Bài tiểu luận giữa kỳ môn chủ nghĩa xã hội khoa học - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen
Bài tiểu luận giữa kỳ môn chủ nghĩa xã hội khoa học - Tài liệu tham khảo | Đại học Hoa Sen và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học.
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học(CN01)
Trường: Đại học Hoa Sen
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN GIỮA KỲ Đề tài:
1.Phân tích điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Trong đó điều kiện
nào quan trọng nhất? Vì sao?
2.Dân chủ là gì? Có mấy nền dân chủ. Tại sao
nói nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân
chủ ƯU VIỆT NHẤT trong quá trình phát triển
của các hình thái kinh tế xã hội?
GIẢNG VIÊN: Cô Hồ Thị Trinh LỚP: DC142DV01
SINH VIÊN: Nguyễn Thị Quế Anh
MÃ SỐ SINH VIÊN: 22011978
Tp. Hồ Chí Minh, Tháng 10/2022
Câu 1: Phân tích điều kiện, quy định sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân. Trong đó, điều kiện nào quan trọng nhất? Vì sao?
Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: 1. Điều kiện khách quan
Khẳng định tính tất yếu khách quan sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, C.Mácvà Ph.Ăngghen đã nêu rõ: “...Cùng với sự phát triền
của đại công nghiệp, chính cái nềntảng trên đó giai cấp tư sàn đã
sản xuất và chiếm hữu sán phẩm của nó, đã bị phá sậpdưới chân giai
cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra người đào huyệt
chônchính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sàn và tháng lợi của giai cấp
vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công
nghiệp có tính xã hộihóa ngày càng cao, là chủ thể của quá trình sản
xuất vật chất hiện đại. Vì thế, giai cấp công nhân đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại. Do lao
động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại, giai cấp
công nhân làngười sàn xuất ra của cải vật chất chù yếu cho xã hội,
làm giàu cho xã hội, có vai trò quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại.
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp
công nhân là lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa,
giành chính quyền về tay mình, chuyển từ giai cấp “tự nỏ” thành giai
cấp “Vì nó”. Giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho sự tiến hóa 4
tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đù điều kiện đề tồ chức
và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triền lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây
dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới,
không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định
Địa vị kinh tế - xã hội đã tạo cho giai cấp công nhân có những
đặc điểm chính trị - xã hội mà những giai cấp khác không thể có
được, đó là những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ
đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những
thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Đó là giai cấp được trang
bị bởi một lý luận khoa học, cách mạng và luôn luôn đi đầu trong mọi
phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây
dựng xã hội mới tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các
giai cấp, tầng lớp khác vào phong trào cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất thời đại ngày nay.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần
cách mạng trong thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi
giai cấp này đã giànhđược chính quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã từng kề vai sát
cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Khác với
giai cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi
ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện
sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ
thấy: họ chỉ có thể được giải phóng bằng giải phóng toàn xã hội khỏi
chế độ tư bản chủ nghĩa. 5
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ:"Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư
sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng...
Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu
thương, thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai
cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn của họ với tính cách là những tầng
lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo thủ".
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động trong nền sản xuất đại công
nghiệp với hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ
làm việc khẩn trương buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt
kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống đôthị tập trung đã tạo nên tính
tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân.
Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường
khi nó phát triển thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức:
được sự giác ngộ bởi một lý luận khoa học, cách mạng và tổ chức ra
được chính đảng có nó - đảng cộng sản. Giai cấp công nhân không có
ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng lợi trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựngchế độ xã hội mới.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực
lượng quốc tế. Giai cấp tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở
chính nước họ mà còn bóc lột giai cấp công nhân ở các nước thuộc
địa. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sản
xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể đầu tư
sang nước khác là một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không
phải do một nước sản xuất ra mà là kết quả lao động của nhiều quốc
gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân không chỉ
diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng 6
phải có sự gắn bó giữa phong trào công nhân các nước, có như vậy,
phong trào công nhân mới cóthể giành được thắng lợi. V.I.Lênin chỉ
rõ: "... không có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế của thế giới thì
thắng lợi của cách mạng vô sản là không thể có được",
"Tư bản là một lực lượng quốc tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên minh quốc tế".
Tóm lại, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực
hiện bởi giai cấp công nhân, vì nó là một giai cấp cách mạng, đại
biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên
tiến thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho tương lai, cho
xu thế đi lên của tiến trình phát triển lịch sử. Đây là đặc tính quan
trọng, quyết định bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Hoàn
toàn không phải vì nghèo khổ mà giai cấp công nhân là một giai cấp
cách mạng. Tình trạng nghèo khổ của giai cấp công nhân dưới chù
nghĩa tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản và
chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với công nhân. Đó là trạng thái mà cách
mạng sẽ xóa bỏ để giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội. 2. Điều kiện chủ quan
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra những điều kiện thuộc về nhân tố
chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đó là:
Sự phát triển của bản thân giai cắp công nhân cả về sổ lượng và
chất lượng. Thông qua sự phát triển này có thể thấy sự lớn mạnh của
giai cấp công nhân cùng với quy môphát triền của nền sản xuất vật
chất hiện đại trên nền tảng của công nghiệp, của kỹthuật và công nghệ. 7
Sự phát triển về số lượng phải gắn liền với sự phát triển về chất
lượng giai cấp công nhân hiện đại, đàm bảo cho giai cấp công nhân
thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình. Chất lượng giai cấp công
nhân phải thể hiện ở trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của
một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận thức được vai trò và
trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp công
nhân phải được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến,
chất lượng giai cấp công nhân còn phải thể hiện ở năng lực và trình
độ làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong diều kiện hiện nay.
Để phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng, theo
chủ nghĩa Mác -Lênin phải đặc biệt chú ý đến hai biện pháp cơ bản:
1) Phát triền công nghiệp - “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” và
2) Sự trường thành của Đảng Cộng sản - hạt nhân chính trị quan
trọng của giai cấp công nhân.
Chỉ với sự phát triền về số lượng và chất lượng, đặc biệt về chất
lượng, giai cấp công nhân mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.
Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp
công nhân thựchiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
Đảng Cộng sản — đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời
và đảm nhận vai trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự
trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Quy luật chung, phổ biến cho sự ra đời của Đảng Cộng sàn là sự
kết hợp giữa chùnghĩa xã hội khoa học, tức chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và nguồn bổ sung lực lượng
quan trọng nhất của Đảng, làm cho Đảng mang bản chất giai cấp 8
công nhân trờ thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp. Đảng Cộng sàn đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp
cồng nhân, của dân tộc và xã hội. Sức mạnh của Đảng không chỉ thể
hiện ở bản chất giai cấp cồng nhân mà còn ở mối liên hệ mật thiết
giữa Đàng với nhân dân,với quần chúng lao động đông đảo trong xã
hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo để giải phóng giai
cấp và giải phóng xã hội.
Ngoài hai điều kiện thuộc về nhân tố chủ quan nêu trên chủ
nghĩa Mác - Lênin còn chỉ rõ, để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân đi tới thắng lợi, phải có sự liên minh
giai cấp giữa giai cắp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong
của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây cũng là một điều kiện quan
trọng không thể thiếu để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Như vậy, có thể thấy điều kiện chủ quan là điều kiện quan trọng
nhất để giai cấp công nhân quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. 9
Câu 2: Dân chủ là gì? Có mấy nền dân chủ. Tại sao nói nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ ƯU VIỆT NHẤT trong
quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội?
Dân chủ là một phương pháp ra quyết định tập thể trong đó mọi
thành viên đều có quyền ngang nhau khi tham gia ra quyết định.
Dân chủ cũng được hiểu là một hình thái nhà nước thừa nhận nguyên
tắc thiểu số phục tùng đa số. Với tư cách là một hình thái nhà nước,
dân chủ không phải là "đa số thắng thiểu số" một cách chung chung.
Nhà nước dân chủ mang tính giai cấp, nó là phương tiện và công cụ
của giai cấp thống trị "bảo đảm cho một giai cấp thi hành bạo lực
một cách có hệ thống chống lại một giai cấp khác". Vì vậy, không có
dân chủ cho tất cả mọi người. Hiểu theo nghĩa này, dân chủ cũng là
một phạm trù lịch sử, gắn liền với sự tồn tại của nhà nước và sẽ biến
mất khi nhà nước tiêu vong. Trong lịch sử từng có ba loại nhà nước
dân chủ là dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, dân chủ được định nghĩa theo 4 ý sau.
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý
trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ,
đặc biệt là việc tán thành cho rằng: dân chủ là một nhu cầu khách
quan của nhân dân lao động; dân chủ là quyền lực của nhân dân.
Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là một chế độ
dân chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó không có “dân chủ
chung chung, phi giai cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần túy”. Trái
lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai
cấp thống trị xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ có các kiểu
dân chủ: chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân
chủ vô sản. Riêng chế độ phong kiến là chế độ quân chủ. 10
Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách
một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn với ý nghĩa
là một hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn các
thành viên nhà nước, có quản lý xã hội theo pháp luật nhà nước và
thừa nhận ở nhà nước đó “quyền lực thuộc về nhân dân”, gắn liền với
một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội.
Thứ tư, với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng, đều do
một giai cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của
toàn xã hội, do vậy tính giai cấp thống trị cũng gắn liền với và chi
phối tính dân tộc, tính chất của chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… ở mỗi quốc gia dân tộc cụ thể.
Từ những ý phân tích trên có thể thấy, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa gắn liền với tất yếu của chủ nghĩa xã hội. Bản chất của nền
dân chủ này có thể nói tới là bản chất chính trị, bản chất kinh tế và
bản chất tư tưởng – văn hóa.
Có thể nói, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ ưu việt
nhất trong quá trình phát triển của các hình thái kinh tế xã hội nhờ 3 bản chất trên.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở bản chất chính trị đã nêu rõ sự
lãnh đạo chính trị hoàn toàn của giai cấp công nhân thông qua đảng
của nó đối với toàn xã hội để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn
thể nhân dân. Có thể thấy ở Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa xây
dựng một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng
rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Về bản chất kinh tế, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế
độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội.
Với bản chất tư tưởng – văn hóa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
lấy hệ tư tưởng Mác-Lênin làm nền tảng. Đồng thời kế thừa, phát huy
những tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc; tiếp thu những giá 11
trị tư tưởng – văn hóa, văn minh, tiến bộ xã hội mà nhân loại đã tạo
ra ở các quốc gia, dân tộc. 12