



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 59062190   MỤ ỤC L C 
MỞ ĐẦU.... .... .... .. ...... ...... .... .. ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...... 2 
1. Lí do chọn đề tài.... .... .... .. .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ... ...... ..... .. ... .... ...... ...... ..2 
2. Lịch sử nghiên cứu.... .... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ...3 
3. Mục đích nghiên cứu.... .... .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ...... ..... ...... ... ..... ..... ...... ...4 
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.... .... ...... ...... ...... ..... .. ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ....5 
4.1. Đối tượng nghiên cứu.... .... .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ... ...... ..... .. ... .... ...... ..5 
4.2. Phạm vi nghiên cứu.... .... .... ......... ...... ...... ...... ..... ...... ......... ...... ...... ..... .. ... ...... .... .. .....5 
5. Giá trị khoa học và thực tiễn.... .... .... ...... ...... ...... ....... ......... ...... ...... ..... .. ... ...... .... ... ...... ....5 
6. Phương pháp nghiên cứu. ... .... ... ...... ..... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...5 
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp.... .... ...... ...... .......... .... .. ...... ...... ........ ...... ...... ...... ......5 
6.2. Phương so sánh – đối chiếu.... .... .. ......... ..... ...... .......... .. ...... ...... ..... .. ... ...... ..... .. ...... ....6 
7. Bố cục của tiểu luận.... .... .. .... ...... ...... ...... ..... .. ... ...... .... ... ...... ..... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... ..6 
NỘI DUNG.... .... .... ...... ...... .... .. ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........7 
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG.... .... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......... ..... .7 
1.1. Cơ sở lí luận.... .... .... .. .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .. ...... ..... .. ... ...... ..... .. ... .... ...... ...... ..7 
1.1.1. Một số điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam.... .... .... .. ...... ...... ...... .... ...... ......7 
1.1.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV.... .... ...... ....... ..... ..... ...... ...... ...... ...... .....7 
1.1.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVIII.... .... .... .... .... ...... ...... ..... ...... ...... ......7 
1.1.1.3. Giai đoạn từ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.... .... ...... ...... ........ ...... ...... ...... ...... ......8 
1.1.1.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX.... .... .. .... .. ......... ..... .. .... ...... ...... ...... ...... ...... ..... .8 
1.1.2. Vài nét về nền văn hóa Việt Nam.... .... .... ........... .... ...... ...... ..... ...... ...... ...... ...... ........ 9 
1.2. Trần Nho Thìn – nhà Nho “hay chữ nhất nước Nam”.... .... .... .. ...... ...... ...... .... ... ...... ...10 
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Trần Nho 
Thìn.... .... ...... ...... ........ ........ ......... ..... ...... ......10 
1.2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của Trần Nho Thìn.... .... ...... ...... ...... ..... .11 
1.3. Một số điểm nổi bật công trình Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần 
Nho Thìn).... .... ...... ...... ...... .... ... ...... ..... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... ...... ...... ...... ...... ......... ..... .12 
1.3.2. Các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam được tác giả tiếp cận và giải quyết theo cơ sở 
văn hóa học.... .... .... ............. .. ...... ...... ..... .. ... ...... ..... .. ...... ..... .. ...... ...... ..... ... .. ........ ....12 
1.3.3. Bước đầu về việc tiếp cận văn học bằng phương pháp văn hóa học.... .... .... .. ...... .... ...13    lOMoAR cPSD| 59062190
Chương 2: NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC 
NHÌN VĂN HÓA (TRẦN NHO THÌN).... .... .... ...... .. .... ...... ...... ...... ...... ..... ...... .... .. ...... ...... .15 
2.1. Hệ quy chiếu văn hoá học dưới góc nhìn của Trần Nho Thìn.... .... ...... ....... ..... ..... ...... ...15 
2.1.1. Quan niệm văn hóa và văn hóa học.... .... .... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ...... ...15 
2.1.2. Các kiểu hình tượng xã hội và không gian trong văn học.... .... ...... ...... ........ ........ .... .16 
2.1.3. Ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn học trung đại đến văn học hiện đại.... .... .... .. .. .... ...20 
2.2. Cách nhìn nhận từ hoàn cảnh xã hội - tiền đề văn hóa.... .... ...... ...... ...... ..... .. ... .... ...... ..21 
2.3. Những đóng góp lớn về sự nghiệp chính trị Việt Nam.... .... .... .. ...... ...... .......... .... ...... ....23 
2.4. Quan niệm văn học trung đại - quan niệm đề cao thân và tâm triết lý - tôn giáo.... .... ......26 
Chương 3: NHỮNG HẠN CHẾ CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN 
VĂN HÓA ( TRẦN NHO THÌN).... .... .... ...... ...... ...... .... ...... ...... ...... ..... ...... ...... ...... ...... ........31 
3.1. Việc thể hiện sự đổi mới và tiến bộ trong văn học vẫn còn hạn chế.... .... ...... .... ...... ...... ..31 
3.1.1. Hạn chế trong việc thể hiện vai trò và giá trị của phụ nữ trong văn học trung đại Việt 
Nam.... .... .... .. ...... ...... ........ .. ...... ...... ..... .. ... ...... ..... .. ...... ..... .. ...... ...... ..... ... .. ........ ....33 
3.1.2. Văn hoá chưa được khai thác triệt để.... .... .... ......... .. .... ...... ...... ...... ..... .. ... ...... .... .34 
3.1.3. Phương pháp nghiên cứu còn sơ sài.... .... .... ...... .......... .. ...... ...... ..... .. ...... ..... .. .... ..36 
3.2. Giai cấp xã hội khác nhau trong văn học trung đại Việt Nam thiếu cân đối.... .... .... .. .....38 
3.2.1 Sự chênh lệch của các tầng lớp xã hội.... .... .... ...... ...... ...... ......... ..... ...... ...... ...... ......38 
3.2.2. Mối quan hệ không mấy thuận lợi giữa nhà nho với làng xã.... .... .... ...... ...... ...... .......39 
3.3. Nguồn tài liệu và tham khảo còn hạn chế.... .... .... ........ .... .. ........ ...... ...... ...... ...... ......... 42 
3.4. Đánh giá chủ quan của tác giả.... .... .... ...... ...... ...... ... .... ...... ...... ...... ..... ...... ...... ...... ....45 
KẾT LUẬN.... .... ...... .......... .... .. ...... ...... ...... ........ ... .. ......... ..... ...... ...... ...... ...... ........ ...... .....48 
TÀI LIỆU THAM KHẢO.... .... .... .. ...... ...... ........ .. ..... ..... ...... ...... ...... ...... ...... ........ ...... ......49        lOMoAR cPSD| 59062190 MỞ ĐẦU  1. Lí do chọn đề tài 
1.1. Văn học trung đại Việt Nam, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học 
nước nhà, kéo dài từ thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX. Giai đoạn này bao gồm nhiều biến 
động lịch sử và văn hóa, với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo, Phật giáo 
và Đạo giáo. Không chỉ phản ánh tinh thần yêu nước, tôn vinh đạo đức và triết lý nhân 
sinh mà còn là tiếng nói phê phán xã hội, đồng cảm với những số phận con người trong 
xã hội phong kiến. Những nền móng vững chắc của văn học dân tộc được xây dựng và 
gìn giữ ngót mười thế kỉ là một tài sản hết sức quý báu đối với các thời kì phát triển tiếp 
sau của kiến trúc thượng tầng xã hội.. 
1.2. Dù vậy, vẫn còn không ít những khía cạnh của văn học trung đại làm cho 
chúng ta băn khoăn hoài nghi. Để góp phần rút ngắn con đường đi đến sự thật để giải mã 
triệt để các vấn đề tưởng như nan giải mà thời kì văn học này để lại các nhà văn, nhà 
nghiên cứu đã có những nhận định, đóng góp hết sức quan trọng về nền văn học này. 
Những người có những đóng góp quan trọng đó là: Trần Đình Sử, Nguyễn Đình Chú, Lê 
Chí Viễn, Trần Thị Băng Thanh… Và không thể không kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu 
Trần Nho Thìn ông đã đóng góp rất nhiều trong việc nghiên cứu và giảng dạy về văn học 
trung đại Việt Nam. Ông xuất bản nhiều tác phẩm nghiên cứu về các nhà văn, nhà thơ 
nổi tiếng trong giai đoạn này như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, và nhiều 
tác giả khác. Và đặc biệt, tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa 
của Trần Nho Thìn là một công trình nghiên cứu có giá trị trong việc hiểu biết sâu sắc 
hơn về văn học trung đại Việt Nam qua lăng kính văn hóa. Tác phẩm tập trung vào việc 
phân tích các tác phẩm văn học trung đại từ góc độ văn hóa, giúp làm nổi bật các giá trị 
văn hóa, tư tưởng, và nghệ thuật của thời kỳ này. Tác phẩm cũng cho thấy sự ảnh hưởng 
qua lại giữa văn học và các yếu tố văn hóa, cho thấy cách mà văn học phản ánh và góp 
phần vào sự hình thành và phát triển văn hóa dân tộc.Từ đó, giúp độc giả một cách nhìn 
nhận mới mẻ, toàn diện và sâu sắc hơn về giá trị văn học trung đại, không chỉ từ góc độ 
văn học mà còn từ góc độ văn hóa.    lOMoAR cPSD| 59062190
Vì những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài những thành công và hạn 
chế của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn)  để nghiên cứu.  2. Lịch sử nghiên cứu 
Theo bài viết Văn học Việt Nam từ góc nhìn văn hóa của La Sơn đã đề cập đến ba 
yếu tố của tác phẩm. Đầu tiên là phương pháp tiếp cận văn học: Nhấn mạnh định hướng 
tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn học, phác thảo tính hệ thống và tiến trình văn 
học trung đại Việt Nam như là bước tiến đồng hành với quá trình vận động, phát triển 
của nền văn hóa dân tộc. Tiếp theo là hệ thống hóa nghiên cứu tác phẩm tập hợp nhiều 
nghiên cứu chi tiết về văn học trung đại, từ lý luận đến thực hành, nhấn mạnh vai trò của 
“cái tôi” tác giả và phản ánh xã hội trong văn chương nhà nho, La Sơn đã chỉ ra rằng: 
Khi đi vào phân tích, lý giải các tác gia, tác phẩm, hiện tượng văn học cụ thể, Trần Nho 
Thìn thường xây dựng các điểm tựa chắc chắn trên cơ sở một luận đề lý thuyết, một hệ 
thống chứng cứ, một mối quan hệ xác thực, “nói có sách, mách có chứng”. Và yếu tố 
cuối cùng là nhận định về nhân vật văn học, La Sơn đã phân biệt giữa hai loại văn chương 
nhà nho, một loại tập trung vào mô tả nhân vật với chân dung cụ thể, và một loại khác 
chủ yếu bình luận về nhân vật lịch sử: Văn chương nhà nho viết về con người có hai loại. 
Trước hết và đáng chú ý hơn cả là mảng sáng tác trong đó con người được thể hiện ở 
cấp độ nhân vật văn học. Ở đây nhà nho mô tả, xây dựng con người theo hướng khắc 
hoạ các nhân vật… trong phần văn chương viết về con người còn lại của nhà nho, ta 
không thấy nhà nho miêu tả, khắc hoạ con người với chân dung hay tính cách cụ thể. Ở 
đây, mặc dù con người là đối tượng bình luận, đánh giá, là nguồn khơi gợi cảm hứng 
sáng tác nhưng lại không được thể hiện ở cấp độ nhân vật văn học. 
Theo công trình nghiên cứu Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa – một số xu 
hướng chính ở Việt Nam, Phùng Phương Nga đã đề cập về bốn hình thức nghiên cứu văn 
học từ góc nhìn văn hóa đã từng tồn tại trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam. Ở 
nghiên cứu văn học từ hoàn cảnh xã hội, tiền đề văn hóa Phùng Phương Nga đã nhận 
định rằng: Tiêu biểu là Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn.    lOMoAR cPSD| 59062190
Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu giải thích thành tựu của văn học trung đại từ bức tranh 
văn hóa lịch sử; nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đã nghiên cứu về mẫu nhà nho tài tử 
trong văn học trung đại; nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng sự kiện văn hóa quá 
khứ có ý nghĩa lớn trong việc giải mã văn học trung đại vì khi đó "khả năng suy diễn, 
khả năng hiện đại hóa có thể được giảm thiểu và chúng ta càng có nhiều cơ may đến 
gần sự thật lịch sử văn học. Phùng Phương Nga cũng nhận định phương pháp nghiên 
cứu văn học từ góc nhìn văn hóa là một trong những những công trình có ý nghĩa to lớn 
trong viêc xây nền móng, tạo đà cho một cú hích lớn trong tình hình nghiên cứu văn học  của nước nhà. 
Nguyễn Hữu Tình trong bài viết Tích hợp văn hóa – Phương pháp tiếp cận tác 
phẩm văn học sáng tạo nhận định rằng việc tích hợp văn hóa vào nghiên cứu văn học 
mang lại nhiều hiểu biết sâu sắc về tác phẩm. Phương pháp này xem xét các yếu tố văn 
hóa như ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục và tổ chức xã hội, giúp làm rõ mối quan hệ 
giữa văn học và bối cảnh văn hóa. Công trình của Trần Nho Thìn về văn học trung đại 
Việt Nam cũng được đánh giá cao trong việc ứng dụng phương pháp tiếp cận này để 
phân tích văn học qua các thời kỳ khác nhau: Công trình Văn học trung đại Việt Nam 
dưới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn cũng trên nền tảng văn hóa trong đó tác phẩm 
ra đời… chẳng những thích hợp cho văn học trung đại… mà còn có thể vận dụng phương 
pháp tiếp cận này để phân tích sáng tác văn học ở các nền văn học hay các thời đại văn 
học khác. Một sự nghiên cứu so sánh văn học trung đại và văn học hiện đại có thể cho 
chúng ta thấy về khả năng này. 
Nhóm chúng tôi nhận thấy hầu như các công trình nghiên cứu chưa đi sâu vào 
khai thác những thành công và hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn 
văn hóa (Trần Nho Thìn) một cách toàn diện, hệ thống. Vì thế, đề tài nhóm chúng tôi 
quyết định chọn là một đề tài đảm bảo mang tính khoa học.  3. Mục đích nghiên cứu 
Nhằm tìm hiểu những thành công và hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam 
dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn). 
Để hoàn thành bài tập cuối kì môn các xu hướng nghiên cứu văn học Việt Nam.    lOMoAR cPSD| 59062190
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
4.1. Đối tượng nghiên cứu 
Tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần 
Nho Thìn (2007), NXB Giáo dục. 
Tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần 
Nho Thìn (2003), NXB Giáo dục.  4.2. Phạm vi nghiên cứu 
Phạm vi nghiên cứu là những yếu tố làm nên thành công và hạn chế của tác phẩm 
Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa bao gồm: 
Thành công: Phân tích sâu rộng góc nhìn mới mẻ, tài liệu phong phú, kết hợp lí  luận văn học văn hóa. 
Hạn chế: Khó tiếp cận đối với người đọc phổ thông thiếu sự so sánh quốc tế, giới 
hạn về tư liệu, tính phê bình chưa cao. 
5. Giá trị khoa học và thực tiễn 
Kết quả của công trình nghiên cứu sẽ góp phần làm rõ về những thành công và 
hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa (Trần Nho Thìn). Từ đó 
góp phần khẳng định tài năng cũng như là những đóng góp và vị trí của ông trong nền 
văn học trung đại Việt Nam. 
Giúp người nghiên cứu củng cố và vận dụng các kiến thức văn học đã được tiếp 
thu để nghiên cứu một hiện tượng văn học cụ thể. 
6. Phương pháp nghiên cứu 
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp 
Ở phương pháp này, chúng tôi đi xem xét, đánh giá, lựa chọn những nguồn tài liệu 
có giá trị đáng tin cậy, để từ đó có thể phân tích các vấn đề liên quan đến những thành 
công và hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa và những vấn 
đề về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả. Thông qua những gì đã phân tích, chúng tôi sẽ 
tổng hợp lại những thành công và hạn chế của tác phẩm cũng như nêu rõ tầm quan trọng 
của tác phẩm trong việc nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam.    lOMoAR cPSD| 59062190
6.2. Phương so sánh – đối chiếu 
So sánh tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của Trần 
Nho Thìn với các công trình nghiên cứu khác có đề tài về văn học trung đại như Trần 
Đình Sử, Đỗ Lai Thúy... Trong đó, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh các tác phẩm, suy luận, 
nhận xét, đánh giá, phán đoán về các đặc điểm của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc 
nhìn văn hóa để từ đó nhận thấy được những thành công và hạn chế của tác phẩm nói 
riêng và có cái nhìn toàn diện về tác phẩm trong sự liên hệ với các nghiên cứu về văn 
học trung đại Việt Nam nói chung. 
7. Bố cục của tiểu luận 
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung tiểu luận gồm 3  chương: 
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung 
Chương 2: Những thành công của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn  hóa (Trần Nho Thìn). 
Chương 3: Những hạn chế của Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa  (Trần Nho Thìn)  NỘI DUNG 
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG  1.1. Cơ sở lí luận 
1.1.1. Một số điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam 
“Văn học thời trung đại bao gồm những sáng tác, trước tác bằng chữ Hán và chữ 
Nôm của các tác giả thuộc tầng lớp quí tộc, sĩ phu phong kiến. Văn học phát triển trong 
tiến trình xây dụng và bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập tự chủ qua các triều đại phong 
kiến ở Việt Nam” [5, tr.10]. 
1.1.1.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV 
Ở giai đoạn này, văn học trung đại Việt Nam phát triển trong hoàn cảnh lịch sử 
đặc biệt. Đó là dân tộc ta vừa giành được quyền độc lập từ chủ vào giữa thế kỷ X và lập    lOMoAR cPSD| 59062190
nhiều kỳ tích trong các cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược ở thế kỷ XI – XII 
và chống quân Nguyên Mông ở thế kỷ XIII. Sau những cuộc chiến tranh vệ quốc là công 
cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình. Chế độ phong kiến Việt Nam đang ở thời kì ổn  định và phát triển. 
Văn học ở giai đoạn này có những bước ngoặt lớn như văn học viết ra đời ở thế 
kỷ X (bài thơ sớm nhất là bài Quốc Tộ – Đỗ Pháp Thuận), tiếp đó là sự xuất hiện của văn 
học chữ Nôm ở thế kỷ XIII. Đây chính là bước ngoặt mở ra sự phát triển mạnh mẽ của  văn học dân tộc. 
1.1.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XVIII 
Đây là thời kỳ mà nhân dân ta tiếp tục lập lên những chiến công trong cuộc kháng 
chiến chống Minh ở thế kỷ XV, đưa chế độ phong kiến Việt Nam đạt đến cực thịnh dưới 
triều đại Lê Thánh Tông ở cuối thế kỷ đó. Bước sang thế kỷ XVI, chế độ phong kiến có 
những biểu hiện khủng hoảng dẫn đến những cuộc nội chiến và đất nước bị chia cắt 
nhưng nhìn chung tình hình xã hội vẫn tạm thời ổn định. Văn học giai đoạn này có bước 
phát triển mới, trong đó nổi bật nhất là những thành tựu nghệ thuật của văn học chữ Nôm 
(tiêu biểu là Hồng Đức quốc âm thi tập của Lê Thánh Tông; Quốc âm thi tập của Nguyễn 
Trãi; Bạch vân quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Thiên Nam ngữ lục; các truyện 
Nôm…). Hiện tượng văn – sử – triết bất phân khá đậm trong văn học Lý – Trần đã mờ 
dần từ thế kỷ XV, khi xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm giàu chất văn chương hình  tượng. 
1.1.1.3. Giai đoạn từ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX 
Văn học giai đoạn này phát triển trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động bởi 
nội chiến phong kiến dấn đến sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và bão 
táp của phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Khởi nghĩa 
Tây Sơn cùng lúc lật đổ các tập đoàn phong kiến thống trị ở trong nước cả đàng Trong 
và đàng Ngoài., đánh tan ngoại xâm ở phía Nam và phía Bắc. Nhưng phong trào Tây 
Sơn suy yếu và thất bại. Triều Nguyễn thống nhất đất nước thiết lập một chế độ phong 
kiến quan liêu mới và đất nước đứng trước hiểm họa xâm lăng của chủ nghĩa thực dân  Pháp.    lOMoAR cPSD| 59062190
Ở giai đoạn này, văn học phát biểu vượt bậc, có nhiều đỉnh cao nghệ thuật (Chinh 
phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm; Cung oán ngâm khúc của Nguyễn 
Gia Thiều; Truyện Kiều của Nguyễn Du; thơ Nôm của Hồ Xuân Hương; Thượng kinh ký 
sự của Lê Hữu Trác…). Đây là giai đoạn rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam vì 
nó vừa phong phú về mặt nội dung, vừa đa dạng về hình thức nghệ thuật. Đây cũng là 
thời kì mà lần đầu tiên các thể loại văn học dân tộc ra đời như: 
Ngâm khúc; Truyện Nôm; Thơ ca trù – hát nói… 
1.1.1.4. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX 
Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng xâm lược đầu tiên vào cảng Đà Nẵng và 
từng bước xâm lược Việt Nam. Nhân dân cả nước kiên cường đứng lên chống giặc ngoại 
xâm, nhưng rồi đất nước dần rơi vào tay giặc và cuối cùng trở thành thuộc địa của thực 
dân Pháp. Xã hội Việt Nam chuyển dần từ xã hội phong kiến sang xã hội thực dân nửa 
phong kiến.Văn hóa Nho giáo truyền thống ngày bị mai một, văn hóa phương Tây bắt 
đầu có những ảnh hưởng tới đời sống xã hội Việt Nam. 
Văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX phát triển rất phong phú và nhìn chung 
mang âm hưởng bi tráng. Ở giai đoạn văn học này, chữ Quốc ngữ bắt đầu xuất hiện, 
nhưng văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm vẫn là chính. Sáng tác văn học chủ yếu vẫn 
theo thể loại và thi pháp truyền thống. Tuy nhiên sự xuất hiện một số tác phẩm văn xuôi 
viết bằng chữ quốc ngữ đã bước đầu đem đến cho văn học những nét mới theo xu hướng  hiện đại hóa. 
1.1.2. Vài nét về nền văn hóa Việt Nam 
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của 
đời sống xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, văn hóa ngày càng khẳng định được 
vị thế, nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa từ quần chúng nhân dân không chỉ 
tham gia vào quá trình thưởng thức mà còn sáng tạo văn hóa. 
Trần Ngọc Thêm đã nêu quan điểm của mình về khái niệm văn hóa như sau: “Văn 
hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và 
tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi 
trường tự nhiên và xã hội” [7]. Ông cho rằng tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau,    lOMoAR cPSD| 59062190
nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính: 
theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều 
sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều 
sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ 
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng 
lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo không gian, văn hoá 
được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá 
Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng 
giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…). Theo nghĩa rộng, văn hoá thường 
được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh 
đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và 
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ 
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử 
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp 
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra 
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [7]. Theo Đại từ 
điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo 
xuất bản năm 1998: văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra 
trong lịch sử. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số 
người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng 
tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này 
khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, 
phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng 
quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 
tại Venise”[7]. Những nét này đã tạo nên sự độc đáo và đặc trưng cho văn hóa Việt Nam, 
phản ánh lịch sử và tinh thần của người dân trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ 
nước. 1.2. Trần Nho Thìn – nhà Nho “hay chữ nhất nước Nam” 
Trần Nho Thìn là người có sự hiểu biết sâu sắc và nghiêm cẩn của một nhà nghiên 
cứu hành đầu về văn học Trung đại Việt Nam. Trần Nho Thìn nhất quán chọn hướng tiếp    lOMoAR cPSD| 59062190
cận văn hóa, lấy con người làm đối tượng trung tâm cho sự nghiệp nghiên cứu văn học. 
Đây là một lựa chọn rất có ý nghĩa, góp phần làm cân bằng môi trường nghiên cứu phê 
bình ở nước ta, khi thì nghiêng về tính giai cấp, lúc lại nghiêng về tính hình thức xem 
nhẹ môi trường văn hóa xã hội, ông đã thuyết phục người đọc rằng luận điểm nói đến 
văn hóa là nói đến con người. Sáng tác của ông biểu hiện vai trò là dấu nối của hai thời 
đại, hai nền văn học cũ và mới. Ông xuất thân từ một nhà nho, thông thạo lối văn cử tử, 
từng được mệnh danh “hay chữ nhất nước Nam”. 
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật của Trần Nho Thìn 
Trần Nho Thìn đã sử dụng phương pháp tiếp cận tác phẩm từ quan điểm văn hóa 
học để giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng, 
đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong không gian 
và thời gian. Phương pháp này ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa trong 
đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, 
đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người trong đời sống sinh hoạt 
xã hội sống động hiện thực… từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối 
với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, mô típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn  ngữ,… 
1.2.2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu của Trần Nho Thìn 
Trần Nho Thìn bảo vệ Phó tiến sĩ văn học năm 1989 tại Viện Đông phương học, 
Viện hàn lâm khoa học Liên Xô với đề tài Quan niệm của nho giáo về nhân cách và sáng 
tác của Nguyễn Du, được Nhà xuất bản của Viện hàn lâm ấy in thành sách. Năm 2004, 
Trần Nho Thìn được phong Phó giáo sư. Ông được biết đến là một chuyên gia hàng đầu 
về văn học Trung đại Việt Nam, ông có sự hiểu biết sâu sắc và nghiêm cẩn của nhà nghiên 
cứu văn học. Cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa được in các lần 
năm 2003-2007-2009. Cuốn Văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, in năm 
2012 với 700 trang như bách khoa về văn học trung đại. Gần đây nhất là Phương pháp 
tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học được in vào năm 2017. Năm 2007, Trần Nho 
Thìn chủ biên Truyện Kiều - Khảo dị - Chú thích và bình luận. Ông dày công nhìn lại 
200 năm hành trình của Truyện Kiều từ chỗ bản thảo viết tay đến khi được khắc bản in    lOMoAR cPSD| 59062190
rồi phổ biến bằng chữ quốc ngữ. Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng 
dạy văn học như là một công trình đi trước phục vụ Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 
2021. Ngoài ra còn có nhiều công trình như Từ điển văn học (viết chung với người khác), 
2 tập, Nxb Khoa học Xã hội, năm 1983; Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt 
Nam (viết chung), Nxb Giáo dục, năm 1997, 2010; Nguyễn Du và quan niệm của nho 
giáo về nhân cách (dịch từ tiếng Nga), Nxb Khoa học, Nauka.M, năm 1989; Nguyễn 
Công Trứ – về tác gia, tác phẩm (tuyển và viết giới thiệu), Nxb Giáo dục, năm 2003; 
Tuyển tập công trình về Văn học nghệ thuật Thăng Long Hà Nội (chủ biên), Nxb Hà Nội, 
năm 2010. Ngoài ra, ông còn có các dịch thuật và bài báo về văn học và văn hóa Ý thức 
về nền văn hiến dân tộc - một bộ phận cấu thành của ý thức độc lập dân tộc, Tạp chí 
Văn học, số 1/ 1980, tr. 97-105 hay Hiện tượng vay mượn cốt truyện ở các truyện Nôm 
bác học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIIInửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Văn học, số 1/1983, 
tr. 100-113… Ông là một trong những học giả có ảnh hưởng đối với nghiên cứu văn học 
trung đại tại Việt Nam. 
1.3. Một số điểm nổi bật công trình Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn  hóa (Trần Nho Thìn) 
Trần Nho Thìn đã hệ thống lại các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam, xem 
đó là một dòng chảy liên tục, vận động và phát triển hết sức đa dạng. Sau đó, ông đưa ra 
những quan niệm học thuật về phương pháp văn hóa mới mẻ. Các vấn đề phương pháp 
luận mà ông nêu ra ở phần này chính là tinh thần của toàn bộ quyển sách. Tính chất học 
thuật luôn là rào cản cho những cho những độc giả ham hiểu biết song trình độ nhận thức 
có giới hạn, đối với quyển sách này cũng không ngoại lệ. Tuy vậy trong quyển sách này, 
tác giả đã trình bày các vấn đề học thuật mạch lạc và rõ ràng. Điều mới mẻ trong quyển 
sách chính là hệ thống lí luận đã được tập hợp lại và đứng riêng lẻ thành một phần độc 
lập trong toàn bộ chỉnh thể quyển sách. 
1.3.2. Các vấn đề của văn học trung đại Việt Nam được tác giả tiếp cận và giải quyết  theo cơ sở văn hóa học 
Riêng trường hợp Truyện Kiều của Nguyễn Du, Trần Nho Thìn đã dành nhiều 
công sức để nhìn nhận và đánh giá lại theo quan điểm của mình. Ông lập luận các vấn    lOMoAR cPSD| 59062190
đề một cách khách quan và không phủ nhận những đóng góp của các công trình khác. 
Trái lại, ông qua nền tảng của mấy trăm năm tiếp nhận Truyện Kiều mà phát ngôn lý 
thuyết của mình. Tính kế thừa của quyển sách này là không thể phủ nhận. Nhưng cái 
chính yếu làm nên giá trị của công trình này là ở khía cạnh đề xuất và nêu lên những tư 
tưởng tiến bộ. Trong phần nói về Truyện Kiều, Trần Nho Thìn viết rằng phương pháp 
phân tích khi áp dụng cho Truyện Kiều không thích hợp với mọi góc độ của tác phẩm. 
Ông lấy ví dụ phân tích vấn đề tư tưởng triết học ở Truyện Kiều. Thực tế thì khái niệm 
tư tưởng tôn giáo không được dùng đúng với nghĩa kinh điển của nó, có nhiều trường 
hợp Nguyễn Du phải đứng trên lập trường của văn hóa dân gian để có thể hiểu các khái 
niệm tư tưởng tôn giáo ngoại lai. Đây là một trong những phát hiện rất đáng trân trọng 
của tác giả. Bởi lẽ trên thực tế, văn bản Truyện Kiều cùng với các điển tích điển cố đang 
tạo ra một cuộc tranh luận chưa ngã ngũ của giới học thuật. Giá trị của Truyện Kiều có 
nguy cơ bị phương hại nếu không có được một đề xuất mang tính cách mạng. 
Bằng góc độ văn hóa học, ông lật giở lại lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều qua các giai 
đoạn lịch sử văn học dân tộc, tiếp đó mạnh dạn đề xuất quan điểm của mình như một 
phương diện mới để tiếp cận Truyện Kiều. Cũng trong phần này, tác giả còn bàn bạc các 
vấn đề loại thể: “Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại thư tịch của Lê Quý 
Đôn và Phan Huy Chú”. Vấn đề về quan niệm nhân sinh trong văn hóa trung đại như: 
“Bi kịch tinh thần của nhà Nho Việt Nam với tư cách là một nhân vật văn hóa” ; “Sự thể 
hiện con người trong văn chương cổ”. Ngoài ra còn đề cập đến áng thiên cổ hùng văn 
Bình Ngô Đại Cáo dưới ánh sáng của loại hình học văn hóa... Một điều dễ nhận thấy 
rằng những tác phẩm, tác giả có vị trí quan trọng trong giai đoạn văn học trung đại đều 
được giới thiệu bằng những lát cắt độc đáo mang đầy cá tính của tác giả – cá tính có 
được nhờ một vốn am hiểu sâu sắc và chuẩn mực. 
1.3.3. Bước đầu về việc tiếp cận văn học bằng phương pháp văn hóa học 
Giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX lại hiện lên hết sức sinh động. Bằng 
cách so sánh đối chiếu giữa hai cặp khái niệm cũ – mới, trên cơ sở đặc trưng văn hóa, 
Trần Nho Thìn đã vạch ra được hàng loạt vấn đề về giai đoạn giao thời cực kì nhạy cảm 
của văn học nước ta, giai đoạn mà cái cũ dần lùi lại để cái mới tiến lên. Như đã biết trong    lOMoAR cPSD| 59062190
thời kì này, Việt Nam đã du nhập rất nhiều các hệ tư tuởng mới, và thật bất ngờ, việc 
khảo sát sự hình thành, vận động và phát triển của từng tư tưởng chỉ có thể chính xác khi 
áp dụng phương pháp văn hóa học. Như vậy, phương pháp của tác giả đề xuất không 
dừng lại ở một sự thể nghiệm đơn nhất, mà còn là một mong muốn mở rộng đường biên 
ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn hóa học sang các lĩnh vực khác. Bằng tâm thức của một 
nhà khoa học muốn truy tìm chân giá trị, Trần Nho Thìn đã nhận định về văn học Việt 
Nam giai đoạn 1900 – 1930 rằng thơ Việt Nam từ 1900 đến 1932 trong bối cảnh hiện tại 
có một ý nghĩa thực tiễn to lớn. Lịch sử mọi thay đổi đều cần có một tương quan văn hóa 
cần thiết làm nền tảng, khi đến lượt nó, nền tảng văn hóa lại có được trên nền tảng của 
kinh tế xã hội. Khi căn bản văn hóa tâm linh nông nghiệp đang vẫn chủ đạo trong tâm 
thức người Việt Nam thì vẫn cần có sự dung hòa giữa thơ truyền thống và thơ mới cách 
tân. Không thể nôn nóng sáng tạo cái gì đó mới mà không hợp quy luật. Có thể thấy cách 
nhìn ấy phản ánh trung thực một hiện thực có thật của lịch sử văn học dân tộc và hơn thế 
còn khẳng định tiềm năng to lớn của một lí thuyết phương pháp khoa học.  TIỂU KẾT 
Có thể thấy, văn học trung đại Việt Nam không chỉ phản ánh những khía cạnh 
chính trị, xã hội, và tôn giáo của thời đại mà còn là một bức tranh đa dạng về văn hóa, 
tâm lý, và triết lý sống của người Việt Nam xưa. Nó phát triển gắn chặt với lịch sử dân 
tộc cũng như phát triển trong sự giao lưu văn hóa, văn học nước ngoài theo một quy luật 
tiếp nhận vững chắc và sáng tạo. Trần Nho Thìn đã tìm được cho mình một hướng đi 
riêng trong việc tiếp cận và phản ánh văn học trung đại dưới góc nhìn văn hóa qua những 
yếu tố ảnh hưởng đến sự nghiệp sáng tác cùng quan niệm nghệ thuật của ông. Bên cạnh 
đó, chương 1 cũng nêu rõ những điểm nổi bật của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam 
dưới góc nhìn văn hóa để bước đầu có cái nhìn tổng thể và khách quan hơn, từ đó có 
hướng đi đúng đắn cho việc tìm hiểu thành công và hạn chế của tác phẩm. Với những 
nội dung nêu trên, chương 1 sẽ tạo tiền đề và làm cơ sở vững chắc cho việc đi sâu tìm 
hiểu thành công và hạn chế của tác phẩm Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn  hóa ở hai chương sau.    lOMoAR cPSD| 59062190 Chương 2 
NHỮNG THÀNH CÔNG CỦA VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM DƯỚI GÓC 
NHÌN VĂN HÓA (TRẦN NHO THÌN) 
Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa của tác giả Trần Nho Thìn là 
một công trình lớn, có những nghiên cứu giá trị, đã đóng góp quan trọng trong việc 
nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam từ góc độ văn hóa. Và điều đó góp phần tạo nên 
những thành tựu mà tác giả đã đạt được trong tác phẩm của mình. Những thành công đó 
không chỉ phản ánh chân thực xã hội, cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ, mà còn có 
đóng góp quan trọng trong việc củng cố và phát triển quan niệm về văn học, văn hóa Việt 
Nam. Dưới đây là một số thành công dựa trên việc phân tích tác phẩm nghiên cứu: 
2.1. Hệ quy chiếu văn hoá học dưới góc nhìn của Trần Nho Thìn 
2.1.1. Quan niệm văn hóa và văn hóa học 
Theo Trần Nho Thìn, văn hóa là một khái niệm phức tạp, mang nội hàm rộng mà 
khó có một khái niệm, định nghĩa nào có thể bao quát hết được các phương diện của văn 
hóa. Nó phụ thuộc vào từng góc độ mà người nghiên cứu muốn nhấn mạnh vào phương 
diện nào thì văn hóa sẽ có định nghĩa đó. Ví dụ khi phân tích văn hóa dưới góc độ một 
hệ thống tôn giáo, sẽ có khái niệm khác so với văn hóa dưới góc độ cuộc sống đời thường, 
hay so với góc nhìn một hình thái trong xã hội. Tác giả cho biết ông không có ý định tìm 
một khái niệm về văn hóa nào cho riêng mình, mà thay vào đó ông đặc biệt chú trọng 
đến các quan niệm khác nhau của chủ thể văn hóa, dựa vào các tài liệu, tư tưởng về 
những hệ thống mang giá trị văn hóa như: triết học – đạo đức – tôn giáo, đặc biệt là các 
tư tưởng tôn giáo như Nho giáo – Phật giáo – Đạo giáo, để khái quát, nói về từng đặc 
trưng riêng của văn hóa dân tộc Việt Nam. Chúng có thể khác nhau về tên gọi, khác nhau 
về trình độ lí thuyết, tính khái quát, nhưng chúng đều có điểm chung về loại hình học. 
Một ví dụ điển hình là khái niệm diễn tả nguyên lí thiết lập trật tự trong bước chuyển hóa 
của xã hội loài người từ thời kì hoang dã, thời kì sống bằng cái “con”, sống bằng bản 
năng sang một mô hình xã hội có ý thức về nền văn hóa, văn minh. “Bất cứ dân tộc nào 
ở bước chuyển này, cũng ý thức được cái bản năng là xấu, là nguồn gốc của mọi rối    lOMoAR cPSD| 59062190
loạn, tội lỗi, do đó con người cần phải kiểm soát, hạn chế, tiêu diệt cái bản năng.” [7,  tr.14]. 
Nói về văn hóa học, đó là một phương diện chủ yếu nghiên cứu những giá trị văn 
hóa đã được cả một cộng đồng nhất định thừa nhận, đã được đúc kết qua những câu châm 
ngôn, tục ngữ, những kinh ngữ, những phong tục tập quán. Mỗi một yếu tố văn hóa trong 
một hệ thống là khác nhau. Những gì thuộc về chính trị, liên quan đến mặt lí thuyết 
thường dễ bị thay đổi, còn những gì liên quan đến văn hóa, phong tục thì lại có một sự 
tồn tại dai dẳng, bền bỉ, và có sự chi phối tinh vi, sâu sắc hơn, bởi vì chúng có một sợi 
dây liên kết vô hình, được truyền từ đời này sang đời khác. Như chúng ta đã biết, trong 
lịch sử các triều đại Nho giáo ban hành lệnh cấm thờ các loại “dâm thần”, những loại 
thần có liên quan đến tín ngưỡng phồn thực, ngoại trừ và bài xích các tôn giáo khác, trừ 
những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích. “Nhưng lệnh cấm chỉ được 
thực hiện khá hình thức, nhiều nơi, người ta phải đối phó với những cấm đoán bằng các 
biện pháp trá hình khác để vẫn bảo lưu được tín ngưỡng phồn thực.” [7, tr.16]. Việc tiếp 
cận văn hóa học không phải là một cái gì đó có sự khác biệt tuyệt đối so với các hướng 
tiếp cận khác. Nó chú trọng phân tích văn hóa dựa trên phương diện lịch sử, vì vậy cũng 
gần với xã hội học – lịch sử. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận liên ngành, là nơi 
yêu cầu vận dụng tổng hợp tri thức về lịch sử, tôn giáo, khảo cổ học, nhân loại học,… để 
giải mã được các hiện tượng thi pháp có trong tác phẩm văn học. 
Từ những phân tích của tác giả cho thấy việc phân tích văn học đồng thời đi sâu 
vào nền tảng văn hóa có thể cho ta cái nhìn toàn diện hơn, lí giải hợp lí hơn những yếu 
tố khác nhau của văn học, từ đề tài, chủ đề, các yếu tố thi pháp. Việc nhìn nhận văn học 
trung đại từ hệ quy chiếu giúp độc giả có cái nhìn toàn diện hơn về tác phẩm, từ đó đánh 
giá đúng giá trị và tầm ảnh hưởng của nó đến văn học Việt Nam. 
2.1.2. Các kiểu hình tượng xã hội và không gian trong văn học 
Trong văn học Việt Nam, chúng ta có thể thấy các giá trị văn hóa có vai trò chi 
phối hành vi, cách ứng xử của con người một cách phong phú, đồng thời cũng có tính 
lịch sử, có nghĩa là chúng có thể thay đổi qua từng giai đoạn khác nhau. Sự tự giác đạo 
đức của mỗi cá nhân khác nhau từ vua chúa, quan lại, địa chủ, cho đến thứ dân, nô lệ. Ở    lOMoAR cPSD| 59062190
mỗi giai cấp sẽ có một phẩm chất, một trách nhiệm đạo đức khách nhau, điều này tạo 
nên một hình thái trật tự xã hội. “Trật tự đạo đức đem đến trật tự về xã hội, đem đến ý 
niệm về thời thịnh trị, là đối tượng ca ngợi, còn tình trạng vô đạo bị phê phán, được xem 
là nguyên nhân gây loạn.” [7, tr.25] “Quan niệm về xã hội lí tưởng và thái độ phê phán 
xã hội được thể hiện trong tác phẩm văn học bằng những hình tượng riêng chứ không 
đơn thuần dừng lại nơi những tuyên ngôn tư tưởng triết học hoặc chính trị.” [7, tr.26]. 
Chính vì vậy Trần Nho Thìn cho rằng người nghiên cứu văn học phải quan tâm đến các 
loại hình không gian xã hội được thể hiện trong tác phẩm văn học, để tìm ra được những 
kiểu không gian tồn tại của con người, từ đó làm rõ, cung cấp thêm cho người đọc về 
cuộc sống của nhân vật trong các tác phẩm. 
Theo tác giả, trong văn học truyền thống có mấy loại không gian đặc trưng sau: 
Không gian lao động sản xuất như hình ảnh đồng ruộng, cày cấy, gieo mạ, thu hoạch, tát 
ao, thiên tai, dịch bệnh, hạn hán, mưa lũ… Để so với văn học dân gian như ca dao, dân 
ca thì trong văn học viết, đây là một hình tượng không gian khá mờ nhạt, thường chỉ 
mang trong mình tính chất ẩn dụ, có thể dùng để ám chỉ một không gian, một sự việc 
nào đó, nói lên những tiêu cực trong xã hội, chứ không hẳn chỉ là tái hiện một hiện thực 
lao động. “Ngư tiều canh mục chi là không gian ẩn dật thuần túy chứ không có tính chất 
tái hiện hiện thực lao động.” [7, tr.26]. Hay thơ của Nguyễn Phi Khanh là một ví dụ: 
“Mênh mông đồng lúa cỏ như thiêu, Ngoài 
nội kêu than xiết nỗi sầu. 
Dải đất non sông khô đến thế, 
Từng trời mưa móc vắng làm sao! 
Lưới tham quan lại vơ hầu kiệt. 
Mạch sống dân gian cạn mỡ dầu. 
Thơ mới này xin thay biểu tấu, 
Vì đang nằm bệnh chửa về chầu. 
Bài thơ không đi vào các chi tiết cụ thể mà phác họa một bức tranh toàn cảnh về thảm 
cảnh của nông dân, cả thiên tai cả nhân họa. Dân điêu đứng vì hạn hán, khốn khổ vì 
cảnh quan tham nhũng. Nguyễn Phi Khanh mượn thơ làm biểu tấu dâng lên vua, cũng    lOMoAR cPSD| 59062190
một mô típ vẽ tranh dâng vua, mục đích không ngoài sự thông báo cho vua biết để kịp 
thời chủ trương biện pháp cải thiện tình hình.” [7, tr.132]. Qua những hình ảnh “đồng 
lúa cỏ như thiêu”, “dải đất non sông khô đến thế”, “trời mưa móc vắng” không khó để 
nhận thấy rằng đây không chỉ là những lời cảnh báo, nhắc nhở của Nguyễn Phi Khanh 
mà đây còn như là một lời trách móc, quy trách nhiệm cho vua, cho những vị quan lại về 
cuộc sống xã hội, những nhà Nho, những nhân vật trí thức quan liêu, những kẻ vốn tự 
cho mình là người có trách nhiệm với dân với nước, nhưng thực tế lại chẳng hề lo lắng 
cho dân chút nào. Hay nói cách khác, thiên nhiên trong văn học trung đại mang tính chất 
ước lệ, tồn tại phụ thuộc vào con người, là cái để con người nói lên cảm xúc, tư tưởng, 
tình cảm, phản ánh của mình, được xem như một hình thức “tả cảnh ngụ tình”. 
Đối với không gian văn hóa như lễ hội, đền chùa, đền thờ,… thì theo quan niệm 
xưa, nhà chùa được coi là nơi cư ngụ an toàn của con người trong xã hội loạn lạc, là hình 
ảnh của sự ẩn dật. Tác giả sử dụng hình ảnh “nàng Kiều” vừa thoát khỏi nhà Hoạn Thư, 
trong lúc bơ vơ, đã rẽ ngay vào Chiêu ẩn an - ngôi chùa đầu tiên mà nàng nhìn thấy – 
của Giác Duyên, để tìm kiếm sự an toàn trong đó, tránh xa xã hội – nơi “đất khách quê 
người” đầy những bất trắc, nơi cách biệt với cuộc sống bên ngoài, nhưng vô cùng an yên. 
Trần Nho Thìn đã sử dụng hình ảnh nàng Kiều trốn chạy với thực tế bên ngoài bằng cách 
“rẽ” vào ngôi chùa mà mình nhìn thấy, để người đọc hiểu được rằng không gian chùa 
chiền, đền thờ trong các tác phẩm như là một ngã rẽ bình yên mà khi con người ta rơi 
vào bước đường cùng, rơi vào tuyệt vọng thì đó sẽ là chỗ dựa tinh thần, là nơi để con 
người ta bấu víu vào trong những lúc cùng quẫn nhất. 
Không gian xã hội mang màu sắc chính trị cũng là một không gian được coi là 
phổ biến nhất trong văn học trung đại lúc bấy giờ. “Những cách miêu tả không gian xã 
hội ẩn chứa tư tưởng chính trị của tác giả thường được nhận diện không quá khó khăn 
qua những mẫu hình quen thuộc về thân phận người dân (mô típ “sở kiến” – viết về điều 
trông thấy), về bất công xã hội, về đạo đức và lối sống của người cầm quyền với viêc xây 
dựng đền đài cung điện, cảnh ca hát, yến ẩm, cảnh sống nghèo nàn đói khổ của nhân 
dân. Không phải ngẫu nhiên mà “Hoàng Lê nhất thống chí” mở đầu bằng sự việc Trịnh 
Sâm, ông chóa quyền thế bậc nhất của triều đình Lê – Trịnh mê sắc đẹp của Đặng Thị    lOMoAR cPSD| 59062190
Huệ đến mức bỏ con trưởng lập con thứ, phải gả con gái cho em Đặng Thị Huệ là Đặng 
Mâu Lân, để Lân làm nhiều việc càn bậy. Theo lôgics này, tác giả hình như nghĩ rằng 
đó chính là nguyên nhân sâu xa của sự kiện chính biến cung đình (kiêu binh nổi loạn), 
và xa hơn là nguyên nhân của việc chúa Trịnh không thể đối phó được với lực lượng Tây 
Sơn nên sụp đổ.” [7, tr.27]. Không chỉ có vậy, không gian xã hội còn được con người 
tiếp nhận qua những hình ảnh, biểu tượng như “đất khách quê người”, “chân trời góc 
bể”, hay các biểu tưởng về “miền nhân gian”, “cõi người ta”, các biểu tượng liên quan 
đến thế giới bên kia, âm phủ, Diêm Vương, mồ mả nghĩa địa, hay các không gian có tính 
lãng mạn, không tưởng như Tiên cảnh, suối Đào hoa, động Từ Thức,… “Không gian xã 
hội đi vào tác phẩm văn học đã được lọc qua tâm lí tiếp nhận không chỉ là không gian 
chính trị - xã hội, mà còn là cả không gian vật lí của một thời đại xác định với kĩ thuật, 
trình độ tổ chức riêng.” [7, tr.27]. Trong văn học trung đại, việc con người sợ xã hội 
không còn là một điều xa lạ, nỗi sợ ấy được kết đọng lại trong hình ảnh “đất khách quê 
người”, “chân trời góc bể”. Con người quá khứ mỗi khi rời xa quê hương, đất nước, họ 
luôn mang trong mình một cảm giác sợ sệt, một cảm giác tha hương nặng nề khó có thể 
diễn tả bằng lời. Bởi vì lúc bấy giờ, việc đi lại, khoảng cách địa lí, việc liên lạc với nhau 
là rất khó khăn, và đó cũng là nguyên do khiến con người ta khi đi xa thì luôn nhớ về cội 
nguồn. Trái ngược với xã hội thời trung đại, thì con người bây giờ không quá đặt nặng 
cảm xúc nhớ nhà nữa, theo lời tác giả thì ở xã hội hiện đại, ta có thể dễ thấy được khả 
năng, trình độ kĩ thuật của con người trở nên cao hơn, việc di chuyển và liên lạc cũng 
không còn khó khăn nữa. Sông sâu, núi cao cũng không còn gây ấn tượng đặc biệt về sự 
chia cắt nghiệt ngã như trong cách nhìn nhận của con người thuở văn minh nông nghiệp 
với khả năng kĩ thuật, công nghệ còn nhiều hạn chế. Bằng những phân tích, lí giải trên, 
người đọc có thể thấy rằng việc không gian trong văn học đã có những ảnh hưởng lớn 
như thế nào đến xã hội và con người, từ đó giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc đời, cuộc 
sống của mỗi nhân vật khi được nhắc đến trong tác phẩm. 
2.1.3. Ảnh hưởng của hệ quy chiếu văn học trung đại đến văn học hiện đại 
Nhờ việc nghiên cứu và hiểu về hệ quy chiếu của văn học trung đại, chúng ta 
không khó để có thể nhận ra rằng: văn học hiện đại tuy được hiện đại hóa, quốc tế hóa,    lOMoAR cPSD| 59062190
Âu hóa, nhưng trên nhiều phương diện thì nó vẫn tiếp tục chịu sự chi phối của các tầng 
văn hóa trung đại. Điều này được tác giả minh chứng rõ qua giai đoạn văn học cách mạng 
thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Ở giai đoạn này, văn học không phải là văn học, mà 
văn học được xem là công cụ, vũ khí để chống giặc, dựa trên hình mẫu người quân tử sát 
thân thành nhân, xả sinh thủ nghĩa vốn có từ văn thơ của các nhà Nho. “Bản lĩnh coi cái 
chết nhẹ tựa lông hồng, liễu sinh tử có cội nguồn sâu xa từ quan niệm về sinh tử của Nho 
giáo và Phật giáo Thiền Tông từ hàng ngàn năm trước. Ngay trong thái độ khắc kỉ của 
hình tượng những người chiến sĩ cách mạng cũng có không ít điểm bắt nguồn từ quan 
niệm khắc kỉ về thân xác của các học thuyết tư tưởng truyền thống.” [7, tr.38]. Không 
những vậy, tác giả còn chỉ ra những nhà văn hiện đại vẫn sử dụng một số thủ pháp quen 
thuộc của người xưa để phê phán, thậm chí là hạ bệ một ai đó: mô tả một nhân vật phàm 
ăn tục uống, ham mê sắc dục, như trong tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài. Tuy 
nhiên, cũng có một số tác giả trẻ đã bày tỏ quan điểm, miêu tả tình dục như là một phương 
diện hoạt động sống thiết yếu của nhân vật, nhằm tỏ rõ xu thế cách tân trong văn học. 
Trong đề tài nghiên cứu, tác giả đã chỉ rõ việc phải chú ý đến những cấm kị và 
việc đối phó với cấm kị như là một hiện tượng văn hóa. “Những cấm đoán về chính trị 
(triều đình khống chế không cho phép công khai, trực tiếp chỉ trích chính sách hay chế 
độ, người nào dám phê phán, chỉ trích có thể bị trừng phạt nghiệt ngã), cấm đoán sự thể 
hiện đời sống tự nhiên, bản năng (tuyên truyền văn hóa lễ nghĩa, hình thành khái niệm 
“dâm tục” mang tính chất đánh giá đối với biểu hiện bản năng). Nhưng theo quy luật ở 
đâu có cấm kị thì ở đó có đối phó với cấm kị.” [7, tr.45, 46]. Minh chứng cho điều này 
chính là thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, đây là một ví dụ sinh động về việc đối phó với 
những điều cấm kị trong lĩnh vực đời sống tình dục. Trong thơ Hồ Xuân Hương, các đối 
tượng đề vịnh đã được lựa chọn một cách rất công phu, để có thể vừa là chính nó mà 
cũng vừa là đối tượng mà khi nhắc đến liền liên tưởng ngay đến hoạt động tình dục: bánh 
trôi, quả mít, ốc nhồi, cái quạt, cây đu và cảnh đánh đu, cảnh dệt cửi, tát nước. Kết hợp 
với lối nói lái, một từ vừa là chính nó vừa không phải là nó: trái gió, lộn lèo. Việc đề vịnh 
của thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương chỉ có thể được lí giải cặn kẽ nếu ta đặt