Bài tiểu luận môn Tài chính tiền tệ đề tài "Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát"
Bài tiểu luận môn Tài chính tiền tệ đề tài "Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát" của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tài chính tiền tệ (FIA1326)
Trường: Học viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARcPSD| 36086670
BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG BÀI TẬP LỚN
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
(Mã môn học: FIA1326)
Đề tài: Sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát Mục Lục
Danh mục viết tắt .................................................................................................................. 3
Danh mục bảng biểu, đồ thị ................................................................................................. 3
I/ LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CSTT TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM
PHÁT5 ................................................................................................................................... 3
1.1 Những quan điểm khác nhau về lạm phát ................................................................ 3
1.2 Nguyên nhân và tác động của lạm phát .................................................................... 4
1.2.1 Nguyên nhân ....................................................................................................... 4
1.2.2. Tác động của lạm phát ...................................................................................... 6
1.3 Khái niệm về chính sách tiền tệ ................................................................................. 7
1.4 Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát ................................. 8
1.4.1 Dự trữ bắt buộc .................................................................................................. 8
1.4.2 Tái chiết khấu ..................................................................................................... 8
1.4.3 Hoạt động thị trường mở .................................................................................... 9 lOMoARcPSD| 36086670
1.4.4 Lãi suất ............................................................................................................. 10
1.4.5 Hạn mức tín dụng ............................................................................................. 11
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NHỮNG NĂM QUA Ở VIỆT NAM ... 11
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ ............................................... 11
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua ........................ 12
2.2.1 Dự trữ bắt buộc ................................................................................................ 12
2.2.2 Tái chiết khấu ................................................................................................... 14
2.2.3 Hoạt động thị trường mở .................................................................................. 14
2.2.4 Lãi suất ............................................................................................................. 15
2.2.5 Hạn mức tín dụng ............................................................................................. 19
2.3 Thực trạng thực hiện CSTT ở Việt Nam trong giai đoạn 2019 - 2022 ................. 20
2.3.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát trên thế giới ..................... 20
2.3.2 Tác động của cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay đến Việt Nam: ................. 21
2.3.3 Bài học kinh nghiệm về điều hành CSTT của NHNN thời gian qua ................ 22
2.3.4 Thách thức đối với điều hành CSTT trong thời gian tới .................................. 23
III/ GIẢI PHÁP................................................................................................................... 23
3.1 Các nguy cơ dẫn tới việc tái lạm phát ..................................................................... 23
3.2 Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát .............. 25
3.2.1 Dự trữ bắt buộc ................................................................................................ 25
3.2.2 Tái chiết khấu ................................................................................................... 26
3.2.3 Hoạt động thị trường mở .................................................................................. 26
3.2.4 Lãi suất ............................................................................................................. 27
3.2.5 Hạn mức tín dụng ............................................................................................. 28
3.3 Giải pháp ứng phó với những bất ổn của thế giới, kiểm soát lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô .................................................................................................................... 29
Danh mục tham khảo ......................................................................................................... 32 lOMoARcPSD| 36086670
Danh mục viết tắt
• CSTT: Chính sách tiền tệ CNTB: Chủ nghĩa tư bản
• KTQD: Kinh tế quốc dân
• DTBB: Dự trữ bắt buộc
• NHTW: Ngân hàng Trung ương
• NHTM: Ngân hàng Thương mại
• NHNN: Ngân hàng Nhà nước
• TCTD: Tổ chức Tín dụng
• NHTMQD: Ngân hàng Thương mại Quốc doanh • NH: Ngân hàng
• NHTMCP: Ngân hàng Thương mại Cổ phần
• TDNDTW: Tín dụng Nhân dân Trung ương
• TDND: Tín dụng Nhân dân • DN: Doanh nghiệp • LS: Lãi suất • HTX: Hợp tác xã
• NHNNTW: Ngân hàng Nhà nước Trung ương
Danh mục bảng biểu, đồ thị
• Đồ thị 1.1: Lạm phát cầu kéo
• Đồ thị 1.2: Lạm phát chi phí đẩy
• Bảng 2.1: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999
• Bảng 2.2: Lãi suất, 1989-94 (%/tháng, cuối thời đoạn)
• Bảng 2.3: Lãi suất (LS) điều hành của NHNN và LS huy động từ 2019-2022
• Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP từ năm 2012-2021
I/ LẠM PHÁT VÀ VAI TRÒ CỦA CSTT TRONG VIỆC KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1.1 Những quan điểm khác nhau về lạm phát
Quá trình hình thành các khái niệm và nhận thức bản chất kinh tế của lạm phát cũng là quá
trình phát triển của tư duy đi từ đơn giản đến phức tạp, đi từ hiện tượng bề ngoài đến bản chất
bên trong, đến các thuộc tính của lạm phát, là quá trình sàng lọc những hiểu biết sai và đúng.
Theo trường phái lạm phát “lưu thông tiền tệ” (đại diện là Miltơn Priedman) họ cho rằng
lạm phát tiền tệ là đưa nhiều tiền thừa (bất kể là kim loại hay tiền giấy) vào lưu thông làm cho
giá cả hàng hóa tăng lên. Chúng ta đều biết rằng không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên
trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước
không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách.
Trường phái lạm phát “cần dư thừa tổng quát” (hay “cầu kéo”) mà đại diện là J.Keynes cho
rằng. Lạm phát là “cầu dư thừa tổng quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời lOMoARcPSD| 36086670
kỳ toàn dụng dẫn đến mức giá chung tăng. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là “cầu
dư thừa tổng quát” là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ CNTB phát
triển mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam trong năm
1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ.
Trường phái lạm phát giá cả cho rằng lạm phát là sự tăng giá. Thực chất lạm phát chỉ là
một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà không có lạm phát như:
thời kỳ “cách mạng giá cả” ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một chu kỳ sản
xuất, những năm mất mùa… tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm phát nhưng
có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng nhiều cái
chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này đã lẫn lộn
giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm phát.
K.Marx đã cho rằng “lạm phát là sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy
bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa các giai
cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản. Ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp để nhìn
nhận lạm phát, dẫn tới người ta có thể hiểu lạm phát là do nhà nước, do giai cấp tư bản, để bóc
lột một lần nữa giai cấp vô sản. Quan điểm này có thể xếp vào quan điểm lạm phát “lưu thông
tiền tệ” song định nghĩa này hoàn hảo hơn vì nó đề cập tới bản chất kinh tế – xã hội của lạm
phát. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cho rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc tế.
Trên đây là các quan điểm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các quan điểm
đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm phát.
Chúng ta có thể dễ chấp nhận quan điểm của trường phái giá cả, (ở nước ta và nhiều nước
quan niệm này tương đối phổ biến). Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm
phát hầu như diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ
thấy của lạm phát. Như vậy chúng ta sẽ hiểu đơn giản là “lạm phát là sự tăng giá kéo dài, là
sự thừa các đồng tiền trong lưu thông, là việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội
chi ngân sách”. Hay lạm phát là chính sách đặc biệt nhanh chóng và tối đa nhất trong các hình
thức phân phối lại giá trị vật chất xã hội mà giai cấp cầm quyền sử dụng để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu. Nhưng nói chung lạm phát là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường. Định
nghĩa lạm phát còn rất nhiều vấn đề để chúng ta có thể nghiên cứu một cách sâu sắc. Nhưng
khi xảy ra lạm phát (vừa phải, phi mã, hay siêu lạm phát) thì tác động của nó sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội.
1.2 Nguyên nhân và tác động của lạm phát 1.2.1 Nguyên nhân
1.2.1.1 Lạm phát do cầu kéo
Khi tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp, hay nói
cách khác là nền kinh tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó sẽ dẫn tới lạm phát do
cầu kéo. Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm cho chúng tăng giá. lOMoARcPSD| 36086670
Ta có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu kéo qua mô hình sau đây:
(Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại)
1.2.1.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phát sinh từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn
đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai đoạn tăng trưởng
kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn.
Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra lạm phát chi phí đẩy:
(Nguồn giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại)
1.2.1.3 Lạm phát đo cung tiền tệ cao và liên tục lOMoARcPSD| 36086670
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá
tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền
kinh tế toàn dụng. Thật vậy, ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động
hết công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động
được sử dụng một cách triệt đề và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, tình hình này
sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp
hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị
han hiếm... Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào
bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng
không tăng mà giá cá tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra.
Ngoài ra còn có một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát:
Thứ nhất là tâm lý của dân cư.
Thứ hai là thâm hụt ngân sách. Thứ
ba là tỷ giá hối đoái.
1.2.2. Tác động của lạm phát
Lạm phát có những tác động không chỉ về mặt kinh tế mà trên cả khía cạnh chính trị, xã
hội. Mức độ tác động tùy thuộc vào nhiều yếu tổ như: tỷ lệ lạm phát, khả năng dự toán chính
xác sự thay đổi của lạm phát.
Khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lạm phát ở
mức độ nền kinh tế “chịu đựng được” như vậy sẽ kích thích các nhà đầu tư vay nợ để đẩy
mạnh sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội.
Lạm phát làm cho chúng ta khó có được thông tin về các nhân tố cấu thành nên giá cả hợp
lý của một hàng hóa. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cụ thể từng ảnh hưởng của lạm phát đến
nền kinh tế, chính trị - xã hội.
1.2.2.1 Tác động về mặt kinh tế • Tác động tích cực:
Khi lạm phát ở mức vừa phải (khoảng từ 2% -5% đối với các nước phát triển và dưới 10%
ở các nước đang phát triển) và các tác nhân trong nền kinh tế dự tính trước được thì loại lạm
phát này có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Lạm phát vừa phải tạo nên một sự chênh
lệch giá cả hàng hóa, dịch vụ giữa các vùng, làm cho hoạt động thương mại trở nên năng động
hơn, thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng thị trường hoặc tìm kiếm thị trường mới mang lại
nhiều lợi nhuận. Chính việc mở rộng thị trường sẽ thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.
Cạnh tranh khiến các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải đưa ra thị trường nhiều
sản phẩm có chất lượng cao hơn, giá cá hấp dẫn hơn. Do vậy thương mại năng động hơn.
Lạm phát vừa phải làm cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ. Đây là lợi thế để các doanh
nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại hối, khuyến khích doanh nghiệp gia tăng vốn đầu
tư để mở rộng sản xuất. • Tác động tiêu cực: lOMoARcPSD| 36086670
Trong lĩnh vực sản xuất: tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động
không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất. Đồng thời, khi lạm phát cao, đồng
tiền trong nước mất giá trầm trọng so với ngoại tệ.
Trong lĩnh vực lưu thông: lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiểm
hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị
mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Trong lĩnh
vực tiền tệ: lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp.
1.2.2.2 Tác động về mặt chính trị - xã hội • Tác động tích cực:
Lạm phát ở mức độ vừa phải sẽ kích thích các nhà đầu tư vay nợ để đẩy mạnh sản xuất, tạo
thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội.
Lạm phát vừa phải thường tương đồng với một tỷ lệ thất nghiệp nhất định. Đó là yếu tố
buộc người lao động muốn có việc làm phải luôn nâng cao trình độ chuyên môn, cạnh tranh
chỗ làm việc. Như vậy người sử dụng lao động có cơ hội tuyển chọn được lao động có chất lượng cao hơn. • Tác động tiêu cực:
Lạm phát cao gây ra tình trạng thất nghiệp của người lao động, các doanh nghiệp rơi vào
phá sản, những người cho vay lớn bị thua thiệt quá nhiều. Đời sống của đa số nhân dân trở lên
khó khăn, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh. Khắp nơi dấy lên những cuộc bãi công biểu tình của
công nhân dưới sự bảo trợ của công đoàn để đòi tăng lương.
Những bất ổn trong đời sống kinh tế xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những bất ổn về mặt chính trị.
Tất cả những ai bị thiệt hại nặng nề do lạm phát sẽ giảm dần lòng tin vào chính phủ. Đối với
một thể chế nhà nước, không thể nói rằng không có các lực lượng chống phá, cản trở bên trong
và bên ngoài nhằm lung lạc rồi lật đổ chính phủ.
1.3 Khái niệm về chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước
để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế – xã
hội trong từng giai đoạn nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa
rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế
quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu
cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa
thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ
tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu
có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, nếu như chính sách tài chính chỉ tập trung vào kết cấu các
mức chi phí thuế khoá của nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia lại tập trung vào mức độ
khả năng thanh toán cho toàn bộ nền KTQD, bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng lOMoARcPSD| 36086670
cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho nền kinh
tế, tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ
đạo đã định, kiểm soát hệ thống các NHTM, cùng với việc xác định tỷ giá hối đoái hợp lý
nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại và kinh tế ngoại thương với mục tiêu cuối cùng là
ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.
Chính vì vậy chính sách tiền tệ tác động nhạy bén tới lạm phát và đây là giải pháp khá hữu
hiệu trong việc kiểm soát lạm phát.
1.4 Vai trò của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
Để thấy rõ tác động của chính sách tiền tệ tới tỷ lệ lạm phát ta sẽ đi tìm hiểu từng công cụ
một của chính sách tiền tệ. 1.4.1 Dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần khống chế (bị “vô
hiệu hoá” về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán và
khả năng tín dụng của các NHTM.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và
khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín
dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu
giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các NHTM cũng
tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu
hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới
tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng).
Như vậy công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ
quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế
phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có
thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá
nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên
rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc
để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng
thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ
bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng. Chính vì
vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít
được sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển, có nền kinh tế ổn định). 1.4.2 Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu thông, thực hiện
vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, ngân hàng trung ương đã tạo
cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh lOMoARcPSD| 36086670
toán. Tái chiết khấu là đầu mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông.
Do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách
tiền tệ. Tùy theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách tiền
tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách “nới lỏng” hay “thắt chặt” tín dụng mà ngân
hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết khấu đặt ra từng thời kỳ phải
có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong nền kinh tế của giai đoạn đó.
Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các NHTM cũng phải nâng lãi
suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, giảm “cầu” về tín
dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu
tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp ngược
lại tức là ngân hàng trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm
phát tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương phiếu,
hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ và thị trường
vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết
khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải quyết khả năng thanh toán vừa có
khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái chiết
khấu là cái bơm hai chiều vừa hút vừa đẩy. Khi bơm đẩy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế,
khi có hiện tượng thiểu phát. Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát.
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra những biến
động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết khấu vì khi đó lãi suất
cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng
cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng
tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát.
1.4.3 Hoạt động thị trường mở
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của NHTW, tức là NHTW phải
chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu… đến để xin “tái cấp vốn” thì nghiệp
vụ thị trường mở là công cụ chủ động của NHTW để điều khiển khối lượng tiền, qua đó đã
kiểm soát được lạm phát.
Qua nghiệp vụ thị trường mở, NHTW chủ động phát hành tiền trung ương vào lưu thông
hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia
nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự trữ của các NHTM và các tổ
chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều
khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ chúng ta. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng
khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát , việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, NHTW điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng
thông qua “giá cả” mua và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền
bằng công cụ thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, “không can lOMoARcPSD| 36086670
thiệp thô bạo”, điều khiển mạnh mà không chứa đựng “một chút mệnh lệnh”. Một mặt nghiệp
vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp
vụ thị trường mở, như khi thấy cung tiền tệ tăng hoặc giảm quá nhanh NHTM có thể lập tức
đảo ngược lại bằng cách bán trái phiếu hoặc mua trái phiếu và ngược lại.
Đây là công cụ cực kỳ quan trọng của nhiều NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất
đem lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.
Nhưng ở nước ta đang ở trong thời kỳ đặt nền móng. Bởi vì nghiệp vụ này đòi hỏi phải có
môi trường pháp lý nhất định. Trong thời kỳ lạm phát đến 3 con số, Việt nam đã áp dụng chính
sách lãi suất để đẩy lùi lạm phát rất nhanh chóng. (nhờ vào đặc điểm riêng biệt của lạm phát
ở Việt nam). Chúng ta sẽ nghiên cứu xem chính sách lãi suất tác động tới lạm phát như thế nào. 1.4.4 Lãi suất
Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán trong
một lãnh thổ và được NHNN điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tùy theo từng thời kỳ cho phù
hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng lãi suất
tác động làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Thật vậy, khi
có lạm phát, NHNN sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư
vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm. Nhưng chúng ta biết rằng i
: tỷ lệ lãi suất thực tế và i
n= ii + ir trong đó in là tỷ lệ lãi suất danh nghĩa, il i
là tỷ lệ lạm phát, do đó khi có lạm phát cao, áp dụng chính sách lãi suất ở đây chính là việc
tăng tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát (để duy trì lãi suất thực dương) qua
đó mới tạo được cầu tiền danh nghĩa tương ứng với cầu tiền thực tế. Tóm lại khi lãi suất tiền
gửi cao thì động viên được nhiều người gửi tiền vào NHTM và ngược lại. NHTM mua tín
phiếu NHNN với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm được khối lượng tín dụng.
Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người vay vì kinh doanh bằng vốn vay
NHTM không có lợi nhuận. Như vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng
tín dụng của NHTM để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm phát). Tùy
từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong việc chống lạm phát. Ở
Việt nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối thập kỷ 80 trong
việc giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số do nền kinh tế ở nước ta lúc đó là
nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó chỉ có tác động trong nước đầu tư bằng
Việt nam đồng. Chính vì thế ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất
rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và
lãi suất nước ngoài . Trong việc kiểm soát lạm phát đây là công cụ cổ điển, các nước ngày
càng ít sử dụng hơn. Tuy đây là một công cụ rất quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và
huy động vốn cũng như cung cấp vốn. lOMoARcPSD| 36086670 1.4.5 Hạn mức tín dụng
Ngoài những công cụ cơ bản trên, NHNN còn sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để điều
hành, làm cho khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá mức cho phép để từ đó bảo
đảm mức lạm phát đã được phê duyệt. Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà
NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định phù hợp với mức tăng
trưởng kinh tế của thời kỳ. Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến khối lượng tiền trung
ương được cung ứng thêm (hay giảm bớt) đối với các NHTM. Khi hạn mức tín dụng giảm,
dẫn tới cung tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng là giá
giảm. Với mục tiêu ổn định đồng tiền và chống lạm phát được coi là mục tiêu số 1, thì công
cụ hạn mức tín dụng là cần thiết. Song việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng cũng là vấn đề
khó khăn không nhỏ cho các NHTM. Tiền gửi của nhân dân không thể không thu nhận hàng
ngày hàng giờ. Nếu nhận tiền gửi mà không được cho vay thì chẳng khác nào có đầu vào mà
không có đầu ra. Như vậy đầu ra của vốn huy động bị bế tắc bởi hạn mức tín dụng. Việc xác
định hạn mức tín dụng là rất cần thiết, để thực hiện mục tiêu chống lạm phát. Song nó cũng
có những mặt trái gây khó khăn cho NHTM. Cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn đó.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ NHẰM KIỂM SOÁT LẠM PHÁT NHỮNG NĂM QUA Ở VIỆT NAM.
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ
Kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện chính sách
tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
• Cách xác định lượng tiền cung ứng
Nếu như trong thời kỳ bao cấp chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế
chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì
ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng tiền mặt (C) còn
tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM tổ chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lượng tiền
cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở tỉ lệ lạm phát ước tính tốc độ tăng trưởng kinh tế theo
kế hoạch, vòng quay tiền tệ.
• Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
Các công cụ của chính sách tiền tệ được sử dụng một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện
Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng như thời kỳ bao cấp (lãi
mất cố định nhiều năm …) • Cơ chế điều hành
Năm 1958. Hệ thống ngân hàng đã được phân thành 2 cấp NHNN và các NHTM, trong đó
NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, ngân hàng trực thuộc chính lOMoARcPSD| 36086670
phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua 2.2.1 Dự trữ bắt buộc
Công cụ này được áp dụng ở Việt Nam năm 1992 lúc này tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% cho
các NHTM. Tất cả các NHTM phải duy trì mở hai tài khoản tại NHNN, tài khoản dự trữ bắt
buộc và tài khoản thanh toán. Có nghĩa là lúc này các NHTM thường xuyên duy trì đủ tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, do đó tài khoản dự trữ bắt buộc luôn luôn đảm bảo giúp nhà nước nắm bắt
được khả năng cung ứng tín dụng của từng NHTM còn NHTW không nắm bắt được khả năng
cung ứng đó. Để khắc phục hiện tượng trên năm 1995 NHNN cho phép sát nhập hai tài khoản
này với nhau để duy trì một tài khoản là dự trữ bắt buộc. Vì căn cứ trên số dự trữ bắt buộc
vượt mức NHTW có thể nắm bắt được khả năng cung ứng tín dụng. Đồng thời NHNN cho
phép duy trì 70% của 10% tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại NHTW còn 30% NHTM được phép giữ
lấy để hoạt động kinh doanh.
Sau khi hai luật ngân hàng ra đời được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997,
quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 0% - 20% áp dụng cho tất cả các NHTM và các tổ chức tín
dụng. Bước tiếp theo các NHTM duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc bình quân theo kỳ đã tạo điều
kiện cho các NHTM linh hoạt trong việc sử dụng vốn.
Tại điều 45 pháp lệnh NHNN đã quy định “NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc ít nhất ở
mức 10% và nhiều nhất ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở các tổ chức tín dụng. Trong trường
hợp cần thiết hội đồng quản trị NHNN quyết định tăng tỷ lệ dự trữ trên mức 35% và NHNN
trả lãi mức tăng đó. Trên thực tế công cụ này được bắt đầu sử dụng từ cuối năm 1989 với tổng
số tiền các NHTM phải ký gửi hơn 100 tỷ đồng, năm 1990 là 356 tỷ đồng và các năm sau vẫn
được thực hiện theo mức 10% tính trên số tiền gửi của khách hàng.
Trong thời gian đầu, tuy pháp lệnh ngân hàng đã quy định như trên nhưng thực tế trong một
thời gian dài, tỷ lệ 10% được ổn định một cách cố định, mặc dù chính sách tín dụng từ năm
1989 đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau theo chủ trương lúc thì thắt chặt, lúc thì nới
lỏng (nhằm kiểm soát lạm phát). Nghĩa là việc thực hiện đưa tiền vào lưu thông điều khiển
khối lượng tiền lưu thông luôn được thực hiện theo những dự kiến nhất định, bằng những công
cụ khác nhau. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc vẫn được thực hiện với một tỷ lệ cố định.
Đầu năm 1994, NHTW đã có quy định bổ sung: tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi
không kỳ hạn là 13%, đối với loại tiền gửi là 7% nhưng cũng là để thi hành cho một thời gian
dài. Sự ổn định như vậy đã nói lên rằng, ở nước ta vào thời kỳ này mới bước đầu sử dụng công
cụ này , nên chưa có khả năng điều khiển nó một cách linh hoạt theo tình hình tiền tệ luôn
biến động trong lưu thông, nên chưa thực hiện đầy đủ vai trò điều khiển khối lượng tiền lưu
thông hạn chế bội số tín dụng của các NHTM như chức năng vốn có của công cụ này. Đặc
biệt ở năm 1991-1992 các ngân hàng quốc doanh ngoài số vốn dự trữ tối thiểu theo luật định
còn có một lượng vốn tiền gửi khá lớn tại NHTW. Điều này trong một chừng mực nhất định
đã vô hiệu hoá công cụ dự trữ bắt buộc vì như vậy khi nâng cao hay hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt lOMoARcPSD| 36086670
buộc thì hầu như cũng chẳng ảnh hưởng gì đến khả năng thanh toán và khối lượng tín dụng
cung ứng. Mặt khác một số vấn đề tồn tại về mặt nghiệp vụ và tổ chức thực hiện dự trữ bắt
buộc đã giảm tính chất nhạy cảm của công cụ.
Tuy nhiên, thời gian qua NHNN cũng đã sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc nhằm mục tiêu
góp phần điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và đã đạt được một số kết quả nhất
định trong việc kiểm soát lạm phát ở mức thấp. Đến nay để chuẩn bị cho luật NHNN có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 1/10/1998, vấn đề cần đặt ra là phải nghiên cứu nội dung của luật
NHNN nhằm đưa ra quy chế dự trữ bắt buộc phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền
tệ giai đoạn mới trong đó mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế cũng như kiểm soát lạm phát là quan trọng nhất.
Đến năm 2001 công cụ dự trữ bắt buộc tiếp tục được điều chỉnh phủ hợp với diễn biến tiền
tệ và mục tiêu điều hành CSTT. Năm 2001 NHTW đã đạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 15% đối với
ngoại tệ và giảm tỷ lệ DTBB xuống 3% với VND, đây là một chính sách hợp lý đối với thời
điểm này, nó góp phần thu hẹp chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi ngoại tế so với lãi suất tiền
VND. Để phù hợp với diễn biến thị trường quốc tế và trong nước nhất là xu hướng giảm mạnh
lãi suất trên thị trường quốc tế tháng 12 năm 2001 NHNN đã quyết định điều chỉnh giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND là 3% đối với các NHTM và khoảng 2 đến 2,55% đối với NHNN.
Bảng 2.1: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999
1 /1/ 99 1 /3/ 99 1 /6/ 99 1 /7/ 99 1 /10/ 9 9 TCTD Tỉ lệ DTBB ( % )
1 .NHTMQD, NHTM của đô thị, chi nhánh 10 7 6 5 5
NH nước ngoài, NH liên doanh & công ty TC 10 7 6 5 3 NH nông nghiệp và PTNT
2 .NHTMCP nông thôn, NH hợp tác, quỹ 0 5 4 1 1 TDNDTW, khu vực
3 .TCTD có số dư tiền quỹ phải ẩn tích 0 0 0 0 0
DTBB dưới 500trđ, quỹ TDND cơ sở,
HTX tín dụng, NH phục vụ người nghèo
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng, giảm
chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của các NHTM do lãi suất giảm. lOMoARcPSD| 36086670
Như vậy, công cụ DTBB ngày càng hoàn thiện và trở thành công cụ đắc lực của NHNN
Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ. Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ
DTBB bằng VND như năm 1999. Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo
tín hiệu hạn chế việc các TCTD huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy động) để
gửi ra nước ngoài hưởng chênh lệch lãi suất, khuyến khích các TCTD cho vay trong nước,
ngày 10/10/2000 NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với tiền giả không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng là 8% kể từ kỳ duy trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm tiếp tục thực hiện
chủ trương trên ngày 1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12% áp dụng tổ kỷ duy trì DTBB 12/2000. 2.2.2 Tái chiết khấu
Tái chiết khấu là một công cụ khá nhạy cảm trong quá trình điều hành khối lượng tiền tệ và
đã được nhà nước cho phép sử dụng tại điều 41 và 43 pháp lệnh NHNN Việt Nam. Nhưng
trong thực tế ở nước ta những năm qua do thừa hưởng tiềm thế của một nền lưu thông trong
đó không được phép tồn tại tín dụng thương mại, vì vậy chưa có các công cụ truyền thống trực
tiếp để thực hiện việc chiết khấu và tái chiết khấu như các loại kỳ phiếu, thương phiếu… Luật
thương mại nước ta mới được công bố và từ ngày 1/1/1998 mới có giá trị thi hành, bởi vậy
nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu của NHTM chưa được quy định. Do đó việc tái chiết khấu
được thực hiện dựa trên căn cứ các chứng từ do NHTM đã cho vay, nhưng chưa đến hạn các
doanh nghiệp phải trả nợ lãi. Căn cứ vào chứng từ đó NHNN cho các NHTM vay lại những
khoản nợ mà các NHTM đã cho các doanh nghiệp vay. Một mặt NHTW còn thực hiện phương
thức “mua lại” các dự án đã được các ngân hàng thẩm định trước khi đầu tư nhưng NHTM không đủ vốn.
Trong thời gian qua do chưa có những công cụ nghiệp vụ để thực hiện công cụ lãi suất tái
chiết khấu nên NHNN Việt Nam đã sử dụng hình thức cho vay cầm cố. Hình thức này được
thực hiện bằng cách, các NHTM và các tổ chức tín dụng đem một số loại giấy tờ có giá trị đến
NHTW làm vật thế chấp để vay tiền. Loại tín dụng này nhằm giải quyết khó khăn tài chính
tạm thời cho các NHTM. Hình thức mua lại các dự án đầu tư tái cấp vốn theo hình thức cho
vay thế chấp một thời gian dài là công cụ thay thế cho thương phiếu và kỳ phiếu . Những hạn
chế của công cụ tái chiết khấu ở nước ta trong thời gian qua đó là tất yếu trong thời kỳ đầu
chuyển sang kinh tế thị trường . Tuy nhiên cùng với các công cụ khác của chính sách tiền tệ,
công cụ tái chiết khấu (chưa hoàn thiện) đã góp phần đưa tỷ lệ lạm phát ở nước ta từ mức 2
con số ở các năm trước xuống mức 1 con số ở năm 1993.
2.2.3 Hoạt động thị trường mở
Đây là một trong những công cụ quan trọng được NHTW các nước sử dụng để điều hành
có hiệu quả chính sách tiền tệ. Thậm chí một số ngân hàng coi đây là công cụ sắc bén nhất
trong các hoạt động của mình.
Nhưng ở Việt Nam, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp gồm
suốt 4 thập kỷ qua, phù hợp với cơ chế đó NHNN Việt Nam không thể sử dụng các công cụ lOMoARcPSD| 36086670
gián tiếp (DTBB, thị trường mở, lãi suất, tái chiết khấu) để điều hành chính sách tiền tệ. Công
cụ đó chỉ có thể và trên thực tế bước đầu đã phát huy tác dụng khi hệ thống NH Việt
Nam đã thực sự đổi mới. Điều 21 luật NHNN Việt Nam được quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam khoá 10 kỳ họp thứ 2 thông qua quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở
thông qua việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại
giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Quy định trên về mặt phương diện pháp lý luật NHNN Việt Nam đã mở ra cho công cụ thị
trường mở một lối đi khá thông thoáng, không bị ức chế bới khía cạnh nào. Trên thực tế ở Việt
Nam từ năm 1996 đã có những đợt hoạt động của các thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc,
ngoại tệ bên ngân hàng. Trong đó năm 1996 là 19 đợt, năm 1997 là 35 đợt đấu thầu trái phiếu,
khối lượng trúng thầu là 2912,5 tỷ đồng trong đó các công ty bảo hiểm mua 828 tỷ đồng, án
tổ chức tín dụng mua 2.084,5 tỷ đồng. Điều này cho thấy vốn nằm trong các định chế tài chính
còn khá nhiều nhưng cho vay ra có nhiều rủi ro. Các định chế tài chính quay trở lại mua tín
phiếu kho bạc để đảm bảo an toàn và chống lỗ.
Tuy nhiên do thị trường đấu thầu chỉ bán tín phiếu kho bạc có kỳ hạn một năm nên không
tạo ra công cụ tiền tệ để thúc đẩy sự ra đời của hoạt động thị trường mở của NHTW. Năm
1998 NHNN phối hợp với bộ tài chính tiếp tục phát hành thường xuyên trái phiếu kho bạc, số
dư trái phiếu đến cuối tháng 9/1998 là 3478,7 tỷ đồng. Tuy nhiên đến nay cho thấy các điều
kiện để đưa thị trường mở vào hoạt động là chưa chín muồi, và chưa thực sự trở thành công
cụ theo đúng nghĩa của nó. Chúng ta có thể thấy rằng nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố tác
động quyết định nhất đến những biến động trong cung ứng tiền tệ, làm thay đổi cơ sở tiền tệ
trên thị trường. Chính vì vậy đây là công cụ hữu hiệu trong việc kiểm soát lạm phát. Do đó
việc chính phủ tìm những giải pháp để mau chóng đưa thị trường mở hoạt động một cách đầy
đủ là vô cùng quan trọng và cấp thiết. 2.2.4 Lãi suấất
Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện CSTT bởi vì sự thay đổi lãi suất
không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích
thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu
là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của NHNN nhằm điều tiết lãi suất
trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Trong hệ thống kế hoạch hóa tập
trung ở Việt Nam, mọi hoạt động giao dịch tài chính chính thức đều do Nhà nước độc quyền
thực hiện thông qua NHNN.
Trước năm 1933, hệ thống NH ở Việt nam là hệ thống NH một cấp, về thực chất nó là một
bộ phận của ngân sách Nhà nước. Mối quan hệ của NH với kinh tế ngoài quốc doanh với dân
chúng là hạn chế: khi ngân sách Nhà nước thâm hụt, các NH phát hành thêm tiền để bù đắp.
Khi các doanh nghiệp Nhà nước thiếu vốn thì NH phát hành tiền cho vay tín dụng. Vì vậy dẫn
tới lạm phát trầm trọng tới mức 3 con số (trong thời kỳ này NH đã áp dụng chính sách lãi suất
cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi và nhỏ hơn tốc độ trượt giá. Đây là sự bất hợp lý, cho nên
không huy động được vốn trong dân và làm cho hệ thống NH tê liệt). lOMoAR cPSD| 36086670
Trước năm 1988, hệ thống NH là một hệ thống với NHNN thực hiện chức năng của cả
NHTM và NHNN. Bên cạnh đó, Nhà nước sở hữu và trực tiếp kiểm soát hai NH chuyên doanh
là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam (BIDV). Bên cạnh việc cùng hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước, Vietcombank có
chức năng cụ thể là tài trợ cho hoạt động ngoại thương và quản lý ngoại hối, còn BIDV thực
hiện cấp vốn dài hạn cho các dự án cơ sở hạ tầng và công trình công cộng. Toàn bộ hệ thống
ngân hàng chỉ là một công cụ để thực hiện các chính sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu tài chính
của ngân sách và của các doanh nghiệp Nhà nước. Tín dụng chỉ định với lãi suất danh nghĩa
thấp và lạm phát cao tạo ra lãi suất thực âm. Hơn thế nữa, lãi suất cho vay còn thấp hơn lãi
suất tiền gửi, thể hiện chính sách trợ cấp lãi suất của chính phủ.
Năm 1988 đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên của Việt Nam bằng quyết định của
Hội đồng Bộ trưởng (9/3/1988) cho phép tất cả các tổ chức kinh tế, bao gồm cả các đơn vị
kinh tế ngoài quốc doanh, được vay tiền và huy động vốn từ công chúng. Có ba đặc điểm đáng chú ý ở đây:
Thứ nhất, giai đoạn 1986-1988 là thời gian mất ổn định kinh tế vĩ mô nhất mà nền kinh tế
Việt Nam từng trải qua. Với việc chính phủ sử dụng in tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, lạm
phát ở mức phi mã ba chữ số trong cả ba năm này.
Thứ hai, nỗ lực tự do hóa tài chính này được tiến hành trong khi hầu như chưa có cải cách
trong khu vực công nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước và hoạt động ngoại thương. Thực tế là
mới chỉ có khu vực nông nghiệp được tự do hóa, và rất nhiều loại giá vẫn bị biến dạng nghiệm trọng.
Thứ ba, tự do hóa đã đi quá xa đến nỗi cho phép tất cả tổ chức kinh tế đều có thể kinh doanh
tiền tệ, trong khi hệ thống điều tiết tài chính thì hoàn toàn không tồn tại. Các tổ chức huy động
vốn từ công chúng dưới dạng tiền gửi tiết kiệm để cho vay không phải tuân thủ các quy định
truyền thống của ngân hàng, như dự trữ bắt buộc và tỷ lệ vốn/dư nợ vay.
Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống Tài chính – Ngân hàng
của Việt Nam bằng nghị định 53 và tháng 5 năm 1990 là việc ban hành hai pháp lệnh về NH.
Sự hình thành hệ thống NH hai cấp cùng với việc áp dụng chính sách lãi suất đã góp phần rất
cơ bản vào việc kiềm chế lạm phát những năm sau đó.
Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 do Hội Đồng Bộ Trưởng ban hành mở đầu cho công
cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, với ba nội dung cải tổ quan trọng:
Thứ nhất là tách bộ phận quản lý quỹ ngân sách ra khỏi NHNN để hình thành nên hệ thống Kho Bạc Nhà nước.
Thứ hai là tách chức năng kinh doanh ra khỏi hệ thống NHNN giao cho các ngân hàng chuyên doanh.
Thứ ba là thành lập hai ngân hàng chuyên doanh mới đó là Ngân hàng Công Thương Việt
Nam và Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp Việt Nam (sau này đổi tên thành Ngân hàng Nông
Nghiệp và Phát triển Nông thôn) cùng với hai ngân hàng có trước đó là Ngân hàng Ngoại
Thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam đảm nhận chức năng kinh
doanh thay cho hệ thống NHNN. lOMoARcPSD| 36086670
Cả bốn Ngân hàng chuyên doanh hoạt động dưới hình thức Ngân hàng chuyên doanh trong
lĩnh vực của mình cho đến năm 1990, khi giới hạn này được xóa bỏ và hệ thống NHTM ra đời
theo tinh thần của Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh các TCTD năm 1990.
Lãi suất tiền gửi và cho vay của các NHTM quốc doanh đều do NHNN quy định. Cũng
theo quy định của NHNN, các NHTM duy trì các mức lãi suất cho vay khác nhau đối với cho
vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại. Mức biến thiên lãi suất này thể hiện ưu tiên đầu
tư vào những lĩnh vực cụ thể, thay vì phản ánh rủi ro tương đối của các dự án đầu tư.
Bảng 2.2: Lãi suất, 1989-94 (%/tháng, cuối thời đoạn)
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới (NHTG), “Vietnam Financial Sector Review”, 1995)
Vào đầu năm 1989, chính phủ đã quyết định thay đổi một cách cơ bản chính sách lãi suất.
Quyết định số 39/HĐBT ngày 10/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng đưa ra các nguyên tắc cơ
bản để xác định lãi suất tiền gửi và cho vay của NHNN. Các nguyên tắc đó là:
- Lãi suất áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế và được điều chỉnh theo sự biến
động của chỉ số giá cả trên thị trường xã hội.
- Mọi nguồn vốn mà ngân hàng huy động để cho vay đều được hưởng lãi, mọi khoản
vốn ngân hàng cho vay đều phải thu lãi.
- Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi bình quân 0,6% tháng.
- Trong cơ cấu lãi suất tiền gửi và cho vay phải bao gồm lãi suất cơ bản (lãi suất thực
dương) và chỉ số trượt giá của thị trường xã hội.
Cụ thể, từ giữa tháng 03/1989 đã đưa lãi suất tiền gửi tiết kiệm lên cao hơn chỉ số lạm phát
hàng tháng. Tháng 1 và tháng 2 năm 1989 chỉ số giá chỉ tăng hơn 7,4% và 4,2% nhưng lãi suất
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng và không có kỳ hạn đã được mạnh dạn đưa lên 12% và
9% mỗi tháng. Biện pháp lãi suất thực dương này lần đầu tiên được thực thi đã phá vỡ sự trì lOMoAR cPSD| 36086670
trệ của các kênh thu hút tiền thừa trong dân và khắc phục căn bản sự tê liệt của chính sách lãi
suất cần ổn định từ năm 1985 đến quý I năm 1989. Số dư tiền tiết kiệm tăng lên nhanh chóng
ngay tháng đầu, quý đầu. Áp dụng chính sách này ngay lần đầu đã giảm lạm phát một cách
nhanh chóng. Tuy nhiên, cũng bất lợi và khó khăn, đó là chỉ 3 tháng sau đã trở thành thiểu phát.
Tháng 06/1992, NHNN đã điều chỉnh lãi suất theo hướng:
- Đảm bảo lãi suất dương, tức là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất huy động bình quân.
- NHNN chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi suất tiền gửi tối thiểu, còn
mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM quyết định.
- Xoá bỏ cơ chế nhiều mức lãi suất phân biệt theo thành phần kinh tế cũng như theo các
loại hình doanh nghiệp, thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế.
Đây là bước cải tiến cơ bản theo hướng từng bước tự do hoá lãi suất. Trong những năm tiếp
theo biện pháp chủ yếu để kiểm soát cung ứng tiền tệ, qua đó kiểm soát được lạm phát, là nâng
cao lãi suất bằng biện pháp hành chính lên mức cao, thực hiện thắt chặt tín dụng cấp cho khu
vực kinh tế quốc doanh và Ngân sách Nhà nước. Tiếp theo, một bước cải cách chính sách lãi
suất nữa, đó là với quyết định 381/QĐ-NH ngày 28/12/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước, kể từ ngày 01/01/1996, lãi suất trần chính thức trở thành một trong những công cụ chủ
chốt để điều hành chính sách tiền tệ. Đây là quyết định vĩ mô có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất
trong năm 1996. Từ mức lãi suất trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành thị và 2% /tháng
dành cho khu vực nông thôn, cho đến thời điểm này lãi suất trần đã áp dụng thống nhất cho
cả hai khu vực thành thị và nông thôn là 1,2%/tháng đối với cho vay ngắn hạn và 1,25% /tháng;
đối với trung và dài hạn, không chỉ góp phần biến đổi cơ bản thực trạng tín dụng mà còn chứng
minh sự vận dụng khá chuẩn xác những giải pháp đặc thù trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam.
Bước đầu áp dụng không tránh khỏi những vướng mắc nhưng sau một thời gian khá ngắn,
hệ thống NHTM dường như đã thích nghi được với cơ chế lãi suất trần, tự điều chỉnh nhằm
tối ưu hoá cơ cấu tín dụng và cân đối tài chính để sẵn sàng ứng chiếu với 5 lần điều chỉnh
giảm lãi suất trần của NHNN trong 2 năm 1996-1997 và lần đầu chỉnh tăng lãi suất trần gần
đây trong tháng 1/1998: lãi suất cho vay ngắn hạn từ 1% lên 1,2% /tháng, lãi suất cho vay
trung, dài hạn từ 1,1% lên 1,25%/tháng, hai mức lãi suất cơ bản này áp dụng chung cho cả thành thị và nông thôn.
Thành quả lớn nhất mà cơ chế lãi suất trần mang lại chính là đã tạo ra các cơ hội giảm chi
phí một cách bình đẳng đối với mọi thành phần doanh nghiệp , tăng cường thêm động lực cho
guồng máy kinh tế cũng như góp phần kiềm chế tốt tốc độ lạm phát.
Qua thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây chính sách lãi suất của NHNN đã được
sử dụng như một công cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. lOMoARcPSD| 36086670 2.2.5 Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để
khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các NHTM. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối
đa mà NHTW buộc các NHTM phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường phát triển, hệ thống các NHTM và các tổ chức tài chính được
hình thành rất đa dạng nên việc điều khiển khối lượng tiền được thông qua các công cụ lãi suất
chiết khấu và các công cụ truyền thống khác là chủ yếu. Nhưng đối với nước ta, công cụ truyền
thống chưa thể phát huy được tác dụng thì việc định ra công cụ trung gian trong thời gian
chuyển tiếp có một ý nghĩa lớn và tác dụng thiết thực cho việc điều hành khối lượng tiền tệ,
đó là hạn mức tín dụng.
Việc đưa ra và áp dụng công cụ hạn mức tín dụng trong những năm qua đã có những kết
quả chứng tỏ công cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Năm 1992, mức dự kiến tăng trưởng kinh tế 4,5%, chỉ số lạm phát dự kiến/mức cho phép
là 30%/năm; NHTW đã khống chế hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM ở mức
34,5%. Kết quả thực tế năm đó, mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến, mức
lạm phát 17,5% tiền tệ đi dần vào ổn định. Tất nhiên theo các chỉ số đó NHTW cũng chỉ đưa
thêm tiền vào lưu thông mức 23% (thấp hơn mức dự kiến). Các năm sau, NHTW cũng điều
hành công cụ này theo phương thức tương tự và đã có tác dụng tốt.
Tuy nhiên, cuối năm 1995 do hạn mức tín dụng đã có ngân hàng thừa hơn 1 ngàn tỷ đồng,
gửi NHTW hưởng lãi suất 1,1% nên gây lỗ. Vì vậy, việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần
thiết để thực hiện mục tiêu trên chống lạm phát. Nhưng việc điều hành công cụ này chỉ có hiệu
quả khi hệ thống NHTM quốc doanh còn chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiền tệ, đồng thời có
sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ (lãi suất tín dụng, can thiệp thị trường hối đoái …),
cùng các biện pháp hành chính khác. lOMoARcPSD| 36086670
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP từ năm 2012-2021
Trong giai đoạn 2007-2010, tín dụng của Việt Nam tăng rất cao, từ khoảng 20-25%, thậm
chí có năm trên 53%, đó là một trong những nguyên nhân khiến cho lạm phát tăng cao vào
giai đoạn các năm từ 2008-2010. Từ thực tiễn đó, Việt Nam đã quyết định sử dụng hạn mức
tín dụng. Tác dụng của việc quy định sử dụng hạn mức tín dụng này là đã kéo giảm tốc độ
tăng tín dụng hàng năm, chỉ còn 2/3, thậm chí còn khoảng 1/2 so với trước đây. Việc áp dụng
hạn mức tăng trưởng tín dụng trên thực tế đã giúp kiểm soát lạm phát, tác động tích cực đến
nền kinh tế vĩ mô bắt đầu từ năm 2013 đến nay.
Chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát những năm qua.
Nhưng đứng trước nguy cơ có thể dẫn tới tái lạm phát (tuy rằng tỷ lệ lạm phát năm qua rất
thấp 3,6%), việc hoàn thiện hơn nữa chính sách tiền tệ trong điều kiện hiện nay là cần thiết.
2.3 Thực trạng thực hiện CSTT ở Việt Nam trong giai đoạn 2019 - 2022
2.3.1 Tình hình kinh tế và nguyên nhân gây ra lạm phát trên thế giới
Trong thời kỳ này, kinh tế Việt Nam cũng đã chịu tác động tiêu cực cả về cung và cầu do
kinh tế thế giới diễn biến bất thường, năng suất lao động giảm dần, thiên tai và dịch bệnh ngày
càng trầm trọng, căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc và nhiều nền kinh tế chủ
chốt khác gia tăng, trào lưu chủ nghĩa dân túy cùng với những thay đổi về chính sách thương
mại và hàng loạt vấn đề khác. Đặc biệt là cuối năm 2019, đại dịch COVID-19 bùng phát, lan
rộng và tàn phá hầu hết các nước trên thế giới.
Đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của các DN Việt Nam: Nhiều
DN bị đóng cửa do bị cách ly/phong tỏa; bị gián đoạn sản xuất do đứt gãy chuỗi cung ứng
hàng hóa, nguyên vât liệ u, vậ n chuyển; thiếu lao độ ng trầm trọng…dẫn đến không có ̣ nguồn
thu từ sản xuất kinh doanh, không có dòng tiền để trả nợ ngân hàng.
Trong lĩnh vực tài chính, thị trường thế giới diễn biến bất thường và đảo chiều nhanh chóng
trong 2 năm 2020-2021. CSTT nới lỏng tiếp tục chi phối NHTW các nước, buộc các NHTW
phải chủ động có giải pháp phù hợp để thích ứng với những thay đổi này. Trước những diễn
biến phức tạp của đại dịch, NHNN đã nhiều lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất với mức cắt
giảm khá lớn so với nhiều năm qua (tổng mức giảm từ 1,5 - 2%/năm). Việc cắt giảm các mức
lãi suất điều hành của NHNN đã phát tín hiệu mạnh mẽ và nhất quán về chủ trương tiếp tục
giảm lãi suất, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng. Đồng thời, NHNN đã chỉ
đạo các NHTM thực hiên các giải pháp để hỗ trợ các DN vượt qua đạị dịch như: gia hạn
nợ/điều chỉnh kỳ hạn nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn giảm phí/lãi vay….Có thể thấy tình hình
lãi suất cho vay trước và sau dịch COVID-19 đã thay đổi mạnh, đăc biệ t là lãi suất cho vay
ngắn hạn (giảm từ 6-9% năm 2019 xuống 4,4-7% năm 2021).̣ Các giải pháp CSTT đồng bộ
và linh hoạt đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế.
Đồng thời với chính sách lãi suất, từ đầu năm 2020, NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt,
chủ động, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, truyền thông, điều chỉnh
giảm tỉ giá bán can thiệp và sẵn sàng bán ngoại tệ để bình ổn thị trường. Nhờ đó, về cơ bản, tỉ lOMoARcPSD| 36086670
giá và thị trường ngoại hối ổn định, cân đối cung cầu tiếp tục thuận lợi, thanh khoản thông
suốt, VND ổn định hơn nhiều so với đồng tiền của nhiều đối tác thương mại.
Kết quả là, Việt Nam là một trong số ít quốc gia đã thành công trong việc đối phó với đại
dịch và duy trì được tốc độ tăng trưởng dương với GDP năm 2020 tăng 2,91%, năm 2021 là
2,58%, kiểm soát lạm phát trong mục tiêu đề ra (<4%) và các hoạt động kinh tế nhìn chung ổn định.
Tuy nhiên, sang năm 2022, khi đại dịch COVID-19 chưa kết thúc thì căng thẳng giữa Nga
và Ukraine xảy ra và kéo dài nhiều tháng nay dẫn đến cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn
cầu, đứt gãy chuỗi cung ứng, giá năng lượng và lương thực tăng cao…là nguyên nhân dẫn đến
lạm phát chi phí đẩy trên toàn cầu (như tại châu Âu lạm phát hiện lên tới 2 con số). Để đối
phó với tình hình lạm phát tăng cao, Ngân hàng Trung ương các nước thực hiện CSTT thắt
chặt, đến nay các Ngân hàng Trung ương châu Âu đã liên tục nhiều lần điều chỉnh tăng lãi
suất (ngày 27/10/2022 tăng lãi suất lần 3 lên mức 1,5% cao chưa từng thấy kể từ năm 2009);
Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đến 3/11/2022 đã 6 lần tăng lãi suất cho vay cơ bản lên
mức 3,75-4%, mức cao nhất trong 4 thập kỷ qua.
2.3.2 Tác động của cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay đến Việt Nam:
- Giá đầu vào của nhiều DN tăng, nhất là các DN có đầu vào nhập khẩu, dùng nhiều năng
lượng như: dệt may, da giày, cơ điện, công nghiệp nặng, vận tải…
- Giá xăng dầu tăng dẫn đến chi phí sinh hoạt, đi lại… của người dân cũng tăng theo
- Việt Nam là nước nhập siêu nên khi lạm phát các nước tăng cao sẽ ảnh hưởng lớn đến các DN nhập khẩu.
NHNN đã thực hiện CSTT như thế nào trước tình hình trên?
NHNN đã định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng năm 2022: “Điều hành
CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh
tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu năm 2022 bình quân khoảng 4%, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, thích ứng kịp thời với diễn
biến thị trường trong và ngoài nước”.
Để thực hiện mục tiêu đề ra, trước những biến động bất thường của thế giới, ngay khi xuất
hiện dấu hiệu lạm phát cao ở Mỹ và các nước Châu Âu, NHNN đã kịp thời điều chỉnh CSTT
để thích ứng với những biến động đó. NHNN đã nâng lãi suất điều hành lên 2% trong tháng 9
và tháng 10 (xem bảng), theo đó các NHTM đã kịp thời tăng lãi suất huy động để hút tiền vào
ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát có dấu hiệu gia tăng. lOMoARcPSD| 36086670
Bảng 2.3: Lãi suất (LS) điều hành của NHNN và LS huy động từ 2019-2022
(Nguồn: Tổng Cục Thống kê, NHNN)
Về chính sách tỷ giá: NHNN đã kịp thời điều chỉnh biên độ tỷ giá từ 2% lên 5% hỗ trợ nhu
cầu ngoại tệ, ổn định sản xuất kinh doanh của các DN.
Về chính sách tín dụng: Thực hiện cấp hạn mức tín dụng cho các NHTM để kiểm soát lượng
cung tiền vào nền kinh tế, định hướng tín dụng vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực/dự án
trọng điểm, ưu tiên của Chính phủ; hạn chế tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro, kém hiệu quả.
Kết quả CSTT chủ động, linh hoạt đã góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”, đóng
góp lớn vào thành tựu chung về các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội của cả nước mà Đảng và
Quốc hội đề ra, lạm phát vẫn trong giới hạn mục tiêu (<4%) và tăng trưởng kinh tế năm 2022 lên đến 8,02%.
Những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên:
- Do Việt Nam đã thực hiện tiêm vacxin phòng COVID-19 cho toàn dân với tỷ lệ mũi 2
và 3 rất cao nên đã nhanh chóng kiểm soát được dịch bệnh và mở cửa sớm hơn nhiều
nước. Đồng thời, sau một thời gian dài dịch bệnh, khi Việt Nam mở cửa thì nhu cầu
tiêu dùng của người dân bùng nổ, kích thích kinh tế phát triển.
- Trung Quốc (là thị trường lớn cung cấp đầu vào cho toàn thế giới) thực hiện chính sách
Zero COVID nên đã giảm lượng cung ra thị trường, đó cũng chính là cơ hội để
Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là xuất khẩu nông lâm ngư nghiệp…
- Đầu tư nước ngoài (trực tiếp và gián tiếp) vẫn tiếp tục vào Việt Nam do Việt Nam có
tình hình chính trị, kinh tế ổn định.
- Việt Nam đã thực hiện CSTT, tài khóa linh hoạt và hiệu quả để đảm bảo kiểm soát lạm
phát và vẫn giữ được tăng trưởng kinh tế.
2.3.3 Bài học kinh nghiệm về điều hành CSTT của NHNN thời gian qua
Một là, sự thành công của CSTT là tính linh hoạt, chủ động, phù hợp và tôn trọng nguyên
tắc thị trường trong quá trình thực hiện mục tiêu kép: ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng lOMoARcPSD| 36086670
trưởng kinh tế. Có thể nói, về bản chất các yếu tố lãi suất, tỷ giá, giá vàng... là các yếu tố thị
trường, các yếu tố giá cả, chịu tác động bởi các quy luật kinh tế khách quan. Song NHNN
trong suốt thời gian qua đã vận dụng và điều hành các yếu tố này theo định hướng đã đề ra để
đạt được các mục tiêu của CSTT.
Hai là, tính kỷ cương, kỷ luật trong việc chấp hành các quy định của NHNN, của pháp luật
trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng. Trong đó, việc thực hiện các quy định, các chỉ tiêu mang
tính định hướng cần phải được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ mới đảm bảo CSTT
phát huy nhanh, hiệu lực và có hiệu quả, minh bạch và công bằng, nhất là các quy định về lãi
suất, tỷ giá, tín dụng.
Ba là, cần tổ chức tốt triển khai thực hiện theo mục tiêu của CSTT trong từng giai đoạn.
Các cơ quan, đơn vị thuộc NHNN và các NHTM phải thường xuyên bám sát thực tiễn; theo
dõi, nắm bắt, đánh giá kết quả và những khó khăn vướng mắc, tồn tại hạn chế của cơ chế chính
sách... từ đó tiếp tục điều chỉnh chính sách cho phù hợp, hợp lý, mới đảm bảo cơ chế chính
sách đi vào thực tiễn có hiệu quả.
Bốn là, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp bên cạnh CSTT, phối hợp hài hòa giữa CSTT và
chính sách tài khóa. Chẳng hạn, để kiềm chế lạm phát thì NHNN thực hiện CSTT thắt chặt,
cùng lúc chính sách tài khóa cũng được yêu cầu thực hiện theo hướng thắt chặt, cắt giảm đầu
tư công, giảm bội chi Ngân sách Nhà nước; giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của
các DN, nhất là vay ngắn hạn...
2.3.4 Thách thức đối với điều hành CSTT trong thời gian tới
Theo dự báo của nhiều chuyên gia kinh tế thì khả năng Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất cho vay
cơ bản đến giữa năm 2023 nên áp lực tăng lạm phát vẫn gia tăng với Việt Nam.
Khác với các đợt trước đây lạm phát xuất phát từ nội tại nền kinh tế, đợt này lạm phát đến
từ bên ngoài (mà Việt Nam có độ mở 200%) nên khó có thể kiểm soát một cách chủ động.
Các động lực tăng trưởng kinh tế của năm 2023 giảm dần. Việt Nam mới chỉ là thị trường
cận biên, chưa phải là thị trường mới nổi nên nếu ngân hàng trung ương các nước tiếp tục tăng
lãi suất cơ bản thì khó tránh khỏi dòng vốn sẽ rút khỏi các nước đang phát triển như nước ta.
Nhu cầu tiêu dùng của thế giới đang chững lại và có thể giảm, đã có dấu hiệu của đợt suy
thoái kinh tế. Điều này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của nước ta. III/ GIẢI PHÁP
3.1 Các nguy cơ dẫn tới việc tái lạm phát
Mặc dù mấy năm qua lạm phát đã được kiềm chế. Song nền kinh tế Việt nam vẫn tồn tại
nhiều vấn đề chưa ổn định vững chắc, có thể dẫn tới việc tái lạm phát. Các nhân tố tiềm tàng
làm phát sinh lạm phát cần phải được tính đến khi kiểm soát lạm phát là:
- Giá hàng hóa và dịch vụ năm 2023 chịu áp lực từ nhiều yếu tố: áp lực lạm phát cầu kéo
do thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội làm cho tổng cầu tăng
đột biến, trong khi đứt gãy chuỗi cung ứng chưa được khắc phục; áp lực lạm phát chi lOMoAR cPSD| 36086670
phí đẩy trong bối cảnh USD tăng giá làm tăng chi phí nhập khẩu nguyên, nhiên vật
liệu, bên cạnh đó, khi USD tăng giá do Fed tăng lãi suất sẽ gây nên áp lực tăng tỷ giá
hối đoái giữa VNĐ và USD. Ngoài ra, thiên tai, dịch bệnh có thể gây tăng giá lương
thực, thực phẩm tại một số địa phương bị ảnh hưởng, tác động làm gia tăng lạm phát.
- Điều chỉnh theo lộ trình tăng giá dịch vụ do Nhà nước quản lý như dịch vụ giáo dục, y
tế. Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất năm 2022 tăng 6,79% so với
năm 2021 và chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 8,56% dẫn đến chỉ số giá sản xuất sản
phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,89% so với năm trước; chỉ số giá sản xuất
sản phẩm công nghiệp tăng 4,24%; chỉ số giá sản xuất dịch vụ tăng 3,69%. Chỉ số giá
sản xuất của 3 khu vực đều tăng cao hơn lạm phát bình quân 3,15% năm 2022 sẽ lan
tỏa vào giá tiêu dùng năm 2023.
- Một số chính sách giúp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
đời sống của người dân sẽ kết thúc trong năm 2022; thiên tai và dịch bệnh có thể gây
ảnh hưởng đến giá lương thực, thực phẩm tại một số địa phương bị ảnh hưởng, điều
này cũng sẽ tác động làm tăng CPI. Căn cứ vào các yếu tố tác động nêu trên, dự báo tỷ
lệ lạm phát năm 2023 của kinh tế Việt Nam có thể ở mức 4,5%-5%, tuy vậy trong trung
hạn 5 năm 2021-2025 lạm phát đạt mục tiêu kế hoạch khoảng 4%.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội chậm được cải thiện, có mặt tiếp tục xuống cấp, tỷ lệ tiết
kiệm và đầu tư còn thấp, nhiều tiềm lực của dân chưa được khai thác vào phát triển sản
xuất, tài sản công và vốn đầu tư của nhà nước còn bị thất thoát lãng phí lớn.
- Sức sản xuất của xã hội chưa được giải pháp triệt để, hiệu quả kinh tế còn thấp, hạn
chế nguồn tích luỹ vốn đầu tư cũng như khả năng cải thiện đời sống.
- Nền kinh tế thị trường Việt Nam đang ở trình độ ban đầu, vừa chưa được phát triển đầy
đủ, vừa chưa được quản lý tốt, chủ yếu do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, năng lực
và hiệu lực quản lý vĩ mô chưa đáp ứng yêu cầu. Bộ máy nhà nước, hệ thống tài chính
ngân hàng và khu vực doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ nhiều yếu kém.
- Ở nước ta những năm qua, nhu cầu đầu tư về xây dựng cơ bản tăng nhanh trên cả hai
khu vực nhà nước và tư nhân. Đầu tư nước ngoài vào Việt nam ngày một gia tăng do
đó ảnh hưởng tới thị trường tiền tệ và thị trường hàng hoá .
- Ngân sách nhà nước đứng trước những yêu cầu lớn về cân đối thu chi và tạo nguồn bù
đắp thiếu hụt hàng năm, trong khi đó môi trường luật pháp, môi trường tài chính còn
đang trong quá trình tạo lập và hoàn cảnh. Vì vậy, khả năng mất cân đối trong ngân
sách nhà nước lạm phát tiền tệ là chưa thể lường hết được.
Các nhân tố trên sẽ tác động đến lạm phát và khi chúng cộng hưởng trong khoảng thời gian
nhất định, thường là vào dịp cuối năm, thì nguy cơ tái lạm phát là điều có thể xảy ra. Đây cũng
là điều cảnh báo đối với các nhà hoạch định chính sách vĩ mô về những liều lượng, thời gian
thực hiện của các giải pháp từ nay đến cuối năm. Do vậy, cần có những giải pháp hữu hiệu để
có thể khắc phục tình trạng đình trệ mà không gây thêm lạm phát. Chủ động ngăn ngừa lạm phát quay trở lại. lOMoARcPSD| 36086670
3.2 Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
Để hoàn thiện chính sách tiền tệ chúng ta phải biết hoàn thiện các công cụ của chính sách
tiền tệ cũng như phối hợp điều hành các công cụ đó.
3.2.1 Dự trữ bắt buộc.
Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm lớn trong việc kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác
động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ.
Tuy vậy, khi mà dự trữ bắt buộc không được trả lãi, chúng tương đương với một khoản thuế
và có thể dẫn tới tình trạng phi trung gian hóa. Hơn nữa, dự trữ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo,
hoặc những thay đổi lớn và thường xuyên ở mức dự trữ cũng sẽ gây nên hỗn loạn và tổn thất
cho các NHTM. Nhưng trước tình trạng lạm phát thấp như hiện nay chúng ta cần giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc. Bởi vì nhu cầu vốn của nền kinh tế khá lớn, nhưng khả năng huy động vốn
hạn chế, cho nên việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong giai đoạn này sẽ hỗ trợ thêm nguồn vốn
cho các tổ chức tín dụng cho vay nền kinh tế. Mặt khác sự gia tăng tổng phương tiện thanh
toán ở mức kiểm soát được, và tỷ lệ lạm phát cũng có thể kiểm soát được sao cho phù hợp với
sự tăng trưởng kinh tế. Do vậy hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc có thể chấp nhận và phù hợp trong thời kỳ này.
Một mặt khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần chú ý tới quy mô hoạt động của các tổ chức
tín dụng hiện nay sao cho hợp lý. Còn về đối tượng thi hành quy chế dự trữ bắt buộc cần bổ
sung thêm ngân hàng HTX, quỹ tín dụng nhân dân và HTX tín dụng để phù hợp với quy định
nội dung luật NHNN. Trong giai đoạn hiện nay, các NHTM gặp khó khăn trong việc huy động
vốn đối với loại tiền gửi từ 12 tháng trở lên (chiếm 15% so với tổng nguồn vốn huy động).
Chính vì vậy nếu muốn huy động được loại tiền gửi này các NHTM phải nâng mức lãi suất
tiền gửi (huy động vốn) lên cao sát lãi suất tiền cho vay. Do đó nếu quy định loại tiền gửi này
cũng phải chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ gây khó khăn cho các NHTM trong hoạt động kinh
doanh cũng như không khuyến khích được huy động vốn trung và dài hạn để cho vay và đầu
tư phát triển . Vì vậy trong giai đoạn hiện nay chưa nên quy định dự trữ bắt buộc đối với loại
tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên mà chỉ tạm thời quy định dự trữ bắt buộc đối với tiền
gửi huy động dưới 12 tháng. Việc quy định trên sẽ khuyến khích các NHTM bằng các nghiệp
vụ của mình (phát hành trái phiếu NHTM phát hành kỳ phiếu…v.v) thu hút nguồn vốn cho
mục tiêu đầu tư và phát triển .
NHNN cũng quyết liệt triển khai nhiều giải pháp căn cơ, cụ thể, nhằm mở rộng tín dụng
có hiệu quả, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng cho người dân, doanh nghiệp,
góp phần đẩy lùi tín dụng đen như: Ban hành kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng triển
khai Chỉ thị số 12/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm hạn chế tín dụng đen; Rà
soát sửa đổi các quy định về cho vay tiêu dùng, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống; Chỉ đạo
các tổ chức tín dụng phát triển các sản phẩm cho vay tiêu dùng, đơn giản hóa thủ tục, rút
ngắn thời gian giải quyết cho vay,…
Nhưng để đảm bảo khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng, cần xử lý kỷ luật việc
thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng. Do đó ngoài việc phạt nặng các tổ chức tín lOMoARcPSD| 36086670
dụng bằng hình thức lãi suất, ban thanh tra NHNN và các vụ liên quan ở NHTW cần tăng
cường kiểm tra việc thực hiện chế độ dự trữ bắt buộc của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác. 3.2.2 Tái chiết khấu.
Để thực hiện được công cụ tái chiết khấu có hiệu quả đòi hỏi phải có các công cụ truyền
thống của nó là kỳ phiếu và thương phiếu. Thương phiếu là giấy chứng minh cho hành vi mua
chịu bán chịu hàng hoá , hành vi này gọi là tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn chu kỳ kinh doanh của mình,
tăng vòng quay của vốn. Do đó sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh
tế cao. Vì vậy muốn áp dụng công cụ tái chiết khấu như là một công cụ hữu hiệu của chính
sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát đòi hỏi phải có nền tảng vững chắc cho sự ra đời
của tín dụng thương mại.
Lãi suất tái chiết khấu có mối quan hệ chặt chẽ với lãi suất chiết khấu của NHTM. Vì vậy
để hoàn thiện công cụ tái chiết khấu cần hoàn thiện việc chiết khấu kỳ phiếu do NHTM phát
hành cụ thể ở đây là chứng từ có giá. Hiện nay các ngân hàng thường dùng hình thức nhận
cầm cố để cho vay hơn là nhận chiết khấu các chứng từ có giá. Nhưng có thể thấy hình thức
nhận cầm cố cho vay có nhiều nhược điểm hơn so với hình thức chiết khấu. Thứ nhất đó là
thủ tục phức tạp hơn, thứ hai là nhu cầu về vốn được thoả mãn ít hơn. Vì vậy các ngân hàng
nên mở rộng các hình thức chiết khấu chứng từ có giá để tạo thuận lợi hơn và bảo đảm lợi ích cho khách hàng.
Nên xác định mức chiết khấu bằng với lãi suất cho vay được tính bằng phí ngân hàng cộng
với lãi suất sinh lợi của các chứng từ có giá, nhưng tối đa không vượt quá mức tiền của lãi suất cho vay ngắn hạn.
Mặt khác ngân hàng trung ương cần định rõ hơn việc vận dụng chính sách và công cụ tái
chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu: có như vậy mức kích thích việc xuất hiện các loại thương
phiếu, kỳ phiếu và chính chúng là cơ sở cho phép NHNN trung ương vận dụng công cụ tái
chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu hữu hiệu để thực thi chính sách tiền tệ.
3.2.3 Hoạt động thị trường mở.
Về mặt lý luận cũng như trong thực tế thị trường mở là một công cụ quan trọng điều tiết
linh hoạt khối lượng tiền tệ trong lưu thông và liên quan trực tiếp đối với cơ chế phát hành
tiền của NHTW. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay cần đưa công cụ thị trường mở vào hoạt
động và tăng cường sử dụng công cụ này. Tuy nhiên đến nay cho thấy các điều kiện để đưa
thị trường mở vào hoạt động còn chưa chín muồi. Vì vậy cần có các giải pháp hoàn thiện công
cụ này để mau chóng đưa công cụ này vào hoạt động. Trước hết việc vận dụng công cụ thị
trường mở đòi hỏi trước mắt không chỉ đối với tín phiếu kho bạc mà ngay cả với trái phiếu
kho bạc và các chứng chỉ đầu tư của nhà nước (trái phiếu công trình), cần phải phát hành theo
phương thức đấu thầu thông qua hoạt động của NHNNTW và án NHTM trong đó tăng cường
vai trò của NHNNTW trong việc phát hành tiền để mua trái phiếu chính phủ và sau đó thực lOMoARcPSD| 36086670
hiện mua bán lại trái phiếu chính phủ với các NHTM, với các tổ chức kinh tế theo tín hiệu thị trường. Một mặt :
- Cần ban hành chính thức các quy chế hoạt động thị trường mở phù hợp với luật.
- Thành lập ban chỉ đạo thị trường mở để tiến hành mua bán.
- Làm việc với Bộ tài chính phát hành các tín phiếu kho bạc có kỳ hạn dưới 12 tháng
để tạo công cụ cho thị trường mở. Đồng thời làm việc với Bộ tài chính để chuyển số
nợ hiện nay của Bộ tài chính vay NHNN thành các trái phiếu chính phủ để NHNN
sử dụng công cụ này cho hoạt động thị trường mở.
- NHNN phát hành tín phiếu NHNN thường xuyên, định kỳ với thời hạn ngắn.
- Hoàn thiện hệ thống thanh toán bù trừ để các ngân hàng tiến hành các giao dịch
ngắn, phát triển nghiệp vụ vay mượn thúc đẩy thị trường liên ngân hàng phát triển
là cơ sở để phát triển nghiệp vụ thị trường mở.
Song để nghiệp vụ thị trường mở phát huy hiệu quả vốn có của nó trong việc điều hành
chính sách tiền tệ, thì bên cạnh việc khẩn trương tạo ra các điều kiện như trên cho thị trường
mở có thể hoạt động, cần thiết phải đổi mới đồng thời các công cụ chính sách tiền tệ như công
cụ tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, lãi suất các điều kiện cần thiết cho sự phát triển của thị
trường liên ngân hàng... để NHNN có thể điều hành một cách đồng bộ, có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các công cụ, qua đó có thể nâng cao năng lực điều hành của NHNN nhằm thực hiện
có hiệu quả mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. 3.2.4 Lãi suất.
Trong những năm gần đây, chính sách lãi suất của NHNN đã được sử dụng như một công
cụ quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Bằng các biện pháp điều
hành linh hoạt theo chỉ đạo của chính phủ NHNN đã chuyển từ chính sách lãi suất âm sang lãi
suất thực dương, lãi suất trần đã dần dần bám sát chỉ số trượt giá, và quan hệ cung cầu vốn tín
dụng trên thị trường tiền tệ bảo toàn giá trị đồng tiền cho người gửi và được người vay chấp
nhận từ đó ngày càng thu hút thêm nguồn vốn vào hệ thống ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn
ngày càng tăng cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Tuy nhiên, công cụ lãi suất khá
quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát hiện nay. Do đó, các giải pháp để hoàn thiện hơn
nữa công cụ lãi suất có thể kể đến như:
- Nên kiên trì nguyên tắc lãi suất thực dương để kích thích tiết kiệm đồng thời linh
hoạt điều chỉnh lãi suất theo diễn biến lạm phát nhằm hỗ trợ đầu tư.
- Trong thời gian tới, trước mắt vẫn duy trì cơ chế lãi suất trần nhưng về phương diện
tiến hành cần xúc tiến nhanh việc hình thành các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tạo tiền đề mở rộng quá
trình tự do hoá lãi suất. lOMoARcPSD| 36086670
- Cần phải có chính sách lãi suất linh hoạt (lãi suất cho vay và vay). Về việc xây dựng
chính sách lãi suất, NHNN cần có chính sách ưu đãi cho một số ngành hoặc đối
tượng kinh tế quan trọng.
Mặt khác lãi suất và tỷ giá là hai vấn đề nhạy cảm, có tác động tức thời và ảnh hưởng sâu
rộng đối với toàn bộ các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Do giữa chúng có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý đồng bộ trong quan hệ
phù hợp. Chính vì vậy biện pháp điều chỉnh lãi suất đồng Việt Nam cần đi đôi với việc quy
định lãi suất thích hợp đối với tiền gửi bằng USD để phát huy tối đa vai trò của công cụ lãi
suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ.
Tóm lại, điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với các diễn biến kinh tế và mục tiêu chính sách
là một biện pháp thông thường của các chính phủ và NHTW trong thời gian tới, dưới sự chỉ
đạo của chính phủ cùng với các biện pháp chính sách khác, NHNN sẽ tiếp tục thực hiện chính
sách lãi suất linh hoạt phù hợp với tình hình và các diễn biến kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu
ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước trong từng thời kỳ.
3.2.5 Hạn mức tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng đóng vai trò điều tiết thường xuyên đối
với việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Dựa vào việc mở rộng
tín dụng người ta có thể đạt đến sự mở rộng sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản.
Ngược lại thu hẹp tín dụng là một trong những cách thức quan trọng để hạn chế sự tăng trưởng
kinh tế quá nhanh và sự gia tăng của lạm phát. Vì vậy công cụ hạn mức tín dụng có ý nghĩa
quan trọng và việc xác định hạn mức tín dụng là rất cần thiết để thực hiện mục tiêu chống lạm
phát. Song nó cũng gây khó khăn cho NHTM vì thế cần phải có những giải pháp hỗ trợ tiếp
nối để làm giảm bớt những khó khăn cho NHTM.
Thứ nhất: để NHTM kinh doanh được tốt, huy động được nhiều vốn trong dân cư (đây là
sự cần thiết để chống lạm phát) nên mở hướng cho chi nhánh NHTM cấp tỉnh có thể được
mua tín phiếu NHNN khi thừa vốn. Như vậy nâng cao được tính năng động, sáng tạo vì nó
gắn với lợi ích trực tiếp của nơi thừa vốn.
Thứ hai: để giảm bớt khó khăn cho Ngân hàng nông nghiệp, NHNN và chính phủ nên cho
phép ngân hàng nông nghiệp không phải ký quỹ bắt buộc hoặc để 1 tỷ lệ rất nhỏ trên số tiền gửi.
Thứ ba: chính phủ nên giao cho các NHTM huy động thay cho kho bạc và theo chủ định
của chính phủ về mức huy động và lãi suất đảm bảo kinh doanh. Số huy động được theo chỉ
định sẽ chuyển giao cho kho bạc để đáp ứng yêu cầu chi tiêu của chính phủ.
Thực hiện tốt những giải pháp nêu trên vừa đảm bảo chống lạm phát vừa giúp cho các
NHTM hoạt động có hiệu quả.
Một mặt hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ, mặt khác cần phối hợp đồng bộ các
công cụ đó trong việc kiểm soát lạm phát. Như công cụ dự trữ bắt buộc do quá nhạy cảm vì
vậy công cụ này cần phải được sự bổ trợ của các công cụ tinh vi hơn (tái chiết khấu, thị trường
mở). Ngược lại trong khi NHNNTW cần coi trọng việc sử dụng công cụ thị trường mở, công lOMoARcPSD| 36086670
cụ tái chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu trong việc điều hành chính sách tiền tệ thì công cụ
dự trữ bắt buộc được sử dụng để hỗ trợ hai công cụ nêu trên. Qua đây có thể thấy được quan
hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tỷ giá. Do đó cần thiết lập nhiều công cụ thực sự có mối quan hệ
chặt chẽ gồm cả các công cụ bổ trợ và công cụ trung gian. Bởi vì khi phối hợp đồng bộ các
công cụ, thì việc điều khiển một công cụ sẽ làm cho các công cụ khác được cộng hưởng về sức mạnh.
Chính vì vậy, không những phải hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ mà còn phải
phối hợp các công cụ đó với nhau trong việc kiểm soát lạm phát.
3.3 Giải pháp ứng phó với những bất ổn của thế giới, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
Về phía Chính phủ
- Triển khai các chính sách vĩ mô như chính sách tài khóa, chính sách đầu tư… đồng bộ với CSTT.
- Cải thiện cơ cấu xuất khẩu, tăng tỷ trọng xuất khẩu của các DN nội địa để hoạt động
xuất khẩu ổn định và bền vững. Mở rộng đối tác thương mại bao gồm cả các nhà cung
cấp và tiêu thụ hàng Việt Nam, để giảm bớt sự lệ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu hàng
sang một quốc gia duy nhất,…
- Minh bạch thị trường, cải thiện thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ chế chính sách để
tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài.
- Làm tốt công tác dự báo, tăng cường nhân sự cho công tác này để Việt nam có thể ứng
phó tốt nhất với những biến động của thế giới và trong nước.
Về phía NHNN
Hiện tại, CSTT của Việt Nam cũng đang đối mặt với “tam giác bất khả thi” (mối quan hệ
giữa chính sách lãi suất - chính sách tỷ giá hối đoái - dòng vốn nước ngoài). Để đảm bảo dòng
vốn vào Việt Nam không bị ảnh hưởng chỉ có 1 lựa chọn: hoặc ổn định lãi suất, hoặc ổn định
tỷ giá, không thể cùng một lúc thực hiện cả 2 nhiệm vụ. Đây đang là lựa chọn khó khăn nhất
của CSTT. Để đưa ra lựa chọn, cần phải phân tích thấu đáo, tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu
thiệt hại đến tổng thể cũng như từng bộ phận của nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế
Việt Nam có độ mở rất lớn, kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 200% GDP, trong đó 70-75%
xuất khẩu là do khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp; còn vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài hiện nay chiếm khoảng 23-25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và chiếm trên dưới
20% GDP, chưa kể dòng vốn gián tiếp.
Như vậy, NHNN vẫn tiếp tục thực hiện linh hoạt CSTT để thích ứng các tác động của bất
ổn thế giới, đảm bảo thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép”, trước mắt là trong năm 2023 với rất
nhiều khó khăn, biến đổi khó đoán trước, theo đó các giải pháp cụ thể có thể là:
- NHNN cần đảm bảo lãi suất thực dương, không nên để lãi suất tiền gửi quá thấp dễ gây
ra hiện tượng người dân chuyển sang găm giữ vàng, đô la. lOMoARcPSD| 36086670
- Đối với chính sách tỷ giá, để CSTT có thể vận hành một cách phù hợp nhất, NHNN
cần phải có những phản ứng rất sớm trước những nguy cơ các dòng vốn quốc tế bị giảm
mạnh. Nhưng để tránh tỷ giá dao động quá mạnh thì việc NHNN can thiệp bằng nguồn
dự trữ ngoại tệ là hết sức cần thiết.
- NHNN cũng cần làm tốt công tác dự báo: tăng cường công tác nghiên cứu dự báo cung
- cầu tiền tệ. Để làm được điều này NHNN cần xây dựng một kho dữ liệu đầy đủ, chính
xác và đảm bảo chất lượng. Nhờ đó, NHNN có thể dự báo nhu cầu tiền không chỉ là
cầu về M1 và M2, mà còn có thể thực hiện cho cả các thành tố của M2. Đồng thời, cần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt là các cán bộ tham gia vào công tác nghiên
cứu và dự báo. Khi có nguồn nhân lực đủ mạnh kết hợp với phương tiện kỹ thuật hiện
đại, nguồn cung cấp mọi thông tin liên qua tới hoạt động ngân hàng đầy đủ và chính
xác thì đó sẽ là cơ sở vững chắc cho NHNN hoạch định tốt CSTT.
- NHNN cần sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT gián tiếp, như: nghiệp vụ thị trường
mở, chiết khấu, hoán đổi ngoại tệ, thấu chi... Những nghiệp vụ này khi sử dụng linh
hoạt sẽ giúp NHNN điều chỉnh nhanh chóng sự biến động mang tính mùa vụ của cầu
tiền trong ngắn hạn. Công cụ dự trữ bắt buộc cần điều hành linh hoạt nhằm nâng cao
khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN, nếu giữ cố định trong một thời gian dài làm
giảm vai trò điều tiết cung ứng tiền tệ của công cụ này và làm bó hẹp cách thức mà
NHNN có thể sử dụng để điều tiết cung ứng tiền tệ.
Về phía các DN
- Tiết kiệm chi phí hoạt động để giảm/giữ giá thành sản phẩm: tăng năng suất lao động,
tiết giảm các chi phí gián tiếp…
- Thay thế các đầu vào nhập khẩu bằng các đầu vào sản xuất trong nước để giảm áp lực tỷ giá tăng.
- Tăng cường đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Về phía các NHTM
- Lựa chọn các lĩnh vực/DN/dự án hiệu quả, vòng quay nhanh….để cấp tín dụng (ưu tiên
cho vay DN vừa và nhỏ, bán lẻ, dự án trọng điểm quốc gia…)
- Chấp hành nghiêm các quy định của NHNN, đặc biệt là hạn mức tín dụng, lãi suất huy động trần…
- Tiếp tục cơ cấu lại hoạt động nhằm nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí để
hạ lãi suất cho vay, hỗ trợ DN vượt qua giai đoạn khó khăn. Về dài hạn, các NHTM
cần phải thay đổi cơ cấu thu nhập: tăng tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ, giảm tỷ trọng thu nhập từ tín dụng.
Tóm lại, CSTT là rất quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô,
tùy thuộc vào yêu cầu và bối cảnh kinh tế của từng quốc gia trong từng thời kỳ. Đối với Việt
Nam, CSTT đã được duy trì và đảm bảo trong nhiều năm qua nhằm hướng tới một mục tiêu
chung là ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Tuy nhiên, để đạt lOMoARcPSD| 36086670
được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát cần phải phối hợp đồng bộ với các
chính sách khác như: chính sách tài khóa, chính sách đầu tư…và phải có chiến lược dài hạn.
Do vậy đây vẫn là thách thức đối với nền kinh tế nước ta trong dài hạn. _Hết_ lOMoARcPSD| 36086670 Danh mục tham khảo
1. Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2013), Nghị định số 156/2013/NĐ-CP
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, ban hành ngày 11/11/2013.
2. Các bản tin về hoạt động ngân hàng tuần/tháng của NHNN.
3. Các báo, trang tin điện tử: Baodautu.vn; Thitruongtaichinhtiente.vn; Cafef.vn.
4. Giáo trình Nhập môn tài chính tiền tệ - ĐH Thương Mại.
5. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2022 của Quốc hội và định hướng điều hành
CSTT, hoạt động ngân hàng năm 2022.
6. Lý thuyết tài chính tiền tệ. Bài giảng Học viện công nghệ Bưu chính viễn thông, Đặng
Thị Việt Đức, Phan Anh Tuấn, 2007.
7. Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nhà xuất bản thông tin và truyền tthôn, Đặng Thị Việt Đức,
Vũ Quang Kết, Phan Anh Tuấn, 2016.
8. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Tổng cục Thống kê, Báo cáo Thường niên các năm 2012-2018.
9. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2010), Luật số Số 46/2010/QH12, Luật
Ngân hàng nhà nước, ngày 16 tháng 6 năm 2010.
10.Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, 2019, Tổng quan thị trường tài chính 2018.