Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế | Tiểu luận cơ sở văn hóa Việt Nam
Thực trạng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế. Quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế. Những mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế đối với bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Môn Cơ sở văn hóa Việt Nam
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA VĂN HÓA PHÁT TRIỂN
------ TIỂU LUẬN
MÔN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM Đề tài:
“Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế” Họ và tên
: Ngô Quang Trường Lớp : QHCT&TTQT K40 Mã sinh viên : 2056110052 Giảng viên : Phạm Quế Hằng
HÀ NỘI – 2021 M C L C Ụ Ụ 1
MỞ ĐẦU........................................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................4
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..................................................5
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn........................................................................6
6. Kết cấu........................................................................................................6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI...........................................................................................................7
1.1. Văn hóa....................................................................................................7
1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc...........................................................................8
1.3. Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân...........................................11
CHƯƠNG 2: BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG
THỜI KÌ HỘI NHẬP QUỐC TẾ..............................................................13
2.1. Giao lưu tiếp biến văn hóa.....................................................................13
2.1.1. Giao lưu tiếp biến với văn hóa Đông Nam Á......................................13
2.1.2. Giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Quốc.......................................14
2.1.3. Giao lưu tiếp biến với văn hóa Đông Nam Á......................................15
2.1.4. Giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây.......................................16
2.1.4. Giao lưu tiếp biến trong giai đoạn hiện nay.......................................16
2.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế........17
2.2.1. Thực trạng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập
quốc tế...........................................................................................................17
2.2.2. Quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước về giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế...................................17
2.2.3. Những mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế đối với
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam................................................................17 2
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY....19
KẾT LUẬN...................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................26 MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những nội dung và vấn đề rộng lớn,
phong phú có nhiều tác động to lớn đến sự phồn vinh của một đất nước từ
hàng bao thế kỉ, tạo cho đất nước ấy có những nét đặc thù riêng biệt. Văn hóa
mang bản sắc dân tộc, còn dân tộc là yếu tố quyết định cho một nền văn hóa..
Những tác động của nền văn hóa từ bên ngoài vào nền văn hóa dân tộc sẽ tạo
ra những thời cơ và thách thức để đất nước phát triển, đem lại những thuận lợi
và khó khăn không những tác động đến nền văn hóa dân tộc mà còn tương lai
của sự trường tồn đất nước. Trong quá trình hội nhập thế giới, chúng ta phải
biết tiếp thu và nhận thức những tác động tích cực để có thể phát triển về
nhiều mặt và học hỏi những điều mới mẻ; ngoài ra chúng ta cũng phải nhận
thức được sâu sắc về mặt tiêu cực, nhận biết để có thể ngăn chặn và đẩy lùi
nền văn hóa bên ngoài, tránh bị đồng hóa văn hóa. Vì vậy, vấn đề giữ gìn, bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một vấn đề cấp bách, một nhiệm vụ
quan trọng đối với Đảng, Nhà nước và cả xã hội trong quá trình hội nhập hiện nay.
Với tính cấp thiết của đề tài, tôi quyết định chọn “Bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế” làm đề tài tiểu luận kết thúc học
phần môn Cơ sở văn hóa Việt Nam.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tiểu luận nhằm mục tiêu làm sáng tỏ
những vấn đề cơ bản về bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc
tế, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường bảo tồn, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa của đất nước trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ 4
Thứ nhất, làm sáng tỏ những đặc điểm về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam
Thứ hai, nêu lên thực trạng về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập
Thứ ba, đề xuất những giải pháp nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam và những giải pháp nhằm bảo tồn,
phát huy những giá trị bản sắc đó trong thời kì hội nhập.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về bản sắc văn hóa dân tộc Việt
Nam. Bên cạnh đó, tiểu luận còn dựa trên một số công trình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài bản sắc văn hóa của dân tộc và những giải pháp nhằm giữ
gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời gian tới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân
tích, tổng hợp tại liệu, thu thấp, đánh giá các tài liệu,…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5.1. Ý nghĩa lý luận 5
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận, thực tiễn cơ bản về thực trạng vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó đưa
ra những giải pháp nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam trong thời gian tới.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài
nghiên cứu có chung đề tài hoặc liên quan về bản sắc văn hóa dân tộc và
những giải pháp nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong thời gian tới. Đồng thời, tiểu luận còn góp phần cung cấp thêm những
thông tin bổ ích mang tính định hướng cá nhân về bản sắc văn hóa dân tộc ở nước ta 6. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Khóa luận được kếu cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số khái niệm và đặc điểm liên quan đến đề tài
Chương 2: Bản sắc văn hóa dân tộc việt nam trong thời kì hội nhập quốc tế
Chương 3: Giải pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc việt nam trong thời
kì hội nhập quốc tế hiện nay
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 1.1. Văn hóa:
Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích
lũy trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị
này được cộng đồng chấp thuận, vận hành trong đời sống xã hội, được xã hội
giữ gìn, trao chuyển cho thế hệ sau. Văn hóa thể hiện trình độ phát triển và
những đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Định nghĩa này thể hiện được những
tính chất cơ bản của văn hóa, tính hệ thống, tính giá trị, tính sáng tạo, tính
truyền thống, tính dân tộc.
Văn hóa không phải giá trị cố định, bất biến mà văn hóa luôn phát triển.
Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và tồn tại dưới
các hình thức như: các công trình kiến trúc, vật dụng, ẩm thực, ngôn ngữ, tập
quán, âm nhạc, tôn giáo….
Chức năng của văn hóa: giáo dục, nhận thức, thẩm mĩ, giao tiếp, động
lực xã hội, chức năng xã hội hóa cá nhân.
Theo cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor, ông đưa ra một
định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động
mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong
quá khử cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu
thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình".
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo
và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích 7
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Theo nghĩa rộng,
Người nêu văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người
sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người.
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam (54 dân tộc) sáng tạo ra trong quá trình dựng nước
và giữ nước, trong đó tộc Việt có lịch sử hình thành lâu đời nhất và cũng là tộc
người có vị trí quyết định nhất đối với diện mạo văn hóa dân tộc. Nền văn hóa
Việt Nam đa dạng, được hình thành với nhiều nền văn hóa, trong đó tiêu biểu
là văn hóa Đông Sơn (800 năm TCN – 200 năm TCN).
Chủ thể và khách thể của văn hóa Việt Nam: theo Triết học, chủ thể là
con người hoạt động tích cực, có ý thức và có ý chí; khách thể là cái mà hoạt
động nhận thức và các hoạt động khác của chủ thể hướng vào. Trong tác phẩm
“Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, khi phân tích về bản chất của con
người, C.Mác đưa ra khái niệm về “lực lượng bản chất người” như những
phẩm chất tộc loại khiến con người có khả năng tách mình ra khỏi phần còn
lại của thế giới và trở thành chủ thể sáng tạo văn hóa. Nhờ đó, qua những quá
trình thực tiễn, con người đã sáng tạo ra văn hóa; con người vừa là chủ thể,
vừa là khách thể của văn hóa.
1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc:
Bản sắc văn hóa dân tộc là sắc thái gốc, là những đường nét, màu sắc
riêng biệt không thể trộn lẫn của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc
làm nên cốt lõi vững chắc giúp cho nên văn hóa luôn giữ được tính duy nhất,
tính nhất quán trong quá trình phát triển. Mỗi cá nhân với tư cách là một chủ
thể sáng tạo văn hóa luôn thống nhất cái riêng của bản thân mình và cái chung
của dân tộc. Bản sắc văn hóa là nét tinh hoa được hình thành trong quá trình 8
lịch sử phát triển của dân tộc đó. Được con người tạo ra và thể hiện những nét
riêng của dân tộc và gắn liền với sự phát triển kinh tế và xã hội của một quốc
gia nào đó, một địa phương nào đó. Vì vậy, bản sắc văn hóa dân tộc luôn chứa
đựng cả tính nhân loại, cả tính khu vực và tính dân tộc.
Ý nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc:
Một là, gốc rễ hình thành nên nền văn hóa đặc trưng của một dân tộc từ lâu đời.
Hai là, luôn tồn tại vĩnh viễn, trường tồn và không thay đổi theo thời gian.
Ba là, đại diện cho một dân tộc, tạo nên những nét đặc trưng về mọi mặt
như tín ngưỡng, tính cách dân tộc, phong tục tập quán, tính cách…
Bốn là, tài sản vô giá cần được giữ gìn của một dân tộc.
Năm là, một biểu hiện đa dạng và phong phú.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Theo Đặng Hữu Toàn: “Bản sắc
dân tộc cần được giữ gìn, phát huy của nền văn hóa ấy là những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết
cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa
tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống”. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để liên kết xã hội
và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc. Vì vậy, bảo vệ
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu khách quan và là mục
tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay. 9
Đặc trưng bản sắc văn hóa Việt Nam:
Một là, Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả
các khía cạnh, Những đặc trưng của văn hóa Việt Nam được hình thành trong
quá trình lao động, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân, được ông
cha ta truyền lại cho con cháu từ đời này sang đời khác. Những phong tục tập
quán cộng đồng, lễ Tết trong năm, những niềm tin bền vững vào tín ngưỡng
tôn giáo được hình thành qua từng thế kỉ và tạo nên “sắc màu” cho văn hóa
Việt Nam, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ
truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.
Hai là, đặc trưng về địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo
ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam (văn hóa
làng xã và văn minh lúa nước
Ba là, có sự hòa trộn, ảnh hưởng với các nền văn hóa bên ngoài trong
lịch sử hàng ngàn năm xây dựng, giải phóng và bảo vệ đất nước khỏi ách
thống trị của thực dân phương Bắc, thực dân đế quốc Pháp và Mĩ trong thế kỷ
19 và 20, toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt Nam đã có những thay đổi về văn
hóa theo các thời kỳ lịch sử, tiếp nhận nền văn hóa mới có chọn lọc, có những
cái bị mất đi nhưng không để văn hóa dân tộc bị đồng hóa.
Trong cấu trúc của bản sắc văn hóa dân tộc, những yếu tố khu vực và
quốc tế không phải chỉ kết hợp với yếu tố nội tại bằng phép cộng giản đơn
những đặc trưng văn hóa ẩn chứa trong mỗi nền văn hóa, mà phải được cư dân
bản địa sàng lọc, tiếp thu, biến đổi một cách sáng tạo cho phù hợp với truyền
thống văn hóa của mình. Chỉ khi nào những yếu tố ngoại lai được bản địa hóa
và nhân tố bên ngoài kết hợp hài hòa với nhân tố bên trong, tạo thành những 10
đặc tính bền vững, ổn định ở một không gian văn hóa mới, thì lúc đó bản sắc
văn hóa dân tộc được phát triển và mang theo những nhân tố mới. Sáng tạo và
cái mới là đặc trưng không thể thiếu của bản sắc văn hóa dân tộc, đó là nguồn
sống, động lực, thời cơ cho văn hóa phát triển.
1.3, Hội nhập quốc tế:
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng
lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt
động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ,
tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng
quan tâm [1]. Hội nhập quốc tế là một hình thức phát triển cao của hợp tác
quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu và lợi ích chung trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội. Nó trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác
động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia.
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội,...), nhưng
cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ
gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực, ngành) và hình thức (song phương, đa
phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
Nói về tính đặc thù của hội nhập quốc tế, nếu như chúng ta coi nhẹ vấn đề
này thì rất có thể sẽ bị các nền văn hóa khác đồng hóa. Hội nhập không có nghĩa là
hòa đồng, hòa nhập về văn hóa, mà cần có sự chọn lọc để làm sao hội nhập mà bản
sắc văn hóa dân tộc vẫn phải được gìn giữ. Văn hóa là hồn cốt của một dân tộc.
Một dân tộc mà không giữ được bản sắc văn hóa riêng, bị đồng hóa thì dần dần sẽ
không còn dân tộc đó nữa.
CHƯƠNG 2: BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG
THỜI KÌ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 11
Trong quá trình hàng nghìn năm lịch sử xây dựng và phát triển đất nước,
nhân dân Việt Nam không những bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc mà còn có những cuộc giao lưu, tiếp xúc để học hỏi
một cách chọn lọc những nền văn hóa phương Đông, phương Tây bằng nhiều
hình thức khác nhau. Hay còn được gọi là giao lưu tiếp biến văn hóa
2.1. Giao lưu tiếp biến văn hóa:
Giao lưu tiếp biến văn hóa chính là sự gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn
nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hóa bổ sung, tiếp
nhận và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hóa.
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua các cuộc giao lưu và tiếp
biến là: giao lưu tiếp biến văn hóa với Đông Nam Á, giao lưu tiếp biến văn
hóa với văn hóa Trung Hoa, giao lưu tiếp biến văn hóa với văn hóa Ấn Độ và
giao lưu tiếp biến văn hóa với văn hóa Phương Tây. Cùng với sự hình thành
các yếu tố văn hóa bản địa, giao lưu và tiếp biến với văn hóa Đông - Tây đã
trở thành động lực to lớn cho sự biến đổi, phát triển và làm nên những sắc thái
riêng của nền văn hóa Việt Nam.
2.1.1, Giao lưu và tiếp biến với văn hóa Đông Nam Á:
Cuộc giao lưu tiếp biến này điễn ra theo hai giai đoạn:
Giai đoạn 1 (trước nền văn hóa Đông Sơn): chủ yếu diễn ra giữa các bộ
lạc hay nhóm bộ lạc trong phạm vi nước ta. Văn hóa Việt Nam mang các đặc
trưng Đông Nam Á về vật chất, tinh thần. Vùng Đông Nam Á tiền sử đã sáng
tạo nên nền văn hóa có những nét tương đồng: là một phức thể văn hóa với ba
yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng, văn hóa biển. Trong đó văn hóa đồng
bằng ra đời sau, diện tích nhỏ nhưng chiếm vai trò chủ đạo. Các nước Đông 12
Nam Á có mạng lưới sông ngòi dày đặc, vừa có giá trị kinh tế làm nên đặc
trưng văn hóa văn minh nông nghiệp lúa nước. Trâu bò được thuần hóa làm
sức kéo, các dụng cụ sản xuất sinh hoạt bằng đồng xuất hiện hỗ trợ cho việc
làm nông… Người phụ nữ có vai trò quyết định trong gia đình
Văn hóa tinh thần phong phú phát triển thể hiện qua tư duy nhận thức về
xã hội thế giới quan niệm về tính chất lưỡng phân lưỡng hợp. Tín ngưỡng
Đông Nam Á buổi đầu: bái vật giáo với việc thờ các thần thần đất, thần
mưa… đặc biệt là tín ngưỡng phồn thực, thờ cúng tổ tiên,,,,
Giai đoạn 2: văn hóa Đông Sơn - kết tinh tinh thần dân tộc, văn hóa.
Cùng với văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Đồng Nai đã có sự trao đổi tiếp xúc
mạnh mẽ với nhau và với văn hóa Đông Nam Á
Vào thời kì sơ sử người Việt Nam đã tạo cho mình 1 nền văn hóa bản địa
rực rỡ: văn hóa Đông Sơn - văn minh sông Hồng. Việt Nam đã hình thành nên
1 nền văn hóa bản địa vừa có nét tương đồng với Đông Nam Á vừa có cá tính
bản sắc riêng. Địa bàn cư trú người Việt tương đối ổn định, theo mô hình làng.
Phương thức sản xuất chính là nông nghiệp trồng trọt có kết hợp chăn nuôi
đánh bắt thủy sản. Nổi bật là văn minh lúa nước, sức kéo trâu bò. Trình độ
luyện kim đồng sắt chế tác công cụ lao động, vật liệu đồ trang sức bằng đồng
đạt đến trình độ điêu luyện và cá tình văn hóa Việt. Tiếng nói ổn định, hệ ngôn ngữ Việt Mường.
2.1.2, Giao lưu tiếp biến với văn hóa Trung Quốc:
Giao lưu tiếp biến giữa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc là sự giao lưu
tiếp biến liên tục qua nhiều thời kì lịch sử với hai tính chất: 13
Giao lưu cưỡng bức (thế kỉ I - thế kỉ X và 1407-1427): các đế chế
phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hóa về phương diện văn hóa
nhằm biến nước ta thành thuộc địa.
Giao lưu tự nguyện: nhiều yếu tố văn hóa phương Nam đã được người
Hán tiếp nhận từ thời cổ đại những yếu tố này nhập sâu vào văn hóa Hán,
được hệ thống hóa, nâng cao “chữ nghĩa hóa” rồi truyền bá về phương Nam với dáng vẻ mới.
Người Việt luôn có ý thức chống lại sự đồng hóa về phương diện văn
hóa, khôn ngoan và bản lĩnh khi chủ động tiếp nhận và biến đổi những đặc
trưng văn hóa Trung Quốc sao cho phù hợp với chuẩn mực văn hóa Việt, đạt
được 1 số thành tựu đáng kể như:
Về văn hóa vật thể : người Việt tiếp nhận một số kĩ thuật trong sản xuất
rèo đúc gang sắt lên thành công cụ lao động , sinh hoạt dùng phân để tăng độ
phì nhiêu cho đất, dùng đá đắp đê…
Về văn hóa phi vật thể : tiếp nhận ngôn ngữ người Trung Quốc: từ vựng,
chữ việt; tiếp nhận hệ tư tưởng Trung Hoa cổ đại: nho gia, đạo gia; trên tinh
thần hỗn hòa hợp với tín ngưỡng bản địa; một số phong tục lễ tết…
2.1.3, Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ:
Giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ diễn ra bằng con đường hòa bình.,
Các thương gia nhà sử gia Ấn Độ đến Việt Nam để buôn bán truyền đạo và
giao lưu với văn hóa Ấn Độ ở những thời kì lịch sử khác nhau không gian văn
hóa khác nhau thì nhân dân giao lưu cũng khác nhau. Văn hóa đã góp phần
quan trọng vào quá trình hình thành vương quốc Chăm Pa, nền văn hóa Chăm
Pa phát triển rực rỡ từ việc tổ nhà nước tạo dựng và phát triển các thành tố văn hóa. 14
Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ ở những đặc điểm sau: tiếp
nhận văn hóa Ấn Độ đặc biệt là đạo Phật trên tinh thần cơ bản là hỗn dung tôn
giáo. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc với tín ngưỡng bản địa và
chung sống với chúng. Từ tín ngưỡng thờ các hiện tượng tự nhiên, thờ nữ thần
nông nghiệp, tín ngưỡng phồn thực người Việt đã thâu thái những yêu tố của
đạo Phật và tạo nên một dòng Phật giáo dân gian thờ Tư Pháp hết sức phong phú, đặc sắc.
2.1.4, Giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây:
Trong quá trình đánh đuổi thực dân Pháp, với tinh thần yêu nước và lòng
tự tôn dân tộc, người Việt Nam đã chống trả quyết liệt cả về văn hóa, chính trị.
Tuy nhiên bằng thái độ mềm dẻo, người Việt Nam đã dần dần tiếp nhận những
giá trị văn hóa mới để phát triển văn hóa dân tộc sử dụng chúng trong công
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm.
Diện mạo văn hóa Việt Nam thay đổi: chữ quốc ngữ dùng trong nội bộ
tôn giáo đến dùng như chữ viết một nền văn hóa. Sự xuất hiện của các phương
tiện văn hóa: nhà in, máy in. Sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản, các loại
hình nghệ thuật mới: tiểu thuyết thơ mới điện ảnh, hội họa,…
2.1.5, Giao lưu tiếp biến trong giai đoạn hiện nay:
Ngày nay, Việt Nam đang bước vào quá trình hội nhập quốc tế, xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay, vấn đề giao lưu kinh tế, văn hóa là vấn đề sống còn của dân tộc.
Giới thiệu rộng rãi những giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới, đồng
thời lựa chọn đưa vào nước ta các giá trị văn hóa tiến bộ của các nước, mở
rộng hoạt động văn hóa quốc tế dưới nhiều hình thức. 15
2.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế:
2.2.1. Thực trạng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế:
Đã 30 năm kể từ khi công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu nhất định, qua đó có được tiền đề để có thể bước vào thời kì hội
nhập quốc tế với các quốc gia khác.
Trong thời đại toàn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa
học và công nghệ ngày nay, xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa ngày càng
được mở rộng và diễn ra mạnh mẽ trên quy mô lớn. Xu thế này đã tạo tiền đề,
cơ hội cho sự phát triển nền kinh tế cũng như gây ra những yếu tố gây khó
khăn, thách thức lớn cho các quốc gia trên giới và Việt Nam là một trong số
những quốc gia phải chịu tác động rất lớn từ quá trình này. Toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam trong xây dựng và
phát triển văn hóa, con người, vừa tiếp thu các giá trị tiến bộ, tinh hoa của
nhân loại, vừa phải bảo vệ và giữ gìn được bản sắc dân tộc.
Việt Nam hội nhập quốc tế nhằm củng cố hòa bình, tận dụng tối đa các
mối quan hệ quốc tế thuận lợi không những để phát triển, xây dựng vững chắc
Tổ quốc, mà còn quảng bá hình ảnh tốt đẹp về đất nước, con người, nét đẹp
của văn hóa Việt Nam, qua đó bản tồn những bản sắc văn hóa dân tộc, góp
phần vào công cuộc xây dựng sự nghiệp hòa bình, tiến bộ xã hội. Vì thế, hội
nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi cơ chế, chính sách phải phát
huy tính chủ động, tích cực, khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân,
khai thác hiệu quả sức mạnh của toàn xã hội.
Giao lưu văn hóa với các quốc gia trong cộng đồng quốc tế là nhu cầu,
đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển xã hội hiện đại. Trong quá trình toàn
cầu hóa và hội nhập, giao lưu, trao đổi văn hóa giữa các nước, việc công nghệ 16
thông tin phát triển khiến cho khoảng cách địa lý không còn là vấn đề. Những
cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật, khoa học - công nghệ, cùng với những
phát minh vĩ đại của nhân loại cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 là tiền đề để giúp
cho những đất nước có bước đột phá, phát triển các mối quan hệ ngoại giao,
chính trị trong quá trình hội nhập quốc tế.
2.2.2. Quan điểm chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trong thời kì hội nhập quốc tế:
Nhận thức rõ tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc và trong thực
trang của nó trong tình hình hiện nay, Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chủ
trương về tầm quan trọng của văn hóa trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước, theo nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (16/7/1998) về "Xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", trong
đó Đảng đã đưa ra những chỉ đạo cụ thể sau:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Bảo vệ, giữ gìn bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân
tộc khác, chống lạc hậu, lỗi thời.
Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo trong đó có đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng.
Trong nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (9/6/2014) về "Xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất 17
nước" khẳng định mạnh mẽ vai trò của văn hóa trong hội nhập quốc tế, trong
đời sống xã hội, cũng như trong những chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết đã khẳng định lại quan điểm: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học".
Vậy nên, để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng đề ra nhiệm vụ phải
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc truyền thông, các di sản văn
hóa là tài sản vô giá, tốt đẹp do cha ông để lại.
2.2.3. Những mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế đối với
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam:
Quá trình hội nhập quốc tế luôn tồn tại hai yếu tố tích cực và tiêu cực tới
việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở đất nước ta hiện nay.
Về mặt tích cực: trong xã hội, những giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo
đức được hình thành rõ rệt. Ta thấy được ý thức phấn đấu, tinh thần trách
nhiệm cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa của cán bộ, đảng viên được nâng cao
hơn. Sự năng động và tính tích cực của công dân được khuyến khích, phát huy
sở trường và năng lực cá nhân của mình nhiều hơn. Ngày này, các bạn trẻ sớm
nhận thức được về trách nhiệm của bản thân, sẵn sàng tiếp thu những kiến
thức mới, có ý chí vươn lên gây dựng sự nghiệp cho bản thân, qua đó góp một
phần công sức vào công cuộc xây dựng và phát triển, bảo vệ Tổ quốc. Dù ở
đâu thì hàng năm vẫn luôn nhớ và hướng về cội nguồn quê hương nơi chôn
rau cắt rốn, tưởng nhớ những người anh hùng dân tộc (Hồ Chí Minh,…),
những danh nhân văn hóa (Nguyễn Trãi,…) đã có những công lao, đóng góp
to lớn cho đất nước, giúp cho chúng ta có được cuộc sống ăn no mặc đẹp,…
Qua đó trở thành quần chúng nhân dân chung tay góp phần giữ gìn, bảo tồn
bản sắc dân tộc trong thời kì hội nhập quốc tế. Giáo dục thu được những thành 18
tựu quan trọng trong việc nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết của nhân dân
trong nhiều lĩnh vực khác nhau
Văn học: có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và kháng
chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng vǎn hóa
dân gian và vǎn hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo
cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học
thuật và thẩm mỹ của dân tộc; ngoài ra, xuất hiện những nhân tố nhà văn trẻ,
tuy chưa có những tác phẩm nổi bật nhưng những gì họ viết trong sách đều
mang giá trị thực tiễn cao, giúp cho người đọc nhận thức được về xã hội con
người ngày nay, hoặc những tác phẩm truyền cảm hứng, tạo ra tầm nhìn mới,
nhận thức về thế giới xung quanh.
Nghệ thuật: nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được gìn giữ, Rất
nhiều học giả, người nước ngoài, cộng đồng quốc tế yêu quý kho tàng văn hóa
Việt Nam với các loại hình nghệ thuật đã và sẽ được UNESCO vinh danh như:
ca trù, quan họ, hát xoan, chầu văn, hát xẩm, ví dặm... vì họ thấy được cái hay,
cái lạ của những loại hình này, nhưng chưa giúp họ thấy hết chân giá trị của
nền văn hóa mang màu sắc Việt.
Phong tục tập quán: người Việt vẫn duy trì được những nét văn hóa đơn
sở, giản dị trong cuộc sống hàng ngày, về bữa ăn, cách ăn mặc. Với bữa ăn, cơ
cấu thiên về thực vật, cơm rau là chính. Ngày nay điều kiện các gia đình tốt
hơn, đầy đủ hơn, bữa cơm phố thị của người Việt có nhiều thịt cá nhưng vẫn
không quên vị dưa cà. Với trang phục, xưa nữ giới phổ biến mặc yếm, váy, áo
tứ thân sau này đổi thành chiếc áo dài hiện đại. Đó là nét đẹp một cách tế nhị, kín đáo. 19
Ngoài ra còn có sự đồng lòng, “thương người như thể thương thân”, “lá
lành đùm lá rách”. Từ thời ngàn xưa, nhân dân Việt Nam luôn giữ được tinh
thần đoàn kết toàn dân, thương ái đối với con người. Khi có giặc ngoại xâm
đến với ý định xâm chiếm và đồng hóa nước ta, người dân từ trẻ tới già, từ
nam tới nữ sẵn sàng không quản ngại hi sinh, đứng lên, lấy mọi vật dụng trong
nhà làm vũ khí, đoàn kết cùng nhau đứng lên đánh đuổi giặc, bảo vệ Tổ quốc,
văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, trong đời sống hàng ngày, mỗi khi có một vùng
đất nào đó gặp khó khăn thì người dân từ những tỉnh, miền khác chung tay
giúp đỡ. Có thể nói đến cơn lũ khủng khiếp vào năm 2019 ở miền Trung đã
quét sạch nhà cửa lẫn con người, để lại nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần cho
không chỉ là người sống sót mà còn có những người nghe được tin này. Chính
vì vậy, những người nổi tiếng trong giới showbiz đã kêu gọi người dân Việt
Nam chung tay góp tiền của, lương thực cung cấp cho người gặp nhiều thiệt
hại, để họ có thể vượt qua giai đoạn khó khăn đó. Hay đối với thế giới, khi đại
dịch COVID-19 xảy ra, hàng trăm nghìn người bị nhiễm trên toàn thế giới, tại
Việt Nam cũng có nhiều số ca nhiễm,… Và khi đó, cách sống tương thân
tương ái, đoàn kết của con người Việt Nam tiếp tục được thể hiện ra nhưng lần
này không chỉ trong đất nước ta, mà Chính phủ và các tập đoàn ở Việt Nam
cũng đã hỗ trợ cho những đất nước Pháp, Brazil,.. hàng trăm thiết bị, khẩu
trang y tế, qua đó để lại những hình ảnh đẹp về văn hóa, con người Việt Nam
trong mắt bạn bè quốc tế.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa: việc giao lưu văn hóa với các quốc gia
trong cộng đồng quốc tế là nhu cầu, đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển xã
hội hiện đại. Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập, giao lưu, trao đổi văn
hóa giữa các nước, sự phát triển của công nghệ cho khoảng cách địa lý không
còn nhiều ý nghĩa; cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật, khoa học - công nghệ 20