Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ - Dẫn luận ngôn ngữ học | Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng) kích thích vào giác quan của con người, làm cho con người ta tri giác được và lí giải, suy diễn tới một cái gì đó nằm ngoài sự vật ấy. Một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thỏa mãn các yêu cầu sau đây: ■ Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác quan của con người, chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật thể,... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác quan của con người và con người cảm nhận được. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!    

Thông tin:
6 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ - Dẫn luận ngôn ngữ học | Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng) kích thích vào giác quan của con người, làm cho con người ta tri giác được và lí giải, suy diễn tới một cái gì đó nằm ngoài sự vật ấy. Một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thỏa mãn các yêu cầu sau đây: ■ Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác quan của con người, chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật thể,... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác quan của con người và con người cảm nhận được. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!    

26 13 lượt tải Tải xuống
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
BẢN CHẤT TÍN HIỆU CỦA NGÔN NGỮ
Khái niệm tín hiệu
Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng) kích thích
vào giác quan của con người, làm cho con người ta tri giác được và lí giải, suy
diễn tới một cái gì đó nằm ngoài sự vật ấy.
Một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thỏa mãn các yêu cầu sau đây:
Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác
quan của con người, chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ,
vật thể,... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác
quan của con người và con người cảm nhận được.
Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra cái gì đó không phải là chính
nó. Tức là cái mà nó đại diện cho, không trùng với chính nó. Ví dụ:
Tín hiệu đèn đỏ báo hiệu nội dung cấm đi. Nội dung này và bản thể
vật chất của cái đèn đỏ không hề trùng nhau.
Mặt khác, nó cũng sẽ chỉ là tín hiệu khi mối liên hệ giữa nó với "cái
mà nó chỉ ra" được người ta nhận thức, tức là người ta phải biến liên
hội nó với cái gì.
Sự vật đó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác
định tư cách tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. Chẳng hạn,
cái đèn đỏ vừa nói bên trên là một tín hiệu, thế nhưng, nếu tách nó ra,
đưa vào chùm đèn trang trí thì nó lại không phải là tín hiệu nữa. Sở dĩ
như thế là vì chỉ có nằm trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông, nó
mới có tư các tín hiệu, được xác định cùng với đèn xanh, đèn vàng
nhờ vào sự đối lập quy ước giữa chúng với nhau.
Ví dụ: Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một tín hiệu,
bởi vì, khi nó hoạt động (sáng lên), người ta thấy nó và suy diễn tới sự cấm
đoán, không được đi qua chỗ nào đó.
Nhóm 2 1
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
Tính hai mặt: cái biểu đạt – cái được biểu đạt
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Tín hiệu ngôn ngữ mang đặc điểm bản chất của tín
hiệu nói chung đồng thời có những đặc trưng khác biệt.
Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mà
thành. Toàn bộ các từ trong ngôn ngữ là các tín hiệu ở mỗi từ luôn luôn có hai mặt âm
thanh và ý nghĩa. Âm thanh là cái biểu đạt còn ý nghĩa là cái được biểu đạt. Cái được
biểu đạt này bao gồm nhân thức của con người về sư vật khách quan và cả tình cảm
thái độ của con người. Nó tạo nên nội dung ý nghĩa của từ
+ Cái biểu đạt: là những âm thanh khác nhau trong quá trình nói năng của con người
đã thiết lập nên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng
ngôn ngữ
+ Cái được biểu đạt: là những thông tin, những thông điệp về những mảnh khác nhau
của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những hình thức để phân cắt tư
duy, phân cắt thực tại.
VD: tín hiệu “cây” trong tiếng việt là sự kết hợp giữa lược đồ sau:
Âm thanh: cây (cái biểu đạt)
Ý nghĩa: loài thực vật có lá (cái được biểu đạt)
VD: tín hiệu “nhà”
Âm thanh: nhà (cái biểu đạt)
Ý nghĩa: khái niệm sự vật “nhà” (cái được biểu đạt)
Hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ luôn luôn gắn bó khăng khít với nhau không thể tách
rời. Không thể có mặt này mà lại không có mặt kia. Nhờ thế, tín hiệu ngôn ngữ là một
chỉnh thể thống nhất, có thể thay thế cho đối tượng được gọi tên. Đồng thòi nhờ đó mà
tín hiệu ngôn ngữ được con người sử dụng thu âm tiên trong chức năng giao tiếp và tư
duy ỏ tất cả các lĩnh vực của cuộc sống con người.
Như vậy, để trở thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuất hiện
trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm 2 mặt khác nhau là mặt biểu đạt và
mặt được biểu đạt. Mặt biểu đạt làm nhiệm vụ trung chuyển những ý nghĩ, tình cảm,
xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụ cảm của người nghe.
Nếu không có cái biểu đạt thì quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ bị
hoàn toàn cắt đứt. Lúc đó, người ta gọi là ngôn ngữ không hành chức
Nhóm 2 2
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
Trong ngôn ngữ, còn có một số loại đơn vị ngôn ngữ khác cũng có hai mặt (âm thanh
và ý nghĩa) như hình vị. Nhưng hình vị không được sử dụng để làm đơn vị giao tiếp
độc lập mà chỉ tồn tại trong từ. Các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn (cụm từ, câu) cũng luôn
luôn có hai mặt. Nhưng những đơn vị đó có thể được coi là một chuỗi các tín hiệu, do
sự kết hợp của các tín hiệu (từ) mà thành.
2. Đặc trưng cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ
- Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác
không phải là tín hiệu. Chẳng hạn, kết cấu của một cái cây, một cơ thể sống,…
Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể hiện ở những điểm sau:
2.1. Tính võ đoán
Khái niệm:
Mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ có tính quy ước cao. Đó không
phải mối quan hệ có lí do, có tính tất nhiên, mà là mối quan hệ do con người
“thỏa thuận”, “quy ước” (hay còn gọi là sự thỏa thuận ngầm). Nó được hình
thành trong lịch sử giao tiếp. Chính vì thế nên nó mang tính võ đoán.
Biểu hiểu:
Tính võ đoán được biểu hiện trong quan hệ giữa mặt biểu hiện và mặt được
biểu hiện, hai mặt này có mối quan hệ khăng khít với nhau, song không quy
định bản chất của nhau. tức là giữa hình thức âm và khái niệm không có mối
tương quan bên trong nào. Nội dung mà nó biểu thị là do quy ước, do thói quen
của cộng đồng, xã hội quyết định.
VD: Khái niệm “người đàn bà cùng mẹ sinh ra và sinh ra trước mình” trong
tiếng Việt được biểu thị bằng âm thanh là (chị), nhưng trong tiếng Nga, lại được
biểu thị bằng âm (sestra), hay trong tiếng Pháp, lại được biểu thị bằng âm
(soeur). Khái niệm ấy được biểu thị bằng (chị), (sestra) hay (soeur) hoàn toàn là
do sự quy ước, hay do thói quen của tập thể quy định chứ không giải thích được
lí do.
Nhóm 2 3
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
VD: Ta cũng không thể lý giải được vì sao âm “cá” lại biểu hiện cho “con cá”
và ngược lại.
Chính vì tính võ đoán, nên cùng 1 sự vật, trong các ngôn ngữ khác nhau mới
có thể gọi tên khác nhau từ đó xuất hiện các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa.
VD: “Cá” trong tiếng Việt là “cá”, còn trong tiếng Anh là “fish”.
-> F. Xôt-xuya (Saussure) khẳng định “Tín hiệu ngôn ngữ là võ đoán”. “Nó
không có nguyên do, nghĩa là nó võ đoán đối với cái được biểu hiện, vì trong
thực tế nó không có một mối liên quan tự nhiên nào với cái đó”.
Tuy vậy, trong ngôn ngữ thể một số tín hiệu tính đoán thấp hơn,
nghĩa quan hệ giữa âm thanh ý nghĩa của tín hiệu một phần do nào
đó. Đó là trường hợp:
+ Từ tượng thanh: róc rách, đùng đoàng, meo meo, (con) bò, ...các từ này phần
nào gợi ra âm thanh của sự vật hiện tượng gọi tên nên chúng tính
đoán thấp.
+ Từ tượng hình: gồ ghề, khúc khuỷu... các từ này phần nào gợi ra hình ảnh
của sự vật hiện tượng mà nó gọi tên nên chúng có tính võ đoán thấp.
+ Thán từ: ối, ái, a, ô...gợi ra tình cảm, thái độ của người sử dụng đối với hệ
thống nên tính võ đoán thấp.
2.2. Tính hình tuyến
Mặt biểu hiện của ngôn ngữ âm thanh. Khi đi vào hoạt động, chúng xuất
hiện lần lượt, kế tiếp tạo thành 1 chuỗi. Về mặt thời gian, chúng xuất hiện từ trái
sang phải đọc theo từng từ theo thời gian. Chính đặc điểm kế tiếp nhau này
giúp phân biệt tín hiệu ngôn ngữ với các loại tín hiệu khác.
Tính hình tuyến thể hiện rõ nhất khi ta biểu hiện bằng chữ viết. Ta không thể
nào nói ra 2 yếu tố/ tín hiệu ngôn ngữ cùng 1 lúc, mà phải phát âm kế tiếp nhau,
hết cái này rồi mới đến cái khác. Những yếu tố/ tín hiệu có sự kết hợp liên tục
Nhóm 2 4
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
với nhau, hết âm này thì âm khác mới được phát ra tạo thành một chuỗi có tính
hình tuyến.
-> Như vậy, tính hình tuyến của cái biểu đạt (của tín hiệu ngôn ngữ) thể hiện ở
chỗ chúng phải lần lượt kế tiếp nhau, mà không thể xuất hiện đồng thời. Tính
hình tuyến đó biểu hiện cả trong chữ viết, hệ thống tín hiệu ghi lại ngôn ngữ âm
thanh.
VD: (1) Tôi (2) là (3) sinh (4) viên (5) khoa (6) Ngữ (7) Văn.
Vì phải kế tiếp nhau theo một tuyến tính, nên trong ngôn ngữ trật tự sắp xếp
các tín hiệu đóng một vai trò quan trọng và chính trật tự đó cũng tham gia vào
việc biểu hiện ý nghĩa. Trong nhiều trường hợp, cùng một tín hiệu, nhưng sắp
xếp khác nhau thì biểu hiện các ý nghĩa khác nhau.
VD: bột mì # mì bột, dầu ăn # ăn dầu, con cá # cá con,…
Đặc biệt trong tiếng Việt, thứ tự sắp xếp các từ trong câu là một phương thức
ngữ pháp quan trọng có tác dụng biểu hiện ý nghĩa.
Tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ được coi là 1 nguyên lí cơ bản, có giá
trị chi phối cơ chế hoạt động ngôn ngữ. Các đơn vị, yếu tố của ngôn ngữ kết nối
với nhau thành chuỗi theo những quy tắc nhất định để tạo thành đơn vị lớn hơn.
Đặc trưng này cho thấy mối quan hệ kết hợp giữa các đơn vị ngôn ngữ. Từ đó,
người phân tích ngôn ngữ có thể dựa vào chuỗi lời nói được phát ra theo trình tự
thời gian để phân tích và nhận diện các đơn vị ngôn ngữ, phát hiện quy tắc kết
hợp của chúng với nhau.
Nhóm 2 5
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
Nhóm 2 6
| 1/6

Preview text:

Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
BẢN CHẤT TÍN HIỆU CỦA NGÔN NGỮ
Khái niệm tín hiệu
Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng) kích thích
vào giác quan của con người, làm cho con người ta tri giác được và lí giải, suy
diễn tới một cái gì đó nằm ngoài sự vật ấy.
Một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thỏa mãn các yêu cầu sau đây:
■ Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác
quan của con người, chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ,
vật thể,... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác
quan của con người và con người cảm nhận được.
■ Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra cái gì đó không phải là chính
nó. Tức là cái mà nó đại diện cho, không trùng với chính nó. Ví dụ:
Tín hiệu đèn đỏ báo hiệu nội dung cấm đi. Nội dung này và bản thể
vật chất của cái đèn đỏ không hề trùng nhau.
■ Mặt khác, nó cũng sẽ chỉ là tín hiệu khi mối liên hệ giữa nó với "cái
mà nó chỉ ra" được người ta nhận thức, tức là người ta phải biến liên hội nó với cái gì.
■ Sự vật đó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác
định tư cách tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. Chẳng hạn,
cái đèn đỏ vừa nói bên trên là một tín hiệu, thế nhưng, nếu tách nó ra,
đưa vào chùm đèn trang trí thì nó lại không phải là tín hiệu nữa. Sở dĩ
như thế là vì chỉ có nằm trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông, nó
mới có tư các tín hiệu, được xác định cùng với đèn xanh, đèn vàng
nhờ vào sự đối lập quy ước giữa chúng với nhau.
Ví dụ: Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một tín hiệu,
bởi vì, khi nó hoạt động (sáng lên), người ta thấy nó và suy diễn tới sự cấm
đoán, không được đi qua chỗ nào đó. Nhóm 2 1
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
Tính hai mặt: cái biểu đạt – cái được biểu đạt
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu. Tín hiệu ngôn ngữ mang đặc điểm bản chất của tín
hiệu nói chung đồng thời có những đặc trưng khác biệt.
Mỗi tín hiệu là cái tổng thể do sự kết hợp giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt mà
thành. Toàn bộ các từ trong ngôn ngữ là các tín hiệu ở mỗi từ luôn luôn có hai mặt âm
thanh và ý nghĩa. Âm thanh là cái biểu đạt còn ý nghĩa là cái được biểu đạt. Cái được
biểu đạt này bao gồm nhân thức của con người về sư vật khách quan và cả tình cảm
thái độ của con người. Nó tạo nên nội dung ý nghĩa của từ
+ Cái biểu đạt: là những âm thanh khác nhau trong quá trình nói năng của con người
đã thiết lập nên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ
+ Cái được biểu đạt: là những thông tin, những thông điệp về những mảnh khác nhau
của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại.
VD: tín hiệu “cây” trong tiếng việt là sự kết hợp giữa lược đồ sau:
Âm thanh: cây (cái biểu đạt)
Ý nghĩa: loài thực vật có lá (cái được biểu đạt)
VD: tín hiệu “nhà”
Âm thanh: nhà (cái biểu đạt)
Ý nghĩa: khái niệm sự vật “nhà” (cái được biểu đạt)
Hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ luôn luôn gắn bó khăng khít với nhau không thể tách
rời. Không thể có mặt này mà lại không có mặt kia. Nhờ thế, tín hiệu ngôn ngữ là một
chỉnh thể thống nhất, có thể thay thế cho đối tượng được gọi tên. Đồng thòi nhờ đó mà
tín hiệu ngôn ngữ được con người sử dụng thu âm tiên trong chức năng giao tiếp và tư
duy ỏ tất cả các lĩnh vực của cuộc sống con người.
Như vậy, để trở thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuất hiện
trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm 2 mặt khác nhau là mặt biểu đạt và
mặt được biểu đạt. Mặt biểu đạt làm nhiệm vụ trung chuyển những ý nghĩ, tình cảm,
xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụ cảm của người nghe.
Nếu không có cái biểu đạt thì quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ bị
hoàn toàn cắt đứt. Lúc đó, người ta gọi là ngôn ngữ không hành chức Nhóm 2 2
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
Trong ngôn ngữ, còn có một số loại đơn vị ngôn ngữ khác cũng có hai mặt (âm thanh
và ý nghĩa) như hình vị. Nhưng hình vị không được sử dụng để làm đơn vị giao tiếp
độc lập mà chỉ tồn tại trong từ. Các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn (cụm từ, câu) cũng luôn
luôn có hai mặt. Nhưng những đơn vị đó có thể được coi là một chuỗi các tín hiệu, do
sự kết hợp của các tín hiệu (từ) mà thành.
2. Đặc trưng cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ
- Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác
không phải là tín hiệu. Chẳng hạn, kết cấu của một cái cây, một cơ thể sống,…
Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ thể hiện ở những điểm sau: 2.1. Tính võ đoán Khái niệm:
Mối quan hệ giữa hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ có tính quy ước cao. Đó không
phải mối quan hệ có lí do, có tính tất nhiên, mà là mối quan hệ do con người
“thỏa thuận”, “quy ước” (hay còn gọi là sự thỏa thuận ngầm). Nó được hình
thành trong lịch sử giao tiếp. Chính vì thế nên nó mang tính võ đoán. Biểu hiểu:
Tính võ đoán được biểu hiện trong quan hệ giữa mặt biểu hiện và mặt được
biểu hiện, hai mặt này có mối quan hệ khăng khít với nhau, song không quy
định bản chất của nhau. tức là giữa hình thức âm và khái niệm không có mối
tương quan bên trong nào. Nội dung mà nó biểu thị là do quy ước, do thói quen
của cộng đồng, xã hội quyết định.
VD: Khái niệm “người đàn bà cùng mẹ sinh ra và sinh ra trước mình” trong
tiếng Việt được biểu thị bằng âm thanh là (chị), nhưng trong tiếng Nga, lại được
biểu thị bằng âm (sestra), hay trong tiếng Pháp, lại được biểu thị bằng âm
(soeur). Khái niệm ấy được biểu thị bằng (chị), (sestra) hay (soeur) hoàn toàn là
do sự quy ước, hay do thói quen của tập thể quy định chứ không giải thích được lí do. Nhóm 2 3
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
VD: Ta cũng không thể lý giải được vì sao âm “cá” lại biểu hiện cho “con cá” và ngược lại.
Chính vì tính võ đoán, nên cùng 1 sự vật, trong các ngôn ngữ khác nhau mới
có thể gọi tên khác nhau từ đó xuất hiện các hiện tượng đồng âm, đa nghĩa.
VD: “Cá” trong tiếng Việt là “cá”, còn trong tiếng Anh là “fish”.
-> F. Xôt-xuya (Saussure) khẳng định “Tín hiệu ngôn ngữ là võ đoán”. “Nó
không có nguyên do, nghĩa là nó võ đoán đối với cái được biểu hiện, vì trong
thực tế nó không có một mối liên quan tự nhiên nào với cái đó”.
Tuy vậy, trong ngôn ngữ có thể có một số tín hiệu có tính võ đoán thấp hơn,
nghĩa là quan hệ giữa âm thanh và ý nghĩa của tín hiệu có một phần lí do nào
đó. Đó là trường hợp:
+ Từ tượng thanh: róc rách, đùng đoàng, meo meo, (con) bò, ...các từ này phần
nào gợi ra âm thanh của sự vật hiện tượng mà nó gọi tên nên chúng có tính võ đoán thấp.
+ Từ tượng hình: gồ ghề, khúc khuỷu... các từ này phần nào gợi ra hình ảnh
của sự vật hiện tượng mà nó gọi tên nên chúng có tính võ đoán thấp.
+ Thán từ: ối, ái, a, ô...gợi ra tình cảm, thái độ của người sử dụng đối với hệ
thống nên tính võ đoán thấp.
2.2. Tính hình tuyến
Mặt biểu hiện của ngôn ngữ là âm thanh. Khi đi vào hoạt động, chúng xuất
hiện lần lượt, kế tiếp tạo thành 1 chuỗi. Về mặt thời gian, chúng xuất hiện từ trái
sang phải và đọc theo từng từ theo thời gian. Chính đặc điểm kế tiếp nhau này
giúp phân biệt tín hiệu ngôn ngữ với các loại tín hiệu khác.
Tính hình tuyến thể hiện rõ nhất khi ta biểu hiện bằng chữ viết. Ta không thể
nào nói ra 2 yếu tố/ tín hiệu ngôn ngữ cùng 1 lúc, mà phải phát âm kế tiếp nhau,
hết cái này rồi mới đến cái khác. Những yếu tố/ tín hiệu có sự kết hợp liên tục Nhóm 2 4
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt
với nhau, hết âm này thì âm khác mới được phát ra tạo thành một chuỗi có tính hình tuyến.
-> Như vậy, tính hình tuyến của cái biểu đạt (của tín hiệu ngôn ngữ) thể hiện ở
chỗ chúng phải lần lượt kế tiếp nhau, mà không thể xuất hiện đồng thời. Tính
hình tuyến đó biểu hiện cả trong chữ viết, hệ thống tín hiệu ghi lại ngôn ngữ âm thanh.
VD: (1) Tôi (2) là (3) sinh (4) viên (5) khoa (6) Ngữ (7) Văn.
Vì phải kế tiếp nhau theo một tuyến tính, nên trong ngôn ngữ trật tự sắp xếp
các tín hiệu đóng một vai trò quan trọng và chính trật tự đó cũng tham gia vào
việc biểu hiện ý nghĩa. Trong nhiều trường hợp, cùng một tín hiệu, nhưng sắp
xếp khác nhau thì biểu hiện các ý nghĩa khác nhau.
VD: bột mì # mì bột, dầu ăn # ăn dầu, con cá # cá con,…
Đặc biệt trong tiếng Việt, thứ tự sắp xếp các từ trong câu là một phương thức
ngữ pháp quan trọng có tác dụng biểu hiện ý nghĩa.
Tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ được coi là 1 nguyên lí cơ bản, có giá
trị chi phối cơ chế hoạt động ngôn ngữ. Các đơn vị, yếu tố của ngôn ngữ kết nối
với nhau thành chuỗi theo những quy tắc nhất định để tạo thành đơn vị lớn hơn.
Đặc trưng này cho thấy mối quan hệ kết hợp giữa các đơn vị ngôn ngữ. Từ đó,
người phân tích ngôn ngữ có thể dựa vào chuỗi lời nói được phát ra theo trình tự
thời gian để phân tích và nhận diện các đơn vị ngôn ngữ, phát hiện quy tắc kết hợp của chúng với nhau. Nhóm 2 5
Dẫn luận Ngôn ngữ học và Ngữ âm học Tiếng Việt Nhóm 2 6
Document Outline

  • Khái niệm tín hiệu
  • Tính hai mặt: cái biểu đạt – cái được biểu đạt
  • 2. Đặc trưng cơ bản của tín hiệu ngôn ngữ
    • 2.1. Tính võ đoán
    • 2.2. Tính hình tuyến