lOMoARcPSD| 59062190
MỤ ỤC L C
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................................2
2. Lịch sử nghiên cứu............................................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................................................4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu........................................................................................................5
4.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................................................5
4.2. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................................................5
5. Giá trị khoa học và thực tiễn............................................................................................................5
6. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................................5
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp.............................................................................................5
6.2. Phương so sánh – đối chiếu........................................................................................................6
7. Bố cục của tiểu luận..........................................................................................................................6
NỘI DUNG............................................................................................................................................7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG..............................................................................7
1.1. Cơ sở lí luận................................................................................................................................7
1.1.1. Một số điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.........................................................7
1.1.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV......................................................................7
1.1.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVIII.................................................................7
1.1.1.3. Giai đoạn từ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX...................................................................8
1.1.1.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.......................................................................................8
1.1.2. Vài nét về nền văn hóa Việt Nam.........................................................................................9
1.2. Trần Nho Thìn – nhà Nho “hay chữ nhất nước Nam”..........................................................10
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Trần Nho
Thìn.......................................................................10
1.2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của Trần Nho Thìn......................................11
1.3. Một số điểm nổi bật công trình Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần
Nho Thìn).........................................................................................................................................12
1.3.2. Các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam được tác giả tiếp cận và giải quyết theo cơ sở
văn hóa học...................................................................................................................................12
1.3.3. Bước đầu về việc tiếp cận văn học bằng phương pháp văn hóa học.................................13
lOMoARcPSD| 59062190
Chương 2: NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA (TRẦN NHO THÌN)..............................................................................................15
2.1. Hệ quy chiếu văn hoá học dưới góc nhìn của Trần Nho Thìn...............................................15
2.1.1. Quan niệm văn hóa và văn hóa học...................................................................................15
2.1.2. Các kiểu hình tượng xã hội và không gian trong văn học................................................16
2.1.3. Ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn học trung đại đến văn học hiện đại.............................20
2.2. Cách nhìn nhận từ hoàn cảnh xã hội - tiền đề văn hóa..........................................................21
2.3. Những đóng góp lớn về sự nghiệp chính trị Việt Nam...........................................................23
2.4. Quan niệm văn học trung đại - quan niệm đề cao thân và tâm triết lý - tôn giáo................26
Chương 3: NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN
VĂN HÓA ( TRẦN NHO THÌN)........................................................................................................31
3.1. Việc thể hiện sự đổi mới và tiến bộ trong văn học vẫn còn hạn chế......................................31
3.1.1. Hạn chế trong việc thể hiện vai trò và giá trị của phụ nữ trong văn học trung đại Việt
Nam...............................................................................................................................................33
3.1.2. Văn hoá chưa được khai thác triệt để................................................................................34
3.1.3. Phương pháp nghiên cứu còn sơ sài..................................................................................36
3.2. Giai cấp xã hội khác nhau trong văn học trung đại Việt Nam thiếu cân đối.......................38
3.2.1 Sự chênh lệch của các tầng lớp xã hội...............................................................................38
3.2.2. Mối quan hệ không mấy thuận lợi giữa nhà nho với làng xã...........................................39
3.3. Nguồn tài liệu và tham khảo còn hạn chế...............................................................................42
3.4. Đánh giá chủ quan của tác giả.................................................................................................45
KẾT LUẬN..........................................................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................49
lOMoARcPSD| 59062190
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học trung đại Việt Nam, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học
nước nhà, kéo dài từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX. Giai đoạn này bao gồm nhiều biến
động lịch sử và văn hóa, với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tưởng Nho giáo, Phật giáo
Đạo giáo. Không chỉ phản ánh tinh thần u ớc, tôn vinh đạo đức triết nhân
sinh mà còn là tiếng nói phê phán xã hội, đồng cảm với những số phận con người trong
hội phong kiến. Những nền móng vững chắc của văn học dân tộc được xây dựng
gìn giữ ngót mười thế kỉ là một tài sản hết sức quý báu đối với các thời kì phát triển tiếp
sau của kiến trúc thượng tầng xã hội..
1.2. vậy, vẫn còn không ít những khía cạnh của văn học trung đại làm cho
chúng ta băn khoăn hoài nghi. Để góp phần rút ngắn con đường đi đến sự thật để giải
triệt để các vấn đề ởng như nan giải thời văn học y để lại các nhà văn, nhà
nghiên cứu đã những nhận định, đóng góp hết sức quan trọng về nền văn học này.
Những người có những đóng góp quan trọng đó là: Trần Đình Sử, Nguyễn Đình Chú, Lê
Chí Viễn, Trần Thị Băng Thanh… Và không thể không kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn ông đã đóng góp rất nhiều trong việc nghiên cứu và giảng dạy về văn học
trung đại Việt Nam. Ông xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu về c nhà n, nhà thơ
nổi tiếng trong giai đoạn này như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, HXuân Hương, nhiều
tác giả khác. Và đặc biệt, tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn n hóa
của Trần Nho Thìn một công trình nghiên cứu giá trị trong việc hiểu biết u sắc
hơn về văn học trung đại Việt Nam qua lăng kính văn hóa. Tác phẩm tập trung vào việc
phân tích các tác phẩm văn học trung đại từc độ văn hóa, giúp làm nổi bật các giá trị
văn hóa, tư tưởng, và nghệ thuật của thời kỳ này. Tác phẩm cũng cho thấy sự ảnh hưởng
qua lại giữa văn học các yếu tố n hóa, cho thấy cách văn học phản ánh góp
phần vào sự hình thành và phát triển văn hóa dân tộc.Từ đó, giúp độc giả một cách nhìn
nhận mới mẻ, toàn diện và sâu sắc hơn về giá trị văn học trung đại, không chỉ từ góc độ
văn học mà còn từ góc độ văn hóa.
lOMoARcPSD| 59062190
những do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài những thành công hạn
chế của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn)
để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Theo bài viết Văn học Việt Nam từ góc nhìn văn hóa của La Sơn đã đề cập đến ba
yếu tố của tác phẩm. Đầu tiên là phương pháp tiếp cận văn học: Nhấn mạnh định hướng
tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học, phác thảo tính hệ thống tiến trình văn
học trung đại Việt Nam như bước tiến đồng hành với quá trình vận động, phát triển
của nền văn hóa dân tộc. Tiếp theo là hthống hóa nghiên cứu tác phẩm tập hợp nhiều
nghiên cứu chi tiết về văn học trung đại, từ lý luận đến thực hành, nhấn mạnh vai trò của
“cái tôi” tác giả phản ánh hội trong n chương nhà nho, La n đã chỉ ra rằng:
Khi đi vào phân tích, lý giải các tác gia, tác phẩm, hiện tượng văn học cụ thể, Trần Nho
Thìn thường xây dựng các điểm tựa chắc chắn trên sở một luận đề thuyết, một hệ
thống chứng cứ, một mối quan hệ xác thực, nói sách, mách chứng”. yếu tố
cuối cùng nhận định về nhân vật văn học, La Sơn đã phân biệt giữa hai loại văn chương
nhà nho, một loại tập trung vào tả nhân vật với chân dung cụ thể, một loại khác
chủ yếu bình luận về nhân vật lịch sử: Văn chương nhà nho viết vcon người có hai loại.
Trước hết và đáng chú ý hơn cả mảng sáng tác trong đó con người được thể hiện
cấp độ nhân vật văn học. đây nhà nho tả, xây dựng con người theo hướng khắc
hoạ các nhân vật… trong phần văn chương viết về con người còn lại của nhà nho, ta
không thấy nhà nho miêu tả, khắc hoạ con người với chân dung hay tính cách cụ thể.
đây, mặc con người đối tượng bình luận, đánh giá, nguồn khơi gợi cảm hứng
sáng tác nhưng lại không được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học.
Theo công trình nghiên cứu Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa – một số xu
hướng chính Việt Nam, Phùng Phương Nga đã đề cập về bốn hình thức nghiên cứu văn
học từ góc nhìn văn a đã từng tồn tại trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam.
nghiên cứu văn học từ hoàn cảnh hội, tiền đề n hóa Phùng Phương Nga đã nhận
định rằng: Tu biểu là Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn.
lOMoARcPSD| 59062190
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu giải thích thành tựu của văn học trung đại từ bức tranh
văn hóa lịch sử; nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đã nghiên cứu về mẫu nhà nho tài tử
trong văn học trung đại; nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng sự kiện văn hóa quá
khứ ý nghĩa lớn trong việc giải n học trung đại vì khi đó "khả năng suy diễn,
khả năng hiện đại hóa thể được giảm thiểu chúng ta càng nhiều cơ may đến
gần sự thật lịch sử văn học. Phùng Phương Nga cũng nhận định phương pháp nghiên
cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là một trong những những công trình có ý nghĩa to lớn
trong viêc xây nền móng, tạo đà cho một cú hích lớn trong tình hình nghiên cứu văn học
của nước nhà.
Nguyễn Hữu Tình trong i viết Tích hợp văn hóa Phương pháp tiếp cận tác
phẩm n học sáng tạo nhận định rằng việc tích hợp văn hóa vào nghiên cứu văn học
mang lại nhiều hiểu biết sâu sắc về tác phẩm. Phương pháp này xem t các yếu tvăn
hóa như ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục tổ chức hội, giúp m rõ mối quan hệ
giữa văn học bối cảnh n hóa. Công trình của Trần Nho Thìn về văn học trung đại
Việt Nam cũng được đánh giá cao trong việc ứng dụng phương pháp tiếp cận này để
phân tích văn học qua các thời kỳ khác nhau: Công trình Văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn cũng trên nền tảng văn hóa trong đó tác phẩm
ra đời… chẳng những thích hợp cho n học trung đại… còn thể vận dụng phương
pháp tiếp cận này để phân tích sáng tác văn học ở các nền văn học hay các thời đại văn
học khác. Một sự nghiên cứu so sánh văn học trung đại văn học hiện đại thể cho
chúng ta thấy về khả năng này.
Nhóm chúng tôi nhận thấy hầu như các công trình nghiên cứu chưa đi sâu vào
khai thác những thành công hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam ới góc nhìn
văn hóa (Trần Nho Thìn) một cách toàn diện, hệ thống. thế, đề tài nhóm chúng tôi
quyết định chọn là một đề tài đảm bảo mang tính khoa học.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu những thành công hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn).
Để hoàn thành bài tập cuối kì môn các xu hướng nghiên cứu văn học Việt Nam.
lOMoARcPSD| 59062190
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần
Nho Thìn (2007), NXB Giáo dục.
Tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần
Nho Thìn (2003), NXB Giáo dục.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là những yếu tố làm nên thành công và hạn chế của tác phẩm
Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa bao gồm:
Thành công: Phân tích sâu rộng góc nhìn mới mẻ, tài liệu phong phú, kết hợp
luận văn học văn hóa.
Hạn chế: Khó tiếp cận đối với người đọc phổ thông thiếu sự so sánh quốc tế, giới
hạn về tư liệu, tính phê bình chưa cao.
5. Giá trị khoa học và thực tiễn
Kết quả của công trình nghiên cứu sẽ góp phần làm về những thành công
hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn). Từ đó
góp phần khẳng định i năng cũng như những đóng góp vị trí của ông trong nền
văn học trung đại Việt Nam.
Giúp người nghiên cứu củng cvận dụng các kiến thức văn học đã được tiếp
thu để nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
phương pháp này, chúng tôi đi xem xét, đánh giá, lựa chọn những nguồn tài liệu
giá trị đáng tin cậy, để từ đó thể phân tích các vấn đề liên quan đến những thành
công hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa những vấn
đề về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả. Thông qua những đã phân tích, chúng tôi sẽ
tổng hợp lại những thành công hạn chế của tác phẩm cũng như nêu rõ tầm quan trọng
của tác phẩm trong việc nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam.
lOMoARcPSD| 59062190
6.2. Phương so sánh – đối chiếu
So sánh tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của Trần
Nho Thìn với các công trình nghiên cứu khác đề tài về văn học trung đại như Trần
Đình Sử, Đỗ Lai Thúy... Trong đó, chúng tôi sẽ tiến hành so nh các tác phẩm, suy luận,
nhận xét, đánh giá, phán đoán về các đặc điểm của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc
nhìn văn hóa để từ đó nhận thấy được những thành công hạn chế của tác phẩm nói
riêng cái nhìn toàn diện về tác phẩm trong sự liên hệ với các nghiên cứu về n
học trung đại Việt Nam nói chung.
7. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung tiểu luận gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung
Chương 2: Những thành công của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa (Trần Nho Thìn).
Chương 3: Những hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa
(Trần Nho Thìn)
NỘI DUNG
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam
Văn học thời trung đại bao gồm những sáng tác, trước tác bằng chữ Hán chữ
Nôm của các tác giả thuộc tầng lớp quí tộc, sĩ phu phong kiến. Văn học phát triển trong
tiến trình xây dụng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ qua các triều đại phong
kiến ở Việt Nam” [5, tr.10].
1.1.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV
giai đoạn này, văn học trung đại Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh lịch sử
đặc biệt. Đó là dân tộc ta vừa giành được quyền độc lập từ chủ vào giữa thế kỷ X và lập
lOMoARcPSD| 59062190
nhiều kỳ tích trong các cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lượcthế kỷ XI XII
chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII. Sau những cuộc chiến tranh vệ quốc công
cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình. Chế độ phong kiến Việt Nam đang ở thời kì ổn
định và phát triển.
Văn học giai đoạn này những ớc ngoặt lớn như văn học viết ra đời thế
kỷ X (bài thơ sớm nhất là bài Quốc Tộ Đỗ Pháp Thuận), tiếp đó sự xuất hiện của văn
học chữ Nôm thế kỷ XIII. Đây chính ớc ngoặt mở ra sự phát triển mạnh mẽ của
văn học dân tộc.
1.1.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVIII
Đây là thời kỳ mà nhân dân ta tiếp tục lập n những chiến công trong cuộc kháng
chiến chống Minh ở thế kỷ XV, đưa chế độ phong kiến Việt Nam đạt đến cực thịnh dưới
triều đại Lê Thánh Tông ở cuối thế kỷ đó. Bước sang thế kỷ XVI, chế độ phong kiến có
những biểu hiện khủng hoảng dẫn đến những cuộc nội chiến đất nước bị chia cắt
nhưng nhìn chung tình hình xã hội vẫn tạm thời ổn định. Văn học giai đoạn này có bước
phát triển mới, trong đó nổi bật nhất những thành tựu nghệ thuật của văn học chữ Nôm
(tiêu biểu Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông; Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi; Bạch vân quốc ngthi của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Thiên Nam ngữ lục; c truyện
Nôm…). Hiện tượng văn sử triết bất phân khá đậm trong văn học – Trần đã mờ
dần từ thế kỷ XV, khi xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm giàu chất văn chương hình
tượng.
1.1.1.3. Giai đoạn từ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Văn học giai đoạn này phát triển trong hoàn cảnh đất ớc nhiều biến động bởi
nội chiến phong kiến dấn đến sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và bão
táp của phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Khởi nghĩa
Tây Sơn cùng lúc lật đcác tập đoàn phong kiến thống trị trong ớc cả đàng Trong
đàng Ngoài., đánh tan ngoại xâm phía Nam phía Bắc. Nhưng phong trào y
Sơn suy yếu thất bại. Triều Nguyễn thống nhất đất nước thiết lập một chế độ phong
kiến quan liêu mới đất nước đứng trước hiểm họa xâm lăng của chủ nghĩa thực dân
Pháp.
lOMoARcPSD| 59062190
giai đoạn này, văn học phát biểu vượt bậc, có nhiều đỉnh cao nghệ thuật (Chinh
phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn Đoàn Thị Điểm; Cung oán ngâm khúc của Nguyễn
Gia Thiều; Truyện Kiều của Nguyễn Du; thơ Nôm của Hồ Xuân Hương; Thượng kinh ký
sự của Lê Hữu Trác…). Đây là giai đoạn rực rỡ nhất củan học trung đại Việt Nam
vừa phong phú về mặt nội dung, vừa đa dạng về hình thức nghệ thuật. Đây cũng
thời kì mà lần đầu tiên các thể loại văn học dân tộc ra đời như:
Ngâm khúc; Truyện Nôm; Thơ ca trù – hát nói…
1.1.1.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng xâm lược đầu tiên vào cảng Đà Nẵng
từng bước xâm lược Việt Nam. Nhân dân cả nước kiên cường đứng lên chống giặc ngoại
xâm, nhưng rồi đất ớc dần rơi vào tay giặc cuối cùng trở thành thuộc địa của thực
dân Pháp. hội Việt Nam chuyển dần từ hội phong kiến sang hội thực dân nửa
phong kiến.Văn hóa Nho giáo truyền thống ngày bị mai một, văn hóa phương Tây bắt
đầu có những ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam.
Văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX phát triển rất phong phú nhìn chung
mang âm hưởng bi tráng. giai đoạn văn học y, chữ Quốc ngữ bắt đầu xuất hiện,
nhưng văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm vẫn chính. Sáng tác văn học chủ yếu vẫn
theo thể loại và thi pháp truyền thống. Tuy nhiên sự xuất hiện một số tác phẩm văn xuôi
viết bằng chữ quốc ngữ đã bước đầu đem đến cho văn học những nét mới theo xu hướng
hiện đại hóa.
1.1.2. Vài nét về nền văn hóa Việt Nam
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, văn hóa ngày càng khẳng định được
vị thế, nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa từ quần chúng nhân dân không chỉ
tham gia vào quá trình thưởng thức mà còn sáng tạo văn hóa.
Trần Ngọc Thêm đã u quan điểm của mình về khái niệm văn hóa như sau: Văn
hóa một hệ thống hữu các giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên xã hội” [7]. Ông cho rằng tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau,
lOMoARcPSD| 59062190
nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính:
theo nghĩa hẹp theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều
sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều
sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng
lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, n hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá
được dùng đchỉ những giá trđặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn h
Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng
giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông n…). Theo nghĩa rộng, văn hoá thường
được xem là bao gồm tất cả những do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh
đã viết: lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, ngh
thuật, những công ccho sinh hoạt hằng ngày văn, mặc, các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo phát minh đó tức văn hóa. Văn hóa sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống đòi hỏi của sự sinh tồn[7]. Theo Đại từ
điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo
xuất bản năm 1998: văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra
trong lịch sử. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: Đối với một số
người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực duy sáng
tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những làm cho dân tộc y
khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục tập quán, lối sống lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970
tại Venise”[7]. Những nét này đã tạo nên sự độc đáo và đặc trưng cho văn hóa Việt Nam,
phản ánh lịch sử tinh thần của người dân trong ng nghìn năm dựng nước giữ
nước. 1.2. Trần Nho Thìn – nhà Nho “hay chữ nhất nước Nam”
Trần Nho Thìn là người có sự hiểu biết sâu sắc nghiêm cẩn của một nhà nghiên
cứu hành đầu về văn học Trung đại Việt Nam. Trần Nho Thìn nhất quán chọn hướng tiếp
lOMoARcPSD| 59062190
cận văn hóa, lấy con người làm đối tượng trung tâm cho sự nghiệp nghiên cứu văn học.
Đây là một lựa chọn rất có ý nghĩa, góp phần làm cân bằng môi trường nghiên cứu p
bình nước ta, khi thì nghiêng về tính giai cấp, lúc lại nghiêng về tính hình thức xem
nhẹ môi trường văn hóa xã hội, ông đã thuyết phục người đọc rằng luận điểm nói đến
văn hóa là nói đến con người. Sáng tác của ông biểu hiện vai trò dấu nối của hai thời
đại, hai nền văn học cũ và mới. Ông xuất thân từ một nhà nho, thông thạo lối văn cử tử,
từng được mệnh danh “hay chữ nhất nước Nam”.
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Trần Nho Thìn
Trần Nho Thìn đã sử dụng phương pháp tiếp cận tác phẩm từ quan điểm văn hóa
học để giải các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng,
đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong không gian
và thời gian. Phương pháp này ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong
đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo,
đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người trong đời sống sinh hoạt
hội sống động hiện thực… từng tồn tại trong một không gian văn hóa c định đối
với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn
ngữ,…
1.2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của Trần Nho Thìn
Trần Nho Thìn bảo vệ Phó tiến n học năm 1989 tại Viện Đông phương học,
Viện n lâm khoa học Liên Xô với đề tài Quan niệm của nho giáo về nhân cách sáng
tác của Nguyễn Du, được Nhà xuất bản của Viện hàn lâm ấy in thành sách. Năm 2004,
Trần Nho Thìn được phong Phó giáo sư. Ông được biết đến là một chuyên gia hàng đầu
về văn học Trung đại Việt Nam, ông sự hiểu biết sâu sắc và nghiêm cẩn của nhà nghiên
cứu văn học. Cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa được in các lần
năm 2003-2007-2009. Cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỷ thX đến hết thế kXIX, in năm
2012 với 700 trang như bách khoa vvăn học trung đại. Gần đây nhất Phương pháp
tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học được in vào năm 2017. Năm 2007, Trần Nho
Thìn chủ biên Truyện Kiều - Khảo dị - Chú thích và bình luận. Ông dày công nhìn lại
200 năm hành trình của Truyện Kiều từ chỗ bản thảo viết tay đến khi được khắc bản in
lOMoARcPSD| 59062190
rồi phổ biến bằng chữ quốc ngữ. Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng
dạy văn học như một công trình đi trước phục vụ Hội nghị văn hóa toàn quốc năm
2021. Ngoài ra còn nhiều công trình như Từ điển văn học (viết chung với người khác),
2 tập, Nxb Khoa học hội, năm 1983; Về con người nhân trong văn học cổ Việt
Nam (viết chung), Nxb Giáo dục, năm 1997, 2010; Nguyễn Du quan niệm của nho
giáo về nhân cách (dịch từ tiếng Nga), Nxb Khoa học, Nauka.M, năm 1989; Nguyễn
Công Trứ về tác gia, tác phẩm (tuyển viết giới thiệu), Nxb Giáo dục, năm 2003;
Tuyển tập công trình về Văn học nghệ thuật Thăng Long Nội (chủ biên), Nxb Hà Nội,
năm 2010. Ngoài ra, ông còn có các dịch thuật và bài báo về văn họcvăn hóa Ý thức
về nền văn hiến dân tộc - một bộ phận cấu thành của ý thức độc lập dân tộc, Tạp c
Văn học, số 1/ 1980, tr. 97-105 hay Hiện tượng vay mượn cốt truyện các truyện Nôm
bác học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIIInửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Văn học, số 1/1983,
tr. 100-113… Ông là một trong những học giả có ảnh hưởng đối với nghiên cứu văn học
trung đại tại Việt Nam.
1.3. Một số điểm nổi bật công trình n học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa (Trần Nho Thìn)
Trần Nho Thìn đã hệ thống lại các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam, xem
đó là một dòng chảy liên tục, vận động và phát triển hết sức đa dạng. Sau đó, ông đưa ra
những quan niệm học thuật về phương pháp văn hóa mới mẻ. Các vấn đề phương pháp
luận mà ông nêu ra ở phần này chính là tinh thần của toàn bộ quyển sách. Tính chất học
thuật luôn rào cản cho những cho những độc giả ham hiểu biết song trình độ nhận thức
có giới hạn, đối với quyển sách này cũng không ngoại lệ. Tuy vậy trong quyển sách này,
tác giả đã trình bày các vấn đề học thuật mạch lạcrõ ràng. Điều mới mẻ trong quyển
sách chính hệ thống luận đã được tập hợp lại đứng riêng lẻ thành một phần độc
lập trong toàn bộ chỉnh thể quyển sách.
1.3.2. Các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam được tác giả tiếp cận và giải quyết
theo cơ sở văn hóa học
Riêng trường hợp Truyện Kiều của Nguyễn Du, Trần Nho Thìn đã dành nhiều
công sức để nhìn nhận đánh giá lại theo quan điểm của mình. Ông lập luận các vấn
lOMoARcPSD| 59062190
đề một cách khách quan không phủ nhận những đóng góp của c công trình khác.
Trái lại, ông qua nền tảng của mấy trăm năm tiếp nhận Truyện Kiều phát ngôn
thuyết của mình. Tính kế thừa của quyển sách này không thể phủ nhận. Nhưng cái
chính yếu làmn giá trị của công trình này là ở khía cạnh đề xuất nêu lên những
tưởng tiến bộ. Trong phần nói về Truyện Kiều, Trần Nho Thìn viết rằng phương pháp
phân tích khi áp dụng cho Truyện Kiều không thích hợp với mọi góc độ của tác phẩm.
Ông lấy dphân tích vấn đề tưởng triết học Truyện Kiều. Thực tế thì khái niệm
ởng n giáo không được dùng đúng với nghĩa kinh điển của , nhiều trường
hợp Nguyễn Du phải đứng trên lập trường của văn hóa dân gian để có thể hiểu các khái
niệm tưởng tôn giáo ngoại lai. Đây một trong những phát hiện rất đáng trân trọng
của tác giả. Bởi lẽ trên thực tế, văn bản Truyện Kiều cùng với các điển tích điển cố đang
tạo ra một cuộc tranh luận chưa ngã ngũ của giới học thuật. Gtrị của Truyện Kiều
nguy cơ bị phương hại nếu không có được một đề xuất mang tính cách mạng.
Bằng góc độ văn hóa học, ông lật giở lại lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều qua các giai
đoạn lịch sử n học dân tộc, tiếp đó mạnh dạn đề xuất quan điểm của mình như một
phương diện mới để tiếp cận Truyện Kiều. Cũng trong phần này, tác giả còn bàn bạc các
vấn đề loại thể:Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại ttịch của Quý
Đôn Phan Huy Chú”. Vấn đề về quan niệm nhân sinh trong văn hóa trung đại như:
Bi kịch tinh thần của nhà Nho Việt Nam với tư cách là một nhân vật văn hóa” ; “Sự thể
hiện con người trong văn chương cổ”. Ngoài ra còn đề cập đến áng thiên cổ hùng n
Bình Ngô Đại Cáo ới ánh sáng của loại hình học văn hóa... Một điều dễ nhận thấy
rằng những tác phẩm, c giả vị tquan trọng trong giai đoạn văn học trung đại đều
được giới thiệu bằng những lát cắt độc đáo mang đầy tính của tác giả tính
được nhờ một vốn am hiểu sâu sắc và chuẩn mực.
1.3.3. Bước đầu về việc tiếp cận văn học bằng phương pháp văn hóa học
Giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX lại hiện lên hết sức sinh động. Bằng
cách so sánh đối chiếu giữa hai cặp khái niệm cũ mới, trên sở đặc trưng văn hóa,
Trần Nho Thìn đã vạch ra được hàng loạt vấn đề về giai đoạn giao thời cực kì nhạy cảm
của văn học nước ta, giai đoạn cái dần lùi lại để cái mới tiến lên. Như đã biết trong
lOMoARcPSD| 59062190
thời kì này, Việt Nam đã du nhập rất nhiều các hệ tuởng mới, và thật bất ngờ, việc
khảo sát sự hình thành, vận động và phát triển của từng tưởng chỉ có thể chính xác khi
áp dụng phương pháp văn hóa học. Như vậy, phương pháp của tác giả đề xuất không
dừng lại ở một sự thể nghiệm đơn nhất, mà còn là một mong muốn mở rộng đường biên
ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn hóa học sang các lĩnh vực khác. Bằng tâm thức của một
nhà khoa học muốn truy tìm chân giá trị, Trần Nho Thìn đã nhận định về n học Việt
Nam giai đoạn 1900 – 1930 rằng thơ Việt Nam từ 1900 đến 1932 trong bối cảnh hiện tại
một ý nghĩa thực tiễn to lớn. Lịch sử mọi thay đổi đều cần có một tương quan văn hóa
cần thiết làm nền tảng, khi đến lượt nó, nền tảng văn hóa lại được trên nền tảng của
kinh tế hội. Khi căn bản văn hóa tâm linh nông nghiệp đang vẫn chủ đạo trong m
thức người Việt Nam thì vẫn cần có sự dung hòa giữa thơ truyền thống và thơ mới cách
tân. Không thể nôn nóng sáng tạo cái đó mới không hợp quy luật. Có thể thấy cách
nhìn ấy phản ánh trung thực một hiện thực có thật của lịch sử văn học dân tộc hơn thế
còn khẳng định tiềm năng to lớn của một lí thuyết phương pháp khoa học.
TIỂU KẾT
thể thấy, văn học trung đại Việt Nam không chỉ phản ánh những khía cạnh
chính trị, hội, n giáo của thời đại còn một bức tranh đa dạng về văn hóa,
tâm lý, triết sống của người Việt Nam xưa. phát triển gắn chặt với lịch sử dân
tộc cũng như phát triển trong sự giao lưu văn hóa, văn học nước ngoài theo một quy luật
tiếp nhận vững chắc sáng tạo. Trần Nho Thìn đã tìm được cho mình một hướng đi
riêng trong việc tiếp cận phản ánh văn học trung đại dưới góc nhìn văn hóa qua những
yếu tố ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác cùng quan niệm nghệ thuật của ông. Bên cạnh
đó, chương 1 cũng nêu rõ những điểm nổi bật của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa để bước đầu cái nhìn tổng thể khách quan hơn, từ đó
hướng đi đúng đắn cho việc tìm hiểu thành công hạn chế của tác phẩm. Với những
nội dung nêu trên, chương 1 sẽ tạo tiền đề làm sở vững chắc cho việc đi sâu tìm
hiểu thành công và hạn chế của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa ở hai chương sau.
lOMoARcPSD| 59062190
Chương 2
NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA (TRẦN NHO THÌN)
Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần Nho Thìn
một công trình lớn, có những nghiên cứu giá trị, đã đóng góp quan trọng trong việc
nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam từ góc độ văn hóa. Và điều đó góp phần tạo nên
những thành tựu mà tác giả đã đạt được trong tác phẩm của mình. Những thành công đó
không chỉ phản ánh chân thực hội, cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ, còn
đóng góp quan trọng trong việc củng cố phát triển quan niệm về văn học, văn hóa Việt
Nam. Dưới đây là một số thành công dựa trên việc phân tích tác phẩm nghiên cứu:
2.1. Hệ quy chiếu văn hoá học dưới góc nhìn của Trần Nho Thìn
2.1.1. Quan niệm văn hóa và văn hóa học
Theo Trần Nho Thìn, văn hóa là một khái niệm phức tạp, mang nội hàm rộng
khó có một khái niệm, định nghĩa nào có thể bao quát hết được các phương diện của văn
hóa. Nó phụ thuộc vào từng góc độ mà người nghiên cứu muốn nhấn mạnh vào phương
diện nào thì văn hóa sẽ có định nghĩa đó. dụ khi phân tích văn hóa dưới góc độ một
hệ thống tôn giáo, sẽ khái niệm khác so với văn hóa dưới góc độ cuộc sống đời thường,
hay so với góc nhìn một hình thái trong xã hội. Tác giả cho biết ông không có ý định tìm
một khái niệm về n hóa nào cho riêng mình, thay vào đó ông đặc biệt ctrọng
đến các quan niệm khác nhau của chủ thể văn hóa, dựa vào các tài liệu, tưởng về
những hệ thống mang giá trị văn hóa như: triết học – đạo đức – tôn giáo, đặc biệt là các
ởng n giáo như Nho giáo Phật giáo Đạo giáo, để khái quát, nói về từng đặc
trưng riêng của văn hóa dân tộc Việt Nam. Chúng có thể khác nhau về tên gọi, khác nhau
về trình độ thuyết, nh khái quát, nhưng chúng đều điểm chung về loại hình học.
Một dđiển hình là khái niệm diễn tả nguyên thiết lập trật tự trong bước chuyển hóa
của hội loài người từ thời hoang dã, thời sống bằng cái con”, sống bằng bản
năng sang một mô hình xã hội có ý thức về nền văn hóa, văn minh. “Bất cứ dân tộc nào
bước chuyển này, cũng ý thức được cái bản năng xấu, nguồn gốc của mọi rối
lOMoARcPSD| 59062190
loạn, tội lỗi, do đó con người cần phải kiểm soát, hạn chế, tiêu diệt cái bản năng.[7,
tr.14].
Nói về văn hóa học, đó là một phương diện chủ yếu nghiên cứu những giá trị văn
hóa đã được cả một cộng đồng nhất định thừa nhận, đã được đúc kết qua những u châm
ngôn, tục ngữ, những kinh ngữ, những phong tục tập quán. Mỗi một yếu tố văn hóa trong
một hệ thống khác nhau. Những thuộc về chính trị, liên quan đến mặt thuyết
thường dễ bị thay đổi, còn những liên quan đến văn hóa, phong tục thì lại một sự
tồn tại dai dẳng, bền bỉ, có sự chi phối tinh vi, u sắc hơn, bởi chúng một sợi
dây liên kết hình, được truyền từ đời này sang đời khác. Như chúng ta đã biết, trong
lịch sử các triều đại Nho giáo ban hành lệnh cấm thcác loại “dâm thần”, những loại
thần có liên quan đến tín ngưỡng phồn thực, ngoại trừ và bài xích các tôn giáo khác, trừ
những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích. Nhưng lệnh cấm chỉ được
thực hiện khá hình thức, nhiều nơi, người ta phải đối phó với những cấm đoán bằng các
biện pháp trá hình khác để vẫn bảo lưu được tín ngưỡng phồn thực.” [7, tr.16]. Việc tiếp
cận văn hóa học không phải là một cái gì đó có sự khác biệt tuyệt đối so với các hướng
tiếp cận khác. Nó chú trọng phân tích văn hóa dựa trên phương diện lịch sử, vì vậy cũng
gần với hội học lịch sử. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận liên ngành, là nơi
yêu cầu vận dụng tổng hợp tri thức về lịch sử, tôn giáo, khảo cổ học, nhân loại học,… để
giải mã được các hiện tượng thi pháp có trong tác phẩm văn học.
Từ những phân tích của tác giả cho thấy việc phân tích văn học đồng thời đi u
vào nền tảng văn hóa có thể cho ta cái nhìn toàn diện hơn, giải hợp hơn những yếu
tố khác nhau của văn học, từ đề tài, chủ đề, các yếu tố thi pháp. Việc nhìn nhận văn học
trung đại từ hệ quy chiếu giúp độc giả có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm, từ đó đánh
giá đúng giá trị và tầm ảnh hưởng của nó đến văn học Việt Nam.
2.1.2. Các kiểu hình tượng xã hội và không gian trong văn học
Trong văn học Việt Nam, chúng ta ththấy các giá trị văn hóa có vai trò chi
phối hành vi, ch ứng xử của con người một cách phong phú, đồng thời cũng tính
lịch sử, nghĩa chúng thể thay đổi qua từng giai đoạn khác nhau. Sự tự giác đạo
đức của mỗi cá nhân khác nhau từ vua chúa, quan lại, địa chủ, cho đến thứ dân, nô lệ. Ở
lOMoARcPSD| 59062190
mỗi giai cấp sẽ có một phẩm chất, một trách nhiệm đạo đức khách nhau, điều y tạo
nên một hình thái trật tự hội. Trật tự đạo đức đem đến trật tvề hội, đem đến ý
niệm về thời thịnh trị, là đối tượng ca ngợi, còn tình trạng vô đạo bị phê phán, được xem
là nguyên nhân gây loạn.” [7, tr.25] Quan niệm về xã hội lí tưởng và thái độ phê phán
hội được thể hiện trong tác phẩm n học bằng những hình ợng riêng chkhông
đơn thuần dừng lại nơi những tuyên ngôn tưởng triết học hoặc chính trị.[7, tr.26].
Chính vì vậy Trần Nho Thìn cho rằng người nghiên cứu văn học phải quan tâm đến các
loại hình không gian xã hội được thể hiện trong tác phẩm văn học, để tìm ra được những
kiểu không gian tồn tại của con người, t đó làm rõ, cung cấp thêm cho người đọc v
cuộc sống của nhân vật trong các tác phẩm.
Theo c giả, trong văn học truyền thống mấy loại không gian đặc trưng sau:
Không gian lao động sản xuất như hình ảnh đồng ruộng, cày cấy, gieo mạ, thu hoạch, tát
ao, thiên tai, dịch bệnh, hạn hán, mưa lũ… Để so với văn học dân gian như ca dao, dân
ca thì trong văn học viết, đây một hình tượng không gian khá mờ nhạt, thường chỉ
mang trong mình tính chất n dụ, thể dùng để ám chỉ một không gian, một sự việc
nào đó, nói lên những tiêu cực trong xã hội, chứ không hẳn chỉ là tái hiện một hiện thực
lao động. “Ngư tiều canh mục chi là không gian ẩn dật thuần túy chứ không có tính chất
tái hiện hiện thực lao động. [7, tr.26]. Hay thơ của Nguyễn Phi Khanh là một ví dụ:
Mênh mông đồng lúa cỏ như thiêu, Ngoài
nội kêu than xiết nỗi sầu.
Dải đất non sông khô đến thế,
Từng trời mưa móc vắng làm sao!
Lưới tham quan lại vơ hầu kiệt.
Mạch sống dân gian cạn mỡ dầu.
Thơ mới này xin thay biểu tấu,
Vì đang nằm bệnh chửa về chầu.
Bài thơ không đi vào các chi tiết cụ thể phác họa một bức tranh toàn cảnh về thảm
cảnh của nông dân, cả thiên tai cả nhân họa. Dân điêu đứng hạn hán, khốn khổ
cảnh quan tham nhũng. Nguyễn Phi Khanh mượn thơ làm biểu tấu dâng n vua, cũng
lOMoARcPSD| 59062190
một típ vẽ tranh ng vua, mục đích không ngoài sự thông báo cho vua biết để kịp
thời chủ trương biện pháp cải thiện tình hình. [7, tr.132]. Qua những hình ảnh đồng
lúa cỏ như thiêu, dải đất non sông khô đến thế”, trời mưa móc vắngkhông khó để
nhận thấy rằng đây không chỉ những lời cảnh báo, nhắc nhcủa Nguyễn Phi Khanh
mà đây còn như là một lời trách móc, quy trách nhiệm cho vua, cho những vị quan lại về
cuộc sống hội, những nhà Nho, những nhân vật trí thức quan liêu, những kẻ vốn tự
cho mình người trách nhiệm với n với ớc, nhưng thực tế lại chẳng hề lo lắng
cho dân chút nào. Hay nói cách khác, thiên nhiên trong n học trung đại mang tính chất
ước lệ, tồn tại phụ thuộc vào con người, cái để con người nói n cảm xúc, ởng,
tình cảm, phản ánh của mình, được xem như một hình thức “tả cảnh ngụ tình”.
Đối với không gian văn hóa như lễ hội, đền chùa, đền thờ,… thì theo quan niệm
xưa, nhà chùa được coi nơi cư ngụ an toàn của con người trong xã hội loạn lạc, hình
ảnh của sự ẩn dật. Tác giả sử dụng hình ảnh “nàng Kiều” vừa thoát khỏi nhà Hoạn Thư,
trong lúc , đã rẽ ngay vào Chiêu ẩn an - ngôi chùa đầu tiên nàng nhìn thấy
của Giác Duyên, để m kiếm sự an toàn trong đó, tránh xa xã hội nơi “đất khách quê
người” đầy những bất trắc, nơi cách biệt với cuộc sống bên ngoài, nhưng cùng an yên.
Trần Nho Thìn đã sử dụng hình ảnh nàng Kiều trốn chạy với thực tế bên ngoài bằng cách
“rẽ” vào ngôi chùa mình nhìn thấy, để người đọc hiểu được rằng không gian chùa
chiền, đền thờ trong các c phẩm như một ngã rẽ bình n khi con người ta i
vào ớc đường cùng, rơi vào tuyệt vọng tđó sẽ chỗ dựa tinh thần, nơi để con
người ta bấu víu vào trong những lúc cùng quẫn nhất.
Không gian hội mang màu sắc chính trị cũng một không gian được coi
phổ biến nhất trong văn học trung đại lúc bấy giờ. Những cách miêu tả không gian
hội ẩn chứa tưởng chính trị của tác giả thường được nhận diện không quá khó khăn
qua những mẫu hình quen thuộc vthân phận người dân (mô típ “sở kiến” – viết về điều
trông thấy), về bất công hội, vđạo đức và lối sống của người cầm quyền với viêc xây
dựng đền đài cung điện, cảnh ca hát, yến ẩm, cảnh sống nghèo nàn đói khổ của nhân
dân. Không phải ngẫu nhiên mà “Hoàng Lê nhất thống chí” mở đầu bằng sự việc Trịnh
Sâm, ông chóa quyền thế bậc nhất của triều đình Trịnh sắc đẹp của Đặng Thị
lOMoARcPSD| 59062190
Huệ đến mức bỏ con trưởng lập con thứ, phải gả con gái cho em Đặng Thị Huệ là Đặng
Mâu Lân, để Lân làm nhiều việc càn bậy. Theo lôgics này, tác giả hình như nghĩ rằng
đó chính nguyên nhân sâu xa của sự kiện chính biến cung đình (kiêu binh nổi loạn),
xa hơn là nguyên nhân của việc chúa Trịnh không thể đối phó được với lực lượng Tây
Sơn nên sụp đổ. [7, tr.27]. Không chỉ vậy, không gian hội còn được con người
tiếp nhận qua những hình ảnh, biểu tượng như “đất khách quê người”, “chân trời góc
bể”, hay các biểu tưởng về “miền nhân gian”, “cõi người ta”, các biểu ợng liên quan
đến thế giới n kia, âm phủ, Diêm Vương, mồ mả nghĩa địa, hay các không gian có nh
lãng mạn, không tưởng như Tiên cảnh, suối Đào hoa, động Từ Thức,… “Không gian xã
hội đi vào tác phẩm văn học đã được lọc qua m tiếp nhận không chỉ không gian
chính trị - hội, còn cả không gian vật lí của một thời đại c định với kĩ thuật,
trình độ tổ chức riêng. [7, tr.27]. Trong n học trung đại, việc con người sợ hội
không còn một điều xa lạ, nỗi sợ ấy được kết đọng lại trong hình nh “đất khách quê
người”, “chân trời góc bể”. Con người quá khmỗi khi rời xa quê hương, đất nước, họ
luôn mang trong mình một cảm giác sợ sệt, một cảm giác tha hương nặng nề khó có th
diễn tả bằng lời. Bởi vì lúc bấy giờ, việc đi lại, khoảng cách địa lí, việc liên lạc với nhau
là rất khó khăn, và đó cũng là nguyên do khiến con người ta khi đi xa thì luôn nhớ về cội
nguồn. Trái ngược với hội thời trung đại, thì con người bây giờ không quá đặt nặng
cảm xúc nhớ nhà nữa, theo lời tác giả thì xã hội hiện đại, ta thể dễ thấy được khả
năng, trình độ thuật của con người trở n cao n, việc di chuyển liên lạc cũng
không còn khó khăn nữa. Sông sâu, núi cao cũng không còn gây ấn tượng đặc biệt về sự
chia cắt nghiệt ngã như trong cách nhìn nhận của con người thuở văn minh nông nghiệp
với khả năng thuật, công nghệ còn nhiều hạn chế. Bằng những phân tích, giải trên,
người đọc thể thấy rằng việc không gian trong văn học đã những ảnh hưởng lớn
như thế o đến hội con người, từ đó giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc đời, cuộc
sống của mỗi nhân vật khi được nhắc đến trong tác phẩm.
2.1.3. Ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn học trung đại đến văn học hiện đại
Nhờ việc nghiên cứu hiểu về hquy chiếu của văn học trung đại, chúng ta
không khó để thể nhận ra rằng: văn học hiện đại tuy được hiện đại hóa, quốc tế hóa,
lOMoARcPSD| 59062190
Âu hóa, nhưng trên nhiều phương diện thì nó vẫn tiếp tục chịu sự chi phối của các tầng
văn hóa trung đại. Điều này được c giả minh chứng qua giai đoạn n học ch mạng
thời chống Pháp chống Mĩ. giai đoạn này, văn học không phải văn học,
văn học được xem là công cụ, khí để chống giặc, dựa trên hình mẫu người quân tử sát
thân thành nhân, xả sinh thủ nghĩa vốn có từ văn thơ của các nhà Nho. “Bản lĩnh coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng, liễu sinh tử cội nguồn sâu xa từ quan niệm về sinh tử của Nho
giáo Phật giáo Thiền Tông từ hàng ngàn năm trước. Ngay trong thái độ khắc kcủa
hình tượng những người chiến cách mạng cũng không ít điểm bắt nguồn tquan
niệm khắc kvề thân xác của các học thuyết tưởng truyền thống. [7, tr.38]. Không
những vậy, tác giả còn chỉ ra những nhà văn hiện đại vẫn sử dụng một số thủ pháp quen
thuộc của người xưa để phê phán, thậm chí là hạ bệ một ai đó: mô tả một nhân vật phàm
ăn tục uống, ham sắc dục, như trong tiểu thuyết Ba người khác của Hoài. Tuy
nhiên, cũng một số tác giả trẻ đã bày tquan điểm, miêu tả nh dục n một phương
diện hoạt động sống thiết yếu của nhân vật, nhằm tỏ rõ xu thế cách tân trong văn học.
Trong đề tài nghiên cứu, tác giả đã chỉ rõ việc phải chú ý đến những cấm kị
việc đối phó với cấm kị như một hiện tượng văn hóa. Những cấm đoán về chính trị
(triều đình khống chế không cho phép công khai, trực tiếp chỉ trích chính sách hay chế
độ, người nào dám phê phán, chỉ trích có thể bị trừng phạt nghiệt ngã), cấm đoán sự thể
hiện đời sống tự nhiên, bản năng (tuyên truyền văn hóa lễ nghĩa, hình thành khái niệm
“dâm tục” mang tính chất đánh giá đối với biểu hiện bản năng). Nhưng theo quy luật
đâu có cấm kị thì đó đối phó với cấm kị. [7, tr.45, 46]. Minh chứng cho điều này
chính thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, đây là một dụ sinh động vviệc đối phó với
những điều cấm kị trong lĩnh vực đời sống tình dục. Trong thơ Hồ Xuân Hương, các đối
tượng đề vịnh đã được lựa chọn một cách rất công phu, để thể vừa là chính nó
cũng vừa là đối tượng khi nhắc đến liền liên tưởng ngay đến hoạt động tình dục: bánh
trôi, quả mít, ốc nhồi, i quạt, cây đu và cảnh đánh đu, cảnh dệt cửi, tát ớc. Kết hợp
với lối nói lái, một tvừa chính vừa không phải nó: trái gió, lộn lèo. Việc đề vịnh
của thơ m truyền tụng của Hồ Xuân Hương chỉ có thể được giải cặn knếu ta đặt

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59062190 MỤ ỤC L C
MỞ ĐẦU.... .... .... .. ...... ...... .... .. ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...... 2
1. Lí do chọn đề tài.... .... .... .. .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ... ...... ..... .. ... .... ...... ...... ..2
2. Lịch sử nghiên cứu.... .... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ...3
3. Mục đích nghiên cứu.... .... .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ...... ..... ...... ... ..... ..... ...... ...4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.... .... ...... ...... ...... ..... .. ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ....5
4.1. Đối tượng nghiên cứu.... .... .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ... ...... ..... .. ... .... ...... ..5
4.2. Phạm vi nghiên cứu.... .... .... ......... ...... ...... ...... ..... ...... ......... ...... ...... ..... .. ... ...... .... .. .....5
5. Giá trị khoa học và thực tiễn.... .... .... ...... ...... ...... ....... ......... ...... ...... ..... .. ... ...... .... ... ...... ....5
6. Phương pháp nghiên cứu. ... .... ... ...... ..... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...5
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp.... .... ...... ...... .......... .... .. ...... ...... ........ ...... ...... ...... ......5
6.2. Phương so sánh – đối chiếu.... .... .. ......... ..... ...... .......... .. ...... ...... ..... .. ... ...... ..... .. ...... ....6
7. Bố cục của tiểu luận.... .... .. .... ...... ...... ...... ..... .. ... ...... .... ... ...... ..... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... ..6
NỘI DUNG.... .... .... ...... ...... .... .. ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG.... .... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... .7
1.1. Cơ sở lí luận.... .... .... .. .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ... ...... ..... .. ... .... ...... ...... ..7
1.1.1. Một số điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.... .... .... .. ...... ...... ...... .... ...... ......7
1.1.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV.... .... ...... ....... ..... ..... ...... ...... ...... ...... .....7
1.1.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVIII.... .... .... .... .... ...... ...... ..... ...... ...... ......7
1.1.1.3. Giai đoạn từ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.... .... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......8
1.1.1.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.... .... .. .... .. ......... ..... .. .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .8
1.1.2. Vài nét về nền văn hóa Việt Nam.... .... .... ........... .... ...... ...... ..... ...... ...... ...... ...... ........ 9
1.2. Trần Nho Thìn – nhà Nho “hay chữ nhất nước Nam”.... .... .... .. ...... ...... ...... .... ... ...... ...10
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Trần Nho
Thìn.... .... ...... ...... ........ ........ ......... ..... ...... ......10
1.2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của Trần Nho Thìn.... .... ...... ...... ...... ..... .11
1.3. Một số điểm nổi bật công trình Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần
Nho Thìn).... .... ...... ...... ...... .... ... ...... ..... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... ...... ...... ...... ...... ......... ..... .12
1.3.2. Các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam được tác giả tiếp cận và giải quyết theo cơ sở
văn hóa học.... .... .... ............. .. ...... ...... ..... .. ... ...... ..... .. ...... ..... .. ...... ...... ..... ... .. ........ ....12
1.3.3. Bước đầu về việc tiếp cận văn học bằng phương pháp văn hóa học.... .... .... .. ...... .... ...13 lOMoAR cPSD| 59062190
Chương 2: NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA (TRẦN NHO THÌN).... .... .... ...... .. .... ...... ...... ...... ...... ..... ...... .... .. ...... ...... .15
2.1. Hệ quy chiếu văn hoá học dưới góc nhìn của Trần Nho Thìn.... .... ...... ....... ..... ..... ...... ...15
2.1.1. Quan niệm văn hóa và văn hóa học.... .... .... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ...... ...15
2.1.2. Các kiểu hình tượng xã hội và không gian trong văn học.... .... ...... ...... ........ ........ .... .16
2.1.3. Ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn học trung đại đến văn học hiện đại.... .... .... .. .. .... ...20
2.2. Cách nhìn nhận từ hoàn cảnh xã hội - tiền đề văn hóa.... .... ...... ...... ...... ..... .. ... .... ...... ..21
2.3. Những đóng góp lớn về sự nghiệp chính trị Việt Nam.... .... .... .. ...... ...... .......... .... ...... ....23
2.4. Quan niệm văn học trung đại - quan niệm đề cao thân và tâm triết lý - tôn giáo.... .... ......26
Chương 3: NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN
VĂN HÓA ( TRẦN NHO THÌN).... .... .... ...... ...... ...... .... ...... ...... ...... ..... ...... ...... ...... ...... ........31
3.1. Việc thể hiện sự đổi mới và tiến bộ trong văn học vẫn còn hạn chế.... .... ...... .... ...... ...... ..31
3.1.1. Hạn chế trong việc thể hiện vai trò và giá trị của phụ nữ trong văn học trung đại Việt
Nam.... .... .... .. ...... ...... ........ .. ...... ...... ..... .. ... ...... ..... .. ...... ..... .. ...... ...... ..... ... .. ........ ....33
3.1.2. Văn hoá chưa được khai thác triệt để.... .... .... ......... .. .... ...... ...... ...... ..... .. ... ...... .... .34
3.1.3. Phương pháp nghiên cứu còn sơ sài.... .... .... ...... .......... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... .. .... ..36
3.2. Giai cấp xã hội khác nhau trong văn học trung đại Việt Nam thiếu cân đối.... .... .... .. .....38
3.2.1 Sự chênh lệch của các tầng lớp xã hội.... .... .... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ......38
3.2.2. Mối quan hệ không mấy thuận lợi giữa nhà nho với làng xã.... .... .... ...... ...... ...... .......39
3.3. Nguồn tài liệu và tham khảo còn hạn chế.... .... .... ........ .... .. ........ ...... ...... ...... ...... ......... 42
3.4. Đánh giá chủ quan của tác giả.... .... .... ...... ...... ...... ... .... ...... ...... ...... ..... ...... ...... ...... ....45
KẾT LUẬN.... .... ...... .......... .... .. ...... ...... ...... ........ ... .. ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... .....48
TÀI LIỆU THAM KHẢO.... .... .... .. ...... ...... ........ .. ..... ..... ...... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ......49 lOMoAR cPSD| 59062190 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học trung đại Việt Nam, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học
nước nhà, kéo dài từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX. Giai đoạn này bao gồm nhiều biến
động lịch sử và văn hóa, với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo
và Đạo giáo. Không chỉ phản ánh tinh thần yêu nước, tôn vinh đạo đức và triết lý nhân
sinh mà còn là tiếng nói phê phán xã hội, đồng cảm với những số phận con người trong
xã hội phong kiến. Những nền móng vững chắc của văn học dân tộc được xây dựng và
gìn giữ ngót mười thế kỉ là một tài sản hết sức quý báu đối với các thời kì phát triển tiếp
sau của kiến trúc thượng tầng xã hội..
1.2. Dù vậy, vẫn còn không ít những khía cạnh của văn học trung đại làm cho
chúng ta băn khoăn hoài nghi. Để góp phần rút ngắn con đường đi đến sự thật để giải mã
triệt để các vấn đề tưởng như nan giải mà thời kì văn học này để lại các nhà văn, nhà
nghiên cứu đã có những nhận định, đóng góp hết sức quan trọng về nền văn học này.
Những người có những đóng góp quan trọng đó là: Trần Đình Sử, Nguyễn Đình Chú, Lê
Chí Viễn, Trần Thị Băng Thanh… Và không thể không kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu
Trần Nho Thìn ông đã đóng góp rất nhiều trong việc nghiên cứu và giảng dạy về văn học
trung đại Việt Nam. Ông xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu về các nhà văn, nhà thơ
nổi tiếng trong giai đoạn này như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, và nhiều
tác giả khác. Và đặc biệt, tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa
của Trần Nho Thìn là một công trình nghiên cứu có giá trị trong việc hiểu biết sâu sắc
hơn về văn học trung đại Việt Nam qua lăng kính văn hóa. Tác phẩm tập trung vào việc
phân tích các tác phẩm văn học trung đại từ góc độ văn hóa, giúp làm nổi bật các giá trị
văn hóa, tư tưởng, và nghệ thuật của thời kỳ này. Tác phẩm cũng cho thấy sự ảnh hưởng
qua lại giữa văn học và các yếu tố văn hóa, cho thấy cách mà văn học phản ánh và góp
phần vào sự hình thành và phát triển văn hóa dân tộc.Từ đó, giúp độc giả một cách nhìn
nhận mới mẻ, toàn diện và sâu sắc hơn về giá trị văn học trung đại, không chỉ từ góc độ
văn học mà còn từ góc độ văn hóa. lOMoAR cPSD| 59062190
Vì những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài những thành công và hạn
chế của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn) để nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu
Theo bài viết Văn học Việt Nam từ góc nhìn văn hóa của La Sơn đã đề cập đến ba
yếu tố của tác phẩm. Đầu tiên là phương pháp tiếp cận văn học: Nhấn mạnh định hướng
tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học, phác thảo tính hệ thống và tiến trình văn
học trung đại Việt Nam như là bước tiến đồng hành với quá trình vận động, phát triển
của nền văn hóa dân tộc. Tiếp theo là hệ thống hóa nghiên cứu tác phẩm tập hợp nhiều
nghiên cứu chi tiết về văn học trung đại, từ lý luận đến thực hành, nhấn mạnh vai trò của
“cái tôi” tác giả và phản ánh xã hội trong văn chương nhà nho, La Sơn đã chỉ ra rằng:
Khi đi vào phân tích, lý giải các tác gia, tác phẩm, hiện tượng văn học cụ thể, Trần Nho
Thìn thường xây dựng các điểm tựa chắc chắn trên cơ sở một luận đề lý thuyết, một hệ
thống chứng cứ, một mối quan hệ xác thực, “nói có sách, mách có chứng”. Và yếu tố
cuối cùng là nhận định về nhân vật văn học, La Sơn đã phân biệt giữa hai loại văn chương
nhà nho, một loại tập trung vào mô tả nhân vật với chân dung cụ thể, và một loại khác
chủ yếu bình luận về nhân vật lịch sử: Văn chương nhà nho viết về con người có hai loại.
Trước hết và đáng chú ý hơn cả là mảng sáng tác trong đó con người được thể hiện ở
cấp độ nhân vật văn học. Ở đây nhà nho mô tả, xây dựng con người theo hướng khắc
hoạ các nhân vật… trong phần văn chương viết về con người còn lại của nhà nho, ta
không thấy nhà nho miêu tả, khắc hoạ con người với chân dung hay tính cách cụ thể. Ở
đây, mặc dù con người là đối tượng bình luận, đánh giá, là nguồn khơi gợi cảm hứng
sáng tác nhưng lại không được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học.
Theo công trình nghiên cứu Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa – một số xu
hướng chính ở Việt Nam, Phùng Phương Nga đã đề cập về bốn hình thức nghiên cứu văn
học từ góc nhìn văn hóa đã từng tồn tại trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam. Ở
nghiên cứu văn học từ hoàn cảnh xã hội, tiền đề văn hóa Phùng Phương Nga đã nhận
định rằng: Tiêu biểu là Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn. lOMoAR cPSD| 59062190
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu giải thích thành tựu của văn học trung đại từ bức tranh
văn hóa lịch sử; nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đã nghiên cứu về mẫu nhà nho tài tử
trong văn học trung đại; nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng sự kiện văn hóa quá
khứ có ý nghĩa lớn trong việc giải mã văn học trung đại vì khi đó "khả năng suy diễn,
khả năng hiện đại hóa có thể được giảm thiểu và chúng ta càng có nhiều cơ may đến
gần sự thật lịch sử văn học. Phùng Phương Nga cũng nhận định phương pháp nghiên
cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là một trong những những công trình có ý nghĩa to lớn
trong viêc xây nền móng, tạo đà cho một cú hích lớn trong tình hình nghiên cứu văn học của nước nhà.
Nguyễn Hữu Tình trong bài viết Tích hợp văn hóa – Phương pháp tiếp cận tác
phẩm văn học sáng tạo nhận định rằng việc tích hợp văn hóa vào nghiên cứu văn học
mang lại nhiều hiểu biết sâu sắc về tác phẩm. Phương pháp này xem xét các yếu tố văn
hóa như ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục và tổ chức xã hội, giúp làm rõ mối quan hệ
giữa văn học và bối cảnh văn hóa. Công trình của Trần Nho Thìn về văn học trung đại
Việt Nam cũng được đánh giá cao trong việc ứng dụng phương pháp tiếp cận này để
phân tích văn học qua các thời kỳ khác nhau: Công trình Văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn cũng trên nền tảng văn hóa trong đó tác phẩm
ra đời… chẳng những thích hợp cho văn học trung đại… mà còn có thể vận dụng phương
pháp tiếp cận này để phân tích sáng tác văn học ở các nền văn học hay các thời đại văn
học khác. Một sự nghiên cứu so sánh văn học trung đại và văn học hiện đại có thể cho
chúng ta thấy về khả năng này.
Nhóm chúng tôi nhận thấy hầu như các công trình nghiên cứu chưa đi sâu vào
khai thác những thành công và hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn
văn hóa (Trần Nho Thìn) một cách toàn diện, hệ thống. Vì thế, đề tài nhóm chúng tôi
quyết định chọn là một đề tài đảm bảo mang tính khoa học. 3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu những thành công và hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn).
Để hoàn thành bài tập cuối kì môn các xu hướng nghiên cứu văn học Việt Nam. lOMoAR cPSD| 59062190
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần
Nho Thìn (2007), NXB Giáo dục.
Tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần
Nho Thìn (2003), NXB Giáo dục. 4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là những yếu tố làm nên thành công và hạn chế của tác phẩm
Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa bao gồm:
Thành công: Phân tích sâu rộng góc nhìn mới mẻ, tài liệu phong phú, kết hợp lí luận văn học văn hóa.
Hạn chế: Khó tiếp cận đối với người đọc phổ thông thiếu sự so sánh quốc tế, giới
hạn về tư liệu, tính phê bình chưa cao.
5. Giá trị khoa học và thực tiễn
Kết quả của công trình nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ về những thành công và
hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn). Từ đó
góp phần khẳng định tài năng cũng như là những đóng góp và vị trí của ông trong nền
văn học trung đại Việt Nam.
Giúp người nghiên cứu củng cố và vận dụng các kiến thức văn học đã được tiếp
thu để nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Ở phương pháp này, chúng tôi đi xem xét, đánh giá, lựa chọn những nguồn tài liệu
có giá trị đáng tin cậy, để từ đó có thể phân tích các vấn đề liên quan đến những thành
công và hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa và những vấn
đề về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả. Thông qua những gì đã phân tích, chúng tôi sẽ
tổng hợp lại những thành công và hạn chế của tác phẩm cũng như nêu rõ tầm quan trọng
của tác phẩm trong việc nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam. lOMoAR cPSD| 59062190
6.2. Phương so sánh – đối chiếu
So sánh tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của Trần
Nho Thìn với các công trình nghiên cứu khác có đề tài về văn học trung đại như Trần
Đình Sử, Đỗ Lai Thúy... Trong đó, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh các tác phẩm, suy luận,
nhận xét, đánh giá, phán đoán về các đặc điểm của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc
nhìn văn hóa để từ đó nhận thấy được những thành công và hạn chế của tác phẩm nói
riêng và có cái nhìn toàn diện về tác phẩm trong sự liên hệ với các nghiên cứu về văn
học trung đại Việt Nam nói chung.
7. Bố cục của tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung
Chương 2: Những thành công của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn).
Chương 3: Những hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn) NỘI DUNG
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG 1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam
“Văn học thời trung đại bao gồm những sáng tác, trước tác bằng chữ Hán và chữ
Nôm của các tác giả thuộc tầng lớp quí tộc, sĩ phu phong kiến. Văn học phát triển trong
tiến trình xây dụng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ qua các triều đại phong
kiến ở Việt Nam” [5, tr.10].
1.1.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV
Ở giai đoạn này, văn học trung đại Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh lịch sử
đặc biệt. Đó là dân tộc ta vừa giành được quyền độc lập từ chủ vào giữa thế kỷ X và lập lOMoAR cPSD| 59062190
nhiều kỳ tích trong các cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược ở thế kỷ XI – XII
và chống quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII. Sau những cuộc chiến tranh vệ quốc là công
cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình. Chế độ phong kiến Việt Nam đang ở thời kì ổn định và phát triển.
Văn học ở giai đoạn này có những bước ngoặt lớn như văn học viết ra đời ở thế
kỷ X (bài thơ sớm nhất là bài Quốc Tộ – Đỗ Pháp Thuận), tiếp đó là sự xuất hiện của văn
học chữ Nôm ở thế kỷ XIII. Đây chính là bước ngoặt mở ra sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân tộc.
1.1.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVIII
Đây là thời kỳ mà nhân dân ta tiếp tục lập lên những chiến công trong cuộc kháng
chiến chống Minh ở thế kỷ XV, đưa chế độ phong kiến Việt Nam đạt đến cực thịnh dưới
triều đại Lê Thánh Tông ở cuối thế kỷ đó. Bước sang thế kỷ XVI, chế độ phong kiến có
những biểu hiện khủng hoảng dẫn đến những cuộc nội chiến và đất nước bị chia cắt
nhưng nhìn chung tình hình xã hội vẫn tạm thời ổn định. Văn học giai đoạn này có bước
phát triển mới, trong đó nổi bật nhất là những thành tựu nghệ thuật của văn học chữ Nôm
(tiêu biểu là Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông; Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi; Bạch vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Thiên Nam ngữ lục; các truyện
Nôm…). Hiện tượng văn – sử – triết bất phân khá đậm trong văn học Lý – Trần đã mờ
dần từ thế kỷ XV, khi xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm giàu chất văn chương hình tượng.
1.1.1.3. Giai đoạn từ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Văn học giai đoạn này phát triển trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động bởi
nội chiến phong kiến dấn đến sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và bão
táp của phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Khởi nghĩa
Tây Sơn cùng lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến thống trị ở trong nước cả đàng Trong
và đàng Ngoài., đánh tan ngoại xâm ở phía Nam và phía Bắc. Nhưng phong trào Tây
Sơn suy yếu và thất bại. Triều Nguyễn thống nhất đất nước thiết lập một chế độ phong
kiến quan liêu mới và đất nước đứng trước hiểm họa xâm lăng của chủ nghĩa thực dân Pháp. lOMoAR cPSD| 59062190
Ở giai đoạn này, văn học phát biểu vượt bậc, có nhiều đỉnh cao nghệ thuật (Chinh
phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm; Cung oán ngâm khúc của Nguyễn
Gia Thiều; Truyện Kiều của Nguyễn Du; thơ Nôm của Hồ Xuân Hương; Thượng kinh ký
sự của Lê Hữu Trác…). Đây là giai đoạn rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam vì
nó vừa phong phú về mặt nội dung, vừa đa dạng về hình thức nghệ thuật. Đây cũng là
thời kì mà lần đầu tiên các thể loại văn học dân tộc ra đời như:
Ngâm khúc; Truyện Nôm; Thơ ca trù – hát nói…
1.1.1.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX
Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng xâm lược đầu tiên vào cảng Đà Nẵng và
từng bước xâm lược Việt Nam. Nhân dân cả nước kiên cường đứng lên chống giặc ngoại
xâm, nhưng rồi đất nước dần rơi vào tay giặc và cuối cùng trở thành thuộc địa của thực
dân Pháp. Xã hội Việt Nam chuyển dần từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa
phong kiến.Văn hóa Nho giáo truyền thống ngày bị mai một, văn hóa phương Tây bắt
đầu có những ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam.
Văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX phát triển rất phong phú và nhìn chung
mang âm hưởng bi tráng. Ở giai đoạn văn học này, chữ Quốc ngữ bắt đầu xuất hiện,
nhưng văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm vẫn là chính. Sáng tác văn học chủ yếu vẫn
theo thể loại và thi pháp truyền thống. Tuy nhiên sự xuất hiện một số tác phẩm văn xuôi
viết bằng chữ quốc ngữ đã bước đầu đem đến cho văn học những nét mới theo xu hướng hiện đại hóa.
1.1.2. Vài nét về nền văn hóa Việt Nam
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, văn hóa ngày càng khẳng định được
vị thế, nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa từ quần chúng nhân dân không chỉ
tham gia vào quá trình thưởng thức mà còn sáng tạo văn hóa.
Trần Ngọc Thêm đã nêu quan điểm của mình về khái niệm văn hóa như sau: “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [7]. Ông cho rằng tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, lOMoAR cPSD| 59062190
nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính:
theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều
sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều
sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng
lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá
được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá
Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng
giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…). Theo nghĩa rộng, văn hoá thường
được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh
đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [7]. Theo Đại từ
điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo
xuất bản năm 1998: văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra
trong lịch sử. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số
người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng
tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này
khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970
tại Venise”[7]. Những nét này đã tạo nên sự độc đáo và đặc trưng cho văn hóa Việt Nam,
phản ánh lịch sử và tinh thần của người dân trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước. 1.2. Trần Nho Thìn – nhà Nho “hay chữ nhất nước Nam”
Trần Nho Thìn là người có sự hiểu biết sâu sắc và nghiêm cẩn của một nhà nghiên
cứu hành đầu về văn học Trung đại Việt Nam. Trần Nho Thìn nhất quán chọn hướng tiếp lOMoAR cPSD| 59062190
cận văn hóa, lấy con người làm đối tượng trung tâm cho sự nghiệp nghiên cứu văn học.
Đây là một lựa chọn rất có ý nghĩa, góp phần làm cân bằng môi trường nghiên cứu phê
bình ở nước ta, khi thì nghiêng về tính giai cấp, lúc lại nghiêng về tính hình thức xem
nhẹ môi trường văn hóa xã hội, ông đã thuyết phục người đọc rằng luận điểm nói đến
văn hóa là nói đến con người. Sáng tác của ông biểu hiện vai trò là dấu nối của hai thời
đại, hai nền văn học cũ và mới. Ông xuất thân từ một nhà nho, thông thạo lối văn cử tử,
từng được mệnh danh “hay chữ nhất nước Nam”.
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Trần Nho Thìn
Trần Nho Thìn đã sử dụng phương pháp tiếp cận tác phẩm từ quan điểm văn hóa
học để giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng,
đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong không gian
và thời gian. Phương pháp này ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong
đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo,
đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người trong đời sống sinh hoạt
xã hội sống động hiện thực… từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối
với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, mô típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ,…
1.2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của Trần Nho Thìn
Trần Nho Thìn bảo vệ Phó tiến sĩ văn học năm 1989 tại Viện Đông phương học,
Viện hàn lâm khoa học Liên Xô với đề tài Quan niệm của nho giáo về nhân cách và sáng
tác của Nguyễn Du, được Nhà xuất bản của Viện hàn lâm ấy in thành sách. Năm 2004,
Trần Nho Thìn được phong Phó giáo sư. Ông được biết đến là một chuyên gia hàng đầu
về văn học Trung đại Việt Nam, ông có sự hiểu biết sâu sắc và nghiêm cẩn của nhà nghiên
cứu văn học. Cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa được in các lần
năm 2003-2007-2009. Cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, in năm
2012 với 700 trang như bách khoa về văn học trung đại. Gần đây nhất là Phương pháp
tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học được in vào năm 2017. Năm 2007, Trần Nho
Thìn chủ biên Truyện Kiều - Khảo dị - Chú thích và bình luận. Ông dày công nhìn lại
200 năm hành trình của Truyện Kiều từ chỗ bản thảo viết tay đến khi được khắc bản in lOMoAR cPSD| 59062190
rồi phổ biến bằng chữ quốc ngữ. Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng
dạy văn học như là một công trình đi trước phục vụ Hội nghị văn hóa toàn quốc năm
2021. Ngoài ra còn có nhiều công trình như Từ điển văn học (viết chung với người khác),
2 tập, Nxb Khoa học Xã hội, năm 1983; Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt
Nam (viết chung), Nxb Giáo dục, năm 1997, 2010; Nguyễn Du và quan niệm của nho
giáo về nhân cách (dịch từ tiếng Nga), Nxb Khoa học, Nauka.M, năm 1989; Nguyễn
Công Trứ – về tác gia, tác phẩm (tuyển và viết giới thiệu), Nxb Giáo dục, năm 2003;
Tuyển tập công trình về Văn học nghệ thuật Thăng Long Hà Nội (chủ biên), Nxb Hà Nội,
năm 2010. Ngoài ra, ông còn có các dịch thuật và bài báo về văn học và văn hóa Ý thức
về nền văn hiến dân tộc - một bộ phận cấu thành của ý thức độc lập dân tộc, Tạp chí
Văn học, số 1/ 1980, tr. 97-105 hay Hiện tượng vay mượn cốt truyện ở các truyện Nôm
bác học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIIInửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Văn học, số 1/1983,
tr. 100-113… Ông là một trong những học giả có ảnh hưởng đối với nghiên cứu văn học
trung đại tại Việt Nam.
1.3. Một số điểm nổi bật công trình Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn)
Trần Nho Thìn đã hệ thống lại các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam, xem
đó là một dòng chảy liên tục, vận động và phát triển hết sức đa dạng. Sau đó, ông đưa ra
những quan niệm học thuật về phương pháp văn hóa mới mẻ. Các vấn đề phương pháp
luận mà ông nêu ra ở phần này chính là tinh thần của toàn bộ quyển sách. Tính chất học
thuật luôn là rào cản cho những cho những độc giả ham hiểu biết song trình độ nhận thức
có giới hạn, đối với quyển sách này cũng không ngoại lệ. Tuy vậy trong quyển sách này,
tác giả đã trình bày các vấn đề học thuật mạch lạc và rõ ràng. Điều mới mẻ trong quyển
sách chính là hệ thống lí luận đã được tập hợp lại và đứng riêng lẻ thành một phần độc
lập trong toàn bộ chỉnh thể quyển sách.
1.3.2. Các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam được tác giả tiếp cận và giải quyết theo cơ sở văn hóa học
Riêng trường hợp Truyện Kiều của Nguyễn Du, Trần Nho Thìn đã dành nhiều
công sức để nhìn nhận và đánh giá lại theo quan điểm của mình. Ông lập luận các vấn lOMoAR cPSD| 59062190
đề một cách khách quan và không phủ nhận những đóng góp của các công trình khác.
Trái lại, ông qua nền tảng của mấy trăm năm tiếp nhận Truyện Kiều mà phát ngôn lý
thuyết của mình. Tính kế thừa của quyển sách này là không thể phủ nhận. Nhưng cái
chính yếu làm nên giá trị của công trình này là ở khía cạnh đề xuất và nêu lên những tư
tưởng tiến bộ. Trong phần nói về Truyện Kiều, Trần Nho Thìn viết rằng phương pháp
phân tích khi áp dụng cho Truyện Kiều không thích hợp với mọi góc độ của tác phẩm.
Ông lấy ví dụ phân tích vấn đề tư tưởng triết học ở Truyện Kiều. Thực tế thì khái niệm
tư tưởng tôn giáo không được dùng đúng với nghĩa kinh điển của nó, có nhiều trường
hợp Nguyễn Du phải đứng trên lập trường của văn hóa dân gian để có thể hiểu các khái
niệm tư tưởng tôn giáo ngoại lai. Đây là một trong những phát hiện rất đáng trân trọng
của tác giả. Bởi lẽ trên thực tế, văn bản Truyện Kiều cùng với các điển tích điển cố đang
tạo ra một cuộc tranh luận chưa ngã ngũ của giới học thuật. Giá trị của Truyện Kiều có
nguy cơ bị phương hại nếu không có được một đề xuất mang tính cách mạng.
Bằng góc độ văn hóa học, ông lật giở lại lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều qua các giai
đoạn lịch sử văn học dân tộc, tiếp đó mạnh dạn đề xuất quan điểm của mình như một
phương diện mới để tiếp cận Truyện Kiều. Cũng trong phần này, tác giả còn bàn bạc các
vấn đề loại thể: “Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại thư tịch của Lê Quý
Đôn và Phan Huy Chú”. Vấn đề về quan niệm nhân sinh trong văn hóa trung đại như:
“Bi kịch tinh thần của nhà Nho Việt Nam với tư cách là một nhân vật văn hóa” ; “Sự thể
hiện con người trong văn chương cổ”. Ngoài ra còn đề cập đến áng thiên cổ hùng văn
Bình Ngô Đại Cáo dưới ánh sáng của loại hình học văn hóa... Một điều dễ nhận thấy
rằng những tác phẩm, tác giả có vị trí quan trọng trong giai đoạn văn học trung đại đều
được giới thiệu bằng những lát cắt độc đáo mang đầy cá tính của tác giả – cá tính có
được nhờ một vốn am hiểu sâu sắc và chuẩn mực.
1.3.3. Bước đầu về việc tiếp cận văn học bằng phương pháp văn hóa học
Giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX lại hiện lên hết sức sinh động. Bằng
cách so sánh đối chiếu giữa hai cặp khái niệm cũ – mới, trên cơ sở đặc trưng văn hóa,
Trần Nho Thìn đã vạch ra được hàng loạt vấn đề về giai đoạn giao thời cực kì nhạy cảm
của văn học nước ta, giai đoạn mà cái cũ dần lùi lại để cái mới tiến lên. Như đã biết trong lOMoAR cPSD| 59062190
thời kì này, Việt Nam đã du nhập rất nhiều các hệ tư tuởng mới, và thật bất ngờ, việc
khảo sát sự hình thành, vận động và phát triển của từng tư tưởng chỉ có thể chính xác khi
áp dụng phương pháp văn hóa học. Như vậy, phương pháp của tác giả đề xuất không
dừng lại ở một sự thể nghiệm đơn nhất, mà còn là một mong muốn mở rộng đường biên
ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn hóa học sang các lĩnh vực khác. Bằng tâm thức của một
nhà khoa học muốn truy tìm chân giá trị, Trần Nho Thìn đã nhận định về văn học Việt
Nam giai đoạn 1900 – 1930 rằng thơ Việt Nam từ 1900 đến 1932 trong bối cảnh hiện tại
có một ý nghĩa thực tiễn to lớn. Lịch sử mọi thay đổi đều cần có một tương quan văn hóa
cần thiết làm nền tảng, khi đến lượt nó, nền tảng văn hóa lại có được trên nền tảng của
kinh tế xã hội. Khi căn bản văn hóa tâm linh nông nghiệp đang vẫn chủ đạo trong tâm
thức người Việt Nam thì vẫn cần có sự dung hòa giữa thơ truyền thống và thơ mới cách
tân. Không thể nôn nóng sáng tạo cái gì đó mới mà không hợp quy luật. Có thể thấy cách
nhìn ấy phản ánh trung thực một hiện thực có thật của lịch sử văn học dân tộc và hơn thế
còn khẳng định tiềm năng to lớn của một lí thuyết phương pháp khoa học. TIỂU KẾT
Có thể thấy, văn học trung đại Việt Nam không chỉ phản ánh những khía cạnh
chính trị, xã hội, và tôn giáo của thời đại mà còn là một bức tranh đa dạng về văn hóa,
tâm lý, và triết lý sống của người Việt Nam xưa. Nó phát triển gắn chặt với lịch sử dân
tộc cũng như phát triển trong sự giao lưu văn hóa, văn học nước ngoài theo một quy luật
tiếp nhận vững chắc và sáng tạo. Trần Nho Thìn đã tìm được cho mình một hướng đi
riêng trong việc tiếp cận và phản ánh văn học trung đại dưới góc nhìn văn hóa qua những
yếu tố ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác cùng quan niệm nghệ thuật của ông. Bên cạnh
đó, chương 1 cũng nêu rõ những điểm nổi bật của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn văn hóa để bước đầu có cái nhìn tổng thể và khách quan hơn, từ đó có
hướng đi đúng đắn cho việc tìm hiểu thành công và hạn chế của tác phẩm. Với những
nội dung nêu trên, chương 1 sẽ tạo tiền đề và làm cơ sở vững chắc cho việc đi sâu tìm
hiểu thành công và hạn chế của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa ở hai chương sau. lOMoAR cPSD| 59062190 Chương 2
NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA (TRẦN NHO THÌN)
Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần Nho Thìn là
một công trình lớn, có những nghiên cứu giá trị, đã đóng góp quan trọng trong việc
nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam từ góc độ văn hóa. Và điều đó góp phần tạo nên
những thành tựu mà tác giả đã đạt được trong tác phẩm của mình. Những thành công đó
không chỉ phản ánh chân thực xã hội, cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ, mà còn có
đóng góp quan trọng trong việc củng cố và phát triển quan niệm về văn học, văn hóa Việt
Nam. Dưới đây là một số thành công dựa trên việc phân tích tác phẩm nghiên cứu:
2.1. Hệ quy chiếu văn hoá học dưới góc nhìn của Trần Nho Thìn
2.1.1. Quan niệm văn hóa và văn hóa học
Theo Trần Nho Thìn, văn hóa là một khái niệm phức tạp, mang nội hàm rộng mà
khó có một khái niệm, định nghĩa nào có thể bao quát hết được các phương diện của văn
hóa. Nó phụ thuộc vào từng góc độ mà người nghiên cứu muốn nhấn mạnh vào phương
diện nào thì văn hóa sẽ có định nghĩa đó. Ví dụ khi phân tích văn hóa dưới góc độ một
hệ thống tôn giáo, sẽ có khái niệm khác so với văn hóa dưới góc độ cuộc sống đời thường,
hay so với góc nhìn một hình thái trong xã hội. Tác giả cho biết ông không có ý định tìm
một khái niệm về văn hóa nào cho riêng mình, mà thay vào đó ông đặc biệt chú trọng
đến các quan niệm khác nhau của chủ thể văn hóa, dựa vào các tài liệu, tư tưởng về
những hệ thống mang giá trị văn hóa như: triết học – đạo đức – tôn giáo, đặc biệt là các
tư tưởng tôn giáo như Nho giáo – Phật giáo – Đạo giáo, để khái quát, nói về từng đặc
trưng riêng của văn hóa dân tộc Việt Nam. Chúng có thể khác nhau về tên gọi, khác nhau
về trình độ lí thuyết, tính khái quát, nhưng chúng đều có điểm chung về loại hình học.
Một ví dụ điển hình là khái niệm diễn tả nguyên lí thiết lập trật tự trong bước chuyển hóa
của xã hội loài người từ thời kì hoang dã, thời kì sống bằng cái “con”, sống bằng bản
năng sang một mô hình xã hội có ý thức về nền văn hóa, văn minh. “Bất cứ dân tộc nào
ở bước chuyển này, cũng ý thức được cái bản năng là xấu, là nguồn gốc của mọi rối lOMoAR cPSD| 59062190
loạn, tội lỗi, do đó con người cần phải kiểm soát, hạn chế, tiêu diệt cái bản năng.” [7, tr.14].
Nói về văn hóa học, đó là một phương diện chủ yếu nghiên cứu những giá trị văn
hóa đã được cả một cộng đồng nhất định thừa nhận, đã được đúc kết qua những câu châm
ngôn, tục ngữ, những kinh ngữ, những phong tục tập quán. Mỗi một yếu tố văn hóa trong
một hệ thống là khác nhau. Những gì thuộc về chính trị, liên quan đến mặt lí thuyết
thường dễ bị thay đổi, còn những gì liên quan đến văn hóa, phong tục thì lại có một sự
tồn tại dai dẳng, bền bỉ, và có sự chi phối tinh vi, sâu sắc hơn, bởi vì chúng có một sợi
dây liên kết vô hình, được truyền từ đời này sang đời khác. Như chúng ta đã biết, trong
lịch sử các triều đại Nho giáo ban hành lệnh cấm thờ các loại “dâm thần”, những loại
thần có liên quan đến tín ngưỡng phồn thực, ngoại trừ và bài xích các tôn giáo khác, trừ
những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích. “Nhưng lệnh cấm chỉ được
thực hiện khá hình thức, nhiều nơi, người ta phải đối phó với những cấm đoán bằng các
biện pháp trá hình khác để vẫn bảo lưu được tín ngưỡng phồn thực.” [7, tr.16]. Việc tiếp
cận văn hóa học không phải là một cái gì đó có sự khác biệt tuyệt đối so với các hướng
tiếp cận khác. Nó chú trọng phân tích văn hóa dựa trên phương diện lịch sử, vì vậy cũng
gần với xã hội học – lịch sử. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận liên ngành, là nơi
yêu cầu vận dụng tổng hợp tri thức về lịch sử, tôn giáo, khảo cổ học, nhân loại học,… để
giải mã được các hiện tượng thi pháp có trong tác phẩm văn học.
Từ những phân tích của tác giả cho thấy việc phân tích văn học đồng thời đi sâu
vào nền tảng văn hóa có thể cho ta cái nhìn toàn diện hơn, lí giải hợp lí hơn những yếu
tố khác nhau của văn học, từ đề tài, chủ đề, các yếu tố thi pháp. Việc nhìn nhận văn học
trung đại từ hệ quy chiếu giúp độc giả có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm, từ đó đánh
giá đúng giá trị và tầm ảnh hưởng của nó đến văn học Việt Nam.
2.1.2. Các kiểu hình tượng xã hội và không gian trong văn học
Trong văn học Việt Nam, chúng ta có thể thấy các giá trị văn hóa có vai trò chi
phối hành vi, cách ứng xử của con người một cách phong phú, đồng thời cũng có tính
lịch sử, có nghĩa là chúng có thể thay đổi qua từng giai đoạn khác nhau. Sự tự giác đạo
đức của mỗi cá nhân khác nhau từ vua chúa, quan lại, địa chủ, cho đến thứ dân, nô lệ. Ở lOMoAR cPSD| 59062190
mỗi giai cấp sẽ có một phẩm chất, một trách nhiệm đạo đức khách nhau, điều này tạo
nên một hình thái trật tự xã hội. “Trật tự đạo đức đem đến trật tự về xã hội, đem đến ý
niệm về thời thịnh trị, là đối tượng ca ngợi, còn tình trạng vô đạo bị phê phán, được xem
là nguyên nhân gây loạn.” [7, tr.25] “Quan niệm về xã hội lí tưởng và thái độ phê phán
xã hội được thể hiện trong tác phẩm văn học bằng những hình tượng riêng chứ không
đơn thuần dừng lại nơi những tuyên ngôn tư tưởng triết học hoặc chính trị.” [7, tr.26].
Chính vì vậy Trần Nho Thìn cho rằng người nghiên cứu văn học phải quan tâm đến các
loại hình không gian xã hội được thể hiện trong tác phẩm văn học, để tìm ra được những
kiểu không gian tồn tại của con người, từ đó làm rõ, cung cấp thêm cho người đọc về
cuộc sống của nhân vật trong các tác phẩm.
Theo tác giả, trong văn học truyền thống có mấy loại không gian đặc trưng sau:
Không gian lao động sản xuất như hình ảnh đồng ruộng, cày cấy, gieo mạ, thu hoạch, tát
ao, thiên tai, dịch bệnh, hạn hán, mưa lũ… Để so với văn học dân gian như ca dao, dân
ca thì trong văn học viết, đây là một hình tượng không gian khá mờ nhạt, thường chỉ
mang trong mình tính chất ẩn dụ, có thể dùng để ám chỉ một không gian, một sự việc
nào đó, nói lên những tiêu cực trong xã hội, chứ không hẳn chỉ là tái hiện một hiện thực
lao động. “Ngư tiều canh mục chi là không gian ẩn dật thuần túy chứ không có tính chất
tái hiện hiện thực lao động.” [7, tr.26]. Hay thơ của Nguyễn Phi Khanh là một ví dụ:
“Mênh mông đồng lúa cỏ như thiêu, Ngoài
nội kêu than xiết nỗi sầu.
Dải đất non sông khô đến thế,
Từng trời mưa móc vắng làm sao!
Lưới tham quan lại vơ hầu kiệt.
Mạch sống dân gian cạn mỡ dầu.
Thơ mới này xin thay biểu tấu,
Vì đang nằm bệnh chửa về chầu.
Bài thơ không đi vào các chi tiết cụ thể mà phác họa một bức tranh toàn cảnh về thảm
cảnh của nông dân, cả thiên tai cả nhân họa. Dân điêu đứng vì hạn hán, khốn khổ vì
cảnh quan tham nhũng. Nguyễn Phi Khanh mượn thơ làm biểu tấu dâng lên vua, cũng lOMoAR cPSD| 59062190
một mô típ vẽ tranh dâng vua, mục đích không ngoài sự thông báo cho vua biết để kịp
thời chủ trương biện pháp cải thiện tình hình.” [7, tr.132]. Qua những hình ảnh “đồng
lúa cỏ như thiêu”, “dải đất non sông khô đến thế”, “trời mưa móc vắng” không khó để
nhận thấy rằng đây không chỉ là những lời cảnh báo, nhắc nhở của Nguyễn Phi Khanh
mà đây còn như là một lời trách móc, quy trách nhiệm cho vua, cho những vị quan lại về
cuộc sống xã hội, những nhà Nho, những nhân vật trí thức quan liêu, những kẻ vốn tự
cho mình là người có trách nhiệm với dân với nước, nhưng thực tế lại chẳng hề lo lắng
cho dân chút nào. Hay nói cách khác, thiên nhiên trong văn học trung đại mang tính chất
ước lệ, tồn tại phụ thuộc vào con người, là cái để con người nói lên cảm xúc, tư tưởng,
tình cảm, phản ánh của mình, được xem như một hình thức “tả cảnh ngụ tình”.
Đối với không gian văn hóa như lễ hội, đền chùa, đền thờ,… thì theo quan niệm
xưa, nhà chùa được coi là nơi cư ngụ an toàn của con người trong xã hội loạn lạc, là hình
ảnh của sự ẩn dật. Tác giả sử dụng hình ảnh “nàng Kiều” vừa thoát khỏi nhà Hoạn Thư,
trong lúc bơ vơ, đã rẽ ngay vào Chiêu ẩn an - ngôi chùa đầu tiên mà nàng nhìn thấy –
của Giác Duyên, để tìm kiếm sự an toàn trong đó, tránh xa xã hội – nơi “đất khách quê
người” đầy những bất trắc, nơi cách biệt với cuộc sống bên ngoài, nhưng vô cùng an yên.
Trần Nho Thìn đã sử dụng hình ảnh nàng Kiều trốn chạy với thực tế bên ngoài bằng cách
“rẽ” vào ngôi chùa mà mình nhìn thấy, để người đọc hiểu được rằng không gian chùa
chiền, đền thờ trong các tác phẩm như là một ngã rẽ bình yên mà khi con người ta rơi
vào bước đường cùng, rơi vào tuyệt vọng thì đó sẽ là chỗ dựa tinh thần, là nơi để con
người ta bấu víu vào trong những lúc cùng quẫn nhất.
Không gian xã hội mang màu sắc chính trị cũng là một không gian được coi là
phổ biến nhất trong văn học trung đại lúc bấy giờ. “Những cách miêu tả không gian xã
hội ẩn chứa tư tưởng chính trị của tác giả thường được nhận diện không quá khó khăn
qua những mẫu hình quen thuộc về thân phận người dân (mô típ “sở kiến” – viết về điều
trông thấy), về bất công xã hội, về đạo đức và lối sống của người cầm quyền với viêc xây
dựng đền đài cung điện, cảnh ca hát, yến ẩm, cảnh sống nghèo nàn đói khổ của nhân
dân. Không phải ngẫu nhiên mà “Hoàng Lê nhất thống chí” mở đầu bằng sự việc Trịnh
Sâm, ông chóa quyền thế bậc nhất của triều đình Lê – Trịnh mê sắc đẹp của Đặng Thị lOMoAR cPSD| 59062190
Huệ đến mức bỏ con trưởng lập con thứ, phải gả con gái cho em Đặng Thị Huệ là Đặng
Mâu Lân, để Lân làm nhiều việc càn bậy. Theo lôgics này, tác giả hình như nghĩ rằng
đó chính là nguyên nhân sâu xa của sự kiện chính biến cung đình (kiêu binh nổi loạn),
và xa hơn là nguyên nhân của việc chúa Trịnh không thể đối phó được với lực lượng Tây
Sơn nên sụp đổ.” [7, tr.27]. Không chỉ có vậy, không gian xã hội còn được con người
tiếp nhận qua những hình ảnh, biểu tượng như “đất khách quê người”, “chân trời góc
bể”, hay các biểu tưởng về “miền nhân gian”, “cõi người ta”, các biểu tượng liên quan
đến thế giới bên kia, âm phủ, Diêm Vương, mồ mả nghĩa địa, hay các không gian có tính
lãng mạn, không tưởng như Tiên cảnh, suối Đào hoa, động Từ Thức,… “Không gian xã
hội đi vào tác phẩm văn học đã được lọc qua tâm lí tiếp nhận không chỉ là không gian
chính trị - xã hội, mà còn là cả không gian vật lí của một thời đại xác định với kĩ thuật,
trình độ tổ chức riêng.” [7, tr.27]. Trong văn học trung đại, việc con người sợ xã hội
không còn là một điều xa lạ, nỗi sợ ấy được kết đọng lại trong hình ảnh “đất khách quê
người”, “chân trời góc bể”. Con người quá khứ mỗi khi rời xa quê hương, đất nước, họ
luôn mang trong mình một cảm giác sợ sệt, một cảm giác tha hương nặng nề khó có thể
diễn tả bằng lời. Bởi vì lúc bấy giờ, việc đi lại, khoảng cách địa lí, việc liên lạc với nhau
là rất khó khăn, và đó cũng là nguyên do khiến con người ta khi đi xa thì luôn nhớ về cội
nguồn. Trái ngược với xã hội thời trung đại, thì con người bây giờ không quá đặt nặng
cảm xúc nhớ nhà nữa, theo lời tác giả thì ở xã hội hiện đại, ta có thể dễ thấy được khả
năng, trình độ kĩ thuật của con người trở nên cao hơn, việc di chuyển và liên lạc cũng
không còn khó khăn nữa. Sông sâu, núi cao cũng không còn gây ấn tượng đặc biệt về sự
chia cắt nghiệt ngã như trong cách nhìn nhận của con người thuở văn minh nông nghiệp
với khả năng kĩ thuật, công nghệ còn nhiều hạn chế. Bằng những phân tích, lí giải trên,
người đọc có thể thấy rằng việc không gian trong văn học đã có những ảnh hưởng lớn
như thế nào đến xã hội và con người, từ đó giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc đời, cuộc
sống của mỗi nhân vật khi được nhắc đến trong tác phẩm.
2.1.3. Ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn học trung đại đến văn học hiện đại
Nhờ việc nghiên cứu và hiểu về hệ quy chiếu của văn học trung đại, chúng ta
không khó để có thể nhận ra rằng: văn học hiện đại tuy được hiện đại hóa, quốc tế hóa, lOMoAR cPSD| 59062190
Âu hóa, nhưng trên nhiều phương diện thì nó vẫn tiếp tục chịu sự chi phối của các tầng
văn hóa trung đại. Điều này được tác giả minh chứng rõ qua giai đoạn văn học cách mạng
thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Ở giai đoạn này, văn học không phải là văn học, mà
văn học được xem là công cụ, vũ khí để chống giặc, dựa trên hình mẫu người quân tử sát
thân thành nhân, xả sinh thủ nghĩa vốn có từ văn thơ của các nhà Nho. “Bản lĩnh coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng, liễu sinh tử có cội nguồn sâu xa từ quan niệm về sinh tử của Nho
giáo và Phật giáo Thiền Tông từ hàng ngàn năm trước. Ngay trong thái độ khắc kỉ của
hình tượng những người chiến sĩ cách mạng cũng có không ít điểm bắt nguồn từ quan
niệm khắc kỉ về thân xác của các học thuyết tư tưởng truyền thống.” [7, tr.38]. Không
những vậy, tác giả còn chỉ ra những nhà văn hiện đại vẫn sử dụng một số thủ pháp quen
thuộc của người xưa để phê phán, thậm chí là hạ bệ một ai đó: mô tả một nhân vật phàm
ăn tục uống, ham mê sắc dục, như trong tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài. Tuy
nhiên, cũng có một số tác giả trẻ đã bày tỏ quan điểm, miêu tả tình dục như là một phương
diện hoạt động sống thiết yếu của nhân vật, nhằm tỏ rõ xu thế cách tân trong văn học.
Trong đề tài nghiên cứu, tác giả đã chỉ rõ việc phải chú ý đến những cấm kị và
việc đối phó với cấm kị như là một hiện tượng văn hóa. “Những cấm đoán về chính trị
(triều đình khống chế không cho phép công khai, trực tiếp chỉ trích chính sách hay chế
độ, người nào dám phê phán, chỉ trích có thể bị trừng phạt nghiệt ngã), cấm đoán sự thể
hiện đời sống tự nhiên, bản năng (tuyên truyền văn hóa lễ nghĩa, hình thành khái niệm
“dâm tục” mang tính chất đánh giá đối với biểu hiện bản năng). Nhưng theo quy luật ở
đâu có cấm kị thì ở đó có đối phó với cấm kị.” [7, tr.45, 46]. Minh chứng cho điều này
chính là thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, đây là một ví dụ sinh động về việc đối phó với
những điều cấm kị trong lĩnh vực đời sống tình dục. Trong thơ Hồ Xuân Hương, các đối
tượng đề vịnh đã được lựa chọn một cách rất công phu, để có thể vừa là chính nó mà
cũng vừa là đối tượng mà khi nhắc đến liền liên tưởng ngay đến hoạt động tình dục: bánh
trôi, quả mít, ốc nhồi, cái quạt, cây đu và cảnh đánh đu, cảnh dệt cửi, tát nước. Kết hợp
với lối nói lái, một từ vừa là chính nó vừa không phải là nó: trái gió, lộn lèo. Việc đề vịnh
của thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương chỉ có thể được lí giải cặn kẽ nếu ta đặt