Bài tiểu luận Kinh tế chính trị Mác-Lenin: Lý thuyết tiền công của C.mác và vấn đề cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay
Bài tiểu luận Kinh tế chính trị Mác-Lenin: Lý thuyết tiền công của C.mác và vấn đề cải cách tiền lương ở Việt Nam hiện nay. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chủ nghĩa xã hội khoa học (SSO)
Trường: Học viện Tài chính
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 49431889
Họ và tên: Trịnh Quốc Cường Mã Sinh viên: 2072202010117
Khóa/Lớp: (tín chỉ) CQ58/51.03+04LT2 (Niên chế): CQ58/51.04 STT: 05
ID phòng thi: 581 058 1302 HT thi: 302ĐT
Ngày thi: 07/06/2021 Ca thi: Sáng
BÀI THI MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Hình thức thi: Tiểu luận Thời gian thi: 3 ngày
LÝ THUYẾT TIỀN CÔNG CỦA C.MÁC
VÀ VẤN ĐỀ CẢI CÁCH TIỀN LƯƠNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY PHẦN MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển, đời sống của người lao động ngày càng
nâng cao, vì vậy nhu cầu tiêu dùng trong xã hội cũng theo đó tăng lên nhiều.
Người lao động được trả lương và dùng phần lớn tiền lương được trả vào tiêu dùng.
Phần lớn người lao động trông chờ vào tiền lương hàng tháng để chi trả cho sinh
hoạt, tuy nhiên tiền lương của người lao động nhiều khi không đảm bảo được chi
tiêu cho đời sống sinh hoạt.
Trong những năm qua, cải cách chính sách tiền lương mang lại thu nhập cao hơn
cho người lao động luôn là vấn đề được Chính phủ, Đảng và các Bộ, Ngành, địa lOMoAR cPSD| 49431889
phương và chính bản thân người lao động chú trọng và quan tâm. Tuy nhiên, thực
tế mối quan hệ tiền lương với chi tiêu cuộc sống của người lao động chưa thay đổi
nhiều và phần lớn người lao động đều chưa thể sống bằng đồng lương hàng tháng.
Bên cạnh đó, tiền lương được trả của người lao động chưa gắn liền với sức lao
động bỏ ra khiến năng suất lao động, kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh, mức
tăng trưởng của nền kinh tế chưa đạt được như mong muốn do bản chất động lực
làm việc của người lao động có liên quan đến thu nhập, tiền lương được hưởng.
Chính vì vậy, nghiên cứu về tiền lương là vấn đề quan trọng bởi đây là vấn đề tác
động trực tiếp đến đời sống của người lao động, đồng thời là vấn đề quan trọng
việc góp phần ổn định an sinh xã hội và đặc biệt trong việc tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Tiền lương còn là một trong những chính sách kinh tế - xã hội quan trọng góp phần
tạo động lực tăng trưởng kinh tế và giải quyết công bằng, tiến bộ xã hội, nâng cao
năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước khai thác tiềm năng sáng tạo của người lao
động các chính sách tiền lương phải nằm trong khuôn khổ pháp lý và theo những
chính sách của Chính phủ nhưng mặt khác tiền lương chịu sự tác động và chi phối
rất lớn của thị trường và thị trường lao động.
Tiền lương đóng vai trò chủ yếu trong thực hiện quy luật phân phối lao động, nó
vận động trong mối quan hệ chặt chẽ với các quy luật khác như điều kiện lao động
các tiêu chuẩn lao động, chế độ làm việc, lợi nhuận, năng suất lao động, tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế và các chính sách xã hội khác, nó đảm bảo chức năng rất
quan trọng trong quản lý vĩ mô cũng như trong tổ chức.
Với ý nghĩa đó, em chọn vấn đề “tiền lương” để làm đề tài nghiên cứu trong bài
tiểu luận của mình. Tuy nhiên, do lượng kiến thức và thời gian có hạn nên bài làm
của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong được các thầy cô châm trước
để em có cơ hội được làm những bài tiểu luận tốt hơn. NỘI DUNG I. Lý thuyết chung:
1. Bản chất của kinh tế của tiền công:
Ở bề ngoài của đời sống xã hội tư bản, công nhân làm việc cho nhà tư bản
một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng hàng hoá hay hoàn thành một
số công việc nào đó thì nhà tư bản trả cho một số tiền nhất định gọi là tiền
công. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của lOMoAR cPSD| 49431889
lao động. Sự thật thì tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động,
vì lao động không phải là hàng hoá. Sở dĩ như vậy là vì:
- Nếu lao động là hàng hoá, thì nó phải có trước, phải được vật hoá trong
một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để cho lao động vật hoá được là phải có
tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất, thì họ sẽ bán
hàng hoá do mình sản xuất ra, chứ không bán "lao động".
- Việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn về
lýluận sau đây: thứ nhất, nếu lao động là hàng hoá và nó được trao đổi ngang
giá, thì nhà tư bản không thu được lợi nhuận (giá trị thặng dư); điều này phủ
nhận sự tồn tại thực tế của quy luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, còn nếu "hàng hoá lao động" được trao đổi không ngang giá để có
giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì phải phủ nhận quy luật giá trị.
- Nếu lao động là hàng hoá, thì hàng hoá đó cũng phải có giá trị. Nhưng
lao động là thực thể và là thước đo nội tại của giá trị, nhưng bản thân lao
động thì không có giá trị. Vì thế, lao động không phải là hàng hoá, cái mà
công nhân bán cho nhà tư bản chính là sức lao động. Do đó tiền công mà nhà
tư bản trả cho công nhân là giá cả của sức lao động.
Vậy bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là giá trị hay giá cả của
sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài thành giá trị hay giá cả của lao động.
Hình thức biểu hiện đó đã gây ra sự nhầm lẫn. Điều đó là do những tình hình
sau đây: thứ nhất, đặc điểm của hàng hoá sức lao động là không bao giờ tách
khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho
người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó bề ngoài chỉ thấy nhà tư
bản trả giá trị cho lao động. Thứ hai, đối với công nhân, toàn bộ lao động
trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó bản thân công nhân
cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản bỏ tiền ra là để
có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động. Thứ ba, lượng
của tiền công phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm sản
xuất ra, điều đó làm cho người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả lao động.
Tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời
gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả
công và lao động không được trả công, do đó tiền công che đậy bản chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản. lOMoAR cPSD| 49431889
2. Các hình thức cơ bản của tiền công:
Tiền công có hai hình thức cơ bản là tiền công tính theo thời gian và tiền
công tính theo sản phẩm.
- Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số lượng của nó ít
hay nhiều tuỳ theo thời gian lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn.
Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công tháng.
Tiền công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền công đó cao hay
là thấp, vì nó còn tuỳ theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn đánh
giá chính xác mức tiền công không chỉ căn cứ vào tiền công ngày, mà phải
căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Giá cả của một
giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền công tính theo thời gian.
- Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà số lượng của nó
phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm
mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng công việc đã hoàn thành.
Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền công
được xác định bằng thương số giữa tiền công trung bình của công nhân trong
một ngày với số lượng sản phẩm trung bình mà một công nhân sản xuất ra
trong một ngày, do đó về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho
thời gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền công tính theo sản
phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo thời gian.
Thực hiện tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong
việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt
khác, kích thích công nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản
phẩm để nhận được tiền công cao hơn.
3. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế:
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức
lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất
sức lao động, nên tiền công danh nghĩa phải được chuyển hoá thành tiền
công thực tế. Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng
hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa là giá cả sức lao động, nên nó có thể tăng lên hay giảm
xuống tuỳ theo sự biến động của quan hệ cung - cầu về hàng hoá sức lao lOMoAR cPSD| 49431889
động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa
không thay đổi, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hoặc giảm
xuống, thì tiền công thực tế sẽ giảm xuống hay tăng lên.
Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với sự
biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng
của các nhân tố tác động ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng giá trị
sức lao động như sự nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, sự
tăng cường độ lao động và sự tăng lên của nhu cầu cùng với sự phát triển của
xã hội. Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng năng
suất lao động làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động qua lại của
các nhân tố đó dẫn tới quá trình phức tạp của sự biến đổi giá trị sức lao động,
do đó dẫn tới sự biến đổi phức tạp của tiền công thực tế.
Tuy nhiên, C.Mác đã vạch ra rằng, xu hướng chung của sản xuất tư bản chủ
nghĩa không phải là nâng cao mức tiền công trung bình mà là hạ thấp mức
tiền công ấy. Bởi lẽ trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công
danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không
theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ; đồng thời thất nghiệp
là hiện tượng thường xuyên, khiến cho cung về lao động làm thuê vượt quá
cầu về lao động, điều đó cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị
của nó, vì vậy tiền công thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp.
Nhưng sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng, vì có
những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền công. Một mặt, đó là cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công. Mặt khác, trong điều kiện của chủ
nghĩa tư bản ngày nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ nên nhu cầu về sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng đã buộc
giai cấp tư sản phải cải tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao
động bằng lợi ích vật chất. Đó cũng là một nhân tố cản trở xu hướng hạ thấp tiền công. II. Thực trạng:
Trong nhiều năm qua, nhà nước luôn cố gắng cải cách các chính sách tiền
lương nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù hợp với nền kinh tế đang
phát triển nhanh. Tuy nhiên, ngoài những thành công đã đạt được vẫn còn
những hạn chế và bất cập.
Theo số liệu từ Bộ Nội vụ, từ năm 2003 đến nay, mức lương tối thiểu chung
cho người lao động trong khu vực hành chính - sự nghiệp đã điều chỉnh 7 lần
từ 210.000 đồng/tháng lên 830.000 đồng/tháng, với mức tăng gần 4 lần. Từ lOMoAR cPSD| 49431889
ngày 1/5/2012, mức lương tối thiểu đã được quyết định tăng lên mức 1.050.000
nghìn đồng/tháng. Việc điều chỉnh này được thực hiện trên cơ sở các mức đã
dự kiến trong Đề án tiền lương giai đoạn 2003 - 2007 và 2008 2012, có điều
chỉnh theo mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng và khả năng của
NSNN. Tuy nhiên căn cứ thực tế mức sống hiện nay, mức lương tối thiểu này
hoàn toàn là không đủ để người lao động có thể sống được trong một tháng,
nhất là ở những thành phố lớn như Hà Nội hay Tp. Hồ Chí Minh. Khi lạm phát
ngày càng đẩy giá cả tiêu dùng leo thang chóng mặt.
Vụ tiền lương của Bộ Nội Vụ cho biết sẽ cố gắng để điều chỉnh mức lương tối
thiểu của công chức lên 3 triệu đồng một tháng vào năm 2018. Quan hệ lương
tối thiểu – trung bình – tối đa chưa hợp lý, mức lương chưa trả đúng với năng
lực làm việc, chức danh. Cũng theo thông báo của Bộ Nội vụ, giai đoạn 2016-
2020 sẽ thực hiện mở rộng quan hệ mức lương tối thiểu - trung bình - tối đa từ
mức 1 - 2,34 - 10 hiện nay lên mức 1 - 3,2 - 15.
Theo kết quả điều tra của Công đoàn Viên chức Việt Nam, tiền lương cứng của
cán bộ viên chức khá thấp, phần lớn là hưởng lương ở mức cán sự và chuyên
viên, chiếm khoảng 73% (cán sự chiếm 32% và chuyên viên 41%), còn ở mức
chuyên viên chính là 24% và chuyên viên cao cấp là 3%.Với chi phí sinh hoạt
ngày càng đắt đỏ do giá cả leo thang, lạm phát, những cải cách tăng lương của
Nhà nước vẫn chỉ như muối bỏ bể, nếu chỉ căn cứ vào mức lương hiện nay thì
không đủ chi phí cho từng cá nhân chứ chưa nói đến chuyện lo lắng cho gia
đình, con cái. Thực tế cán bộ công chức nhà nước đa phần đều có thu nhập
ngoài lương, và mức thu nhập này cũng không kiểm soát được.
Ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhiều công ty đã trả mức lương trung
bình từ hơn 2 triệu đồng một tháng thì mức này ở phương án tối thiểu của Bộ
Lao động và thương binh xã hội chỉ là 1.5 triệu đồng, điều này cũng gây ra
nhiều thiệt thòi cho các lao động tại các công ty nước ngoài, khi mà phía nước
ngoài sẽ không chấp nhận trả quá cao so với mức lương tối thiểu mà nhà nước
quy định. Các doanh nghiệp đều cho rằng mức lương này là quá thấp, gây khó
khăn cho doanh nghiệp khi muốn tuyển dụng lao động. Mức lương tối thiểu
cũng khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi khách hàng tính giá
thành cũng dựa vào nó. Hiện tại lương tối thiểu chung và lương tối thiểu vùng
đang áp dụng chung cho cả doanh nghiệp lẫn cả khối hành chính sự nghiệp,
cho nên nếu muốn tăng thì sẽ ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước, điều này
khiến mức lương tối thiểu của doanh nghiệp cũng tăng rất chậm, không phù hợp thực tế. lOMoAR cPSD| 49431889
Những vấn đề trên cho thấy được một phần những điểm bất cập của hệ thống
tiền lương tại Việt Nam hiện nay. Những năm tới, hy vọng với mong muốn
chủ trương cải cách và đổi mới vấn đề tiền lương của Đảng và Nhà nước,
những bất cập và hạn chế trên sẽ được giảm bớt, người lao động sẽ có được
mức lương cao hơn ổn định hơn để có thể đảm bảo được cuộc sống của mình. III.
Giải pháp giải quyết vấn đề tiền lương tại Việt Nam:
- Một là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về
quan điểm, mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của cải cách chính sách tiền
lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao
động trong các doanh nghiệp. Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, phương
pháp, cách làm, tạo sự đồng thuận cao ở các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp, người hưởng lương và toàn xã hội trong việc
thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách tiền lương.
-Hai là, xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới.
Thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý chính
sách tiền lương của toàn hệ thống chính trị. Bộ Chính trị quyết định chủ
trương, nguyên tắc và giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo Chính phủ cụ
thể hoá việc thống nhất quản lý, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền, uỷ
quyền cho cơ quan chức năng ban hành văn bản chế độ tiền lương của cán
bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang từ Trung ương đến cấp xã.
Sau khi báo cáo Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định việc
phân loại chức vụ tương đương trong hệ thống chính trị làm căn cứ xây dựng bảng lương mới.
Các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước xây dựng văn bản quy định
chế độ tiền lương mới báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định trước khi
ban hành, để từ năm 2021 thực hiện chuyển xếp lương cũ sang lương mới
theo nguyên tắc bảo đảm không thấp hơn tiền lương hiện hưởng.
-Ba là, quyết liệt thực hiện các giải pháp tài chính, ngân sách, coi đây là
nhiệm vụ đột phá để tạo nguồn lực cho cải cách chính sách tiền lương. Thực
hiện quyết liệt và có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương về cơ cấu lại
nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; về hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về phát triển kinh tế tư nhân; về
đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; Nghị
quyết của Bộ Chính trị về cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công lOMoAR cPSD| 49431889
nhằm phát triển nguồn thu bền vững, tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương.
Triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bảo
đảm tổng nguồn thu và cơ cấu thu bền vững. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
các chính sách thu theo hướng mở rộng cơ sở thuế, bao quát nguồn thu mới.
Tăng cường quản lý thu, tạo chuyển biến căn bản trong việc chống thất thu,
xử lý và ngăn chặn các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất kinh
doanh hàng giả, chuyển giá, trốn thuế. Thực hành tiết kiệm, chống tham
nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ
bản. Quyết liệt thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Hằng
năm, dành khoảng 50% tăng thu dự toán và 70% tăng thu thực hiện của
ngân sách địa phương, khoảng 40% tăng thu ngân sách Trung ương cho cải
cách chính sách tiền lương.
Tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước; tiếp tục thực
hiện tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên tăng thêm hằng năm cho đến
khi thực hiện khoán quỹ tiền lương trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao.
Nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền lương còn dư sau khi bảo đảm điều
chỉnh mức lương cơ sở hằng năm và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội
do Trung ương ban hành (đối với ngân sách địa phương), các dự án đầu tư
theo quy định (đối với các địa phương có tỉ lệ điều tiết) theo nghị quyết của
Quốc hội phải tiếp tục sử dụng để thực hiện cải cách chính sách tiền lương
sau năm 2020, không sử dụng vào mục đích khác khi không được cấp có thẩm quyền cho phép.
Bãi bỏ các khoản chi ngoài lương của cán bộ, công chức, viên chức có nguồn
gốc từ ngân sách nhà nước như: Tiền bồi dưỡng họp; tiền bồi dưỡng xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án; hội thảo... Thực hiện khoán quỹ
lương gắn với mục tiêu tinh giản biên chế cho các cơ quan, đơn vị. Mở rộng
cơ chế khoán kinh phí gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ. Không gắn mức
lương của cán bộ, công chức, viên chức với việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung
các văn bản quy định chính sách, chế độ không có tính chất lương. Nghiên
cứu quy định khoán các chế độ ngoài lương (xe ô tô, điện thoại...). Chỉ ban
hành các chính sách, chế độ mới khi đã bố trí, cân đối được nguồn lực thực hiện.
Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp
công, từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ
bản, thiết yếu, đồng thời gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo,
đối tượng chính sách. Đối với giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng
ngân sách nhà nước, giao quyền tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự
quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ. lOMoAR cPSD| 49431889
Đơn vị sự nghiệp công lập đã tự chủ tài chính phải tự bảo đảm nguồn để thực
hiện cải cách chính sách tiền lương. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập bảo
đảm một phần chi thường xuyên, tiếp tục sử dụng tối thiểu 40% số thu được
để lại theo chế độ (riêng ngành Y tế sử dụng tối thiểu 35% sau khi trừ các chi
phí đã kết cấu vào giá dịch vụ), tiết kiệm 10% chi thường xuyên nguồn ngân
sách tăng thêm hằng năm và sắp xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà nước
được giao để bảo đảm nguồn thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Đơn
vị sự nghiệp công lập không có nguồn thu do ngân sách nhà nước bảo đảm
toàn bộ chi thường xuyên, thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên nguồn
ngân sách tăng thêm hằng năm và sắp xếp từ nguồn dự toán ngân sách nhà
nước được giao để thực hiện cải cách chính sách tiền lương.
-Bốn là, triển khai thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết Trung ương 6 khoá
XII và các đề án đổi mới, cải cách trong các ngành, lĩnh vực có liên quan là
công việc rất quan trọng để cải cách chính sách tiền lương một cách đồng bộ.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới, tinh giản, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, các đơn vị sự nghiệp
công lập. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị
trong hệ thống chính trị và người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp công lập với
việc thể chế hoá và thực hiện các Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII, đặc
biệt là việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế người hưởng
lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức, tạo nguồn bền vững cho cải cách chính sách tiền lương. KẾT LUẬN
Tiền lương không chỉ đơn giản là phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sử dụng lao
động và NLĐ mà do tính chất đặc biệt của loại hàng hóa đặc biệt là sức lao động
nên tiền lương còn chứa đựng một trọng trách của vấn đề xã hội rất quan trọng liên
quan đến đời sống và trật tự xã hội và an sinh xã hội.
Tiền lương là một trong những chính sách kinh tế - xã hội quan trọng góp phần tạo
động lực tăng trưởng kinh tế và giải quyết công bằng, tiến bộ xã hội, nâng cao năng
lực và hiệu quả quản lý nhà nước khai thác tiềm năng sáng tạo của NLĐ các chính
sách tiền lương phải nằm trong khuôn khổ pháp lý và theo những chính sách của
Chính phủ nhưng mặt khác tiền lương chịu sự tác động và chi phối rất lớn của thị
trường và thị trường lao động.
Do vậy, tiền lương của người NLĐ không chỉ là việc thu nhập của riêng người lao
động mà chính là vấn đề uy tín của bộ máy Nhà nước trong việc hoạch định chính
sách là phục vụ yêu cầu xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp hiện đại tương thích
với công vụ các nước trong khu vực và trên thế giới chính những điều này góp
phần làm gia tăng các giá trị xã hội. lOMoAR cPSD| 49431889
Theo C. Mác: "Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động,
là giá cả của hàng hoá sức lao động" và đưa ra công thức tính giá trị hàng hoá sức
lao động như sau: C. Mác cho rằng, giá trị của hàng hóa sức lao động do số lượng
lao động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định.
Nó được tính gián tiếp thông qua lương lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất lao động còn bao
hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử.
Đổi mới chính sách tiền lương góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống của
người lao động, mỗi một chính sách tiền lương ban hành sẽ làm thay đổi cuộc sống
của người lao động và góp phần ổn định an sinh xã hội. Đối với Nhà nước, Chính
phủ, việc đổi mới chính sách tiền lương thể hiện rõ vai trò quản lý điều tiết vĩ mô
và hơn cả là chăm lo đời sống của người dân. Đối với các Bộ, Ngành, tổ chức sử
dụng lao động và đối với các nhà nghiên cứu chính sách tiền lương, việc nghiên
cứu đổi mới và áp dụng chính sách tiền lương luôn là vấn đề quan trọng và cốt lõi
trong việc sử dụng hiệu quả nguồn lực.
Vì vậy, việc đổi mới chính sách tiền lương cần thực hiện đồng bộ và liên thông để
chính sách tiền lương thực sự đi vào cuộc sống đối với mỗi người lao động, mỗi tổ
chức, doanh nghiệp và với cả nền kinh tế.
Trên đây là những tìm hiểu của em về vấn đề đã nêu trên trong bài tiểu luận của
mình. Em xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
2. Thông tư liên tịch số 11/1993/TTLT-BTC-CBCP-BLĐTBXH-BTC của Ban
Tổchức-Cán bộ Chính phủ - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính
ngày 31/03/1993 hướng dẫn chế độ nâng bậc lương năm 1993 đối với công chức,
viên chức xếp lương theo Nghị định số 25/1993/NĐ-CP ngày 23/05/1993 của Chính phủ.
3. Thông tư liên tịch số 03/2003/TTLT-BNV-BTC ngày 17/02/2003 của Bộ Nội vụ-
Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện điều chỉnh tiền lương, trợ cấp và sinh hoạt
phí đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí thuộc ngân sách nhà nước.
4. Thông tư số 06/2018/TT-BNV ngày 31/05/2018 của Bộ Nội vụ hướng dẫn
thựchiện mức lương cơ sở đối với các đối tượng hưởng lương, phụ cấp trong các cơ lOMoAR cPSD| 49431889
quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, Tổ chức chính trị xã hội và Hội.
5. Nghị định số116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ về Chính sáchđối
với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang
công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
6.http://ubkttw.vn/nghien-cuu-khoahoc/-
/asset_publisher/bHGXXiPdpxRC/content/giai-phap-ot-pha-e-cai-cach-chinhsach- tien-luong
7.https://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-dieu-tra/doi-moi-
chinhsach-tien-luong-tao-dong-luc-lam-viec-cho-nguoi-lao-dong-mot-so-van-de- traodoi-142808.html
8.https://www.careerlink.vn/cam-nang-viec-lam/tin-tuc-viec-lam/thuc-trang-vande- tien-luong-o-viet-nam