BÀI THU HOẠCH
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
CHỦ ĐỀ NGHIÊN CỨU
TÌM HIỂU BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC, TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
Họ và tên:
Lớp:
Mã sinh viên:
I. Giới thiệu về bản sắc văn hóa dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo
1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc
“Bản sắc” vốn là một từ Hán Việt. Bản nghĩa là của chính mình, sắc nghĩa là dung mạo. Mở rộng
hơn, chúng ta có thể hiểu bản sắc là nét đẹp vốn có của mình. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá
trị vật chất và tinh thần tiêu biểu cho mỗi dân tộc, phản ánh đặc điểm, diện mạo, giá trị của mỗi
dân tộc. Nhờ có bản sắc văn hóa mà dân tộc ấy không bị nhầm lẫn với các dân tộc khác và vẫn
giữ được nét độc đáo riêng của mình.
Bản sắc văn hóa dân tộc phản ánh rất nhiều khía cạnh đa dạng, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập
quán, các nghi lễ đặc trưng, trang phục, di sản văn hóa, di vật lịch sử… Những đặc trưng này đã
được hình thành từ kinh nghiệm sống của các thế hệ tiền bối và được truyền dạy qua nhiều thế hệ
kế tiếp.
1.2. Tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng là biểu hiện của đức tin, niềm tin của con người và cộng đồng vào những điều thiêng
liêng, cao cả, hoặc đáng sùng kính, gắn với thế giới nhân sinh hoặc siêu nhiên, tương ứng với
một trình độ phát triển xã hội và nhận thức nhất định. Tín ngưỡng mang tính chất là niềm tin, là
lối sống, là phong tục tập quán, tình cảm của con người qua nhiều thế hệ, niềm tin của con người
vào tín ngưỡng như là một nhu cầu tinh thần tốt đẹp, tín ngưỡng mang tính chất bền vững trong
đời sống tinh thần của xã hội…đó còn là những giá trị đạo đức, văn hoá với tinh thần nhân đạo,
hướng thiện làm trong sáng hơn tâm hồn con người.
Tôn giáo là là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối
tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất
sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng
ngàn năm qua; tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử
cụ thể, nó chứa đựng một số giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người, có tác dụng điều
chỉnh con người như khuyên làm điều tốt, điều thiện, điều có ích, răn bỏ điều ác.
II. Bản sắc văn hóa dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS)
2.1. Bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với nhiều sắc thái văn hóa vùng, miền rất phong phú và độc đáo,
trong đó có văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Bản sắc văn hoá của các dân tộc thể hiện rất rõ nét
trong các sinh hoạt cộng đồng và trong các hoạt động kinh tế. Từ trang phục, ăn, ở, quan hệ xã
hội, các phong tục tập quán trong cưới xin, ma chay, thờ cúng, lễ tết, lịch, văn nghệ, vui chơi,
tiếng nói, chữ viết của mỗi dân tộc lại mang những nét văn hóa độc đáo riêng.
Trang phục của các DTTS là một phần quan trọng trong đời sống, sinh hoạt của mỗi cộng đồng
tộc người. Thông qua trang phục chúng ta có thể phân biệt được nhóm dân tộc, địa bàn cư trú,
trang phục nam hay nữ, người lớn hay trẻ con hoặc phân chia theo vai vế, tầng lớp, chức sắc tôn
giáo, thầy cúng hay những người lao động bình thường, trang phục dành cho lễ hội cộng đồng
hay trong các sự kiện quan trọng của đời người như lễ cưới hoặc tang ma. Trang phục của các
DTTS còn thể hiện sự khác biệt và những nét riêng độc đáo qua cách cắt may, tạo dáng, phối
màu và tạo hoa văn.
Chắng hạn, trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng, hội tụ đầy đủ những nét tiêu biểu,
đặc trưng của đồng bào dân tộc Mông. Nhìn vào trang phục của phụ nữ là người ta có thể nhận
thấy sự khác biệt giữa các nhóm trong đồng bào dân tộc Mông. Ví dụ, phụ nữ Mông Hoa mặc
váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu
và thêu, họ để tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả (lông đuôi ngựa). Còn trang phục của phụ nữ Mông
Đỏ gồm áo xẻ ngực, váy, tấm vải che phía trước váy, thắt lưng và xà cạp. Phía sau cổ áo là một
bức thêu hình chữ nhật được trang trí hoa văn tỉ mỉ. Hai ống tay áo cũng được thêu hoa văn là
những đường vằn ngang với đủ màu sắc.
Tương tự, nhà ở truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số mang kiến trúc độc đáo, chứa đựng
nét văn hóa tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Nhà sàn dài của người Ê-đê chủ yếu là nơi sinh sống
của các gia đình, nơi các thành viên sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi hàng ngày, Nhà dựng theo
hướng Bắc Nam, tránh được gió lùa vào mùa mưa. Đầu nhà quay về phía bắc, có cửa chính và là
cửa đón khách, thông ra sàn rộng, còn đầu hồi phía nam, cuối nhà, dành cho sinh hoạt gia đình.
Trong xã hội Ê Đê truyền thống, ngôi nhà dài là nơi cư trú của một đại gia đình mẫu hệ; gia đình
càng đông thì nhà càng dài. Nhà dài chính là một phương diện biểu trưng văn hóa độc đáo của
người Ê đê: sự gắn kết chặt chẽ của gia đình, tính cộng đồng, niềm tin tín ngưỡng, vai trò người
phụ nữ được đề cao.
Khác với Nhà Dài, Nhà Rông là nơi sinh hoạt cộng đồng và được dựng ở trung tâm của ngôi
làng. Đây là một kiến trúc độc đáo của dân tộc Ba Na hay Gia Rai ở khu vực Tây Nguyên. Nhà
có thể cao tới 30 m, nhưng thường ở khoảng 15-20 m. Nhà Rông càng cao càng chứng tỏ làng
giàu có, thịnh vượng.
Âm nhạc gắn liền với đời sống tinh thần cũng như tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào dân tộc
thiểu số. Các DTTS có tư duy về nhạc cụ, giai điệu và cách thể hiện độc đáo, riêng biệt.
Về nhạc cụ, đồng bào dân tộc Thái có các loại pí (pí pặp, pí thiu, pí tam lay...), khèn bè, tính tảu,
trống, chiêng. Bà con dân tộc Mông có các loại sáo, khèn, đàn môi. Dân tộc Khơ mú có cọng
linh, chiêng khỉ, hưn mạy, tăng bẳng. Người Mường có pí lè, trống, thanh la, chũm chọe. Người
Dao có chuông, tù và...
Về loại hình dân ca cũng rất phong phú và đa dạng, như: Các bài khắp, hát đối đáp giao duyên,
hạn khuống của đồng bào Thái; hát ru, hát than thân của dân tộc Mông, hay các làn điệu páo
dung của người Dao... Tuy có sự khác biệt về giai điệu, ca từ, hình thức diễn sướng thể hiện, thế
nhưng các làn điệu dân ca đều mang nội dung hướng tới những giá trị tốt đẹp, đề cao tinh thần
lao động, sáng tạo, lẽ sống, ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với thiên
nhiên, ca ngợi tình yêu, vẻ đẹp quê hương, làng bản... Âm nhạc dân gian các dân tộc không chỉ
có giá trị nghệ thuật, mà còn là động lực giúp người dân thêm yêu cuộc sống, hăng say lao động
sản xuất, xây dựng quê hương.
2.2. Tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống dân tộc Việt Nam, thể hiện bản sắc
văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, tổ tiên, thần thánh. Đối với
người Gia Rai, tang lễ là một sự kiện trọng đại với nhiều nghi lễ phức tạp và tốn kém. Người Gia
Rai quan niệm, cái chết không phải là hết mà đó là sự tái sinh, đầu thai làm kiếp khác, đó là sự
chuyển đổi trạng thái của một thực thể. Trong đó, ý niệm về sự sinh thành hay là sự tái sinh được
biểu hiện rõ ràng và thống nhất trong Lễ bỏ mả.
Người Gia Rai làm Lễ bỏ mả được tiến hành ba bước theo tuần tự, cụ thể: Dựng nhà mả, nghi lễ
tiễn đưa linh hồn người mất về với thế giới Atâu, nghi lễ giải phóng cho người sống. Nhà mồ
được bao bằng một hàng rào tượng, được đẽo và tạc bằng rìu, đục và dao. Những tượng trai gái
giao hoan, phô ra bộ phận sinh dục và tượng phụ nữ mang thai liên quan đến sự sinh sôi. Mái
nhà lợp gỗ ván và được phủ một lớp phên nan tre có trang trí nhiều hình vẽ bằng phẩm màu đỏ tự
chế tác theo lối cổ truyền. Những hình tạc trên nóc mô tả chủ yếu sinh hoạt lễ bỏ mả.
Nhà mồ được coi là dành cho người chết ở thế giới bên kia. Bên trong nhà có nhiều bát, đĩa, chai,
chén và mô hình dụng cụ lao động, là những đồ dùng cho người quá cố. Người Gia-rai làm nhà
mồ đẹp chỉ để phục vụ lễ bỏ mả. Nghi lễ diễn ra trong vài ba ngày, sau đó, toàn bộ nhà mồ cùng
với tượng và các trang trí... bỏ hoang, hư hỏng dần theo năm tháng.
Ngược lại, nổi bật trong tín ngưỡng dân gian của người Hoa là thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ,
thờ cúng các vị thần phù hộ (thần bếp, thổ địa, thần tài...) và một số vị thánh và bồ tát (Quan
Công, bà Thiên Hậu, ông Bổn, Nam Hải Quan Âm...) Vào những ngày Tết, người Hoa tiến hành
nghi lễ cúng ông bà, tổ tiên và các vị thần, thánh nêu trên. Thông thường sẽ tiến hành cúng bàn
thờ Thiên trước, sau đó cúng tổ tiên, tiếp đến là ông Địa, sau cùng là Môn thần. Không chỉ thứ tự
mà cả mâm cúng cũng khác nhau, như số lượng chén cơm, rượu, trà (tùy phong tục mỗi gia
đình).
Các ngày lễ Tết thường diễn ra nhiều sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và văn hóa cổ truyền của
người Hoa. Múa lân là một trong những sinh hoạt văn hóa-nghệ thuật nổi bật. Con lân được làm
bằng giấy bồi với vải và sợi trên khung tre đan; thường có hai loại mặt vàng, mặt đỏ và mặt đen,
Mỗi con lân thường do hai người múa. Trong múa lân thường xuất hiện hình tượng ông Địa
(được xem là hiện thân của Đức Phật Di Lặc), mặc áo dài, tay cầm quạt phe phẩy, xoa đầu lân, sư
tạo nhịp cho múa lân. Ông Địa đi đến đâu khuôn măt lúc nào cũng tươi cười hiền lành n ằm
mang phúc lộc đến cho nơi đó. Bởi người Hoa quan niệm, dùng lân múa có thể xua đuổi được tà
ma, còn ông Địa sẽ mang điềm lành đến cho nhân gian.
2.3. Tôn giáo
Việt Nam là quốc gia gồm nhiều dân tộc và cũng là quốc gia đa tôn giáo. Mỗi dân tộc có đặc
trưng riêng và tôn giáo cũng vậy, có quá trình hình thành, du nhập, số lượng, vai trò xã hội và
đặc điểm khác nhau. Tôn giáo truyền vào vùng dân tộc thiểu số khá sớm, nhiều nơi đã trở thành
một phần tất yếu, một bộ phận trong xã hội của vùng.
Nói đến người Khmer ở khu vực Tây Nam bộ là nói đến Phật giáo Nam tông. Hệ phái này được
người Khmer đón nhận và phát triển thành tôn giáo chính từ mấy trăm năm qua. Trong tâm thức
của người Khmer, đức Phật là hình mẫu của sự giác ngộ, là người dẫn dắt con người thoát khỏi
khổ đau và tìm đến sự an lạc. Các nghi lễ Phật giáo được tổ chức trong các dịp lễ hội lớn, như Lễ
Phật đản, Lễ Vu Lan hay lễ hội dâng y, không chỉ là dịp để bày tỏ lòng thành kính với đức Phật
mà còn là cơ hội để cộng đồng đoàn tụ, thắt chặt tình cảm.
Mặt khác, tôn giáo chính của cộng đồng người người Chăm là đạo Bà La Môn. Trong đó, Po Inư
Nưgar là một vị thần tối thượng sinh ra mọi thứ từ vũ trụ đến đất đai, cây cối, lúa gạo và cả con
người. Bà lại là nữ thần Mẹ của xứ sở che chở con người Chăm và giúp họ tồn tại với chức năng
là nữ thần nông nghiệp bởi đó là ngành kinh tế chính của họ từ trước đến nay. Do vậy đối với
người Chăm, Po Inư Nưgar là vị thần tối thượng toàn năng, là đấng sáng tạo, là đấng bảo vệ, là
đấng hủy diệt những điều xấu, điều ác. Chính vì thế mà trong hầu hết các nghi lễ, Nữ thần Po Inư
Nưgar luôn được người Chăm cầu xin ban phước và bảo vệ.
Với đại đa số các DTTS khác ở Việt Nam, họ đều có truyền thống tín ngưỡng đa thần, thờ cúng
rất nhiều các vị thần linh khác nhau.
III. Kết luận
Có thể thấy, bản sắc văn hóa dân tộc, hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng đã ăn sâu, bám rễ,
hòa quyện trong đời sống người dân. Sự kết hợp giữa tín ngưỡng với bản sắc văn hóa dân gian
giúp con người giải tỏa những lo lắng trong cuộc sống, mang lại niềm tin vào tương lai; là dịp để
mọi người sum họp, chia sẻ và gắn kết tình làng nghĩa xóm. Không chỉ là sự thể hiện của niềm
tin tôn giáo mà còn phản ánh bề dày văn hóa và giá trị tinh thần của dân tộc. Đây là một phần
không thể thiếu trong việc gìn giữ bản sắc và truyền thống văn hóa Việt Nam và cũng là một
tiềm năng lớn cho sự phát triển văn hóa nói riêng và kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
Phụ lục ảnh minh chứng

Preview text:

BÀI THU HOẠCH
MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
CHỦ ĐỀ NGHIÊN CỨU
TÌM HIỂU BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC, TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Họ và tên: Lớp: Mã sinh viên:
I. Giới thiệu về bản sắc văn hóa dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo
1.1. Bản sắc văn hóa dân tộc
“Bản sắc” vốn là một từ Hán Việt. Bản nghĩa là của chính mình, sắc nghĩa là dung mạo. Mở rộng
hơn, chúng ta có thể hiểu bản sắc là nét đẹp vốn có của mình. Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá
trị vật chất và tinh thần tiêu biểu cho mỗi dân tộc, phản ánh đặc điểm, diện mạo, giá trị của mỗi
dân tộc. Nhờ có bản sắc văn hóa mà dân tộc ấy không bị nhầm lẫn với các dân tộc khác và vẫn
giữ được nét độc đáo riêng của mình.
Bản sắc văn hóa dân tộc phản ánh rất nhiều khía cạnh đa dạng, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập
quán, các nghi lễ đặc trưng, trang phục, di sản văn hóa, di vật lịch sử… Những đặc trưng này đã
được hình thành từ kinh nghiệm sống của các thế hệ tiền bối và được truyền dạy qua nhiều thế hệ kế tiếp.
1.2. Tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng là biểu hiện của đức tin, niềm tin của con người và cộng đồng vào những điều thiêng
liêng, cao cả, hoặc đáng sùng kính, gắn với thế giới nhân sinh hoặc siêu nhiên, tương ứng với
một trình độ phát triển xã hội và nhận thức nhất định. Tín ngưỡng mang tính chất là niềm tin, là
lối sống, là phong tục tập quán, tình cảm của con người qua nhiều thế hệ, niềm tin của con người
vào tín ngưỡng như là một nhu cầu tinh thần tốt đẹp, tín ngưỡng mang tính chất bền vững trong
đời sống tinh thần của xã hội…đó còn là những giá trị đạo đức, văn hoá với tinh thần nhân đạo,
hướng thiện làm trong sáng hơn tâm hồn con người.
Tôn giáo là là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối
tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất
sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng
ngàn năm qua; tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử
cụ thể, nó chứa đựng một số giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người, có tác dụng điều
chỉnh con người như khuyên làm điều tốt, điều thiện, điều có ích, răn bỏ điều ác.
II. Bản sắc văn hóa dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS)
2.1. Bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với nhiều sắc thái văn hóa vùng, miền rất phong phú và độc đáo,
trong đó có văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Bản sắc văn hoá của các dân tộc thể hiện rất rõ nét
trong các sinh hoạt cộng đồng và trong các hoạt động kinh tế. Từ trang phục, ăn, ở, quan hệ xã
hội, các phong tục tập quán trong cưới xin, ma chay, thờ cúng, lễ tết, lịch, văn nghệ, vui chơi,
tiếng nói, chữ viết của mỗi dân tộc lại mang những nét văn hóa độc đáo riêng.
Trang phục của các DTTS là một phần quan trọng trong đời sống, sinh hoạt của mỗi cộng đồng
tộc người. Thông qua trang phục chúng ta có thể phân biệt được nhóm dân tộc, địa bàn cư trú,
trang phục nam hay nữ, người lớn hay trẻ con hoặc phân chia theo vai vế, tầng lớp, chức sắc tôn
giáo, thầy cúng hay những người lao động bình thường, trang phục dành cho lễ hội cộng đồng
hay trong các sự kiện quan trọng của đời người như lễ cưới hoặc tang ma. Trang phục của các
DTTS còn thể hiện sự khác biệt và những nét riêng độc đáo qua cách cắt may, tạo dáng, phối màu và tạo hoa văn.
Chắng hạn, trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng, hội tụ đầy đủ những nét tiêu biểu,
đặc trưng của đồng bào dân tộc Mông. Nhìn vào trang phục của phụ nữ là người ta có thể nhận
thấy sự khác biệt giữa các nhóm trong đồng bào dân tộc Mông. Ví dụ, phụ nữ Mông Hoa mặc
váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu
và thêu, họ để tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả (lông đuôi ngựa). Còn trang phục của phụ nữ Mông
Đỏ gồm áo xẻ ngực, váy, tấm vải che phía trước váy, thắt lưng và xà cạp. Phía sau cổ áo là một
bức thêu hình chữ nhật được trang trí hoa văn tỉ mỉ. Hai ống tay áo cũng được thêu hoa văn là
những đường vằn ngang với đủ màu sắc.
Tương tự, nhà ở truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số mang kiến trúc độc đáo, chứa đựng
nét văn hóa tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Nhà sàn dài của người Ê-đê chủ yếu là nơi sinh sống
của các gia đình, nơi các thành viên sinh hoạt, ăn uống, nghỉ ngơi hàng ngày, Nhà dựng theo
hướng Bắc Nam, tránh được gió lùa vào mùa mưa. Đầu nhà quay về phía bắc, có cửa chính và là
cửa đón khách, thông ra sàn rộng, còn đầu hồi phía nam, cuối nhà, dành cho sinh hoạt gia đình.
Trong xã hội Ê Đê truyền thống, ngôi nhà dài là nơi cư trú của một đại gia đình mẫu hệ; gia đình
càng đông thì nhà càng dài. Nhà dài chính là một phương diện biểu trưng văn hóa độc đáo của
người Ê đê: sự gắn kết chặt chẽ của gia đình, tính cộng đồng, niềm tin tín ngưỡng, vai trò người
phụ nữ được đề cao.
Khác với Nhà Dài, Nhà Rông là nơi sinh hoạt cộng đồng và được dựng ở trung tâm của ngôi
làng. Đây là một kiến trúc độc đáo của dân tộc Ba Na hay Gia Rai ở khu vực Tây Nguyên. Nhà
có thể cao tới 30 m, nhưng thường ở khoảng 15-20 m. Nhà Rông càng cao càng chứng tỏ làng giàu có, thịnh vượng.
Âm nhạc gắn liền với đời sống tinh thần cũng như tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào dân tộc
thiểu số. Các DTTS có tư duy về nhạc cụ, giai điệu và cách thể hiện độc đáo, riêng biệt.
Về nhạc cụ, đồng bào dân tộc Thái có các loại pí (pí pặp, pí thiu, pí tam lay...), khèn bè, tính tảu,
trống, chiêng. Bà con dân tộc Mông có các loại sáo, khèn, đàn môi. Dân tộc Khơ mú có cọng
linh, chiêng khỉ, hưn mạy, tăng bẳng. Người Mường có pí lè, trống, thanh la, chũm chọe. Người Dao có chuông, tù và...
Về loại hình dân ca cũng rất phong phú và đa dạng, như: Các bài khắp, hát đối đáp giao duyên,
hạn khuống của đồng bào Thái; hát ru, hát than thân của dân tộc Mông, hay các làn điệu páo
dung của người Dao... Tuy có sự khác biệt về giai điệu, ca từ, hình thức diễn sướng thể hiện, thế
nhưng các làn điệu dân ca đều mang nội dung hướng tới những giá trị tốt đẹp, đề cao tinh thần
lao động, sáng tạo, lẽ sống, ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với thiên
nhiên, ca ngợi tình yêu, vẻ đẹp quê hương, làng bản... Âm nhạc dân gian các dân tộc không chỉ
có giá trị nghệ thuật, mà còn là động lực giúp người dân thêm yêu cuộc sống, hăng say lao động
sản xuất, xây dựng quê hương.
2.2. Tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng dân gian đóng vai trò quan trọng trong đời sống dân tộc Việt Nam, thể hiện bản sắc
văn hóa, tâm linh và lòng tôn kính đối với các thế lực siêu nhiên, tổ tiên, thần thánh. Đối với
người Gia Rai, tang lễ là một sự kiện trọng đại với nhiều nghi lễ phức tạp và tốn kém. Người Gia
Rai quan niệm, cái chết không phải là hết mà đó là sự tái sinh, đầu thai làm kiếp khác, đó là sự
chuyển đổi trạng thái của một thực thể. Trong đó, ý niệm về sự sinh thành hay là sự tái sinh được
biểu hiện rõ ràng và thống nhất trong Lễ bỏ mả.
Người Gia Rai làm Lễ bỏ mả được tiến hành ba bước theo tuần tự, cụ thể: Dựng nhà mả, nghi lễ
tiễn đưa linh hồn người mất về với thế giới Atâu, nghi lễ giải phóng cho người sống. Nhà mồ
được bao bằng một hàng rào tượng, được đẽo và tạc bằng rìu, đục và dao. Những tượng trai gái
giao hoan, phô ra bộ phận sinh dục và tượng phụ nữ mang thai liên quan đến sự sinh sôi. Mái
nhà lợp gỗ ván và được phủ một lớp phên nan tre có trang trí nhiều hình vẽ bằng phẩm màu đỏ tự
chế tác theo lối cổ truyền. Những hình tạc trên nóc mô tả chủ yếu sinh hoạt lễ bỏ mả.
Nhà mồ được coi là dành cho người chết ở thế giới bên kia. Bên trong nhà có nhiều bát, đĩa, chai,
chén và mô hình dụng cụ lao động, là những đồ dùng cho người quá cố. Người Gia-rai làm nhà
mồ đẹp chỉ để phục vụ lễ bỏ mả. Nghi lễ diễn ra trong vài ba ngày, sau đó, toàn bộ nhà mồ cùng
với tượng và các trang trí... bỏ hoang, hư hỏng dần theo năm tháng.
Ngược lại, nổi bật trong tín ngưỡng dân gian của người Hoa là thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ,
thờ cúng các vị thần phù hộ (thần bếp, thổ địa, thần tài...) và một số vị thánh và bồ tát (Quan
Công, bà Thiên Hậu, ông Bổn, Nam Hải Quan Âm...) Vào những ngày Tết, người Hoa tiến hành
nghi lễ cúng ông bà, tổ tiên và các vị thần, thánh nêu trên. Thông thường sẽ tiến hành cúng bàn
thờ Thiên trước, sau đó cúng tổ tiên, tiếp đến là ông Địa, sau cùng là Môn thần. Không chỉ thứ tự
mà cả mâm cúng cũng khác nhau, như số lượng chén cơm, rượu, trà (tùy phong tục mỗi gia đình).
Các ngày lễ Tết thường diễn ra nhiều sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và văn hóa cổ truyền của
người Hoa. Múa lân là một trong những sinh hoạt văn hóa-nghệ thuật nổi bật. Con lân được làm
bằng giấy bồi với vải và sợi trên khung tre đan; thường có hai loại mặt vàng, mặt đỏ và mặt đen,
Mỗi con lân thường do hai người múa. Trong múa lân thường xuất hiện hình tượng ông Địa
(được xem là hiện thân của Đức Phật Di Lặc), mặc áo dài, tay cầm quạt phe phẩy, xoa đầu lân, sư
tạo nhịp cho múa lân. Ông Địa đi đến đâu khuôn măt lúc nào cũng tươi cười hiền lành nḥ ằm
mang phúc lộc đến cho nơi đó. Bởi người Hoa quan niệm, dùng lân múa có thể xua đuổi được tà
ma, còn ông Địa sẽ mang điềm lành đến cho nhân gian. 2.3. Tôn giáo
Việt Nam là quốc gia gồm nhiều dân tộc và cũng là quốc gia đa tôn giáo. Mỗi dân tộc có đặc
trưng riêng và tôn giáo cũng vậy, có quá trình hình thành, du nhập, số lượng, vai trò xã hội và
đặc điểm khác nhau. Tôn giáo truyền vào vùng dân tộc thiểu số khá sớm, nhiều nơi đã trở thành
một phần tất yếu, một bộ phận trong xã hội của vùng.
Nói đến người Khmer ở khu vực Tây Nam bộ là nói đến Phật giáo Nam tông. Hệ phái này được
người Khmer đón nhận và phát triển thành tôn giáo chính từ mấy trăm năm qua. Trong tâm thức
của người Khmer, đức Phật là hình mẫu của sự giác ngộ, là người dẫn dắt con người thoát khỏi
khổ đau và tìm đến sự an lạc. Các nghi lễ Phật giáo được tổ chức trong các dịp lễ hội lớn, như Lễ
Phật đản, Lễ Vu Lan hay lễ hội dâng y, không chỉ là dịp để bày tỏ lòng thành kính với đức Phật
mà còn là cơ hội để cộng đồng đoàn tụ, thắt chặt tình cảm.
Mặt khác, tôn giáo chính của cộng đồng người người Chăm là đạo Bà La Môn. Trong đó, Po Inư
Nưgar là một vị thần tối thượng sinh ra mọi thứ từ vũ trụ đến đất đai, cây cối, lúa gạo và cả con
người. Bà lại là nữ thần Mẹ của xứ sở che chở con người Chăm và giúp họ tồn tại với chức năng
là nữ thần nông nghiệp bởi đó là ngành kinh tế chính của họ từ trước đến nay. Do vậy đối với
người Chăm, Po Inư Nưgar là vị thần tối thượng toàn năng, là đấng sáng tạo, là đấng bảo vệ, là
đấng hủy diệt những điều xấu, điều ác. Chính vì thế mà trong hầu hết các nghi lễ, Nữ thần Po Inư
Nưgar luôn được người Chăm cầu xin ban phước và bảo vệ.
Với đại đa số các DTTS khác ở Việt Nam, họ đều có truyền thống tín ngưỡng đa thần, thờ cúng
rất nhiều các vị thần linh khác nhau. III. Kết luận
Có thể thấy, bản sắc văn hóa dân tộc, hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng đã ăn sâu, bám rễ,
hòa quyện trong đời sống người dân. Sự kết hợp giữa tín ngưỡng với bản sắc văn hóa dân gian
giúp con người giải tỏa những lo lắng trong cuộc sống, mang lại niềm tin vào tương lai; là dịp để
mọi người sum họp, chia sẻ và gắn kết tình làng nghĩa xóm. Không chỉ là sự thể hiện của niềm
tin tôn giáo mà còn phản ánh bề dày văn hóa và giá trị tinh thần của dân tộc. Đây là một phần
không thể thiếu trong việc gìn giữ bản sắc và truyền thống văn hóa Việt Nam và cũng là một
tiềm năng lớn cho sự phát triển văn hóa nói riêng và kinh tế - xã hội của đất nước nói chung.
Phụ lục ảnh minh chứng