Bản chất của lợi nhuận - Kinh tế chính trị Mác-Lê nin | Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội

Bản chất của lợi nhuận - Kinh tế chính trị Mác-Lê nin | Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một
khoảng chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa (bán ngang giá), nhà tư bàn
không những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà còn thu được số chênh lệch bằng
giá trị thăng dư. số chênh lệch này C.Mác gọi là lợi nhuận.
Ký hiệu lơi nhuận là p.
Khi đó giá trị hàng hóa sẽ chuyển từ thành: G= k +m G = k + p
Người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch giữa giá trị hàng hóa bán được với chi
phí phải bỏ ra không quan tâm đến nguồn gốc sâu xa của khoản chênh lệch đó
chính giá trị thặng chuyển hóa thành. Với nhà bản, lợi nhuận còn được
quan niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
C.Mác khái quát: giá trị thặng con đỏ của toàn bộ bản ứng trước, mang
hình thái chuyển hóa lợi nhuận. Điều đó nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ
hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền kinh tế thị trường.
Nhà bản biệt chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao hơn chi phí sản xuất đã
có lợi nhuận. Nếu bán đúng bằng chi phí sản xuất là không có lợi nhuận. Bán hàng
hóa thấp hơn giá trị và cao hơn chi phí sản xuất cũng có thể đã có lợi nhuận. Trong
trường hợp này, lợi nhuận nhỏ hơn giá trị thặng dư. Lợi nhuận chính mục tiêu,
động cơ, động lực cùa hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, lợi nhuận khi được đo bằng số tuyệt đối chỉ phản ánh quy của hiệu
quà kinh doanh chưa phản ánh mức độ hiệu quả của kinh doanh, do đó cần
được bố sung bằng số đo tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Quan niệm của P.Samuelson về lợi nhuận:
- Lợi nhuận phần thu thập thặng tính bằng hiệu quả giữa giá trị tổng doanh
thu trừ đi giá trị tổng chi phí.
- Lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi mới.
Vấn đề đặt ra là p và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hóa bán đúng giá trị thì m = p, m và p giống nhau ở chỗ
chúng đều có chung nguồn gốc là kết quả không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất: m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v, còn p được xem như toàn bộ
bản ứng trước đề ra. Do đó, p đã che dấu mối quan hệ bóc lột TBCN, che dấu
nguồn gốc thực sự của nó.
Mặc m p đều chung một nguồn gốc kết quả lao động không công của
công nhân làm thuê nhưng , m phản ánhbản chất của m p hoàn toàn khác nhau
nguồn gốc sinh ra từ v còn p thì được xem như toàn bộ bản ứng trước đẻ ra, do
đó p đã che dấu quan hệ bóc lột bản chủ nghĩa che dấu nguồn gốc thực sự của
nó.
Điều đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự hình thành chi phí sản xuất bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau
giữa c v. Chúng ta biết rằng v tạo ra m nhưng khi chi phí sản xuất bản chủ
nghĩa hình thành thì sự khác nhau giữa c v biến mất nên việc p được sinh ra
trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận v bây giờ trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản
ứng trước. Lao động là nguồn gốc của giá trị thì biến mất và giờ đây hình như toàn
bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra p.
Hai , do chi phí sản xuất bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế
cho nên nhà bản chỉ cần bán hàng hoá với giá cao hơn chi phí sản xuất bản
chủ nghĩa là đã có lợi nhuận.
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá giá trị thì cao hơn m<p
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá giá trị thì thấp hơn m>p
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá giá trị thì bằng m = p
Chính sự không nhất trí giữa m p của chủ nghĩa che dấu thực chất bóc lột
bản. Đồng thời tạo ra rằng lợi nhuận do lưu thông tạo ra do tài kinhảo giác
Blurred content of page 3
| 1/3

Preview text:

BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN
Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một
khoảng chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa (bán ngang giá), nhà tư bàn
không những bù đắp đủ số chi phí đã ứng ra mà còn thu được số chênh lệch bằng
giá trị thăng dư. số chênh lệch này C.Mác gọi là lợi nhuận.
Ký hiệu lơi nhuận là p.
Khi đó giá trị hàng hóa sẽ chuyển từ thành: G= k +m G = k + p
Người ta chỉ quan tâm tới khoản chênh lệch giữa giá trị hàng hóa bán được với chi
phí phải bỏ ra mà không quan tâm đến nguồn gốc sâu xa của khoản chênh lệch đó
chính là giá trị thặng dư chuyển hóa thành. Với nhà tư bản, lợi nhuận còn được
quan niệm là do tư bản ứng trước sinh ra.
C.Mác khái quát: giá trị thặng dư là con đỏ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang
hình thái chuyển hóa là lợi nhuận. Điều đó có nghĩa, lợi nhuận chẳng qua chỉ là
hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư trên bề mặt nền kinh tế thị trường.
Nhà tư bản cá biệt chỉ cần bán hàng hóa với giá cả cao hơn chi phí sản xuất là đã
có lợi nhuận. Nếu bán đúng bằng chi phí sản xuất là không có lợi nhuận. Bán hàng
hóa thấp hơn giá trị và cao hơn chi phí sản xuất cũng có thể đã có lợi nhuận. Trong
trường hợp này, lợi nhuận nhỏ hơn giá trị thặng dư. Lợi nhuận chính là mục tiêu,
động cơ, động lực cùa hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, lợi nhuận khi được đo bằng số tuyệt đối chỉ phản ánh quy mô của hiệu
quà kinh doanh mà chưa phản ánh rõ mức độ hiệu quả của kinh doanh, do đó cần
được bố sung bằng số đo tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
Quan niệm của P.Samuelson về lợi nhuận:
- Lợi nhuận là phần thu thập thặng dư tính bằng hiệu quả giữa giá trị tổng doanh
thu trừ đi giá trị tổng chi phí.
- Lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi mới.
Vấn đề đặt ra là p và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hóa bán đúng giá trị thì m = p, m và p giống nhau ở chỗ
chúng đều có chung nguồn gốc là kết quả không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất: m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v, còn p được xem như toàn bộ tư
bản ứng trước đề ra. Do đó, p đã che dấu mối quan hệ bóc lột TBCN, che dấu
nguồn gốc thực sự của nó.
Mặc dù m và p đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của
công nhân làm thuê nhưng bản chất của m và p hoàn toàn khác nhau, m phản ánh
nguồn gốc sinh ra từ v còn p thì được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra, do
đó p đã che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa che dấu nguồn gốc thực sự của nó.
Điều đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau
giữa c và v. Chúng ta biết rằng v tạo ra m nhưng khi chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa hình thành thì sự khác nhau giữa c và v biến mất nên việc p được sinh ra
trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận v bây giờ trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản
ứng trước. Lao động là nguồn gốc của giá trị thì biến mất và giờ đây hình như toàn
bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra p.
Hai là, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế
cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá với giá cao hơn chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa là đã có lợi nhuận.
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá cao hơn giá trị thì m

Nếu nhà tư bản bán hàng với giá thấp hơn giá trị thì m>p
Nếu nhà tư bản bán hàng với giá bằng giá trị thì m = p
Chính sự không nhất trí giữa m và p che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản. Đồng thời nó tạo ra ảo giác rằng lợi nhuận là do lưu thông tạo ra do tài kinh Blurred content of page 3