách mở đường cho người lao động tự tạo ra việc làm, kích
thích mọi người đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để
tích luỹ, mở rộng tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội. Khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp tư nhân lớn, cho phép thí điểm thành lập các tập đoàn
kinh tế tư nhân. kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh.
2/ Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
- Mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật
thị trường, sự phân hóa về mức thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp dân cư mang tính tất yếu.
- nhà nước cần có các chính sách (chính sách thuế, chính sách lãi suất, chính
sách xuất nhập khẩu,…) trước hết là chính sách phân phối thu nhập nhằm
bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Phải thừa nhận sự chênh lệch về mức
thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan. Và phải ngăn chặn sự
chênh lệch thu nhập quá đáng bằng cách phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, phát triển khoa học công nghệ để nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế.
+ Đơn giản hóa các thủ tục hành chính: nhằm làm giảm chi phí cho DN, tận
dụng được các cơ hội kinh doanh, đem lại lợi ích cho doanh nghiệp và đất nước
+ Nâng cao dân trí, hiểu biết của mọi công dân về kinh tế thị trường và pháp
luật của Nhà nước, chấp hành nghiêm các quy định của nhà nước + Tạo lập
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường: môi trường văn hóa
con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ chữ tín
- Để hạn chế mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế, nhà nước còn phải đánh thuế thu
nhập với những người có thu nhập cao và trợ cấp, hỗ trợ cho những người thu nhập
thấp. Điều quan trọng hơn, các chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập của
nhà nước phải công bằng, hợp lí và được các chủ thể có liên quan tự giác thực hiện.
- Hoàn thiện và sử dụng hợp lý các công cụ điều tiết thu nhập: bao gồm
+ Thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, trợ cấp cho những người có hoàn cảnh đặc biệt,…
+ Các chính sách tiền lương, tiền thưởng, chính sách bình ổn giá, chinh sách hỗ trợ
người nghèo trong tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục,…
=> Để có thể hoàn thiện các công cụ này, đất nước cần có những chuyên gia giỏi, am hiểu thực tiễn.
phải phù hợp với điều kiện cụ thể của đ Đồng thời, ất nước
trong từng thời kỳ; phải công khai, minh bạch và có trách nghiệm giải trình của các cơ quan công quyền. THUYẾT
TRÌNH: ĐÀO LÊ DIỆU LINH
--------------------------------------------------------------------------------------------------
3/ Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã hội
- Nhà nước phải là bộ máy liêm chính, hiệu lực chăm lo đời sống vật chất cho mọi
người dân. Thực hiện công khai, minh bạch mọi cơ chế, chính sách và quy định
của nhà nước. Nhờ đó, người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước
hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình.
- Cần có các chính sách khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện
và giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp để lợi ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế:
+ Tuyên truyền, giáo dục, tư vấn người lao động và người sử dụng lao động
cần phải hiểu được các nguyên tắc phân phối của kinh tế thị trường cùng với
những quy định để có sự phân chia hợp lý, công bằng giữa tiền lương và lợi nhuận.
+ Chủ doanh nghiệp cần phải hiểu, tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, hiểu
các chính sách phân phối thu nhập của nhà nước.
+ Các hiện tượng vi phạm các quy định cần được xử lý nghiêm minh.
+ Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát
triển xã hội. Chống mọi hình thức thu nhập bất hợp pháp: Đảng và nhà nước ta coi
tham nhũng là quốc nạn và coi chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt.
4/ Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế:
- Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không kiểm soát tốt có thể
dẫn đến xung đột, dưới những hình thức cụ thể là mít tinh, biểu tình, bãi công, đập
phá công xưởng,.. Sự xung đột giữa các chủ thể sẽ làm tổn hại đến lợi ích kinh tế
của nhiều bên, đặc biệt là lợi ích của đất nước.
- Các cơ quan chức năng của nhà nước cần phải thường xuyên quan tâm phát hiện
mâu thuẫn và chuẩn bị chu đáo các giải pháp đối phó.
- Để giảm thiểu hậu quả khi mâu thuẫn phát sinh, các chủ thể có lợi ích liên quan
cần trực tiếp trao đổi, thảo luận kịp thời; căn cứ vào các quy định của pháp
luật, tôn trọng lợi ích của nhau và đặt lợi ích của cộng đồng, đất nước lên đầu
- Nhà nước phải xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật công bằng, bình đẳng,
bảo vệ được các lợi ích chính đáng của chủ thể kinh tế.
- Trong một số trường hợp, Nhà nước phải các chủ thể
tham gia trực tiếp, hỗ trợ giải quyết mâu thuẫn.
THUYẾT TRÌNH: LÊ THỊ DIỆU LINH
----------------------------------------------------------------------------------------------------
2. THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐẢM BẢO HÀI
HÒA CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1/ Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
- Nhà nước tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, quan điểm về mối quan hệ giữa thị
trường với quản lý nhà nước, giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, nhưng
trong tư duy của một số nhà lãnh đạo, quản lý và đặc biệt trong xử lý thực tiễn thì
vẫn coi nhẹ tác động của cơ chế thị trường và quá coi trọng vai trò can thiệp của
Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp khu
vực kinh tế tư nhân. Hiện tượng cấm đoán, cấp phép, ra các điều kiện kinh doanh
vẫn rất tràn lan và nặng nề, đang cản trở các nhà kinh doanh, chủ đầu tư, nhà lập nghiệp....
- Hoàn thiện xây dựng và thực thi pháp luật và chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã chỉ ra những hạn chế cả phía quản lý nhà nước
và bản thân các doanh nghiệp kinh tế tư nhân như “thể chế về phát triển doanh
nghiệp, doanh nhân còn nhiều bất cập. …Vi phạm pháp luật và cạnh tranh không
lành mạnh trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến” ... Như vậy, hoàn thiện xây
dựng và thực thi pháp luật và chính sách đối với kinh tế tư nhân là một đòi hỏi cấp thiết.
- Tạo lập môi trường thông tin thuận lợi cho kinh tế tư nhân hoạt động. Thông tin
trên thế giới cũng như ở nước ta đang bùng nổ, các phương tiện thông tin hiện đại
đang phát triển như vũ bão là thời cơ thuận lợi cho kinh tế tư nhân hoạt động và cải
cách bộ máy quản lý nhà nước. Nhưng trên thực tế thông tin quản lý thì không
được kịp thời, đầy đủ, sâu rộng, còn thông tin phản hồi từ doanh nghiệp thì bị sai
lệch, bóp méo đã và đang gây khó khăn cho cả phía Nhà nước và doanh nghiệp,
làm cho môi trường thông tin bị rối loạn.
=> Nhà nước vừa phải tạo lập môi trường thông tin lành mạnh, trung thực, không
dối trá, vừa thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa dịch vụ hành
chính công để tiết kiệm thời gian, chi phí thực hiện các thủ tục hành chính cho
người dân và doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý nhà nước tạo lập các kênh tiếp
nhận kiến nghị, phản ánh, thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của dân và doanh nghiệp, tổ
chức đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước với người dân, doanh nghiệp nhằm
nắm bắt và xử lý kịp thời các nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc liên quan đến phát triển kinh tế tư nhân.
- Xây dựng bộ máy công quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Đây là vấn đề rất lớn,
vừa cấp bách, vừa lâu dài nhưng hiện tại còn rất bất cập. Như phát biểu khai mạc
Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Cho
đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc,
kém hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo;
cơ cấu bên trong chưa hợp lý…” từ đó vừa tốn kém chi thường xuyên cho hành
chính công, vừa gây nhũng nhiễu đối với các chủ doanh nghiệp tư nhân.
2/ Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
- Nâng cao nhận thức của các chủ thể lợi ích trong việc giải quyết quan hệ lợi ích,
nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội . Nâng cao nhận thức của các chủ thể
lợi ích để các chủ thể lợi ích xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các
quan hệ lợi ích, tránh xung đột lợi ích giữa các chủ thể. Chủ thể của lợi ích xã hội
chủ yếu là Đảng, Nhà nước cũng cần nhận thức được rằng, muốn thực hiện tốt các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của mọi cá
nhân, của từng đối tượng, nhất là quan tâm đến những người có công với cách
mạng, những đối tượng yếu thế trong xã hội.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách về sở hữu, phân phối và tổ chức thực hiện tốt các
chính sách trên thực tế để giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
+ Cần tiếp tục thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và
cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật, tạo cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn lực.
+ Cụ thể hóa các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền bình đẳng trong tiếp
cận tài sản công của mọi chủ thể trong nền kinh tế, trong đó, tạo điều kiện thuận lợi
thúc đẩy phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật sự trở thành
lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực
sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành và phát
triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị
tiên tiến. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xóa bỏ
độc quyền doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, nhất là với doanh nghiệp nhà nước.
- Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội trong toàn xã hội,
nhất là đối với các đối tượng còn nhiều khó khăn như nông dân, công nhân, những
đồng bào vùng sâu, vùng xa, đối tượng chính sách... thực hiện tốt chính sách xóa
đói, giảm nghèo, thực hiện thật tốt các chế độ, chính sách, nâng cao đời sống đối
với các đối tượng có công với cách mạng, đảm bảo cho họ được hưởng thụ các giá
trị căn bản của sự phát triển như đời sống vật chất, y tế, giáo dục, hưởng thụ các
giá trị văn hóa - xã hội khác.
- Thực hiện tốt chính sách tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương đã được ban
hành, đảm bảo tiền lương thực sự đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động, đặc biệt đối với người công nhân; có chính sách đãi ngộ
xứng đáng đối với những nhân tài của từng lĩnh vực, địa phương.
- Thực hiện các giải pháp đảm bảo công khai, minh bạch nhằm ngăn chặn những
hành vi tiêu cực như tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm.
+ Đảng, Nhà nước cần thực hiện tốt hơn nữa các biện pháp công khai, minh bạch
để phòng ngừa các hiện tượng tham ô, tham nhũng, lãng phí. Nâng cao năng lực,
hiệu quả sử dụng tài sản công, phát huy tốt trách nhiệm giải trình, thực hiện tốt các
biện pháp công khai tài chính, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức...
+ Cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xử lý nghiêm minh những trường
hợp vi phạm tội tham ô, tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng
kém chất lượng... đây là những hành vi phá hoại nghiêm trọng các quan hệ lợi ích,
gây tổn hại tới cả lợi ích cá nhân và các mục tiêu của lợi ích xã hội.
- Cần tích cực khuyến khích mỗi cá nhân tích cực vươn lên trong học tập, lao động,
sản xuất - kinh doanh, lập thân, lập nghiệp bằng nhiều cơ chế, chính sách cụ thể,
nhất là trong khởi nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho sự phát triển.
3/ Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã hội
- Kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách trong tình
hình hiện nay, quyết định đến sự phát triển bền vững của đất nước, sự thành bại
của công cuộc đổi mới; góp phần ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực trong Đảng. Hiện nay, “nhóm lợi ích” đã hình
thành, ăn sâu, tác động mạnh đến mọi ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội ở mọi
quy mô, cấp độ, đặc biệt trong việc hoạch định, thực thi chính sách. Mặc dù Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu
cực, nhưng thực tế xã hội cho thấy có nguy cơ đáng lo ngại là tham nhũng, tiêu cực
có hiện tượng chuyển dần sang “chủ nghĩa tư bản thân hữu” do hoạt động của “lợi
ích nhóm” gây nên. Do vậy, đấu tranh kiểm soát, ngăn chặn “nhóm lợi ích” đang là
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
- Cần có giải pháp tình thế, kiên quyết, kịp thời, tạo chuyển biến rõ rệt, đồng thời
có biện pháp dài hạn về phòng, chống tận gốc “nhóm lợi ích”. Tại Hội nghị toàn
quốc tổng kết công tác xây dựng Đảng năm 2015, triển khai nhiệm vụ trọng tâm
năm 2016, ngày 26- 3-2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Chúng ta
phải có dũng khí, dám ngăn những việc làm không đúng, chống cho được tệ bè
phái, cục bộ, lợi ích nhóm và cũng không bị lợi ích nào cám dỗ, không để bị chi
phối bởi quan hệ cá nhân, thân quen không trong sáng. Cần tiến hành đồng bộ,
kiên quyết, kiên trì, làm từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài; đồng thời lựa chọn
những giải pháp mang tính đột phá, phù hợp với từng thời điểm để tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo quyết liệt. THUYẾT
TRÌNH: TRỊNH THỊ PHƯƠNG LINH
-------------------------------------------------------------------------------------------------
4/ Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
- Hoàn thiện Bộ luật Lao động của Việt Nam theo hướng hài hòa lợi ích giữa người
sử dụng lao động và người lao động. Sở dĩ người sử dụng lao động trong thời gian
qua chưa đảm bảo lợi ích cho người lao động vì hệ thống pháp luật của Việt Nam
còn bất cập, chưa thực sự chặt chẽ, còn nhiều kẽ hở, lạc hậu, chưa phù hợp với
thực tế, chưa đủ sức điều chỉnh các quan hệ lao động vốn dĩ năng động và phức
tạp, thậm chí có những điều khoản vô ý đã gây thiệt thòi về lợi ích cho người lao
động. Vì vậy, cần hoàn thiện các quy định về pháp luật để công nhân bù đắp hao
phí thể lực, có điều kiện nâng cao trình độ văn hóa, có thể đảm đương trách nhiệm
nuôi dạy con cái, được sống đúng với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra.
- Đẩy mạnh tuyên truyền cho người sử dụng lao động thực hiện đúng các quy định
của pháp luật về lao động. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần đa dạng
về hình thức, phương pháp, phù hợp với từng đối tượng, huy động sự tham gia của
nhiều chủ thể, đảm bảo cho pháp luật đến được với cả người sử dụng lao động và người lao động.
- Xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp trong các doanh nghiệp ở
Việt Nam. Một doanh nghiệp có văn hóa trước hết phải là doanh nghiệp có trách
nhiệm xã hội, có trách nhiệm đối với người lao động và đối với môi trường sinh
thái. Văn hóa doanh nghiệp thì Nhà nước cũng cần có nhiều biện pháp để giúp các
chủ doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của việc tôn trọng lợi ích của
người lao động, sẽ tăng cường sự gắn bó với doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp
phát triển bền vững, cần tránh tư duy “ăn xổi ở thì”, chỉ quan tâm đến lợi nhuận
trước mắt của các doanh nghiệp mà làm tổn hại đến lợi ích của người lao động.
- Tăng cường thanh tra và kiểm tra việc thực hiện pháp luật và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm. Nhà nước cũng cần hoàn thiện bộ máy thanh tra và kiểm tra
về pháp luật lao động và đẩy mạnh số lượng các cuộc thanh tra và kiểm tra trong
các cơ sở, doanh nghiệp sử dụng lao động để đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện trên thực tế, hạn chế các trường hợp chủ sử dụng lao động không thực hiện
đúng pháp luật lao động, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp. 3. KẾT LUẬN
Đề tài đã khái quát được một số vấn đề chung về vai trò của Nhà nước trong việc
đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế. Theo đó, Nhà nước đóng một vai trò
quan trọng trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam với mục tiêu chung là xây dựng một Việt Nam
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong quá trình điều hành, cần tôn trọng các nguyên tắc và quy luật kinh tế thị
trường và các cam kết hội nhập quốc tế nhằm tạo môi trường và động lực cạnh
tranh đầy đủ, minh bạch, khai thác các nguồn lực và không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội.
Bên cạnh đó, để hoàn thiện nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước ta đã thực
hiện những chính sách để bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế, điều hòa lợi ích giữa cá nhân –
doanh nghiệp, kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối
với sự phát triển xã và giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
đồng thời cũng ban hành các khung khổ pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế;
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, bảo đảm cho thị trường phát triển
lành mạnh, tuân thủ các quy luật của KTTT, đồng thời là các chính sách đảm bảo
an sinh xã hội, phát triển con người một cách toàn diện, ban hành, thực thi các
chính sách liên quan đến tiền tệ và quản lý các doanh nghiệp Nhà nước.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và bắt đầu của thời đại 4.0 thì vai trò của Nhà
nước trong việc đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế ngày một quan trọng trong nền
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Nhờ có Nhà nước đứng đầu cùng với
những chính sách thích hợp và hiệu quả trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế đã giúp
cho nền kinh tế Việt Nam ngày một lớn mạnh và minh bạch, công bằng và văn
minh. Từ đó cũng làm phát huy được vai trò của Nhà nước, nâng cao hiệu quả sử
dụng của các thể chế, chính sách, xây dựng và củng cố niềm tin và sự trung thành
của người dân đối với Nhà nước ta. THUYẾT TRÌNH: NGUYỄN VÂN LY