Bàn về hành động địa chiến lược của Trung Quốc - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Bàn về hành động địa chiến lược của Trung Quốc - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

3
Bàn về hành động địa chiến lược của
Trung Quốc từ khi thực hiện cải cách mở cửa
Trần Khánh
1
1
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: trankhanhdna@yahoo.com.vn
Nhận ngày năm 2020. Chấp nhận đăng ngày năm 2020.28 tháng 7 18 tháng 8
Tóm tắt: Sự điều chỉnh chiến lược phát triển quốc gia từ ý thức hệ giai cấp chính sang ưu tiên
cách tiếp cận địa chính trị, kinh tế chiến lược, coi nhân tố địa lý, chủ nghĩa dân tộc nước lớn và lợi
ích phát triển kinh tế là trung tâm bước đột phá trong duy chiến lược của Trung Quốc từ năm
1978. Từ cách tiếp mới, Trung Quốc đã triển khai nhiều dự án địa chiến lược như tạo dựng cận
“Vòng cung kinh tế Đại Trung Hoa”, thúc đẩy con đường Nam tiến Tây tiến ra ngoài biên giới
bằng “Sáng kiến Vành đai Con đường”. Kết quả của quá trình trên không chỉ mang lại một nguồn -
lực mới cho tăng trưởng kinh tế, sức nặng về ngoại giao củng cố tiềm lực quân sự, mà còn làm
tăng tham vọng địa chính trị của Trung Quốc. Điều này cũng kéo theo sự lo ngại và phản ứng trái
chiều của cộng đồng quốc tế.
Từ khóa: Địa chiến lược, điều chỉnh, Trung Quốc.
Phân loại ngành: Quốc tế học
Abstract: The adjustment of the national development strategy from a mainly class-based ideology
to a geopolitical and strategically economic approach, centred on the factors of geography, a
power's nationalism and economic development interests has been the centre of a breakthrough in
China's strategic thinking since 1978. With the new approach, China has implemented many
geostrategic projects such as the creation of a greater china economic circle, promoting the
southward and westward paths beyond its border with the "Belt and Road Initiative". The results of
the above-mentioned process not only have brought new resources to economic growth, and
diplomatic weight, strengthening the military capabilities, but also bolstered China's geopolitical
ambitions. This has also led to concerns and mixed reactions from the international community.
Keywords: Geostrategic, adjustment, China.
Subject classification: International studies
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
4
1. Giới thiệu
Nhằm đưa đất nước thoát khỏi trì trệ, lạc
hậu, vươn lên trở thành cường quốc hàng
đầu thế giới sau một thời gian chìm đắm
trong “Cách mạng văn hóa” những năm
1960, Trung Quốc từ những năm 1970, nhất
từ 1978 thực hiện cải cách mở cửa, tiến ,
hành điều chỉnh chiến ợc phát triển quốc
gia từ dựa trên ý thức hệ tưởng giai cấp
chính sang ưu tiên cách tiếp cận địa
chính trị, kinh tế chiến lược, trong đó coi
nhân tố địa lý, chủ nghĩa dân tộc nước lớn
lợi ích phát triển kinh tế là trung tâm. Từ
cách tiếp cận mới, Trung Quốc đã đưa ra
nhiều dự án địa chiến lược mang tính đột
phá như chọn các tỉnh duyên hải Đông Nam
Trung Quốc làm thí điểm cho cải cách, mở
cửa, tận dụng tối đa nguồn lực của Hồng
Kông, Ma Cao, Đài Loan cộng đồng
người Hoa, Hoa kiều để tạo dựng nên
“Vòng cung kinh tế Đại Trung Hoa”, từ đó
tạo tiền đề cho chiến lược “đi ra ngoài”,
thúc đẩy con đường Nam tiến Tây tiến
bằng “Sáng kiến Vành đai Con đường” -
(BRI), v.v.. Kết quả của quá trình trên
không chỉ mang lại cho Trung Quốc một
nguồn lực mới cho tăng trường kinh tế, sức
mạnh về ngoại giao củng cố tiềm lực
quân sự, còn làm tăng tham vọng địa
chính trị của Trung Quốc. Điều này cũng
kéo theo sự lo ngại của cộng đồng quốc tế.
Không phải ngẫu nhiên, nhà địa chiến
lược nổi tiếng người Anh Halford
Mackinder trong cuốn sách Trục địa của
lịch sử của ông xuất bản năm 1904 đã liên
hệ sự đáng ngại trên cho rằng Trung
Quốc một khi mở rộng sức mạnh của mình
vượt ra ngoài biên giới “có thể tạo thành
mối nguy hiểm da vàng cho tự do của thế
giới, đơn giản Trung Quốc sẽ thêm
một vùng đại dương bổ sung cho nguồn tài
nguyên của lục địa rộng lớn, một lợi thế
nước Nga không may có được trong khu vực
này” [16, tr.22], [1, tr.161-162]. Vấn đề trên
đã và đang là chủ đề gây tranh luận, thu hút
sự quan tâm lớn của các học giả chính
khách trên thế giới từ trước tới nay. Trong
khuôn khổ bài viết này, chúng tôi dựa trên
*
cách tiếp cận địa lý, địa chính trị, địa kinh tế
chiến lược [6, tr.199-224], [16, tr.22-41],
[17, 17-23] thực tiễn diễn ra trong chính
sách đối ngoại của Trung Quốc từ sau 1978,
cố gắng luận giải bước đổi mới trong nhận
thức hành động địa chiến lược của nước
này, nhất là về tạo dựng “Vòng cung kinh tế
Đại Trung Hoa” thúc đẩy con đường
Nam tiến và Tây tiến bằng BRI.
2. Chuyển từ sở ý thức hệ tưởng -
chính trị giai cấp sang ưu tiên cách tiếp
cận địa lý, địa chính trị, địa chiến lược
trong mở rộng không gian an ninh
phát triển quốc gia
tưởng hành động địa chiến lược của
Trung Quốc thịnh hành từ thời cổ đại, trong
đó Trung Quốc coi mình trung tâm của
“Thiên hạ”, nền văn hóa ưu việt, các
nước xung quanh “phiế ốc”, kém văn n qu
hóa, ph u. Tuy ải “thân phục” Thiên triề
nhiên, tr t t th i c “Thiên hạ” từ ận đại đã
b th l à Nh t B n làm suy ế ực Phương Tây v
yếu dn dn ít phát huy hiu qu. Trung
Quc không ch b m t dn ch quy n trong
không gian lãnh th qu c gia mình, còn
buc phi t b h th ng u tri u “chư hầ
c ng mà h đã dựng nên t hơn 2000 năm
trước [2, tr.66-71].
T khi nước Cng hòa Nhân dân Trung
Hoa ra đời (năm 1949), tư duy và hành động
Trần Khánh
5
địa chiến lược ca Trung Qu c nh ng
điều ch nh l n. Trong những năm 1950,
nước Trung Hoa m i chiới theo đuổ ến lược
“nhất biên đảo” liên minh với Liên Xô,
ch ng ch nghĩa thực dân, đế quc, l y n n
tng ch nghĩa Mác - Lê-nin làm ý th c h
chính tr - ng chính coi tưở đó như
nhng phương tiện ct yếu đề b o v ch
quy n qu c gia và phục hưng dân tộc. Đảng
Cng s n Trung Qu ốc lúc đó cho rằng, ch
đoàn kết vi Liên m i xây d ng c đượ
chính quy n m i, ph c h i nhanh chóng n n
kinh tế (trước h t nhế n vin tr kinh t ế
kinh nghim t Liên Xô) b o v c đượ
biên gii, nh th trước s đe dọa c a liên
minh M - Nh t - Hàn Đài Loan phía
Đông. Hơn nữa, đoàn kết, liên minh v i Liên
Xô và các nướ nghĩa xã hội khác đểc ch to
thành mt kh i s c m nh nhm nhanh chóng
m rng không gian ảnh hưởng ca mình
trên th giế ới, trước h c Á, ết đến các nướ
Phi và M Latinh mới giành được đc lp.
cao ch c, Tuy nhiên, do đề nghĩa dân t
cho mình là c trung thành v i chnướ nghĩa
Mác Lê- ng duy nin, nước “cách mạ
nhất”, nên Trung Quố ững năm c t cui nh
1950, đầ ững năm 1960 đã thay đổu nh i t
“nhất biên đảo” sang chiến lược “hai
tuyến”, cùng lúc cả chng Liên M
vi mc tiêu tr thành tr thành trung tâm
cách m ng th gi c h gi i ế ới, trướ ết “thế
th ba”, các nước thuc Phong trào không
liên k t. th nói, ngoài chế nghĩa dân
tc, s tranh ch p ý th c h , ngôi th trong
phong trào cách m ng th gi i m t trong ế
những nguyên nhân đưa đến s rn nt
quan h r n s u gi a Trung ồi đưa đế đối đầ
Quốc Liên đượ ắt đầc b u t cui
những năm 1950 [3, tr.30-41].
Trong nh c ững năm 1960, Trung Qu
thc hi y ện “Cách mạng văn hóa sản” lấ
“đấu tranh giai c p làm nòng c ốt”, đưa ra
kh hu hiệu “p ản đố ản đội phái ph ng các
quc gia trên thế gi ng th i ch ới”, đồ
trương xuấ ẩu “Chủ nghĩa Mao”, trướt kh c
hết sang các nướ ềng Đông Nam Á c láng gi
vi m ng sộng tưở đưa đất nước tr thành
trung tâm cách m ng th gi th i ế ới. Cũng từ
gian này, Trung Qu c b t u nhìn th gi i đầ ế
vi khái ni giệm “ba thế ới”, trong đó Trung
Quc thu gi i thộc “thế ba”. Chiến lược
cùng m ng n c ý th c h ột lúc giương cả
giai cp ng n c n t c ch nghĩa đã
làm cho nước này trì tr v kinh tế và cô lp
v ngoi giao [3, tr. 30-41].
Để khc ph c tình trng trên, Trung
Quc t cui nh u những năm 1960, đầ ng
năm 1970 lại thay đổ ến lượi chi c, t
“giương cung hai phía” hay chiến lược “hai
tuyến” “chống đế quc, chng xét li
làm cách m ng th gi u ế ới” sang “nhất điề
tuyến” (một tuyến) hp tác vi M , ch ng
lại “đế ội” Liên Xô. thể quc xã h nói,
lần đầu tiên trong lch s quan h quc tế
hiện đạ ủa nưới c c Trung Qu c m ới, sở
giai c p trong liên minh, liên k t, t p h p ế
lực lượng đã nhường ch cho cách tiếp cn
đị ếa chính tr, kinh t chiến lược, trong đó
nhu c u tái l p tr t t “Thiên hạ” được ưu
tiên hàng đầu. Lãnh đạo Trung Quc c
này cho r ng, mâu thu n Trung - l n
hơn mâu thun Trung - M, mâu thun M
- l n M - Trung. Cùng ớn hơn mâu thuẫ
mt lúc, Trung Qu c khó th ch ng l i
hai th l c l n Liên M . ế ực nướ
Điều này đã đượ ạch Đông thừc Mao Tr a
nhn ngay sau s ki t biên gi i ện xung độ
Trung - ng, vào tháng 3 năm 1969 rằ
“chúng ta đang bị ập”; “trong hai nướ l c
quy n, chúng ta ph i tranh th l y m t,
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
6
không th cùng lúc chi u trên hai tr n ến đấ
tuyến” [9, tr.112], rằng Trung Quc
“muố n t o nên một đường thẳng chạy
ngang qua độ gồm các nước như Mỹ,
Nhật Bản, Trung Quốc, Pakistan, Iran, Thổ
Nhĩ Kỳ châu Âu” để chống lại “đế quc
h 73]. ội” Liên [9, tr.3 Để tạo ra bước
đột phá trong quan hệ với các nước bản,
nhất là Mỹ, Trung Quốc từ cuối những năm
1970 xóa bỏ khẩu hiệu “lấy đấu tranh giai
cấp làm nòng cốt” và thay vào đó “chăm
chỉ làm việc” coi trọng “lợi ích phát
triển” với trọng dựng kinh tế, mở tâm là xây
cửa, cải cách . thể nói đây biểu hiện
2
nét nhất về sự điều chỉnh chiến lược, hệ
tư tưởng phát triển quốc gia từ chủ yếu dựa
trên ý thức hệ chính trị tưởng giai cấp -
sang ti p c a chính tr , kinh t chi n ế ận đị ế ế
lược, nh t là tron i ngo i. g đố
Trung Qu c cho r ng h là m t qu c gia
vượ t tr i v dân s , lãnh th , nền văn
hóa ưu việt, lâu đời nm v trí trc
trung tâm c a tranh giành quy n l c trên
thế gi giam hãm b i khuôn kh , ới, nhưng bị
đặc điể ủa địa lý và địm c a chính tr thế gii.
phía B c y B c, h b m t siêu
cườ ng Liên Xô án ng , khó th m r ng
không gian quy n l c ra vùng Trung Á
Trung Cận Đông cũng như Đông, Nam
châu Âu. phía Đông Đông Nam của
Trung Qu c theo truy n th ng t t ống hướ
để di chuy n i là bi n ra bên ngoài, nhưng l
c, b M đồng minh khng chế và kim
soát. Hơn nữa, s phân b t i theo ộc ngườ
lãnh th o cho Trung Qu c s lo cũng tạ
lng, b t an. vùng phía B c khu t tr
Ni Mông, phía Tây khu vc Hi giáo,
người Uighur Tân Cương, phía y Nam
y T ng giáp v i m c l n n ột nướ
Độ , phía Nam khu t tr c i ủa ngườ
Choang. Các t i thi u s trên l i n m ộc ngườ
bao quanh vùng biên gi i c a Trung Qu c,
trong đó nhiều dân bản địa, nht
khu v ng luôn ực Tân Cương Tây Tạ
kháng c s c ng c ảnh hưở ủa văn hóa Trung
Hoa, ng ly khai mnh m [16,
tr.22-25], [8]. Hơn nữ ắc Kinh cũng a, B
nhn th c rức đượ ng, h mt không gian
l
ục địa rng ln vi 9.600.000 km có b
2
bin dài t i 18.000 km kh năng phát
trin thành m ng quột cườ c có sc mnh c
đấ t li n bi n. Trong lch s , Trung Quc
ch y ng l a (và thếu có tư duy hướ ục đị c s
tr thành cườ ục địa), chưa quan ng quc l
tâm l n khai thác ti ớn đế ềm năng biển để
phát tri n n ội địa vươn ra bên ngoài.
Trong khi đó, các nước phương Tây như
Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, B , Đào Nha
v.v.. v i di t li i khiêm ện tích đấ ền tương đố
tốn, nhưng từ trong lch s h đã biết khai
thác th m nh c a bi n, nh t là coi biế ển như
“đạ ộ” thông thương vi l i thế gii và h
đã trở ững cườ thành nh ng quc bin,
không gian ng kh p th gi i. K t ảnh hưở ế ế
qu c n làm cho ủa quá trình trên đã góp ph
Trung Qu c tr nên l c lõng b phương
Tây chèn ép, phong t a t phía bi n, ph i
tri qua khong 100 năm (từ gia thế k
XIX đến 1949) b ô nhục”, mất th din.
Chính v y, B c Kinh t nh ững năm 70
ca thế k XX đã lựa chn con bài chi n ế
lược, b t tay v i M để m r ng không gian
chiến lược, trước hết cho ci cách m
ca, hiện đại hóa đất nước. Cách tiếp cận địa
địa chính tr m i này c a Trung Qu c
khá gần gũi với quan điểm ca các nhà lý
lun đị ến lượ ủa phương Tây cũng a chi c c
như phù hợp vi chính sách ch ng Liên
ca M dưới th i Chi ến tranh l nh [6, tr.6-
7]
3
. K t qu là Trung Qu c và M ký Thông ế
o chung Thượng Hải năm 1972, trong đó
hai nước chm d t s đối đầu, cam k t ế
Trần Khánh
7
ci thin quan h v ới nhau, bình đẳng, cùng
lợi đến tháng 12 năm 1978, hai nước
chính thc thiết l p quan h ngo i giao
m rng h p tác trên nhi ều lĩnh vc, c v
an ninh - qu c phòng [4, tr.162-180] . Cũng
t th c Trung Hoa m i o ời gian này, nướ
riết tp h p l c lôi ực lượng, trong đó việ
kéo các nước ASEAN nhm chng li cách
mạng ba nước Đông Dương đỉnh cao là
phát độ ến tranh, xâm ng chi c Vit Nam
vào tháng 2 năm 1979, đồng thi tranh th
s gia ng của quá trình toàn cu hóa kinh
tế, y u t i Hoa, Hoa ki th c hi n ế ngườ ều để
ci cách, m c ng d ửa, đưa ra nhữ án địa
chiến lượ ừng bước mi, t c thc hin tham
vọng “Giấ ộng Trung Hoa”.c m
3. T o d i ựng “Vòng cung kinh tế Đạ
Trung Hoa”
Để độ t c ạo ra bướ t phá trong c i cách m
ca, Bắc Kinh đã nhìn về phía Đông Nam,
chn hai t nh Qu n ảng Đông Phúc Kiế
làm đột phá điểm. Trung Quc thy r ng,
các t nh duyên h i này không ch v trí
địa lý ti p giáp v i H ng Kông, Ma Cao ế
Đài Loan, và các nước Đông Nam Á, nơi có
cộng đồng người Hoa đông đảo vi tim
lc kinh t m nh [5, tr.118], l i quan h ế
mt thi t c v huy t th ng kinh doanh ế ế
vi hai t nh này. Cùng v nh này ới đó, các tỉ
dân s t th ng cung c p đông, mộ trườ
lao động th trường tiêu th rng ln,
khu vực cửa ngõ quan trọng nhất của Trung
Quốc tiến ra Biển Đông, nơi huyết mạch
giao thông hàng hải giữa Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương.
Mục tiêu khác lớn hơn việc Trung
Quốc thông qua chọn Quảng Đông Phúc
Kiến làm khâu đột phá thập niên 1980
tạo tiền đề đ thu nhập Hồng Kông, Ma
Cao về Đại lục, thống nhất hai bờ eo biển
Đài Loan từ đó tạo dựng một “Vòng
cung kinh tế Đại Trung Hoa ven biển Đông
Á, thực hiện chiến lược “đại dương xanh”,
trước hết độc chiếm Biển Đông, mở rộng
ảnh hưởng ra Đông Nam Á, Nam Á nhằm
cạnh tranh tốt hơn với Mỹ, Nhật Bản, kìm
chế Ấn Độ ở châu Á Thái Bình Dương.-
Để đạt mục tiêu trên, Trung Quốc từ đầu
thập niên 80 của thế kỷ XX đã tiến hành đổi
mới chính sách đối với “đồng bào Hồng
Kông, Ma Cao, Đài Loan cộng đồng
người Hoa. Từ thời gian này, người dân,
đối tượng trên, nhất tầng lớp giàu
không bị Bắc “nền tảng phản Kinh coi
động của hội” như hồi “Cách mạng văn
hóa”, một bộ phần quan trọng của
“mặt trận thống nhất” cầu nối hữu nghị ,
hợp tác” giữa Trung Quốc với nước ngoài,
nhất với các nước Đông Nam Á [25,
tr.254]. Cùng với đó, Hiến pháp sửa đổi
năm 1980 của Trung Quốc cho phép người
Hoa được quyền phục hồi quốc tịch Trung
Quốc, đồng thời Trung Quốc công nhận sự
tồn tại không mang quốc tịch hay hai
quốc tịch của người Hoa. Trước đó, vào
năm 1979, Bắc Kinh ban hành văn bản
chính thức, trong đó nêu rõ “Nguyên tắc 16
chữ” là: “Đối xử như nhau, không được
phân biệt, căn cứ đặc điểm, chăm sóc thích
đáng” đối với Hoa kiều, người Hoa. Hơn
nữa, các tổ chức liên quan đến Kiều vụ từng
bị đình trệ từ thời gian này được phục hồi
và kiện toàn hơn [5, tr.146-150].
Điều đáng chú ý từ những năm 1980,
Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt các luật
định, pháp lệnh cụ thể về ưu đãi đầu tư,
nhất đầu vào xây dựng các nghiệp
“hương trấn” vào các đặc khu kinh tế.
Cùng với đó, nhiều chương trình, dự án,
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
8
hội chợ, hội thảo được tổ chức nhằm thúc
đẩy kết nối giữa Trung Quốc với Hồng
Kông, Ma Cao, Đài Loan và người Hoa trên
thế giới, trong đó cả thu hút nguồn chất
xám [24, tr.70-92].
S thay đổi cách ti p c n t ý th c h ế
giai c n kinh t theo ấp sang ưu tiên phát triể ế
đặc điểm địa địa chính tr trong quan
h v i H ng Kông, Ma Cao, Đài Loan
cộng đồng ngườ ều đã mang i Hoa, Hoa ki
li thành qu to l ớn đối vi công cuc ci
cách, m c a c a Trung Qu c. Trong t ng
s 25,06 t USD v c ti p vào ốn đầu trự ế
Trung Qu i l n 1979-1991, ốc Đạ ục giai đoạ
thì hơn 18 t USD (chiếm 74%)
ngun vn t c i Hoa, Hoa ộng đồng ngườ
kiu “đồng bào H ng Kông, Ma Cao.
Trong th p niên 90 c a th k XX, v u ế ốn đầ
tư củ ục địa đạa h vào Trung Quc l t 155 t
USD và trong th u th k t ập niên đầ ế XXI đạ
426 t USD, tăng 24 lần so vi thp niên
1980 3 l n so v i th p niên 1990. Riêng
v nốn đầu trực tiếp t c g đồng người
Hoa, Hoa ki u trên th gi i t i Trung Qu c ế
t 1979 đến 2010 đt khong 312 t USD,
trong đó nguồ ủa ngườ năm n vn c i Hoa
nước ASEAN ban đầu chiếm ti 75%
(khong 220 t USD). Nếu tính c đầu tư từ
Hng Kông, Ma Cao Đài Loan, nơi các
doanh nghi ng v n c ệp người Hoa thườ
phn trên lên t i 623 t đó thì con số
USD, chi m 58% t c ti p t ế ổng đầu trự ế
bên ngoài vào Trung Quốc. Theo đánh giá,
đến 2015 đạ USD, trong đó t khong 800 t
vn c i Hoa, Hoa kiủa ngườ u chiếm khong
400 t USD) [5, tr.162]. H qu c a quá
trình trên đã tạo ra bước ngot trong hình
thành các đặc khu kinh tế khu vc duyên
hi thuc hai t nh Qu ng Đông Phúc
Kiến, làm cho các t nh này tr u thành đầ
tu m r ng không gian kinh t c trong ế
ngoài Trung Qu c, mà quan tr ọng hơn
to dựng “Vòng cung kinh kinh tế Đại
Trung Hoa” Đông Á, qua đó Trung Quố c
có điề ều hơn thự ến lượu kin nhi c hin chi c
“đi ra ngoài” án đị
4
trin khai các d a
chiến lược mang tính khu vc toàn cu,
m r ng Nam ti n và Tây ti n ra ộng con đườ ế ế
thế gi i Hoa và ới xung quanh, trong đó ngườ
Hoa ki u m t m t xích quan tr ng c a
quá trình y. d i châu Âu, tính như tạ
đến năm 2010 ti 1.304 công ty ca
ngườ i Hoa, Hoa ki u t i châu l i ục này là đố
tác liên doanh v n t Trung ới các công ty đế
Quốc Đại lc [22, tr.13].
4. Thúc đẩy con đường Nam tiến Tây
tiến bằng dự án “Vành đai Con đường”-
Sự trỗi dậy của Trung Quốc, trong đó
hình thành “Vòng cung kinh tế Đại Trung
Hoa” hiệu ứng lan tỏa của vòng cung
này đối với các vùng sâu nội địa phía Bắc
và Tây của nước này đã và đang làm tăng vị
thế địa kinh tế tài nguyên địa chính trị
của Trung Quốc đối với thế giới, nhất là với
khu vực Đông Nam Á không gian lục
địa Á - Âu.
Đối với Đông Nam Á, ảnh hưởng của
Trung Quốc diễn ra liên tục trong lịch sử,
chỉ ngắt quãng hay thu nhỏ trong khoảng
gần 100 năm (từ giữa thế kỷ XIX đến giữa
thế kỷ XX) khi phương Tây Nhật Bản
thống trị quyền lực khu vực này. Từ khi
cải cách, mở cửa m 1978, nhất từ thập
niên đầu thế k XXI, tốc độ quy nh
hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á tăng
rất nhanh. Ngoài yếu tố địa gần kề,
cộng đồng người Hoa đông đảo với tiềm lực
kinh tế mạnh, các quốc gia Đông Nam Á
Trần Khánh
9
là những nước nhỏ, đang phát triển, có nhiều
điểm tương đồng về văn hóa chính trị, nhất
về giá trị dân chủ và quản trị quốc gia, nên
mối quan hệ giữa Trung Quốc các nước
trên ít trở ngại lớn. Cùng với đó, quá
trình hội nhập liên kết ASEAN đã
đang tạo ra lực hút mạnh, cả về địa chính trị
địa kinh tế đối với Trung Quốc, nước
đang tham vọng thay thế Mỹ giành ảnh
hưởng nổi trội khu vực này. Hơn nữa,
Đông Nam Á điểm kết nối giữa hai đại
dương Thái Bình Dương Ấn Độ
Dương, qua đó Trung Quốc có thể mở rộng
quan hệ ra Nam Thái Bình Dương, nhất
với Australia New Zealand đặc biệt
đến các nước ven biển Nam Á, nơi
tuyến vận chuyển dầu mỏ từ thế giới Rập
sang các nước y Thái Bình Dương,
nhưng lại đi ngang qua Ấn Độ, một cường
quốc về dân số, đang phát triển khá mạnh
xu hướng gia tăng cạnh tranh với
Trung , Trung Quốc. Chính do trên
Quốc từ những năm 1990, nhất hai thập
niên đầu thế kỷ XXI không chỉ chủ động và
tích cực tham gia các chế hợp tác đa
phương với ASEAN như ARF, ASEAN+1,
ASEAN+3, EAS, Hợp tác Tiểu vùng sông
Mê Kông Mở rộng (GMS), sáng lập Hợp tác
Lan Thương - Mê Kông (LMC) còn chủ
động đưa ra các dự án mới như “Một trục
hai cánh” đặc biệt BRI, trong đó
5
“Con đường lụa trên biển thế kỷ XXI”
6
.
Nếu như sáng kiến “Một trục hai cánh” chỉ
giới hạn không gian địa lý gồm các tỉnh phía
Nam của Trung Quốc các nước Đông
Nam Á thì “Con đường lụa trên biển thế
kỷ XXI” vươn ra toàn bộ khu vực Đông
Nam Á, Nam Thái Bình Dương Nam Á -
Ấn Độ Dương, có thể cho phép Trung Quốc
kết nối các cảng chính của các nước khác
nhau bằng cả đường biển và đường bộ.
Điều đáng chú ý sáng kiến “Vành đai
con đường tơ lụa trên biển thế kXXI” gắn
liền với chiến lược “Đại ương xanh”, nhất d
“Chiến lược xây dựng cường quốc biển”
của Trung Quốc đưa ra tại Đại hội 18 (năm
2012) của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các
chiến lược này nhấn mạnh đến việc xây
dựng các chuỗi đảo kéo dài từ đảo Hải Nam
xuống Biển Đông sang vùng biển thuộc phía
Bắc Ấn Độ Dương đến châu Phi. Mục tiêu
của chúng không chỉ giúp cho thương mại
trên biển an toàn, ngăn chặn sự xâm nhập
của Mỹ và đồng minh, mà quan trọng hơn là
vươn lên trở thành cường quốc biển, trước
hết hải quân hàng đầu của thế giới, từng
bước đẩy ảnh hưởng quân sự của Mỹ ra khỏi
khu vực Tây Thái Bình Dương Ấn Độ -
ơng, tiến lên kiểm soát các đại dương. Về
vấn đề này, A. T. Mahan, nhà địa chiến lược
biển người Mỹ hơn một thế kỷ trước đã ,
nhấn mạnh rằng ác quốc gia sống bằng C
xuất khẩu hàng hóa thì phải giữ được quyền
kiểm soát biển, nhất kiểm soát các tuyến
giao thông huyết mạch trên biển. Một quốc
gia sức mạnh biển thì cần tập trung phát
triển lực lượng hải quân kinh tế biển” và
rằng “đất nước cũng như một pháo đài, quân
đồn trú phải tỷ lệ với chiều dài hàng rào bao
quanh nó” [10, tr.94], [6, tr.9]. Trung Quốc
đã và đang theo đuổi theo hướng này.
Điểm mấu chốt về địa quân sự địa - -
ng hải trên con đường Nam tiến bằng
đường biển khu vực Biển Đông, nơi giàu
về tài nguyên thiên nhiên, nhất là dầu khí,
nơi án ngữ các dòng thương mại an ninh
biển giữa y Thái Bình Dương Bắc Ấn
Độ Dương, nơi lực lượng quân sự của Mỹ
tương đối mỏng so với khu vực biển Hoa
Đông biển Bột Hải. Trong “Chiến lược
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
10
xây dựng cường quốc biển” m 2012,
Trung Quốc nhấn mạnh rằng Biển Đông
nơi phù hợp nhất để triển khai cường quốc
biển [28]. Nếu như Trung Quốc thành công
trong việc kiểm soát Biển Đông thể giúp
họ phá vỡ sự bao y, kìm chế bởi “chuỗi
đảo thứ nhất” , thống nhất được Đài Loan và
7
vươn ra ra xây dựng tuyến an ninh ở biển xa
thuộc “chuỗi đảo thứ hai” bao gồm quần đảo
Mariana, Guam, Palau v.v.. dễ dàng tiến
sang Ấn Độ Dương. Tất cả những các đảo,
địa điểm thuộc “chuỗi đảo thứ nhất” đều
tranh chấp nguy xung đột. Từ thời
gian y, Trung Quốc khẩn trương đẩy
nhanh tốc độ thực hiện dự án “Vạn lý trường
thành trên biển” ở Biển Đông
8
, cụ thể là xây
dựng trái phép các căn cứ quân shậu
cần tại quần đảo Hoàng Sa, bồi đắp
quân sự hóa nhiều đảo họ chiếm đóng
trái phép thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng
với đó Trung Quốc sử dụng mọi thđoạn ,
như chiến thuật “vùng xám”, đưa lực
lượng dân binh cảnh sát biển quấy rối
các hoạt động kinh tế của các nước khác,
mở rộng chiến tranh tâm lý, truyền thông
pháp lý nhằm mục tiêu độc chiếm Biển
Đông. Hơn nữa Trung Quốc tài trợ lớn ,
xây dựng, hiện đại hóa nhiều cảng nước
sâu tại nhiều nước Đông Nam Á, trong đó có
cảng Sihanoukville Koh Kong của
Campuchia, cảng Kuantan, Klang,
Malacca của Malaysia, cảng Laemchabang
của Thái Lan v.v.. Các cảng này khả ,
năng giúp Trung Quốc đảm bảo cung ứng
kiểm soát thương mại và an ninh vịnh
Thái Lan i riêng, ng biển phía Nam
của Biển Đông nói chung [12, tr.174-180].
Những m gần đây, Trung Quốc tỏ ra hào
hứng đầu xây dựng kênh đào Kra. Nếu
Thái Lan cho phép, họ sẵn sàng bỏ ra 30 tỷ
USD đthực hiện dự án này. Người Thái
đang n nhắc thận trọng. Nếu như dự án
kênh đào Kra được triển khai, một mặt trận
mới trong xung đột, cạnh tranh địa chính
trị giữa các nước, nhất giữa Ấn Độ
Trung Quốc sẽ bùng phát [18].
Điểm quan trọng khác là vị trí chiến lược
của vịnh Bengal vịnh Ba Ấn Độ
ơng. Nơi đây hiện diện một lực lượng hải
quân đang phát triển mạnh của Ấn Độ, sự có
mặt của Hạm đội 5 của Mỹ quan trọng
hơn là tuyến đường vận chuyển dầu lửa quan
trọng nhất từ Trung Cận Đông, Bắc Phi sang
các nước Đông Á ven biển qua ng biển
này. Trung Quốc đã nhìn thấy tầm quan
trọng vị trí địa chiến lược của các nước
như Myanmar, Pakistan Sri Lanca trên
con đường mở rộng ảnh hưởng xuống Nam
Á tiếp cận với Ấn Độ Dương. Qua
Pakistan, Trung Quốc thể nối vùng Tây
Bắc tỉnh Tân Cương của Trung Quốc với
cảng Gwadar của Pakistan nằm trên biển
Rập thuộc vịnh Ba Tư, qua đó Trung Quốc
tiếp cận nhanh hơn nguồn dầu mỏ từ thế giới
Ả Rập, cạnh tranh tốt hơn với Ấn Độ cả trên
đất liền biển. Còn qua ngả Myanmar,
Trung Quốc không chỉ hội khai thác
tài nguyên giàu của nước này, quan
trọng hơn là tiếp cận với các cảng biển nước
sâu của nước này nằm trên vịnh Bengal như
cảng Sittwe cảng Kyaukpyu để tăng sức
cạnh tranh với Ấn Độ giảm sự phụ thuộc
vận chuyển hàng hóa, nhất là dầu mỏ qua eo
biển Malacca. Trong khi đó, Sri Lan ka
quốc gia hải đảo, nằm ở phía Đông Nam Ấn
Độ, điểm quan trọng của các trục hàng
hải chính Ấn Độ Dương. Chính vậy,
không phải ngẫu nhiên, trong BRI, Trung
Quốc thiết kế tới hai hành lang kinh tế
chính tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương, đó
Hành lang Trung Quốc - Pakistan Hành
lang Trung Quốc - Myanmar - Bangladesh -
Trần Khánh
11
Ấn Độ Sri Lanka. Trên thực tế, từ thập -
niên đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc đã chú
trọng đầu tư vào các nước này thông qua d
án “Một trục hai cánh”, GMS với Myanmar
và kế hoạch “Đại chiến lược miền Tây” với
Pakistan, mở rộng cảng biển Colombo
xây mới cảng Hambantota cũng như một sân
bay quốc tế gần đó tại Sri Lanka, hoàn thành
xây dựng tuyến đường ống dẫn khí đốt từ
Côn Minh đến cảng Kyaukpyu hoàn thành
o năm 2013 v.v.. Cùng với đó, Trung
Quốc cũng kết hợp đầu xây dựng các
sở quân sự, hậu cần c điểm trọng yếu
dọc bờ biển Ấn Độ Dương như hoàn thành
việc xây dựng n cứ quân sự đầu tiên
nước ngoài tại Cộng hòa Djibouti một quốc -
gia nằm trên vịnh Aden, thuê cảng biển
Gwadar của Pakistan nằm trên vịnh Ba Tư,
n cứ quân sự Sittwe của Myanmar [29].
Như vậy, sự kết hợp giữa BRI với chiến
lược “Chuỗi ngọc trai”
9
, “Đại dương xanh”
khả năng tạo ra sự kết nối một vùng
không gian địa lý rộng lớn giữa Trung Quốc
các nước ven biển nằm trên bờ Tây Thái
nh Dương và Bắc Ấn Độ Dương.
Trên con đường Nam tiến, Trung Quốc
cũng chú trọng hơn đối khu vực các nước
ASEAN. Trong BRI, Trung Quốc thiết kế
riêng một hành lang, đó Hành lang kinh
tế Trung Quốc đảo Đông Dương, - Bán
trong đó tầm quan trọng của Lào,
Campuchia và Thái Lan cũng được tăng lên
trong tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh.
Ngoài việc tăng cường buôn bán cũng như
đầu y dựng, hiện đại hóa nhiều cảng
biển lớn với các nước y, Trung Quốc tài
trợ phát triển nhiều dự án lớn về giao thông
đường bộ đường sắt, điển hình các
tuyến đường sắt cao tốc như Viêng Chăn -
Boten ở Lào, Băng Cốc Khai ở Thái - Nong
Lan, Jakarta - Bandung Indonesia, tuyến
đường sắt phía Đông Malaysia, tuyến
Kyaukpyu - n Minh ở Myanmar v.v.. Mặc
dù hiện nay, nhiều dự án trên đang triển khai
cầm chừng hoặc bị xem xét lại nhưng Trung
Quốc tỏ ra quyết tâm tiếp tục theo đổi
mục tiêu củanh [12, tr.180-187].
Con đường tiến về phía Tây của Trung
Quốc cũng được xúc tiến mạnh mẽ, nhất
từ khi nước này vươn lên trở thành cường
quốc kinh tế thứ hai thế giới vào năm 2010.
Nhìn vào vị trí địa lý thì khu vực Trung Á
là chìa khóa chính, nơi ngắn nhất nối Trung
Quốc bằng đường bộ tới châu Âu, Trung
Cận Đông cả với vùng đất liền của Nam
Á. Sự bất ổn chính trị trong khu vực Trung
Á từ sau Chiến tranh lạnh khi Liên tan
rã, trong đó sự nổi lên của chủ nghĩa Hồi
giáo cực đoan, chủ nghĩa ly khai sự gia
tăng cạnh tranh chiến lược giữa MNga
“vùng đấ (Hearl cũng
t trung tâm and)
10
tạo ra thách thức an ninh phát triển đối
với Trung Quốc. Cùng với trên, các địa
phương của Trung Quốc tiếp giáp với khu
vực Trung Á những tỉnh nghèo, trong đó
lại nổi lên khu tự trị Tân Cương bất ổn. Tuy
nhiên, do nhu cầu phát triển vùng nội địa
phía Tây còn lạc hậu quan trọng hơn
mở rộng không gian an ninh phát triển,
vươn ra thị trường thế giới, trong đó thị
trường dầu mỏ thứ nhiên liệu Trung -
Quốc đang cần cho an ninh năng lượng, nên
Trung Quốc nỗ lực thực hiện chiến lược Tây
tiến bằng dự án “Vành đai kinh tế con đường
lụa” (hay thường gọi là “Con đường tơ lụa
trên bộ . Hơn nữa, thông qua sáng kiến này,
11
Trung Quốc muốn thúc đẩy quan hệ mọi
mặt, kể cả giao lưu nhân dân với các nước
châu Âu, để từ đó người Trung Quốc thể
đến làm ăn, định lâu dài các nước đó
[22], [5, tr.74-79, 172-175].
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
12
Trong lịch sử, mối liên hệ, nhất giao
thương giữa Trung Quốc với các nước phía
Tây và Tây Bắc được được phát triển bởi sự
hình thành “Con đường lụa gốm sứ
trên bộ” từ thế kỷ VIII. Trước đó, Trung
Quốc gặp nhiều cản trở đi về phía hướng đó
bởi sự sinh sống của nhiều bộ tộc du mục
Trung Quốc cho hung hãn như người
Hung Nô, Khiết Đan, Mông Cổ. Chính
vậy, “Vạn lý trường thành” được người
Trung Quốc xây dựng từ thế kỷ V TCN cho
tới thế kỷ XVI nhằm bảo vệ Trung Hoa
khỏi những cuộc tấn công các tộc người du
mục từ phía y và Tây ắc. Tuy nhiên, từ B
nửa sau thế k XIII khi đế chế Mông ,
Nguyên thiết lập ảnh hưởng ở khu vực y,
đặc biệt từ thế kỷ XV trở đi, khi đế chế
Ottoman của người Thổ Nhĩ K trở nên
hùng mạnh, con đường buôn bán trên bộ
giữa Trung Quốc với các nước phía Tây,
kéo dài từ Trung Quốc qua Trung Á đến
Trung Cận Đông Nam châu Âu dần dần
bị ngưng trệ bởi sự kiểm soát của người
Thổ Nhĩ Kỳ hoành hành của nạn cướp
trên các sa mạc. Cũng từ thời gian này
“Con đường lụa gốm sứ trên biển”
được hình thành làm cho mối quan hệ của
Trung Quốc với các ven biển từ Đông nước
Á, Đông Nam Á đến Nam Á, Trung Cận
Đông trở nên thịnh hành. Cùng với đó, từ
thế kỷ XVIII, nhất từ thế kỷ XIX, khi các
cường quốc phương Tây nước Nga trở
nên hùng mạnh, thiết lập hệ thống thuộc địa
hay chư hầu của họ Trung Á, Trung Cận
Đông trong khi Trung Quốc bị phương y
chèn ép, con đường lụa trên đất liền trở
nên suy yếu nhanh. Dưới thời Chiến tranh
lạnh, nước Trung Hoa mới vẫn bị phương
Tây phong tỏa. Liên về bản khống
chế vùng Trung Á. Các nước Trung Cận
Đông không ủng hộ quốc gia do Đảng
Cộng sản độc quyền lãnh đạo. Tất cả các
điều trên đã làm cho con đường Tây tiến
của Trung Quốc bị ngưng t trong lịch sử.rệ
Cùng với thành công của công cuộc cải
cách, mở cửa, sự sụp đổ của Liên sự
ra đời của các quốc gia độc lập Trung Á
như Kazakhstan, Kyrgyzstan (Kirghizstan),
Tajikistan, Turkmennistan sự gia tăng
của toàn cầu hóa, khu vực hóa, không khí
hòa giải, hợp tác trên quy toàn cầu sau
Chiến tranh lạnh đã tạo hội cho Trung
Quốc tái lập và thúc đẩy “Con đường tơ lụa
gốm sứ trên đất liền”, mở rộng không
gian chiến lược ra vùng đất phía y của
lục địa Á Âu. Không phải ngẫu nhiên -
Tập Cận Bình chọn Kazak stan địa điểm h
đầu tiên chính thức đưa ra sáng kiến “Vành
đai kinh tế con đường lụa” vào năm
2013. Mục tiêu ban đầu được đưa ra của ý
tưởng này nhằm kết nối giao thông giữa
các quốc gia Á Âu để mở đường cho việc -
kết nối các khu vực chiến lược từ Thái Bình
Dương sang biển Baltic dần dần hướng
tới việc thiết lập hệ thống giao thông kết
nối Đông, Tây và Nam Á [12, tr.53-55].
Trước khi đưa ra sáng kiến này, Trung
Quốc năm 2000 triển khai kế hoạch "Đại
chiến lược miền y", sáng lập các chế
hợp tác mới, trong đó Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO) (được thành lập từ năm
2001)
để tăng cường hợp tác với các quốc
gia phía y, từ đó tạo thêm thuận lợi cho
dự án “Vành đai kinh tế con đường lụa”
xuyên lục địa Âu ra đời. Á -
Điều đáng chú ý Vành đai kinh tế
con đường lụa và “Con đường lụa
trên bin thế k XXI” Tập Cận Bình
đưa ra vào năm 2013 sau đó đưc gọi
chung BRI
12
một d án đa chiến
lược rộng lớn nh bao tm, nng lại
trọng tâm, tr điểm về đi tượng, ng
Trần Khánh
13
lĩnh vực, không gian địa lý và quy mô hợp
tác. Trước hết nh bao trùm được thhiện
đa mục tiêu. C th BRI không chỉ đơn ,
thun d án địa kinh tế, kết nối kinh tế
của Trung Quốc với các nước thông qua
phát triển s hạ tầng, thúc đẩy tơng
mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ, tài
chính, mà còn là công cụ m rộng đối
ngoại, kể cngoại giao quân sự, thiết lập
luật chơi nhằm đưa Trung Quốc trở tnh
cường quốc đứng đầu thế giới vào năm
2049. Không chỉ vậy, nh bao trùm được
thể hiện trong cách thức, biện pháp triển
khai n kết hợp đồng b giữa công cụ
kinh - , tế với hợp tác an ninh quân sự
ngoại giao công chúng, kết nối nhân dân,
cho Trung Quốc luôn khẳng định đây
chỉ dự án địa kinh tế nhằm kết nối kinh
tế với các ớc tham gia . Điều y cũng
13
khá phù hợp với nhiều lập luận của nhiều
nhà lý luận về địa kinh tế họ cho rằng,
các dự án địa kinh tế là hình thức mới của
cạnh tranh quyền lực giữa các quốc gia sau
Chiến tranh lạnh, đó tranh đua địa
chính trị vẫn được xác định bởi “logic
của xung đột” nhưng thông qua “ngôn ngữ
của thương mại” [17, tr.17 23] và rằng -
“địa kinh tế chiến lược kiểm soát lãnh
thổ mang động kinh tế” [15, tr.255-298]
rằng “thương mại theo sau cờ” “lá
cờ theo sau thương mại” [14, tr.47-58].
Còn tính trọng tâm, trọng điểm được thể
hiện BRI thường chọn những nước giàu
tài nguyên thiên nhiên, những nơi vị trí
chiến lược, nước nghèo mức độ minh
bạch thấp, tham nhũng lớn để cho vay vốn
phát triển cơ sở hạ tầng cũng như đầu
vào khai thác tài nguyên, xây dựng hay thuê
căn cứ quân sự hậu cần. Nếu như về
hướng Nam, Trung Quốc chú ý cấp vốn cho
những nước như Myanmar, Campuchia,
Lào, Pakistan, Sri Lanka, thì hướng Tây họ
tập trung vào các nước Trung Á thuộc Liên
cũ, các nước nằm trên bờ biển Đen
Địa Trung Hải đang gặp khó khăn về tài
chính. Tính trọng tâm, trọng điểm còn được
thể hiệu bằng những nh lang, vành đai
kinh tế các hướng khác nhau theo kiểu
14
cấu trúc trục nan hoa, trong đó Trung -
Quốc đóng vai trò trung tâm chi phối
[12, tr.80-110].
Mặc từ năm 2018 cho đến nay, sự
triển khai của BRI gặp nhiều khó khăn
do làn sóng xét lại từ các nước nhận viện
trợ đại dịch Covid a, nhưng -19 gây r
Trung Quốc cũng đã đạt được những kết
quả ban đầu, nhất thể chế hóa, tạo dựng
nguồn tài chính cho các nước thuộc BRI
vay hàng chục tUSD để phát triển sở
hạ tầng, nhất kết nối giao thông. Năm
2014, Trung Quốc lập nên Tiểu ban BRI do
một y viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng
lãnh đạo. Cùng năm đó, Quỹ Con đường
lụa (SRF) với số vốn ban đầu 40 tỷ USD
và Ngân hàng Đầu tư sở hạ tầng châu Á
(AIIB) với số vốn pháp định là 100 tỷ USD,
Ngân hàng Phát triển mới (NDB) với số
vốn ban đầu 50 tỷ USD được thành lập.
Vào 2015, sáng kiến này được chính m
thức đưa vào một chương riêng (chương
51) trong Quy hoạch phát triển kinh tế -
hội của Trung Quốc 5 năm lần thứ XIII
(2016-2020) đến năm 2017 được ghi
trong Điều lệ Đảng. Đến năm 2018, Quốc
vụ viện lập nên Văn phòng Hợp tác Phát
triển quốc tế (CIDCA) với chức năng gần
giống như USAID của Mỹ, nhưng với
nhiệm vụ chính thúc đẩy BRI. Cùng với
trên, Trung Quốc khi triển khai BRI, họ đã
lồng ghép các nội dung mục tiêu của
BRI với các chế, diễn đàn hợp tác như
ASEAN - GMS, LMC, SCO, Trung Quốc,
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
14
v.v.. gắn với các chiến lược phát triển
của nhiều nước như chiến lược “Tứ giác”
của Campuchia, sáng kiến “Trục hàng hải”
của Indonesia, “Hai hành lang, một vành
đai kinh tế vịnh Bắc Bộ” của Việt Nam,
chiến lược “Tầm nhìn Brunei 2035”, “Tầm
nhìn Philippines 2040”, “Sáng kiến kết nối
chiến lược Singapore Trung Quốc”, -
“Chiến lược 4.0” của Thái Lan v.v..
Hơn nữa, Trung Quốc đã thiết lập các
chế hợp tác quốc tế của BRI, điển
hình Diễn đàn Cấp cao BRI. Nếu n
Diễn đàn Cấp cao BRI lần thứ nhất diễn ra
tại Bắc Kinh vào tháng 5/2017 stham
gia của đại diện 100 nước, trong đó 28
nguyên thủ, đứng đầu n nước/cnh phủ
thì đến Diễn đàn Cấp cao lần thứ hai tổ
chức vào tháng 4/2019 sự tham gia đại
diện của 190 nước, trong đó có 36 nhà lãnh
đạo, đứng đầu nhà ớc/cnh phủ từ các
châu lục trên thế giới. Nguyên thủ chính
phủ của 10 nước ASEAN đều tham gia vào
diễn đàn này. Điểm đáng lưu ý là Diễn đàn
Cấp cao lần thứ nhất không một lãnh
đạo hay người đứng đầu quốc gia nào từ
các nước phát triển tham gia thì đến lần
thứ hai (4/2019) đã các nguyên thcủa
các nước phát triển như Italy, Australia,
Hy Lạp có mặt.
Kết quả cụ thể Trung Quốc tính đến
tháng 3/2019 đã 107 quốc gia 29 tổ
chức quốc tế Bản ghi nhớ (MOU) hợp
tác với BRI. Tính đến đầu năm 2019, trao
đổi thương mại giữa Trung Quốc đại lục
với các nước tham gia BRI vượt 6.000 tỷ
USD vốn đầu của Trung Quốc vào
các nước đó trên 90 tỷ USD. Tính đến
thời điểm này, đã tới 82 khu hợp tác
kinh tế thương mại chung giữa Trung
Quốc đại lục các nước tham gia BRI
được xây dựng. Bình quân hàng năm từ
2016 đến 2018, Trung Quốc cho các nước
tham gia BRI vay với số tiền khoảng trên
dưới 35 tỷ USD. Nhiều dự án lớn đã
đang triển khai với vốn vay lớn từ Trung
Quốc như tuyến đường sắt Trung Quốc -
châu Âu, nhà y lọc dầu Saudi Arabia,
cảng container Piraeus Hy Lạp, cảng
sân bay Sri Lanka , dự án cầu
đường sắt Lào, Bangladesh, Pakistan,
v.v.. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng mở
rộng đầu tư trong BRI phát triển công nghệ
thông tin, kỹ thuật số. Cùng với đó, Trung
Quốc từ 2014 đến 2018 đã thành lập 37
trung tâm văn hóa, tổ chức hơn 2.000 sự
kiện văn hóa các nước tham gia BRI,
đồng thời cấp hàng nghìn học bổng cho
các nước này [26].
Mặc BRI đã đạt được một số kết quả
tích cực ban đầu, nhưng hệ quả, tác động
mặt trái không nhỏ bởi tính hiệu quả từ
các khoản vay từ Trung Quốc chưa cao,
thậm chí chúng tạo ra cái “bẫy nợ” cho các
nước vay vốn. dụ điển hình như Sri
Lanka, Trung Quốc cho nước y vay hàng
tỷ USD để mở rộng cảng biển Colombo
xây mới cảng Hambantota cũng như một
sân bay quốc tế gần đó. Sau khi hoàn thành,
các dự án đó hoạt động kém hiệu quả
15
nên
Sri Lanka vào năm 2017 phải cho Trung
Quốc thuê 99 năm để trả các khoản nợ đã
vay. Hay trường hợp khác Myanmar, khi
tuyến đường ống dẫn dầu từ Côn Minh đến
cảng Kyaukpyu do Trung Quốc cấp vốn
xây dựng hoàn thành vào năm 2013, nhưng
đến năm 2017 mới dầu đầu tiên
công suất sử dụng thực tế chỉ khoảng 1/3 so
với thiết kế ban đầu. Hơn nữa, mức lãi suất
cho vay ưu đãi của Trung Quốc dành cho
Myanmar cao từ 0 4,5% năm, trong khi -
đó lãi suất của Ngân hàng Phát triển châu Á
từ 0,01 1,5%, của Chính phủ Nhật Bản -
Trần Khánh
15
chỉ với lãi suất 0,01% trong thời hạn vay 40
năm [12, tr.111, 122 123, 238], [27]. Còn -
Lào, để trả nợ hay bảo lãnh các khoản vay
khổng lồ từ phía Trung Quốc để xây dựng
tuyến đường sắt Boten Viêng Chăn, Lào -
phải dùng tài nguyên thiên nhiên của mình
để thế chấp, trong đó cho Trung Quốc khai
thác nhiều mỏ khoáng sản, khai thác gỗ
rừng thuê đất canh tác [19]. Hay trường
hợp Việt Nam, dự án đường sắt trên cao
Cát Linh - Đông chỉ dài 13 km được
triển khai từ 2008 với số vốn vay chủ yếu
từ Trung Quốc, nhưng đã đội vốn, kéo dài
thời gian thi công gấp nhiều lần, cho đến
nay (2020) vẫn chưa đi vào hoạt động
16
.
Chính những lý do trên, làn sóng xét
lại các dự án do Trung Quốc cấp vốn nổi
lên mạnh từ năm 2018. Ví dụ như Myanmar
vào tháng 5/2018 tuyên bố xem xét lại dự
án xây dựng cảng biển nước sâu Kyaukpyu
trị giá hơn 7,3 tỷ USD do Trung Quốc hỗ
trợ vốn và được triển khai từ 2010 với lý do
dự án quá đắt thể khiến Myanmar vỡ
nợ. Trước đó Myanmar vào năm 2011 đã
hoãn dự án xây đập thủy điện Myitsone trị
giá tới 3,6 tỷ USD vào năm 2012 hoãn
khai thác mỏ đồng Letpadaung với trị giá 1
tỷ USD do Trung Quốc cấp vốn làm chủ
thầu với do làm tổn hại môi trường
giá quá đắt. Còn Malaysia sau khi Thủ
tướng Mahathir Mohamad tái cầm quyền
vào năm 2018 đã xét lại các dự án hạ tầng
cơ sở lớn do Trung Quốc tài trợ như án D
Đường sắt phía Đông (dự tính 20 tUSD),
Đường ống dẫn dầu và khí đốt (dự tính là 3-
4 tỷ USD). Kết quả vào đầu 2019, dự án
xây dựng đường sắt bị hủy bỏ vì quá đắt đỏ,
vượt quá khả năng trả nợ, cho phía
Malaysia phải bồi thường những thiệt hại
cho chủ đầu Trung Quốc. Thủ tướng
Mahathir đã cảnh bảo rằng các dự án BRI
tại Malaysia mang dáng dấp của “chủ nghĩa
thực dân kiểu mới” [12, tr.128-131]. Hay
trường hợp ở châu Phi, Tổng thống mới của
Tanzania vào tháng 4/2020 đã hủy bỏ
khoản vay 10 tỷ USD từ Trung Quốc đã
thỏa thuận dưới thời Tổng thống Jakaya
Kikwete do sợ bị bẫy nợ. Ông cho rằng đây
“khoản vay chết người”, thể đưa
Tanzania đến bờ vực thẳm về nợ nần [31].
Ngoài n sóng xét lại từ chính phủ các
nước, sự triển khai BRI n gặp phải
những thách thức lớn liên quan đến xung
đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc,
cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn.
dnhư Thổ Nhĩ Kỳ có mối quan hệ sắc
tộc lâu đời với các nhóm dân tộc gốc Thổ
Tân Cương Trung Á, nơi đầu mối
giao thông, trung tâm thương mại hậu
cần của BRI trên bộ. Thổ Nhĩ Kỳ nhiều
nước Trung Á khó thể hợp tác san sẻ
với Trung Quốc khi người Duy Ngô Nhĩ
(Uyghur) theo Hồi giáo đang đấu tranh bảo
vệ nền văn hóa của htrước làn sóng n
hóa. Hay các nước khác như Mỹ, n Độ,
Nhật Bản, Nga, các nước lớn Tây Âu
như Đức, Anh, Pháp v.v.. khó thể ngồi ,
yên khi lợi ích chiến lược, kinh tế của h
khu vực n Độ Thái Bình ơng hay -
lục địa Á Âu bị thách thức. Trong bối -
cảnh đại dịch Covid 19 diễn ra cùng với sự -
gia tăng cạnh tranh, căng thẳng chiến lược
giữa Mỹ Trung Quốc trên nhiều mặt
trận, từ chiến tranh thương mại (từ năm
2018) đến công nghệ (từ 2019) , “so
17
găng” quân sự Biển Đông, vấn đề dân
chủ, nhân quyền Hồng ông và cuộc K
chiến ngoại giao lãnh sự nên striển
-
18
...
khai BRI đang gặp thách thức lớn. Theo
quan phụ trách kinh tế quốc tế thuộc Bộ
Ngoại giao Trung Quốc cho biết, khoảng
20% dự án thuộc BRI “b ảnh hưởng
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
16
nghiêm trọng” bởi đại dịch Covid-19,
khoảng 40% bị “ảnh hưởng bất lợi
khoảng 30-40% “bị ảnh hưởng một phần”
bởi các nguyên nhân khác nhau [32].
Như vậy, thể nói, BRI một dự án
địa chiến lược lớn đầy tham vọng, tính
tổng thể, bao trùm của Trung Quốc được
đưa ra triển khai thực hiện nhằm mục
tiêu tổng thể mở rộng, kiểm soát không
gian chiến lược phía Tây thuộc lục địa Á -
Âu khu vực phía Nam thuộc vành đai
ven biển Tây Nam Thái Bình Dương
Bắc Ấn Độ Dương để từ đó khống chế ,
nước Nga phía Bắc, đẩy lùi ảnh hưởng
của Mỹ ở Tây Th ương, khống chế ái Bình D
Ấn Độ Ấn Độ Dương, vươn lên làm chủ
thế giới cả trên đất liền biển. Đối tượng
không gian hợp tác của BRI giai đoạn
đầu chủ yếu nhằm vào các nước nghèo,
thiếu vốn, mức độ minh bạch thấp nhưng
lại giàu tài nguyên thiên nhiên nằm
những vị trí chiến lược trên đất liền thuộc
lục địa Á các nước ven biển Đông - Âu
Nam Á - Ấn Độ ơng. Công cụ để thực
hiện BRI không chỉ công cụ kinh tế
(chính sách đầu phát triển sở hạ tầng,
cho vay tài chính, xuất nhập khẩu hàng hóa
v.v..), còn thông qua hợp tác an ninh,
ngoại giao công chúng kết nối nhân dân.
Hệ quả, tác động của BRI hết sức đa chiều
và rộng lớn. Thông qua nguồn vốn cho vay,
BRI công cụ, đòn bẩy thúc đẩy thương
mại, đầu quốc tế, trước hết của Trung
Quốc, quan trọng hơn làm tăng ảnh
hưởng về chính trị ngoại giao của nước này
đối với thế giới. Tuy nhiên, BRI cũng tạo ra
“gánh nặng chính sách” cho doanh nghiệp
Trung Quốc, cái “bẫy nợ” đối với các nước
được vay vốn làm gia tăng cạnh tranh
địa chính trị giữa các ớc lớn, nhất cặp
quan hệ Mỹ - Trung.
5. Kết luận
Từ thực tiễn địa chiến lược của Trung Quốc
từ 1978 đến nay thể đưa ra những nhận
xét sau:
Thứ nhất, nhằm đưa đất nước thoát khỏi
trì trệ, lạc hậu, vươn lên trở thành cường
quốc hàng đầu thế giới sau một thời gian
chìm đắm trong “Cách mạng văn hóa”
những năm 1960, Trung Quốc từ những
năm 1970, nhất từ 1978 thực hiện cải ,
cách mở cửa, tiến hành điều chỉnh chiến
lược phát triển quốc gia từ dựa trên ý thức
hệ tưởng giai cấp chính sang ưu tiên -
cách tiếp cận địa chính trị, kinh tế chiến
lược, trong đó coi nhân tố địa lý, chủ nghĩa
dân tộc nước lớn lợi ích phát triển kinh
tế là trung tâm. Từ cách tiếp mới, Trung cận
Quốc đã đưa ra nhiều dự án địa chiến lược
mang tính đột phá như tạo dựng Vòng
cung kinh tế Đại Trung Hoa” và đặc biệt là
BRI, nhằm mở rộng không gian an ninh
phát triển ra ngoài biên giới của mình, cả
trên đất liền và biển.
Thứ hai, Trung Quốc đã tiếp cận, vận
dụng khá triệt để các nhân tố địa tự nhiên,
địa văn hóa, địa lịch sử, thời chiến lược
để đưa ra các d án địa chiến lược mang
tính đột phá như chọn các tỉnh duyên hải
Đông Nam Trung Quốc làm thí điểm cho
cải cách, mở cửa, tận dụng tối đa nguồn lực
của Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan và cộng
đồng người Hoa, Hoa kiều để tạo dựng nên
“Vòng cung kinh tế Đại Trung Hoa”, từ đó
tạo tiền đề cho chiến lược “đi ra ngoài”,
thúc đẩy con đường Nam tiến và Tây tiến ra
Trần Khánh
17
nước ngoài bằng BRI, mở rộng không gian
địa kinh tế, từng bước thiết lập không gian
địa chính trị ở các quốc gia ven biển châu Á
và không gian lục địa Á Âu, đưa các nước -
thuộc BRI, trước hết các nước nhỏ
nghèo trở thành quỹ đạo của mình, từ đó
vươn lên làm chủ thế giới.
Thứ ba, hành động địa chiến lược của
Trung Quốc đã đang tác động sâu sắc
đến an ninh phát triển của Trung Quốc
và thế giới. Đối với Trung Quốc, các dự án,
kế hoạch chiến lược trên đã góp phần to
lớn, đưa Trung Quốc nhanh chóng vượt
Nhật Bản, trở thành cường quốc kinh tế thứ
hai thế giới, một lực lượng quân sự hiện
đại, một nền ngoại giao nước lớn, chủ động
đưa ra luật chơi của mình làm tăng chủ
nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, tham vọng địa
chính trị quá mức, nhất mưu toan độc
chiếm Biển Đông, dùng ngoại giao tiền bạc,
“ngoại giao bẫy nợ” đã đang tạo ra
những lo ngại về an ninh của nhiều nước.
Điều này đang tạo ra thách thức lớn đối với
trật tự và luật pháp quốc tế đang thịnh hành.
Chính vậy làn sóng xét lại BRI xu
hướng đối đầu trong quan hệ Mỹ - Trung
tăng lên. Đây điểm mấu chốt, nút thắt
trong quan hquốc tế cần được tháo gỡ để
nhân loại, trước hết các nước nằm trong
dự án BRI tránh được thảm họa địa chính
trị do cạnh tranh trật tự không gian
quyền lực gây ra.
Nói tóm lại, sự điều chỉnh duy
hành động chiến lược từ ý thức hệ -
tưởng giai cấp chính sang ưu tiên cách
tiếp cận địa chính trị, kinh tế chiến lược ,
trong đó coi nhân tố địa lý, chủ nghĩa dân
tộc nước lớn lợi ích phát triển kinh tế
trung tâm Trung Quốc thi hành từ sau
1978 bước đột phá trong duy chiến
lược phát triển quốc gia của nước này. Từ
cách tiếp mới, Trung Quốc đã triển khai cận
nhiều dự án địa chiến lược mang tính đột
phá như tạo dựng “Vòng cung kinh tế Đại
Trung Hoa”, thúc đẩy con đường Nam tiến
Tây tiến ra nước ngoài bằng BRI. Kết
quả của quá trình trên không chỉ mang lại
cho Trung Quốc một nguồn lực mới cho
tăng trường kinh tế, sức mạnh về ngoại giao
củng cố tiềm lực quân sự, còn làm
tăng tham vọng địa chính trị của Trung
Quốc. Điều này cũng kéo theo sự lo ngại
phản ứng trái chiều của cộng đồng quốc tế.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, nếu một
quốc gia nào đó, lớn mạnh đến đâu ,
muốn được tiếp tục phát triển, vị thế cao
hơn trên trường quốc tế thì phải coi trọng
lợi ích chính đáng của nước khác, trước hết
với các nước láng giềng nhỏ hơn, đồng
thời phải đặt mình trong sự an ninh và thịnh
vượng của khu vực thế giới, trách
nhiệm gánh vác nhiều hơn đối với sự
phát triển bền vững của toàn cầu. như
vậy, Trung Quốc mới thu hút được nhân
tâm lòng kính trọng, ủng hộ của cộng
đồng quốc tế và tiếp tục phát triển.
Chú thích
* Nghiên cứu y được tài trợ bởi Quỹ Phát triển
khoa học công nghệ Quốc gia (NAFOSTED)
trong đề tài mã số: 01/2018/NCUD.
2
Khẩu hiệu “lấy đấu tranh giai cấp m nòng cốt”
được chính thức xóa bỏ tại Hội nghị Trung ương 3,
Khóa XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra
vào tháng 12 năm 1978.
3
Nhà địa chính trị, chiến lược Mỹ gốc Lan
Nicholas J. Spykman từ năm 1944 đã đưa ra thuyết
“Vùng đất vành đai” (Rimland Theory), trong đó
cho rằng Mỹ phải ngăn cản sự liên kết, nhất về
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
18
chính trị giữa vùng đất trung tâm (vùng đất nằm giữa
lục địa Âu gồm các nước Trung Á Nga) với Á -
vùng đất vành đai (Rimland) (gồm các nước Trung
Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc. như vậy
Mỹ mới thể ngăn chặn được sự bành trướng thế
lực của Liên Xô [17, tr.43].
4
Chiến lược này được đưa ra vào năm 2000 với 3
nội dung chính: 1) Xuất khẩu vốn, hàng hóa dịch
vụ; 2) Đưa người ra nước ngoài làm việc sinh
sống lâu dài và 3) Mở rộng truyền bá giá trị ;
hình phát triển của Trung Quốc ra thế giới.
5
Sáng kiến “Một trục hai cánh” được Trung Quốc
đưa ra từ năm 2006. “Một trục” nghĩa y
dựng nh lang kinh tế Nam Ninh Singapore với
một hệ thống kinh tế đường bộ đường sắt nối liền
giữa khu vực đồng bằng sông Chu Giang mở rộng
của Trung Quốc với các nước trên bán đảo Đông
Dương; "hai cánh" có nghĩa một cánh hợp tác dựa
trên vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ trên Biển
Đông nối liền Trung Quốc với Đông Nam Á hải đảo
và cánh kia là hợp tác dọc theo dự án hợp tác GMS,
trong đó cả việc kết nối vùng Tây Nam Trung
Quốc qua Myanma ra Ấn Độ Dương.r
6
Sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”
được Chủ tich Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra
trong bài phát biểu tại Quốc hội Indonesia vào tháng
10/2013.
7
“Chuỗi đảo thứ nhất” bắt đầu từ đảo Kuril, Nhật Bản
(gồm cả quần đảo Ryukyu), bán đảo Triều Tiên, Đài
Loan, Philippines, quần đảo Hoàng Sa Trường Sa
của Việt Nam và kết thúc Brunei và vùng lãnh thổ
phía Đông của Malaysia.
8
Thuật ngữ "Vạn lý trường thành trên biển" do
các nhà quân . sự Mỹ đưa ra từ năm 2014
9
Về mặt chính thức, Trung Quốc chưa bao giờ sử
dụng thuật ngữ “chuỗi ngọc trai” từ khi cụm từ này
xuất hiện trong một nghiên cứu của Booz Allen
Hamilton, Mỹ năm 2005.
10
Khái niệm này được n địa lý, địa chiến lược
người Anh, n đưa ra vào gài Halford J. Mackinder,
năm 1904 cho rằng khu vực Trung Á “trục”
(pivot) của thế giới lục địa Á Âu trục chiến -
lược của quyền lực thế giới. Ai thống trị, được
“vùng đất tr ” thì chỉ huy được cả châu Á ung m
châu Âu lục địa [6, tr.6].
11
Ý tưởng “Vành đai kinh tế con đường lụa”
được Tổng thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình chính thức đưa ra trong phát biểu của ông tại
Đại học Na arbayev của Kazakhstan vào ngày z
7/9/2013.
12
Trong khoảng hai năm đầu, hai sáng kiến trên của
Tập Cận Bình thường được gọi chung sáng kiến
“Một vành đai, một con đường” hay “Nhất đới, nhất (
lộ) viết tắt bằng tiếng Anh OBOR. Tuy nhiên t
cuối năm 2016, quan Dịch thuật Biên soạn
Trung ương Trung Quốc phối hợp với Viện Khoa
học hội Trung Quốc đề nghị thay đổi OBOR
thành BRI để làm hơn nội hàm của sáng kiến,
đồng thời tránh gây hiểu nhầm rằng sáng kiến này
chỉ có một vành đai và một con đường.
13
Trước sự e ngại của nhiều nước về BRI, Chủ tịch
Tập Cận Bình đã trấn an bằng tuyên bố của nh
nhân dịp 5 năm thực thi BRI (vào năm 2018) rằng
“BRI một sáng kiến hợp tác kinh tế chứ không
phải xây dựng một liên minh địa chính trị hay quân
sự và do đó sẽ không tạo ra một vòng tròn mang tính
loại trừ hay một câu lạc bộ Trung Quốc” [30].
14
Điều này được thể hiện bởi hai nhánh của BRI
(một con đường trên bộ một trên biển) nhiều
hành lang kinh tế như Hành lang kinh tế Trung Quốc
qua Trung Á tới châu Âu; nh lang kinh tế Trung
Quốc Mông Cổ - - Nga; Hành lang kinh tế Trung
Quốc ây Á; Hành lang kinh tế Trung - Trung Á - T
Quốc Bán đảo Đông Dương; Hành lang kinh tế -
Trung Quốc - Pakistan; nh lang kinh tế Trung
Quốc Ấn Độ; Tuyến Myanmar - Bangladesh -
Trần Khánh
19
đường biển Trung Quốc Đông Nam Á - - Nam Á -
Vịnh Péc xích Đông Bắc Phi Địa Trung ải; - - H
Tuyến Trung Quốc qua Biển Đông đến Nam Thái
Bình Dương, Nam Ấn Độ Dương. Đến năm 2018,
BRI được mở rộng đến các nước Mỹ - Latinh,
khu vực Bắc Cực.
15
Cảng Hambantota hoàn thành vào năm 2010 luôn
đói hàng, ng năm chỉ khoảng trên dưới 200 tàu
cập bến. Còn sân bay mỗi tuần chỉ 5 chuyến bay
phục vụ vài trăm hành khách.
16
Dự án y dược ký kết từ m 2008 với số vốn là
gần 553 triệu USD, trong đó vốn vay từ Trung Quốc
419 triệu USD. Đến năm 2016 Việt Nam phải ,
vay thêm 250 triệu USD từ Trung Quốc, nâng tổng
vốn đầu tư lên tới 868 triệu USD. Dự án này do chủ
thầu Trung Quốc thực hiện thi công.
17
Ngày 15/5/2019, Tổng thống Donald Trump
Sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp đối với công nghệ và
viễn th , do nước ngoài thiết kế, phát triển, sản ông
xuất hoặc cung ứng tại Mỹ, trong đó cho rằng các
hoạt động đó thể gây nguy cho an ninh của
Mỹ. Chính vậy t thời gian y, nhiều công ty
viễn thông của Trung Quốc bị liệt kê vào Danh sách
Đen, trong đó hãng nổi tiếng như ZTE, các
Huawei, và TikTok.
18
Vào đầu tháng 7/2020, chính quyền Bắc Kinh
chính thức áp đặt luật an ninh mới đối với Hồng
Kông đã khiến các nước phương Tây phản ứng
mạnh mẽ. ng loạt nước sau đó đã thông báo rút
quy chế đặc biệt đối với khu tự trị này. Cùng với đó,
Mỹ vào ngày 22/7/2020 ra lệnh đóng cửa Lãnh sự
quán Trung Quốc tại Houston thuộc bang Texas với
cáo buộc “ổ gián điệp”. Ngay sau đó, ngày
24/7/2020, Trung Quốc “ăn miếng, trả miếng” ra
lệnh đóng cửa Lãnh sự quán của Mtại Thành Đô
thuộc tỉnh Tứ Xuyên.
Tài liệu tham khảo
[1] Robert D. Kaplan (2017), Sự minh định của
địa lý, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[2] Tr m ần Khánh (2014) “Tư duy quan niệ
truyn th ng c a Trung Qu c v quan h đối
ngoi trong lch s c p chí trung đại”, Tạ
Nghiên c u Trung Qu c, s 3 (151).
[3] Tr n u ch Khánh (2014), “Sự điề ỉnh duy
hành đ ến lược đng chi i ngoi ca Trung
Quc t p chí năm 1949 đến nay”, T Nghiên
cu Trung Quc, s 5 (153).
[4] Tr n Khánh (2014), Hp tác c nh tranh
chiến lượ Đông Nam Á ba thậc M - Trung p
niên đầu sau Chiến tranh Lnh,Nxb Th gi i, ế
Hà N i.
[5] Tr n Khánh (2018), Cộng đồng ngưi Hoa,
Hoa ki u châu Á , Nxb Đại hc Quc gia
N i.
[6] Trần Khánh (2019), “Bàn v các lu ến thuy t
liên quan đến đ ến lược”, Tạa chi p chí Khoa
hc xã h i Vi t Nam , s 7.
[7] Tr phần Khánh (2019), “Bàn về ạm trù định
nghĩa về ến lược”, Tạ địa chi p chí Nghiên c u
Quc tế, s 4 (119).
[8] t tù Đức Liêm (2019), “Trung Hoa: mộ
nhân c p chí , ngày ủa địa lý”, T Tia Sáng
11/06.
[9] S Th Long, Kim Uy (ch biên) (2013),
Chiến lược chính sách ngoi giao Trung
Quc, Nxb Chính tr quc gia S tht, Hà Ni.
[10] Alfred Thayer Mahan (2012), Ảnh hưởng của sức
mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783 (Phạm
Nguyên Trường dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.
[11] Văn Mỹ (Ch biên) (2013), Ngoi giao
Trung Qu c trong qtrình tr i d y nh ng
vấn đề đặt ra cho Vi t Nam, Nxb T điển Bách
khoa, Hà N i.
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
20
[12] Ph m S Thành (2019), Sáng ki - ến Vành đai
Con đườ ng (BRI): l a chn nào của Đông
Nam Á, Nxb Th gi i, Hà N i. ế
[13] Vi n Nghiên c u Trung Qu c (2019), 40 năm
ci cách m c a c a Trung Qu c; nhìn l i
trin v ng, Nxb Khoa h c xã h i, Hà N i.
[14] Sanjaya Baru (2012), -economics and “Geo
Strategy”, Survival, Vol. 54, No.3.
[15] Valerie Hudson et al. (1991), “Why the Third
World Matters, Why Europe Probably Won’t:
The Geoeconomics of Circumscribed
Engagement”. Journal of Strategic Studies
(14.3).
[16] Robert D. Kaplan (2010), “The Geography of
Chinese Power: How Far Can Beijing Reach
on Land , and at Sea”, Foreign Affairs
May/June.
[17] Edward N. Luttwak (1990), “From Geopolitics
to Geo-economics: Logic of Conflict,
Grammar of Commerce,” National Interest 20
[18] Salvatore Babones (2020) “The Next Front in
the India - China Conflict Could Be a Thai
Canal”, Foreign Policy, 01/09.
[19] Nick Fre -Speek eman (2019), “Lao’s High
Railway Coming Round the Bend”, ISEAS
Perspective, 05/12.
[20] Ricardo Housman (2001), “Prisoners of
Geography”, Foreign Policy, No. 122 (Jan-
Feb).
[21] Nicholas J. Spykman (1942), American’s Strategy
in World Politics: The United States and Balance
of Power, Harcourt, Brace, New York.
[22] Haiyan Zhang (2013), The role of migration in
shaping China's economic relations with its
main partners, Migration Policy Center.
[23] Zhang Xiaotong & Marlen Belgibayev (2014),
“China’s Eurasian Pivot”, The Asian Forum,
1/12.
[24] Афанасьева А. . (2013), В Зарубежные
Китайцы бизнес в КНР, . ИДВ РАН, Москва
[25] , Институт востоковедения (1986)
Китайские этнические групы в странах
Юго Восточной Азии, Издтельство Наука,
Москва.
[26] , truy http://www.brfmc2019.cn/en/
cp ngày 28/6/2020.
[27]..http://nghiencuuquocte.org/2020/03/02/da-
ngam-doc-con-duong-to-lua-tren-bien-cua-
trung-quoc/, truy c p ngày 15/06/2020.
[28] http://china.caixin.com/2013-08-..
01/100563770.html, truy c p ngày 16/06/2020.
[29] http://thediplomat.com/2014/02/the-maritime-
silk-road-vs-the-string-of-pearls, truy c p
ngày 13/2/2014.
[30] http://www.scmp.com/new/china/diplomacy-..
defence/article/2161580/xi-jinping-says-belt-
and-road-plan-isnt-about-creating, truy cập
ngày 12/04/2020.
[31]..https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau-
tu/huy-vay-10-ty-usd-cua-trung-quoc-tong-
thong-tanzania-thoat-khoi-bay-mat-chet-nguoi-
636463.html, truy cập ngày 18/06/2020.
[32] https://dantri.com.vn/kinh-doanh/sang-kien-..
vanh-dai-va-con-duong-cua-trung-quoc-sap-
toi-hoi-ket-20200629112606723.htm, truy cập
ngày 30/6/2020.
| 1/18

Preview text:

Bàn về hành động địa chiến lược của
Trung Quốc từ khi thực hiện cải cách mở cửa Trần Khánh1
1 Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: trankhanhdna@yahoo.com.vn
Nhận ngày 28 tháng 7 năm 2020. Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 8 năm 2020.
Tóm tắt: Sự điều chỉnh chiến lược phát triển quốc gia từ ý thức hệ giai cấp là chính sang ưu tiên
cách tiếp cận địa chính trị, kinh tế chiến lược, coi nhân tố địa lý, chủ nghĩa dân tộc nước lớn và lợi
ích phát triển kinh tế là trung tâm bước đột phá trong tư duy chiến lược của Trung Quốc từ năm
1978. Từ cách tiếp cận mới, Trung Quốc đã triển khai nhiều dự án địa chiến lược như tạo dựng
“Vòng cung kinh tế Đại Trung Hoa”, thúc đẩy con đường Nam tiến và Tây tiến ra ngoài biên giới
bằng “Sáng kiến Vành đai - Con đường”. Kết quả của quá trình trên không chỉ mang lại một nguồn
lực mới cho tăng trưởng kinh tế, sức nặng về ngoại giao và củng cố tiềm lực quân sự, mà còn làm
tăng tham vọng địa chính trị của Trung Quốc. Điều này cũng kéo theo sự lo ngại và phản ứng trái
chiều của cộng đồng quốc tế.
Từ khóa: Địa chiến lược, điều chỉnh, Trung Quốc.
Phân loại ngành: Quốc tế học
Abstract: The adjustment of the national development strategy from a mainly class-based ideology
to a geopolitical and strategically economic approach, centred on the factors of geography, a
power's nationalism and economic development interests has been the centre of a breakthrough in
China's strategic thinking since 1978. With the new approach, China has implemented many
geostrategic projects such as the creation of a greater china economic circle, promoting the
southward and westward paths beyond its border with the "Belt and Road Initiative". The results of
the above-mentioned process not only have brought new resources to economic growth, and
diplomatic weight, strengthening the military capabilities, but also bolstered China's geopolitical
ambitions. This has also led to concerns and mixed reactions from the international community.
Keywords: Geostrategic, adjustment, China.
Subject classification: International studies 3
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020 1. Giới thiệu
một vùng đại dương bổ sung cho nguồn tài
nguyên của lục địa rộng lớn, một lợi thế mà
Nhằm đưa đất nước thoát khỏi trì trệ, lạc nước Nga không may có được trong khu vực
hậu, vươn lên trở thành cường quốc hàng này” [16, tr.22], [1, tr.161-162]. Vấn đề trên
đầu thế giới sau một thời gian chìm đắm đã và đang là chủ đề gây tranh luận, thu hút
trong “Cách mạng văn hóa” ở những năm sự quan tâm lớn của các học giả và chính
1960, Trung Quốc từ những năm 1970, nhất khách trên thế giới từ trước tới nay. Trong là từ 1978 *
, thực hiện cải cách mở cửa, tiến khuôn khổ bài viết này, chúng tôi dựa trên
hành điều chỉnh chiến lược phát triển quốc cách tiếp cận địa lý, địa chính trị, địa kinh tế
gia từ dựa trên ý thức hệ tư tưởng giai cấp chiến lược [6, tr.199-224], [16, tr.22-41],
là chính sang ưu tiên cách tiếp cận địa [17, 17-23] và thực tiễn diễn ra trong chính
chính trị, kinh tế chiến lược, trong đó coi sách đối ngoại của Trung Quốc từ sau 1978,
nhân tố địa lý, chủ nghĩa dân tộc nước lớn cố gắng luận giải bước đổi mới trong nhận
và lợi ích phát triển kinh tế là trung tâm. Từ thức và hành động địa chiến lược của nước
cách tiếp cận mới, Trung Quốc đã đưa ra này, nhất là về tạo dựng “Vòng cung kinh tế
nhiều dự án địa chiến lược mang tính đột Đại Trung Hoa” và thúc đẩy con đường
phá như chọn các tỉnh duyên hải Đông Nam Nam tiến và Tây tiến bằng BRI.
Trung Quốc làm thí điểm cho cải cách, mở
cửa, tận dụng tối đa nguồn lực của Hồng
Kông, Ma Cao, Đài Loan và cộng đồng 2. Chuyển từ cơ sở ý thức hệ tư tưởng -
người Hoa, Hoa kiều để tạo dựng nên chính trị giai cấp sang ưu tiên cách tiếp
“Vòng cung kinh tế Đại Trung Hoa”, từ đó cận địa lý, địa chính trị, địa chiến lược
tạo tiền đề cho chiến lược “đi ra ngoài”, trong mở rộng không gian an ninh và
thúc đẩy con đường Nam tiến và Tây tiến phát triển quốc gia
bằng “Sáng kiến Vành đai - Con đường”
(BRI), v.v.. Kết quả của quá trình trên Tư tưởng và hành động địa chiến lược của
không chỉ mang lại cho Trung Quốc một Trung Quốc thịnh hành từ thời cổ đại, trong
nguồn lực mới cho tăng trường kinh tế, sức đó Trung Quốc coi mình là trung tâm của
mạnh về ngoại giao và củng cố tiềm lực “Thiên hạ”, có nền văn hóa ưu việt, các
quân sự, mà còn làm tăng tham vọng địa nước xung quanh là “phiến ốc”, qu kém văn
chính trị của Trung Quốc. Điều này cũng hóa, phải “thân phục” Thiên triều. Tuy
kéo theo sự lo ngại của cộng đồng quốc tế. nhiên, trật tự “Thiên hạ” t ừ thời cận đại đã
Không phải ngẫu nhiên, nhà địa lý chiến bị thế lực Phương Tây và Nhật Bản làm suy
lược nổi tiếng người Anh là Halford yếu và dần dần ít phát huy hiệu quả. Trung
Mackinder trong cuốn sách Trục địa lý của Quốc không chỉ bị mất dần chủ quyền trong
lịch sử của ông xuất bản năm 1904 đã liên không gian lãnh th
ổ quốc gia mình, mà còn
hệ sự đáng ngại trên và cho rằng Trung buộc phải từ bỏ hệ th ng ố “chư hầu triều
Quốc một khi mở rộng sức mạnh của mình c ng
ố ” mà họ đã dựng nên từ hơn 2000 năm
vượt ra ngoài biên giới “có thể tạo thành trước [2, tr.66-71].
mối nguy hiểm da vàng cho tự do của thế
Từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung
giới, đơn giản vì Trung Quốc sẽ có thêm Hoa ra đời (năm 1949), tư duy và hành động 4 Trần Khánh
địa chiến lược của Trung Qu c ố có những
Trong những năm 1960, Trung Qu c ố
điều chỉnh lớn. Trong những năm 1950, thực hiện “Cách mạng văn hóa vô sản” lấy nước Trung Hoa mới theo i
đuổ chiến lược “đấu tranh giai cấp làm nòng cốt”, đưa ra
“nhất biên đảo” liên minh với Liên Xô, khẩu hiệu “phản đối phái ản ph động ở các
chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, lấy nền quốc gia trên thế giới”, ng đồ thời chủ
tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm ý th c ứ hệ trương xuất ẩu kh
“Chủ nghĩa Mao”, trước chính trị - tư ng
tưở chính và coi đó như là hết sang các nước láng giềng Đông Nam Á
với mộng tưởng sẽ đưa đất nước trở thành
những phương tiện cốt yếu đề bảo vệ chủ trung tâm cách mạng thế giới. Cũng từ thời quyền ố
qu c gia và phục hưng dân tộc. Đảng gian này, Trung Quốc bắt đầu nhìn thế giới
Cộng sản Trung Quốc lúc đó cho rằng, chỉ với khái niệm “ba
thế giới”, trong đó Trung
đoàn kết với Liên Xô mới xây d ng ự
được Quốc thuộc “thế giới thứ ba”. Chiến lược
chính quyền mới, phục hồi nhanh chóng nền cùng một lúc giương cả ng n ọ cờ ý th c ứ hệ
kinh tế (trước hết là nhận viện trợ kinh tế và giai cấp và ng n ọ cờ dân t c ộ chủ nghĩa đã
kinh nghiệm từ Liên Xô) và bảo vệ được làm cho nước này trì trệ về kinh tế và cô lập
biên giới, lãnh thổ trước s ự đe dọa c a
ủ liên về ngoại giao [3, tr. 30-41].
minh Mỹ - Nhật - Hàn và Đài Loan ở phía
Để khắc phục tình trạng trên, Trung
Đông. Hơn nữa, đoàn kết, liên minh với Liên Quốc từ cuối những năm 1960, đầu những Xô và các nước chủ ng
hĩa xã hội khác để tạo năm 1970 lại thay đổi chiến lược, từ thành một kh i ố s c m ứ
ạnh nhằm nhanh chóng “giương cung hai phía” hay chiến lược “hai
mở rộng không gian ảnh hưởng của mình tuyến” “chống đế quốc, chống xét lại và
trên thế giới, trước hết là đến các nước Á, làm cách mạng thế giới” sang “nhất điều
Phi và Mỹ Latinh mới giành được độc lập.
tuyến” (một tuyến) hợp tác với M , ỹ ch ng ố
Tuy nhiên, do đề cao chủ nghĩa dân t c, ộ
lại “đế quốc xã ội” h Liên Xô. Có thể nói,
cho mình là nước trung thành với chủ nghĩa lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ quốc tế Mác
– Lê-nin, là nước “cách mạng duy hiện đại của nước Trung Quốc mới, cơ sở
nhất”, nên Trung Quốc từ cuối ững nh
năm giai cấp trong liên minh, liên kết, tập hợp
lực lượng đã nhường chỗ cho cách tiếp cận
1950, đầu những năm 1960 đã thay đổi từ địa chính trị, kinh tế chiến lược, trong đó
“nhất biên đảo” sang chiến lược “hai nhu cầu tái lập trật tự “Thiên hạ” được ưu
tuyến”, cùng lúc cả chống Liên Xô và Mỹ tiên hàng đầu. Lãnh đạo Trung Quốc lúc
với mục tiêu trở thành trở thành trung tâm này cho rằng, mâu thuẫn Trung - Xô lớn
cách mạng thế giới, trước hết là “thế giới hơn mâu thuẫn Trung - Mỹ, mâu thuẫn Mỹ
thứ ba”, các nước thuộc Phong trào không - Xô lớn hơn mâu thuẫn M ỹ - Trung. Cùng
liên kết. Có thể nói, ngoài chủ nghĩa dân một lúc, Trung Qu c ố khó có thể ch ng ố lại tộc, s
ự tranh chấp ý thức hệ, ngôi th
ứ trong hai thế lực nước lớn là Liên Xô và M . ỹ
phong trào cách mạng thế giới là m t
ộ trong Điều này đã được Mao Trạch Đông thừa
những nguyên nhân đưa đến sự rạn nứt nhận ngay sau s ự kiện xung t độ biên giới
quan hệ rồi đưa đến sự đối đầu giữa Trung Trung - Xô vào tháng 3 năm 1969 rằng,
Quốc và Liên Xô được bắt đầu từ cuối “chúng ta đang bị cô lập”; “trong hai nước
những năm 1950 [3, tr.30-41].
bá quyền, chúng ta phải tranh th ủ lấy m t, ộ 5
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
không thể cùng lúc chiến đấu trên hai trận bao quanh vùng biên giới c a ủ Trung Qu c, ố
tuyến” [9, tr.112], và rằng Trung Quốc trong đó có nhiều cư dân bản địa, nhất là ở
“muốn tạo nên một đường thẳng chạy khu vực Tân Cương và Tây Tạng luôn
ngang qua vĩ độ gồm các nước như Mỹ, kháng c
ự sức ảnh hưởng của văn hóa Trung
Nhật Bản, Trung Quốc, Pakistan, Iran, Thổ Hoa, có tư tưởng ly khai mạnh mẽ [16,
Nhĩ Kỳ và châu Âu” để chống lại “đế quốc tr.22-25], [8]. Hơn nữa, ắ B c Kinh cũng
xã hội” Liên Xô [9, tr.373]. Để tạo ra bước nhận thức được rằng, họ có một không gian
đột phá trong quan hệ với các nước tư bản, lục địa rộng lớn với 9.600.000 km2 và có bờ
nhất là Mỹ, Trung Quốc từ cuối những năm biển dài tới 18.000 km có khả năng phát
1970 xóa bỏ khẩu hiệu “lấy đấu tranh giai triển thành một ng cườ quốc có sức mạnh cả
cấp làm nòng cốt” và thay vào đó là “chăm đất liền và biển. Trong lịch sử, Trung Quốc
chỉ làm việc” và coi trọng “lợi ích phát chủ yếu có tư duy hướng lục địa (và thực sự
triển” với trọng tâm là xây dựng kinh tế, mở trở thành cường quốc lục địa), chưa quan
cửa, cải cách2. Có thể nói đây là biểu hiện tâm lớn đến khai thác tiềm năng biển để
rõ nét nhất về sự điều chỉnh chiến lược, hệ phát triển nội địa và vươn ra bên ngoài.
tư tưởng phát triển quốc gia từ chủ yếu dựa Trong khi đó, các nước phương Tây như
trên ý thức hệ chính trị - tư tưởng giai cấp Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào , Nha
sang tiếp cận địa chính trị, kinh tế chiến v.v.. với diện tích đất liền tương i đố khiêm
lược, nhất là trong đối ngoại.
tốn, nhưng từ trong lịch sử họ đã biết khai Trung Qu c ố cho rằng họ là m t ộ qu c
ố gia thác thế mạnh c a bi ủ
ển, nhất là coi biển như vượt trội ề
v dân số, lãnh thổ, có nền văn là “đại lộ” thông thương với thế giới và họ
hóa ưu việt, lâu đời và nằm ở vị trí trục đã trở thành ững nh cường quốc biển, có
trung tâm của tranh giành quyền lực trên không gian ảnh hưởng khắp thế giới. Kết
thế giới, nhưng bị giam hãm bởi khuôn khổ, quả của quá trình trên đã góp phần làm cho
đặc điểm của địa lý và địa chính trị thế giới. Trung Quốc trở nên lạc lõng và bị phương
Ở phía Bắc và Tây Bắc, h ọ bị m t
ộ siêu Tây chèn ép, phong t a ỏ t ừ phía biển, phải cường Liên Xô án ng , ự khó có thể mở r ng ộ
trải qua khoảng 100 năm (từ giữa thế k ỷ
không gian quyền lực ra vùng Trung Á và XIX đến 1949) bị “ô nhục”, mất thể diện.
Trung Cận Đông cũng như Đông, Nam Chính vì vậy, Bắc Kinh từ những năm 70
châu Âu. Ở phía Đông và Đông Nam của của thế kỷ XX đã lựa chọn con bài chiến
Trung Quốc theo truyền thống là hướng tốt lược, bắt tay với Mỹ để mở r ng ộ không gian
để di chuyển ra bên ngoài, nhưng lại là biển chiến lược, trước hết cho cải cách và mở
cả, bị Mỹ và đồng minh khống chế và kiểm cửa, hiện đại hóa đất nước. Cách tiếp cận địa
soát. Hơn nữa, sự phân bố tộc người theo lý và địa chính trị mới này c a ủ Trung Qu c ố lãnh thổ cũng o tạ cho Trung Qu c ố s
ự lo khá gần gũi với quan điểm của các nhà lý
lắng, bất an. Ở vùng phía Bắc có khu tự trị luận địa chiến lược của phương Tây cũng
Nội Mông, phía Tây là khu vực Hồi giáo, như phù hợp với chính sách ch ng ố Liên Xô
người Uighur ở Tân Cương, phía Tây Nam của Mỹ dưới thời Chiến tranh lạnh [6, tr.6-
là Tây Tạng giáp với một nước lớn là Ấn 7]3. Kết quả là Trung Qu c ố và M ký Thông ỹ
Độ, và phía Nam là khu tự trị của người cáo chung Thượng Hải năm 1972, trong đó
Choang. Các tộc người thiểu s
ố trên lại nằm hai nước chấm d t
ứ sự đối đầu, cam kết 6 Trần Khánh
cải thiện quan hệ với nhau, bình đẳng, cùng tạo tiền đề để thu nhập Hồng Kông, Ma
có lợi và đến tháng 12 năm 1978, hai nước Cao về Đại lục, thống nhất hai bờ eo biển
chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao và Đài Loan và từ đó tạo dựng một “Vòng
mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực, cả về cung kinh tế Đại Trung Hoa ven biển Đông
an ninh - quốc phòng [4, tr.162-180]. Cũng Á, thực hiện chiến lược “đại dương xanh”,
từ thời gian này, nước Trung Hoa mới ráo trước hết là độc chiếm Biển Đông, mở rộng
riết tập hợp lực lượng, trong đó có việc lôi ảnh hưởng ra Đông Nam Á, Nam Á nhằm
kéo các nước ASEAN nhằm chống lại cách cạnh tranh tốt hơn với Mỹ, Nhật Bản, kìm
mạng ba nước Đông Dương mà đỉnh cao là chế Ấn Độ ở châu Á - Thái Bình Dương. phát động ến chi
tranh, xâm lược Việt Nam
Để đạt mục tiêu trên, Trung Quốc từ đầu
vào tháng 2 năm 1979, đồng thời tranh thủ thập niên 80 của thế kỷ XX đã tiến hành đổi
sự gia tăng của quá trình toàn cầu hóa kinh mới chính sách đối với “đồng bào” Hồng
tế, yếu tố người Hoa, Hoa kiều để thực hiện Kông, Ma Cao, Đài Loan và cộng đồng
cải cách, mở cửa, đưa ra những dự án địa người Hoa. Từ thời gian này, người dân,
chiến lược mới, từng bước thực hiện tham đối tượng trên, nhất là tầng lớp giàu có vọng “Giấ ộng Trung Hoa”. c m
không bị Bắc Kinh coi là “nền tảng phản
động của xã hội” như hồi “Cách mạng văn
hóa”, mà là một bộ phần quan trọng của 3. T o
dựng “Vòng cung kinh tế Đại “mặt trận thống nhất” “
, cầu nối hữu nghị và Trung Hoa”
hợp tác” giữa Trung Quốc với nước ngoài,
nhất là với các nước Đông Nam Á [25,
Để tạo ra bước đột phá trong cải cách mở tr.254]. Cùng với đó, Hiến pháp sửa đổi
cửa, Bắc Kinh đã nhìn về phía Đông Nam, năm 1980 của Trung Quốc cho phép người
chọn hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến Hoa được quyền phục hồi quốc tịch Trung
làm đột phá điểm. Trung Quốc thấy rằng, Quốc, đồng thời Trung Quốc công nhận sự
các tỉnh duyên hải này không chỉ có vị trí tồn tại không mang quốc tịch hay có hai
địa lý tiếp giáp với H ng ồ
Kông, Ma Cao và quốc tịch của người Hoa. Trước đó, vào
Đài Loan, và các nước Đông Nam Á, nơi có năm 1979, Bắc Kinh ban hành văn bản
cộng đồng người Hoa đông đảo với tiềm chính thức, trong đó nêu rõ “Nguyên tắc 16
lực kinh tế mạnh [5, tr.118], lại có quan hệ chữ” là: “Đối xử như nhau, không được
mật thiết cả về huyết thống và kinh doanh phân biệt, căn cứ đặc điểm, chăm sóc thích
với hai tỉnh này. Cùng với đó, các tỉnh này đáng” đối với Hoa kiều, người Hoa. Hơn
có dân số đông, là một thị trường cung cấp nữa, các tổ chức liên quan đến Kiều vụ từng
lao động và thị trường tiêu thụ rộng lớn, là bị đình trệ từ thời gian này được phục hồi
khu vực cửa ngõ quan trọng nhất của Trung và kiện toàn hơn [5, tr.146-150].
Quốc tiến ra Biển Đông, nơi huyết mạch
Điều đáng chú ý là từ những năm 1980,
giao thông hàng hải giữa Thái Bình Dương Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt các luật và Ấn Độ Dương.
định, pháp lệnh cụ thể về ưu đãi đầu tư,
Mục tiêu khác lớn hơn là việc Trung nhất là đầu tư vào xây dựng các xí nghiệp
Quốc thông qua chọn Quảng Đông và Phúc “hương trấn” và vào các đặc khu kinh tế.
Kiến làm khâu đột phá ở thập niên 1980 là Cùng với đó, nhiều chương trình, dự án, 7
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
hội chợ, hội thảo được tổ chức nhằm thúc ngoài Trung Qu c, ố mà quan trọng hơn là
đẩy kết nối giữa Trung Quốc với Hồng tạo dựng “Vòng cung kinh kinh tế Đại
Kông, Ma Cao, Đài Loan và người Hoa trên Trung Hoa” ở Đông Á, qua đó Trung Quốc
thế giới, trong đó có cả thu hút nguồn chất có điều kiện nhiều hơn thực hiện chiến lược xám [24, tr.70-92].
“đi ra ngoài”4 và triển khai các dự án địa
Sự thay đổi cách tiếp cận t
ừ ý thức hệ chiến lược mang tính khu vực và toàn cầu,
giai cấp sang ưu tiên phát triển kinh tế theo mở rộng con đường Nam tiến và Tây tiến ra
đặc điểm địa lý và địa chính trị trong quan thế giới xung quanh, trong đó người Hoa và
hệ với Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan và Hoa kiều là m t ộ mắt xích quan tr n ọ g của
cộng đồng người Hoa, Hoa kiều đã mang quá trình này. Ví dụ như i tạ châu Âu, tính
lại thành quả to lớn đối với công cuộc cải đến năm 2010 có tới 1.304 công ty của cách, mở c a ử của Trung Qu c. ố Trong t ng ổ
người Hoa, Hoa kiều tại châu lục này là i đố
số 25,06 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp vào tác liên doanh với các công ty đến từ Trung Trung Quốc i
Đạ lục giai đoạn 1979-1991, Quốc Đại lục [22, tr.13].
thì có hơn 18 tỷ USD (chiếm 74%) là
nguồn vốn từ cộng đồng người Hoa, Hoa
kiều và “đồng bào” Hồng Kông, Ma Cao. 4. Thúc đẩy con đường Nam tiến và Tây Trong thập niên 90 c a ủ thế k
ỷ XX, vốn đầu tiến bằng dự án “Vành đai - Con đường”
tư của họ vào Trung Quố ục địa đạ c l t 155 tỷ
USD và trong thập niên đầu thế kỷ XXI đạt Sự trỗi dậy của Trung Quốc, trong đó có
426 tỷ USD, tăng 24 lần so với thập niên hình thành “Vòng cung kinh tế Đại Trung
1980 và 3 lần so với thập niên 1990. Riêng Hoa” và hiệu ứng lan tỏa của vòng cung
vốn đầu tư trực tiếp từ cộng đồng người này đối với các vùng sâu nội địa ở phía Bắc
Hoa, Hoa kiều trên thế giới tại Trung Quốc và Tây của nước này đã và đang làm tăng vị
từ 1979 đến 2010 đạt khoảng 312 tỷ USD, thế địa kinh tế và tài nguyên địa chính trị
trong đó nguồn vốn của người Hoa ở năm của Trung Quốc đối với thế giới, nhất là với
nước ASEAN ban đầu chiếm tới 75% khu vực Đông Nam Á và không gian lục
(khoảng 220 tỷ USD). Nếu tính cả đầu tư từ địa Á - Âu.
Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan, nơi các
Đối với Đông Nam Á, ảnh hưởng của
doanh nghiệp người Hoa thường có v n
ố cổ Trung Quốc diễn ra liên tục trong lịch sử,
phần ở đó thì con số trên lên tới 623 tỷ chỉ ngắt quãng hay thu nhỏ trong khoảng
USD, chiếm 58% tổng đầu tư trực tiếp từ
bên ngoài vào Trung Quốc. Theo đánh giá, gần 100 năm (từ giữa thế kỷ XIX đến giữa
đến 2015 đạt khoảng 800 tỷ USD, trong đó thế kỷ XX) khi phương Tây và Nhật Bản
vốn của người Hoa, Hoa kiều chiếm khoảng thống trị quyền lực ở khu vực này. Từ khi 400 t
ỷ USD) [5, tr.162]. Hệ quả c a
ủ quá cải cách, mở cửa năm 1978, nhất là từ thập
trình trên đã tạo ra bước ngoặt trong hình niên đầu thế kỷ XXI, tốc độ và quy mô ảnh
thành các đặc khu kinh tế ở khu vực duyên hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á tăng
hải thuộc hai tỉnh Quảng Đông và Phúc rất nhanh. Ngoài yếu tố địa lý gần kề, có
Kiến, làm cho các tỉnh này trở thành đầu cộng đồng người Hoa đông đảo với tiềm lực tầu mở r ng ộ
không gian kinh tế cả trong và kinh tế mạnh, các quốc gia ở Đông Nam Á 8 Trần Khánh
là những nước nhỏ, đang phát triển, có nhiều kết nối các cảng chính của các nước khác
điểm tương đồng về văn hóa chính trị, nhất nhau bằng cả đường biển và đường bộ.
là về giá trị dân chủ và quản trị quốc gia, nên
Điều đáng chú ý là sáng kiến “Vành đai
mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” gắn
trên ít có trở ngại lớn. Cùng với đó, quá liền với chiến lược “Đại ươ d ng xanh”, nhất
trình hội nhập và liên kết ASEAN đã và là “Chiến lược xây dựng cường quốc biển”
đang tạo ra lực hút mạnh, cả về địa chính trị của Trung Quốc đưa ra tại Đại hội 18 (năm
và địa kinh tế đối với Trung Quốc, nước 2012) của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các
đang có tham vọng thay thế Mỹ giành ảnh chiến lược này nhấn mạnh đến việc xây
hưởng nổi trội ở khu vực này. Hơn nữa, dựng các chuỗi đảo kéo dài từ đảo Hải Nam
xuống Biển Đông sang vùng biển thuộc phía
Đông Nam Á là điểm kết nối giữa hai đại Bắc Ấn Độ Dương đến châu Phi. Mục tiêu
dương là Thái Bình Dương và Ấn Độ của chúng không chỉ giúp cho thương mại
Dương, qua đó Trung Quốc có thể mở rộng trên biển an toàn, ngăn chặn sự xâm nhập
quan hệ ra Nam Thái Bình Dương, nhất là của Mỹ và đồng minh, mà quan trọng hơn là
với Australia và New Zealand và đặc biệt vươn lên trở thành cường quốc biển, trước
đến các nước ven biển ở Nam Á, nơi có hết là hải quân hàng đầu của thế giới, từng
tuyến vận chuyển dầu mỏ từ thế giới Ả Rập bước đẩy ảnh hưởng quân sự của Mỹ ra khỏi
sang các nước Tây Thái Bình Dương, khu vực Tây Thái Bình Dương - Ấn Độ
nhưng lại đi ngang qua Ấn Độ, một cường Dương, tiến lên kiểm soát các đại dương. Về
quốc về dân số, đang phát triển khá mạnh vấn đề này, A. T. Mahan, nhà địa chiến lược
và có xu hướng gia tăng cạnh tranh với biển người Mỹ, hơn một thế kỷ trước đã
Trung Quốc. Chính vì lý do ,
trên Trung nhấn mạnh rằng “Các quốc gia sống bằng
Quốc từ những năm 1990, nhất là hai thập xuất khẩu hàng hóa thì phải giữ được quyền
niên đầu thế kỷ XXI không chỉ chủ động và kiểm soát biển, nhất là kiểm soát các tuyến
tích cực tham gia các cơ chế hợp tác đa giao thông huyết mạch trên biển. Một quốc
phương với ASEAN như ARF, ASEAN+1, gia có sức mạnh biển thì cần tập trung phát
ASEAN+3, EAS, Hợp tác Tiểu vùng sông triển lực lượng hải quân và kinh tế biển” và
Mê Kông Mở rộng (GMS), sáng lập Hợp tác rằng “đất nước cũng như một pháo đài, quân
đồn trú phải tỷ lệ với chiều dài hàng rào bao
Lan Thương - Mê Kông (LMC) mà còn chủ quanh nó” [10, tr.94], [6, tr.9]. Trung Quốc
động đưa ra các dự án mới như “Một trục đã và đang theo đuổi theo hướng này.
hai cánh”5 và đặc biệt là BRI, trong đó có
Điểm mấu chốt về địa - quân sự và địa -
“Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”6. hàng hải trên con đường Nam tiến bằng
Nếu như sáng kiến “Một trục hai cánh” chỉ đường biển là khu vực Biển Đông, nơi giàu
giới hạn không gian địa lý gồm các tỉnh phía có về tài nguyên thiên nhiên, nhất là dầu khí,
Nam của Trung Quốc và các nước Đông nơi án ngữ các dòng thương mại và an ninh
Nam Á thì “Con đường tơ lụa trên biển thế biển giữa Tây Thái Bình Dương và Bắc Ấn
kỷ XXI” vươn ra toàn bộ khu vực Đông Độ Dương, nơi lực lượng quân sự của Mỹ
Nam Á, Nam Thái Bình Dương và Nam Á - tương đối mỏng so với khu vực biển Hoa
Ấn Độ Dương, có thể cho phép Trung Quốc Đông và biển Bột Hải. Trong “Chiến lược 9
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
xây dựng cường quốc biển” năm 2012, đang cân nhắc thận trọng. Nếu như dự án
Trung Quốc nhấn mạnh rằng Biển Đông là kênh đào Kra được triển khai, một mặt trận
nơi phù hợp nhất để triển khai cường quốc mới trong xung đột, cạnh tranh địa chính
biển [28]. Nếu như Trung Quốc thành công trị giữa các nước, nhất là giữa Ấn Độ và
trong việc kiểm soát Biển Đông có thể giúp Trung Quốc sẽ bùng phát [18].
họ phá vỡ sự bao vây, kìm chế bởi “chuỗi
Điểm quan trọng khác là vị trí chiến lược
đảo thứ nhất”7, thống nhất được Đài Loan và của vịnh Bengal và vịnh Ba Tư ở Ấn Độ
vươn ra ra xây dựng tuyến an ninh ở biển xa Dương. Nơi đây hiện diện một lực lượng hải
thuộc “chuỗi đảo thứ hai” bao gồm quần đảo quân đang phát triển mạnh của Ấn Độ, sự có
Mariana, Guam, Palau v.v.. và dễ dàng tiến mặt của Hạm đội 5 của Mỹ và quan trọng
sang Ấn Độ Dương. Tất cả những các đảo, hơn là tuyến đường vận chuyển dầu lửa quan
địa điểm thuộc “chuỗi đảo thứ nhất” đều có trọng nhất từ Trung Cận Đông, Bắc Phi sang
tranh chấp và nguy cơ xung đột. Từ thời các nước Đông Á ven biển qua vùng biển
gian này, Trung Quốc khẩn trương đẩy này. Trung Quốc đã nhìn thấy tầm quan
nhanh tốc độ thực hiện dự án “Vạn lý trường trọng vị trí địa lý chiến lược của các nước
thành trên biển” ở Biển Đông8, cụ thể là xây như Myanmar, Pakistan và Sri Lanca trên
dựng trái phép các căn cứ quân sự và hậu con đường mở rộng ảnh hưởng xuống Nam
cần tại quần đảo Hoàng Sa, bồi đắp và Á và tiếp cận với Ấn Độ Dương. Qua
quân sự hóa nhiều đảo mà họ chiếm đóng Pakistan, Trung Quốc có thể nối vùng Tây
trái phép thuộc quần đảo Trường Sa. Cùng Bắc tỉnh Tân Cương của Trung Quốc với
với đó, Trung Quốc sử dụng mọi thủ đoạn cảng Gwadar của Pakistan nằm trên biển Ả
như chiến thuật “vùng xám”, đưa lực Rập thuộc vịnh Ba Tư, qua đó Trung Quốc
lượng dân binh và cảnh sát biển quấy rối tiếp cận nhanh hơn nguồn dầu mỏ từ thế giới
các hoạt động kinh tế của các nước khác, Ả Rập, cạnh tranh tốt hơn với Ấn Độ cả trên
mở rộng chiến tranh tâm lý, truyền thông đất liền và biển. Còn qua ngả Myanmar,
và pháp lý nhằm mục tiêu độc chiếm Biển Trung Quốc không chỉ có cơ hội khai thác
Đông. Hơn nữa, Trung Quốc tài trợ lớn tài nguyên giàu có của nước này, mà quan
xây dựng, hiện đại hóa nhiều cảng nước trọng hơn là tiếp cận với các cảng biển nước
sâu tại nhiều nước Đông Nam Á, trong đó có sâu của nước này nằm trên vịnh Bengal như
cảng Sihanoukville và Koh Kong của cảng Sittwe và cảng Kyaukpyu để tăng sức Campuchia, cảng Kuantan,
Klang, cạnh tranh với Ấn Độ và giảm sự phụ thuộc
Malacca của Malaysia, cảng Laemchabang vận chuyển hàng hóa, nhất là dầu mỏ qua eo
của Thái Lan, v.v.. Các cảng này có khả biển Malacca. Trong khi đó, Sri Lanka là
năng giúp Trung Quốc đảm bảo cung ứng quốc gia hải đảo, nằm ở phía Đông Nam Ấn
và kiểm soát thương mại và an ninh ở vịnh Độ, là điểm quan trọng của các trục hàng
Thái Lan nói riêng, vùng biển phía Nam hải chính ở Ấn Độ Dương. Chính vì vậy,
của Biển Đông nói chung [12, tr.174-180]. không phải ngẫu nhiên, trong BRI, Trung
Những năm gần đây, Trung Quốc tỏ ra hào Quốc thiết kế tới hai hành lang kinh tế
hứng đầu tư xây dựng kênh đào Kra. Nếu chính tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương, đó là
Thái Lan cho phép, họ sẵn sàng bỏ ra 30 tỷ Hành lang Trung Quốc - Pakistan và Hành
USD để thực hiện dự án này. Người Thái lang Trung Quốc - Myanmar - Bangladesh - 10 Trần Khánh
Ấn Độ - Sri Lanka. Trên thực tế, từ thập đường sắt phía Đông ở Malaysia, tuyến
niên đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc đã chú Kyaukpyu - Côn Minh ở Myanmar v.v.. Mặc
trọng đầu tư vào các nước này thông qua dự dù hiện nay, nhiều dự án trên đang triển khai
án “Một trục hai cánh”, GMS với Myanmar cầm chừng hoặc bị xem xét lại nhưng Trung
và kế hoạch “Đại chiến lược miền Tây” với Quốc tỏ ra có quyết tâm tiếp tục theo đổi
Pakistan, mở rộng cảng biển Colombo và mục tiêu của mình [12, tr.180-187]. xây mới cảng Ha
mbantota cũng như một sân
Con đường tiến về phía Tây của Trung
bay quốc tế gần đó tại Sri Lanka, hoàn thành Quốc cũng được xúc tiến mạnh mẽ, nhất là
xây dựng tuyến đường ống dẫn khí đốt từ từ khi nước này vươn lên trở thành cường
Côn Minh đến cảng Kyaukpyu hoàn thành quốc kinh tế thứ hai thế giới vào năm 2010.
vào năm 2013 v.v.. Cùng với đó, Trung Nhìn vào vị trí địa lý thì khu vực Trung Á
Quốc cũng kết hợp đầu tư xây dựng các cơ là chìa khóa chính, nơi ngắn nhất nối Trung
sở quân sự, hậu cần ở các điểm trọng yếu Quốc bằng đường bộ tới châu Âu, Trung
dọc bờ biển Ấn Độ Dương như hoàn thành Cận Đông và cả với vùng đất liền của Nam
việc xây dựng căn cứ quân sự đầu tiên ở Á. Sự bất ổn chính trị trong khu vực Trung
nước ngoài tại Cộng hòa Djibouti một -
quốc Á từ sau Chiến tranh lạnh khi Liên Xô tan
gia nằm trên vịnh Aden, thuê cảng biển rã, trong đó sự nổi lên của chủ nghĩa Hồi
Gwadar của Pakistan nằm trên vịnh Ba Tư, giáo cực đoan, chủ nghĩa ly khai và sự gia
căn cứ quân sự Sittwe của Myanmar [29]. tăng cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Nga
Như vậy, sự kết hợp giữa BRI với chiến ở “vùng đất trung tâm” (Hearland)10 cũng
lược “Chuỗi ngọc trai”9, “Đại dương xanh” tạo ra thách thức an ninh và phát triển đối
có khả năng tạo ra sự kết nối một vùng với Trung Quốc. Cùng với trên, các địa
không gian địa lý rộng lớn giữa Trung Quốc phương của Trung Quốc tiếp giáp với khu
và các nước ven biển nằm trên bờ Tây Thái vực Trung Á là những tỉnh nghèo, trong đó
Bình Dương và Bắc Ấn Độ Dương.
lại nổi lên khu tự trị Tân Cương bất ổn. Tuy
Trên con đường Nam tiến, Trung Quốc
cũng chú trọng hơn đối khu vực các nước nhiên, do nhu cầu phát triển vùng nội địa
ASEAN. Trong BRI, Trung Quốc thiết kế phía Tây còn lạc hậu và quan trọng hơn là
riêng một hành lang, đó là Hành lang kinh mở rộng không gian an ninh và phát triển,
tế Trung Quốc - Bán đảo Đông Dương, vươn ra thị trường thế giới, trong đó có thị
trong đó tầm quan trọng của Lào, trường dầu mỏ - thứ nhiên liệu mà Trung
Campuchia và Thái Lan cũng được tăng lên Quốc đang cần cho an ninh năng lượng, nên
trong tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh. Trung Quốc nỗ lực thực hiện chiến lược Tây
Ngoài việc tăng cường buôn bán cũng như tiến bằng dự án “Vành đai kinh tế con đường
đầu tư xây dựng, hiện đại hóa nhiều cảng tơ lụa” (hay thường gọi là “Con đường tơ lụa
biển lớn với các nước này, Trung Quốc tài trên bộ11. Hơn nữa, thông qua sáng kiến này,
trợ phát triển nhiều dự án lớn về giao thông Trung Quốc muốn thúc đẩy quan hệ mọi
đường bộ và đường sắt, điển hình là các mặt, kể cả giao lưu nhân dân với các nước
tuyến đường sắt cao tốc như Viêng Chăn - châu Âu, để từ đó người Trung Quốc có thể
Boten ở Lào, Băng Cốc - Nong Khai ở Thái đến làm ăn, định cư lâu dài ở các nước đó
Lan, Jakarta - Bandung ở Indonesia, tuyến [22], [5, tr.74-79, 172-175]. 11
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
Trong lịch sử, mối liên hệ, nhất là giao Cộng sản độc quyền lãnh đạo. Tất cả các
thương giữa Trung Quốc với các nước phía điều trên đã làm cho con đường Tây tiến
Tây và Tây Bắc được được phát triển bởi sự của Trung Quốc bị ngưng trệ trong lịch sử.
hình thành “Con đường tơ lụa và gốm sứ
Cùng với thành công của công cuộc cải
trên bộ” từ thế kỷ VIII. Trước đó, Trung cách, mở cửa, sự sụp đổ của Liên Xô và sự
Quốc gặp nhiều cản trở đi về phía hướng đó ra đời của các quốc gia độc lập ở Trung Á
bởi sự sinh sống của nhiều bộ tộc du mục như Kazakhstan, Kyrgyzstan (Kirghizstan),
mà Trung Quốc cho là hung hãn như người Tajikistan, Turkmennistan và sự gia tăng
Hung Nô, Khiết Đan, Mông Cổ. Chính vì của toàn cầu hóa, khu vực hóa, không khí
vậy, “Vạn lý trường thành” được người hòa giải, hợp tác trên quy mô toàn cầu sau
Trung Quốc xây dựng từ thế kỷ V TCN cho Chiến tranh lạnh đã tạo cơ hội cho Trung
tới thế kỷ XVI là nhằm bảo vệ Trung Hoa Quốc tái lập và thúc đẩy “Con đường tơ lụa
khỏi những cuộc tấn công các tộc người du và gốm sứ trên đất liền”, mở rộng không
mục từ phía Tây và Tây ắc. B
Tuy nhiên, từ gian chiến lược ra vùng đất phía Tây của
nửa sau thế kỷ XIII, khi đế chế Mông lục địa Á - Âu. Không phải ngẫu nhiên mà
Nguyên thiết lập ảnh hưởng ở khu vực này, Tập Cận Bình chọn Kazak stan h là địa điểm
và đặc biệt từ thế kỷ XV trở đi, khi đế chế đầu tiên chính thức đưa ra sáng kiến “Vành
Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ trở nên đai kinh tế con đường tơ lụa” vào năm
hùng mạnh, con đường buôn bán trên bộ 2013. Mục tiêu ban đầu được đưa ra của ý
giữa Trung Quốc với các nước phía Tây, tưởng này là nhằm kết nối giao thông giữa
kéo dài từ Trung Quốc qua Trung Á đến các quốc gia Á - Âu để mở đường cho việc
Trung Cận Đông và Nam châu Âu dần dần kết nối các khu vực chiến lược từ Thái Bình
bị ngưng trệ bởi sự kiểm soát của người Dương sang biển Baltic và dần dần hướng
Thổ Nhĩ Kỳ và hoành hành của nạn cướp tới việc thiết lập hệ thống giao thông kết
trên các sa mạc. Cũng từ thời gian này nối Đông, Tây và Nam Á [12, tr.53-55].
“Con đường tơ lụa và gốm sứ trên biển”
Trước khi đưa ra sáng kiến này, Trung
được hình thành làm cho mối quan hệ của Quốc năm 2000 triển khai kế hoạch "Đại
Trung Quốc với các nước ven biển từ Đông chiến lược miền Tây", sáng lập các cơ chế
Á, Đông Nam Á đến Nam Á, Trung Cận hợp tác mới, trong đó có Tổ chức Hợp tác
Đông trở nên thịnh hành. Cùng với đó, từ Thượng Hải (SCO) (được thành lập từ năm
thế kỷ XVIII, nhất là từ thế kỷ XIX, khi các 2001) để tăng cường hợp tác với các quốc
cường quốc phương Tây và nước Nga trở gia phía Tây, từ đó tạo thêm thuận lợi cho
nên hùng mạnh, thiết lập hệ thống thuộc địa dự án “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa”
hay chư hầu của họ ở Trung Á, Trung Cận xuyên lục địa Á - Âu ra đời.
Đông trong khi Trung Quốc bị phương Tây
Điều đáng chú ý là “Vành đai kinh tế
chèn ép, con đường tơ lụa trên đất liền trở con đường tơ lụa” và “Con đường tơ lụa
nên suy yếu nhanh. Dưới thời Chiến tranh trên biển thế kỷ XXI” mà Tập Cận Bình
lạnh, nước Trung Hoa mới vẫn bị phương đưa ra vào năm 2013 và sau đó được gọi
Tây phong tỏa. Liên Xô về cơ bản khống chung là BRI12 là một dự án địa chiến
chế vùng Trung Á. Các nước Trung Cận lược rộng lớn có tính bao trùm, nhưng lại
Đông không ủng hộ quốc gia do Đảng có trọng tâm, trọng điểm về đối tượng, 12 Trần Khánh
lĩnh vực, không gian địa lý và quy mô hợp Lào, Pakistan, Sri Lanka, thì hướng Tây họ
tác. Trước hết tính bao trùm được thể hiện tập trung vào các nước Trung Á thuộc Liên
ở đa mục tiêu. Cụ thể, BRI không chỉ đơn Xô cũ, các nước nằm trên bờ biển Đen và
thuần là dự án địa kinh tế, kết nối kinh tế Địa Trung Hải đang gặp khó khăn về tài
của Trung Quốc với các nước thông qua chính. Tính trọng tâm, trọng điểm còn được
phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy thương thể hiệu bằng những hành lang, vành đai
mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ, tài kinh tế các hướng khác nhau14 theo kiểu
chính, mà còn là công cụ mở rộng đối cấu trúc trục - nan hoa, trong đó Trung
ngoại, kể cả ngoại giao quân sự, thiết lập Quốc đóng vai trò trung tâm và chi phối
luật chơi nhằm đưa Trung Quốc trở thành [12, tr.80-110].
cường quốc đứng đầu thế giới vào năm
Mặc dù từ năm 2018 cho đến nay, sự
2049. Không chỉ vậy, tính bao trùm được triển khai của BRI có gặp nhiều khó khăn
thể hiện trong cách thức, biện pháp triển do làn sóng xét lại từ các nước nhận viện
khai như kết hợp đồng bộ giữa công cụ trợ và đại dịch Covid-19 gây a, r nhưng
kinh tế với hợp tác an ninh - quân sự, Trung Quốc cũng đã đạt được những kết
ngoại giao công chúng, kết nối nhân dân, quả ban đầu, nhất là thể chế hóa, tạo dựng
dù cho Trung Quốc luôn khẳng định đây nguồn tài chính và cho các nước thuộc BRI
chỉ là dự án địa kinh tế nhằm kết nối kinh vay hàng chục tỷ USD để phát triển cơ sở
tế với các nước tham gia13. Điều này cũng hạ tầng, nhất là kết nối giao thông. Năm
khá phù hợp với nhiều lập luận của nhiều 2014, Trung Quốc lập nên Tiểu ban BRI do
nhà lý luận về địa kinh tế và họ cho rằng, một Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng
các dự án địa kinh tế là hình thức mới của lãnh đạo. Cùng năm đó, Quỹ Con đường tơ
cạnh tranh quyền lực giữa các quốc gia sau lụa (SRF) với số vốn ban đầu là 40 tỷ USD
Chiến tranh lạnh, mà ở đó tranh đua địa và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á
chính trị dù vẫn được xác định bởi “logic (AIIB) với số vốn pháp định là 100 tỷ USD,
của xung đột” nhưng thông qua “ngôn ngữ Ngân hàng Phát triển mới (NDB) với số
của thương mại” [17, tr.17-23] và rằng vốn ban đầu là 50 tỷ USD được thành lập.
“địa kinh tế là chiến lược kiểm soát lãnh Vào năm 2015, sáng kiến này được chính
thổ mang động cơ kinh tế” [15, tr.255-298] thức đưa vào một chương riêng (chương
và rằng “thương mại theo sau lá cờ” và “lá 51) trong Quy hoạch phát triển kinh tế - xã
cờ theo sau thương mại” [14, tr.47-58].
hội của Trung Quốc 5 năm lần thứ XIII
Còn tính trọng tâm, trọng điểm được thể (2016-2020) và đến năm 2017 được ghi
hiện là BRI thường chọn những nước giàu trong Điều lệ Đảng. Đến năm 2018, Quốc
tài nguyên thiên nhiên, những nơi có vị trí vụ viện lập nên Văn phòng Hợp tác Phát
chiến lược, nước nghèo có mức độ minh triển quốc tế (CIDCA) với chức năng gần
bạch thấp, tham nhũng lớn để cho vay vốn giống như USAID của Mỹ, nhưng với
phát triển cơ sở hạ tầng và cũng như đầu tư nhiệm vụ chính là thúc đẩy BRI. Cùng với
vào khai thác tài nguyên, xây dựng hay thuê trên, Trung Quốc khi triển khai BRI, họ đã
căn cứ quân sự và hậu cần. Nếu như về lồng ghép các nội dung và mục tiêu của
hướng Nam, Trung Quốc chú ý cấp vốn cho BRI với các cơ chế, diễn đàn hợp tác như
những nước như Myanmar, Campuchia, ASEAN - Trung Quốc, GMS, LMC, SCO, 13
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
v.v.. và gắn với các chiến lược phát triển 2016 đến 2018, Trung Quốc cho các nước
của nhiều nước như chiến lược “Tứ giác” tham gia BRI vay với số tiền khoảng trên
của Campuchia, sáng kiến “Trục hàng hải” dưới 35 tỷ USD. Nhiều dự án lớn đã và
của Indonesia, “Hai hành lang, một vành đang triển khai với vốn vay lớn từ Trung
đai kinh tế vịnh Bắc Bộ” của Việt Nam, Quốc như tuyến đường sắt Trung Quốc -
chiến lược “Tầm nhìn Brunei 2035”, “Tầm châu Âu, nhà máy lọc dầu ở Saudi Arabia,
nhìn Philippines 2040”, “Sáng kiến kết nối cảng container ở Piraeus ở Hy Lạp, cảng
chiến lược Singapore - Trung Quốc”, và sân bay ở Sri Lanka , dự án cầu và
“Chiến lược 4.0” của Thái Lan v.v..
đường sắt ở Lào, Bangladesh, Pakistan,
Hơn nữa, Trung Quốc đã thiết lập các v.v.. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng mở
cơ chế hợp tác quốc tế của BRI, mà điển rộng đầu tư trong BRI phát triển công nghệ
hình là Diễn đàn Cấp cao BRI. Nếu như thông tin, kỹ thuật số. Cùng với đó, Trung
Diễn đàn Cấp cao BRI lần thứ nhất diễn ra Quốc từ 2014 đến 2018 đã thành lập 37
tại Bắc Kinh vào tháng 5/2017 có sự tham trung tâm văn hóa, tổ chức hơn 2.000 sự
gia của đại diện 100 nước, trong đó có 28 kiện văn hóa ở các nước tham gia BRI,
nguyên thủ, đứng đầu nhà nước/chính phủ đồng thời cấp hàng nghìn học bổng cho
thì đến Diễn đàn Cấp cao lần thứ hai tổ các nước này [26].
chức vào tháng 4/2019 có sự tham gia đại
Mặc dù BRI đã đạt được một số kết quả
diện của 190 nước, trong đó có 36 nhà lãnh tích cực ban đầu, nhưng hệ quả, tác động
đạo, đứng đầu nhà nước/chính phủ từ các mặt trái là không nhỏ bởi tính hiệu quả từ
châu lục trên thế giới. Nguyên thủ chính các khoản vay từ Trung Quốc chưa cao,
phủ của 10 nước ASEAN đều tham gia vào thậm chí chúng tạo ra cái “bẫy nợ” cho các
diễn đàn này. Điểm đáng lưu ý là Diễn đàn nước vay vốn. Ví dụ điển hình như ở Sri
Cấp cao lần thứ nhất không có một lãnh Lanka, Trung Quốc cho nước này vay hàng
đạo hay người đứng đầu quốc gia nào từ tỷ USD để mở rộng cảng biển Colombo và
các nước phát triển tham gia thì đến lần xây mới cảng Hambantota cũng như một
thứ hai (4/2019) đã có các nguyên thủ của sân bay quốc tế gần đó. Sau khi hoàn thành,
các nước phát triển như Italy, Australia, các dự án đó hoạt động kém hiệu quả15 nên Hy Lạp có mặt.
Sri Lanka vào năm 2017 phải cho Trung
Kết quả cụ thể là Trung Quốc tính đến Quốc thuê 99 năm để trả các khoản nợ đã
tháng 3/2019 đã có 107 quốc gia và 29 tổ vay. Hay trường hợp khác ở Myanmar, khi
chức quốc tế ký Bản ghi nhớ (MOU) hợp tuyến đường ống dẫn dầu từ Côn Minh đến
tác với BRI. Tính đến đầu năm 2019, trao cảng Kyaukpyu do Trung Quốc cấp vốn
đổi thương mại giữa Trung Quốc đại lục xây dựng hoàn thành vào năm 2013, nhưng
với các nước tham gia BRI vượt 6.000 tỷ đến năm 2017 mới có lô dầu đầu tiên và
USD và vốn đầu tư của Trung Quốc vào công suất sử dụng thực tế chỉ khoảng 1/3 so
các nước đó là trên 90 tỷ USD. Tính đến với thiết kế ban đầu. Hơn nữa, mức lãi suất
thời điểm này, đã có tới 82 khu hợp tác cho vay ưu đãi của Trung Quốc dành cho
kinh tế và thương mại chung giữa Trung Myanmar là cao từ 0-4,5% năm, trong khi
Quốc đại lục và các nước tham gia BRI đó lãi suất của Ngân hàng Phát triển châu Á
được xây dựng. Bình quân hàng năm từ từ 0,01-1,5%, và của Chính phủ Nhật Bản 14 Trần Khánh
chỉ với lãi suất 0,01% trong thời hạn vay 40 tại Malaysia mang dáng dấp của “chủ nghĩa
năm [12, tr.111, 122-123, 238], [27]. Còn ở thực dân kiểu mới” [12, tr.128-131]. Hay
Lào, để trả nợ hay bảo lãnh các khoản vay trường hợp ở châu Phi, Tổng thống mới của
khổng lồ từ phía Trung Quốc để xây dựng Tanzania vào tháng 4/2020 đã hủy bỏ
tuyến đường sắt Boten - Viêng Chăn, Lào khoản vay 10 tỷ USD từ Trung Quốc đã
phải dùng tài nguyên thiên nhiên của mình thỏa thuận dưới thời Tổng thống Jakaya
để thế chấp, trong đó cho Trung Quốc khai Kikwete do sợ bị bẫy nợ. Ông cho rằng đây
thác nhiều mỏ khoáng sản, khai thác gỗ là “khoản vay chết người”, có thể đưa
rừng và thuê đất canh tác [19]. Hay trường Tanzania đến bờ vực thẳm về nợ nần [31].
hợp ở Việt Nam, dự án đường sắt trên cao
Ngoài làn sóng xét lại từ chính phủ các
Cát Linh - Hà Đông chỉ dài có 13 km được nước, sự triển khai BRI còn gặp phải
triển khai từ 2008 với số vốn vay chủ yếu những thách thức lớn liên quan đến xung
từ Trung Quốc, nhưng đã đội vốn, kéo dài đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc,
thời gian thi công gấp nhiều lần, cho đến cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn.
nay (2020) vẫn chưa đi vào hoạt động16.
Ví dụ như Thổ Nhĩ Kỳ có mối quan hệ sắc
Chính vì những lý do trên, làn sóng xét tộc lâu đời với các nhóm dân tộc gốc Thổ
lại các dự án do Trung Quốc cấp vốn nổi ở Tân Cương và ở Trung Á, nơi đầu mối
lên mạnh từ năm 2018. Ví dụ như Myanmar giao thông, trung tâm thương mại và hậu
vào tháng 5/2018 tuyên bố xem xét lại dự cần của BRI trên bộ. Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều
án xây dựng cảng biển nước sâu Kyaukpyu nước Trung Á khó có thể hợp tác san sẻ
trị giá hơn 7,3 tỷ USD do Trung Quốc hỗ với Trung Quốc khi người Duy Ngô Nhĩ
trợ vốn và được triển khai từ 2010 với lý do (Uyghur) theo Hồi giáo đang đấu tranh bảo
là dự án quá đắt có thể khiến Myanmar vỡ vệ nền văn hóa của họ trước làn sóng Hán
nợ. Trước đó Myanmar vào năm 2011 đã hóa. Hay các nước khác như Mỹ, Ấn Độ,
hoãn dự án xây đập thủy điện Myitsone trị Nhật Bản, Nga, các nước lớn ở Tây Âu
giá tới 3,6 tỷ USD và vào năm 2012 hoãn như Đức, Anh, Pháp, v.v.. khó có thể ngồi
khai thác mỏ đồng Letpadaung với trị giá 1 yên khi lợi ích chiến lược, kinh tế của họ ở
tỷ USD do Trung Quốc cấp vốn và làm chủ khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương hay ở
thầu với lý do là làm tổn hại môi trường và lục địa Á - Âu bị thách thức. Trong bối
giá quá đắt. Còn Malaysia sau khi Thủ cảnh đại dịch Covid-19 diễn ra cùng với sự
tướng Mahathir Mohamad tái cầm quyền gia tăng cạnh tranh, căng thẳng chiến lược
vào năm 2018 đã xét lại các dự án hạ tầng giữa Mỹ và Trung Quốc trên nhiều mặt
cơ sở lớn do Trung Quốc tài trợ như Dự án trận, từ chiến tranh thương mại (từ năm
Đường sắt phía Đông (dự tính 20 tỷ USD), 2018) đến công nghệ (từ 2019)17, “so
Đường ống dẫn dầu và khí đốt (dự tính là 3-
găng” quân sự ở Biển Đông, vấn đề dân
4 tỷ USD). Kết quả là vào đầu 2019, dự án chủ, nhân quyền ở Hồng Kông và cuộc
xây dựng đường sắt bị hủy bỏ vì quá đắt đỏ, chiến ngoại giao - lãnh sự18... nên sự triển
vượt quá khả năng trả nợ, cho dù phía khai BRI đang gặp thách thức lớn. Theo cơ
Malaysia phải bồi thường những thiệt hại quan phụ trách kinh tế quốc tế thuộc Bộ
cho chủ đầu tư Trung Quốc. Thủ tướng Ngoại giao Trung Quốc cho biết, khoảng
Mahathir đã cảnh bảo rằng các dự án BRI 20% dự án thuộc BRI “bị ảnh hưởng 15
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
nghiêm trọng” bởi đại dịch Covid-19, địa chính trị giữa các nước lớn, nhất là cặp
khoảng 40% bị “ảnh hưởng bất lợi” và quan hệ Mỹ - Trung.
khoảng 30-40% “bị ảnh hưởng một phần”
bởi các nguyên nhân khác nhau [32].
Như vậy, có thể nói, BRI là một dự án 5. Kết luận
địa chiến lược lớn đầy tham vọng, có tính
tổng thể, bao trùm của Trung Quốc được Từ thực tiễn địa chiến lược của Trung Quốc
đưa ra và triển khai thực hiện nhằm mục từ 1978 đến nay có thể đưa ra những nhận
tiêu tổng thể là mở rộng, kiểm soát không xét sau:
gian chiến lược phía Tây thuộc lục địa Á -
Thứ nhất, nhằm đưa đất nước thoát khỏi
Âu và khu vực phía Nam thuộc vành đai trì trệ, lạc hậu, vươn lên trở thành cường
ven biển Tây Nam Thái Bình Dương và quốc hàng đầu thế giới sau một thời gian
Bắc Ấn Độ Dương, để từ đó khống chế chìm đắm trong “Cách mạng văn hóa” ở
nước Nga ở phía Bắc, đẩy lùi ảnh hưởng những năm 1960, Trung Quốc từ những
của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương, khống chế năm 1970, nhất là từ 1978, thực hiện cải
Ấn Độ ở Ấn Độ Dương, vươn lên làm chủ cách mở cửa, tiến hành điều chỉnh chiến
thế giới cả trên đất liền và biển. Đối tượng lược phát triển quốc gia từ dựa trên ý thức
và không gian hợp tác của BRI ở giai đoạn hệ - tư tưởng giai cấp là chính sang ưu tiên
đầu là chủ yếu nhằm vào các nước nghèo, cách tiếp cận địa chính trị, kinh tế chiến
thiếu vốn, mức độ minh bạch thấp nhưng lược, trong đó coi nhân tố địa lý, chủ nghĩa
lại giàu tài nguyên thiên nhiên và nằm ở dân tộc nước lớn và lợi ích phát triển kinh
những vị trí chiến lược trên đất liền thuộc tế là trung tâm. Từ cách tiếp cận mới, Trun g
lục địa Á - Âu và các nước ven biển Đông Quốc đã đưa ra nhiều dự án địa chiến lược
Nam Á - Ấn Độ Dương. Công cụ để thực mang tính đột phá như tạo dựng “Vòng
hiện BRI không chỉ là công cụ kinh tế cung kinh tế Đại Trung Hoa” và đặc biệt là
BRI, nhằm mở rộng không gian an ninh và
(chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
cho vay tài chính, xuất nhập khẩu hàng hóa phát triển ra ngoài biên giới của mình, cả
trên đất liền và biển.
v.v..), mà còn thông qua hợp tác an ninh,
Thứ hai, Trung Quốc đã tiếp cận, vận
ngoại giao công chúng và kết nối nhân dân. dụng khá triệt để các nhân tố địa tự nhiên,
Hệ quả, tác động của BRI hết sức đa chiều địa văn hóa, địa lịch sử, thời cơ chiến lược
và rộng lớn. Thông qua nguồn vốn cho vay, để đưa ra các dự án địa chiến lược mang
BRI là công cụ, đòn bẩy thúc đẩy thương tính đột phá như chọn các tỉnh duyên hải
mại, đầu tư quốc tế, trước hết là của Trung Đông Nam Trung Quốc làm thí điểm cho
Quốc, mà quan trọng hơn là làm tăng ảnh cải cách, mở cửa, tận dụng tối đa nguồn lực
hưởng về chính trị ngoại giao của nước này của Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan và cộng
đối với thế giới. Tuy nhiên, BRI cũng tạo ra đồng người Hoa, Hoa kiều để tạo dựng nên
“gánh nặng chính sách” cho doanh nghiệp “Vòng cung kinh tế Đại Trung Hoa”, từ đó
Trung Quốc, cái “bẫy nợ” đối với các nước tạo tiền đề cho chiến lược “đi ra ngoài”,
được vay vốn và làm gia tăng cạnh tranh thúc đẩy con đường Nam tiến và Tây tiến ra 16 Trần Khánh
nước ngoài bằng BRI, mở rộng không gian cách tiếp cận mới, Trung Quốc đã triển khai
địa kinh tế, từng bước thiết lập không gian nhiều dự án địa chiến lược mang tính đột
địa chính trị ở các quốc gia ven biển châu Á phá như tạo dựng “Vòng cung kinh tế Đại
và không gian lục địa Á Âu, -
đưa các nước Trung Hoa”, thúc đẩy con đường Nam tiến
thuộc BRI, trước hết là các nước nhỏ và và Tây tiến ra nước ngoài bằng BRI. Kết
nghèo trở thành quỹ đạo của mình, từ đó quả của quá trình trên không chỉ mang lại
vươn lên làm bá chủ thế giới.
cho Trung Quốc một nguồn lực mới cho
Thứ ba, hành động địa chiến lược của tăng trường kinh tế, sức mạnh về ngoại giao
Trung Quốc đã và đang tác động sâu sắc và củng cố tiềm lực quân sự, mà còn làm
đến an ninh và phát triển của Trung Quốc tăng tham vọng địa chính trị của Trung
và thế giới. Đối với Trung Quốc, các dự án, Quốc. Điều này cũng kéo theo sự lo ngại và
kế hoạch chiến lược trên đã góp phần to phản ứng trái chiều của cộng đồng quốc tế.
lớn, đưa Trung Quốc nhanh chóng vượt
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, nếu một
Nhật Bản, trở thành cường quốc kinh tế thứ quốc gia nào đó, dù có lớn mạnh đến đâu,
hai thế giới, một lực lượng quân sự hiện muốn được tiếp tục phát triển, có vị thế cao
đại, một nền ngoại giao nước lớn, chủ động hơn trên trường quốc tế thì phải coi trọng
đưa ra luật chơi của mình và làm tăng chủ lợi ích chính đáng của nước khác, trước hết
nghĩa dân tộc. Tuy nhiên, tham vọng địa là với các nước láng giềng nhỏ hơn, đồng
chính trị quá mức, nhất là mưu toan độc
chiếm Biển Đông, dùng ngoại giao tiền bạc, thời phải đặt mình trong sự an ninh và thịnh
“ngoại giao bẫy nợ” đã và đang tạo ra vượng của khu vực và thế giới, có trách
những lo ngại về an ninh của nhiều nước. nhiệm và gánh vác nhiều hơn đối với sự
Điều này đang tạo ra thách thức lớn đối với phát triển bền vững của toàn cầu. Có như
trật tự và luật pháp quốc tế đang thịnh hành. vậy, Trung Quốc mới thu hút được nhân
Chính vì vậy làn sóng xét lại BRI và xu tâm và lòng kính trọng, ủng hộ của cộng
hướng đối đầu trong quan hệ Mỹ - Trung đồng quốc tế và tiếp tục phát triển.
tăng lên. Đây là điểm mấu chốt, nút thắt
trong quan hệ quốc tế cần được tháo gỡ để
nhân loại, trước hết là các nước nằm trong Chú thích
dự án BRI tránh được thảm họa địa chính
trị do cạnh tranh trật tự và không gian * Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển quyền lực gây ra.
khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED)
Nói tóm lại, sự điều chỉnh tư duy và trong đề tài mã số: 01/2018/NCUD.
hành động chiến lược từ ý thức hệ - tư 2 Khẩu hiệu “lấy đấu tranh giai cấp làm nòng cốt”
tưởng giai cấp là chính sang ưu tiên cách được chính thức xóa bỏ tại Hội nghị Trung ương 3,
tiếp cận địa chính trị, kinh tế chiến lược, Khóa XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra
trong đó coi nhân tố địa lý, chủ nghĩa dân vào tháng 12 năm 1978.
tộc nước lớn và lợi ích phát triển kinh tế là 3 Nhà địa chính trị, chiến lược Mỹ gốc Hà Lan là
trung tâm mà Trung Quốc thi hành từ sau Nicholas J. Spykman từ năm 1944 đã đưa ra thuyết
1978 là bước đột phá trong tư duy chiến “Vùng đất vành đai” (Rimland Theory), trong đó
lược phát triển quốc gia của nước này. Từ cho rằng Mỹ phải ngăn cản sự liên kết, nhất là về 17
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
chính trị giữa vùng đất trung tâm (vùng đất nằm giữa
10 Khái niệm này được nhà địa lý, địa chiến lược
lục địa Á - Âu gồm các nước Trung Á và Nga) với
người Anh, ngài Halford J. Mackinder, đưa ra vào
vùng đất vành đai (Rimland) (gồm các nước Trung
năm 1904 và cho rằng khu vực Trung Á là “trục”
Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Trung Quốc. Có như vậy
(pivot) của thế giới và lục địa Á - Âu là trục chiến
Mỹ mới có thể ngăn chặn được sự bành trướng thế
lược của quyền lực thế giới. Ai thống trị, được
lực của Liên Xô [17, tr.43].
“vùng đất trung tâm” thì chỉ huy được cả châu Á và
4 Chiến lược này được đưa ra vào năm 2000 với 3
châu Âu lục địa [6, tr.6].
nội dung chính: 1) Xuất khẩu vốn, hàng hóa và dịch
11 Ý tưởng “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa”
vụ; 2) Đưa người ra nước ngoài làm việc và sinh
được Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
sống lâu dài; và 3) Mở rộng truyền bá giá trị và mô
Bình chính thức đưa ra trong phát biểu của ông tại
hình phát triển của Trung Quốc ra thế giới.
Đại học Nazarbayev của Kazakhstan vào ngày
5 Sáng kiến “Một trục hai cánh” được Trung Quốc 7/9/2013.
đưa ra từ năm 2006. “Một trục” có nghĩa là xây
12 Trong khoảng hai năm đầu, hai sáng kiến trên của
dựng Hành lang kinh tế Nam Ninh – Singapore với
Tập Cận Bình thường được gọi chung là sáng kiến
một hệ thống kinh tế đường bộ và đường sắt nối liền
“Một vành đai, một con đường” (hay “Nhất đới, nhất
giữa khu vực đồng bằng sông Chu Giang mở rộng
lộ) viết tắt bằng tiếng Anh là OBOR. Tuy nhiên từ
của Trung Quốc với các nước trên bán đảo Đông
cuối năm 2016, Cơ quan Dịch thuật và Biên soạn
Dương; "hai cánh" có nghĩa là một cánh hợp tác dựa
Trung ương Trung Quốc phối hợp với Viện Khoa
trên vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ và trên Biển
học xã hội Trung Quốc đề nghị thay đổi OBOR
Đông nối liền Trung Quốc với Đông Nam Á hải đảo
thành BRI để làm rõ hơn nội hàm của sáng kiến,
và cánh kia là hợp tác dọc theo dự án hợp tác GMS,
đồng thời tránh gây hiểu nhầm rằng sáng kiến này
trong đó có cả việc kết nối vùng Tây Nam Trung
chỉ có một vành đai và một con đường.
Quốc qua Myanmar ra Ấn Độ Dương.
13 Trước sự e ngại của nhiều nước về BRI, Chủ tịch
6 Sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”
Tập Cận Bình đã trấn an bằng tuyên bố của mình
được Chủ tich Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra
nhân dịp 5 năm thực thi BRI (vào năm 2018) rằng
trong bài phát biểu tại Quốc hội Indonesia vào tháng
“BRI là một sáng kiến hợp tác kinh tế chứ không 10/2013.
phải xây dựng một liên minh địa chính trị hay quân
7 “Chuỗi đảo thứ nhất” bắt đầu từ đảo Kuril, Nhật Bản
sự và do đó sẽ không tạo ra một vòng tròn mang tính
(gồm cả quần đảo Ryukyu), bán đảo Triều Tiên, Đài
loại trừ hay một câu lạc bộ Trung Quốc” [30].
Loan, Philippines, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
14 Điều này được thể hiện bởi hai nhánh của BRI
của Việt Nam và kết thúc ở Brunei và vùng lãnh thổ
(một con đường trên bộ và một trên biển) và nhiều phía Đông của Malaysia.
hành lang kinh tế như Hành lang kinh tế Trung Quốc
8 Thuật ngữ "Vạn lý trường thành trên biển" là do
qua Trung Á tới châu Âu; Hành lang kinh tế Trung
các nhà quân sự Mỹ đưa ra từ năm 2014.
Quốc - Mông Cổ - Nga; Hành lang kinh tế Trung
9 Về mặt chính thức, Trung Quốc chưa bao giờ sử
Quốc - Trung Á - Tây Á; Hành lang kinh tế Trung
dụng thuật ngữ “chuỗi ngọc trai” từ khi cụm từ này
Quốc - Bán đảo Đông Dương; Hành lang kinh tế
xuất hiện trong một nghiên cứu của Booz Allen
Trung Quốc - Pakistan; Hành lang kinh tế Trung Hamilton, Mỹ năm 2005.
Quốc – Myanmar - Bangladesh - Ấn Độ; Tuyến 18 Trần Khánh
đường biển Trung Quốc - Đông Nam Á - Nam Á -
Tài liệu tham khảo
Vịnh Péc xích - Đông Bắc Phi - Địa Trung Hải;
Tuyến Trung Quốc qua Biển Đông đến Nam Thái
[1] Robert D. Kaplan (2017), Sự minh định của
Bình Dương, Nam Ấn Độ Dương. Đến năm 2018,
địa lý, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
BRI được mở rộng đến các nước Mỹ - Latinh, và
[2] Trần Khánh (2014) “Tư duy và quan niệm khu vực Bắc Cực.
truyền thống của Trung Quốc về quan hệ đối
15 Cảng Hambantota hoàn thành vào năm 2010 luôn
ngoại trong lịch sử cổ trung đại”, Tạp chí
đói hàng, hàng năm chỉ có khoảng trên dưới 200 tàu
Nghiên cu Trung Quc, số 3 (151).
[3] Trần Khánh (2014), “Sự điều chỉnh tư duy và
cập bến. Còn sân bay mỗi tuần chỉ có 5 chuyến bay
hành động chiến lược đối ngoại của Trung
phục vụ vài trăm hành khách.
Quốc từ năm 1949 đến nay”, Tạp chí Nghiên
16 Dự án này dược ký kết từ năm 2008 với số vốn là
cu Trung Quc, số 5 (153).
gần 553 triệu USD, trong đó vốn vay từ Trung Quốc
[4] Trần Khánh (2014), Hp tác và cnh tranh
là 419 triệu USD. Đến năm 2016, Việt Nam phải
chiến lược M - Trung Đông Nam Á ba thập
vay thêm 250 triệu USD từ Trung Quốc, nâng tổng
niên đầu sau Chiến tranh Lnh,Nxb Thế giới,
vốn đầu tư lên tới 868 triệu USD. Dự án này do chủ Hà Nội.
thầu Trung Quốc thực hiện thi công.
[5] Trần Khánh (2018), Cộng đồng người Hoa,
17 Ngày 15/5/2019, Tổng thống Donald Trump ký
Hoa kiu châu Á, Nxb Đại học Quốc gia
Sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp đối với công nghệ và Hà Nội.
viễn thông, do nước ngoài thiết kế, phát triển, sản
[6] Trần Khánh (2019), “Bàn về các luận thuyết
xuất hoặc cung ứng tại Mỹ, trong đó cho rằng các
liên quan đến địa chiến lược”, Tạp chí Khoa
hoạt động đó có thể gây nguy cơ cho an ninh của
hc xã hi Vit Nam, số 7.
Mỹ. Chính vì vậy từ thời gian này, nhiều công ty
[7] Trần Khánh (2019), “Bàn về phạm trù và định
viễn thông của Trung Quốc bị liệt kê vào Danh sách
nghĩa về địa chiến lược”, Tạp chí Nghiên cu
Đen, trong đó có các hãng nổi tiếng như ZTE,
Quc tế, số 4 (119).
[8] Vũ Đức Liêm (2019), “Trung Hoa: một tù Huawei, và TikTok.
nhân của địa lý”, Tạp chí Tia Sáng, ngày
18 Vào đầu tháng 7/2020, chính quyền Bắc Kinh 11/06.
chính thức áp đặt luật an ninh mới đối với Hồng
[9] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên) (2013),
Kông đã khiến các nước phương Tây phản ứng
Chiến lược và chính sách ngoi giao Trung
mạnh mẽ. Hàng loạt nước sau đó đã thông báo rút
Quc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
quy chế đặc biệt đối với khu tự trị này. Cùng với đó,
[10] Alfred Thayer Mahan (2012), Ảnh hưởng của sức
Mỹ vào ngày 22/7/2020 ra lệnh đóng cửa Lãnh sự
mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783 (Phạm
quán Trung Quốc tại Houston thuộc bang Texas với
Nguyên Trường dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội.
cáo buộc là “ổ gián điệp”. Ngay sau đó, ngày
[11] Lê Văn Mỹ (Chủ biên) (2013), Ngoi giao
24/7/2020, Trung Quốc “ăn miếng, trả miếng” ra
Trung Quc trong quá trình tri dy và nhng
lệnh đóng cửa Lãnh sự quán của Mỹ tại Thành Đô
vấn đề đặt ra cho Vit Nam, Nxb Từ điển Bách thuộc tỉnh Tứ Xuyên. khoa, Hà Nội. 19
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2020
[12] Phạm Sỹ Thành (2019), Sáng kiến Vành đai -
[22] Haiyan Zhang (2013), The role of migration in
Con đường (BRI): la chn nào của Đông
shaping China's economic relations with its
Nam Á, Nxb Thế giới, Hà Nội.
main partners, Migration Policy Center.
[13] Viện Nghiên cứu Trung Quốc (2019), 40 năm
[23] Zhang Xiaotong & Marlen Belgibayev (2014),
“China’s Eurasian Pivot”, The Asian Forum,
ci cách m ca ca Trung Quc; nhìn li và 1/12.
trin vng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[24] Афанасьева А. В. (2013), Зарубежные
[14] Sanjaya Baru (2012), “Geo-economics and
Китайцы бизнес в КНР, ИДВ РАН, Москва.
Strategy”, Survival, Vol. 54, No.3. [25] Институт востоковедения (1986),
[15] Valerie Hudson et al. (1991), “Why the Third
Китайские этнические групы в странах
World Matters, Why Europe Probably Won’t:
Юго Восточной Азии, Издтельство Наука, The Geoeconomics of Circumscribed Москва.
Engagement”. Journal of Strategic Studies
[26] http://www.brfmc2019.cn/en/, truy (14.3). cập ngày 28/6/2020.
[16] Robert D. Kaplan (2010), “The Geography of
[27]..http://nghiencuuquocte.org/2020/03/02/da-
Chinese Power: How Far Can Beijing Reach
ngam-doc-con-duong-to-lua-tren-bien-cua-
on Land and at Sea”, Foreign Affairs,
trung-quoc/, truy cập ngày 15/06/2020. May/June.
[28]..http://china.caixin.com/2013-08-
[17] Edward N. Luttwak (1990), “From Geopolitics
01/100563770.html, truy cập ngày 16/06/2020.
[29] http://thediplomat.com/2014/02/the-maritime-
to Geo-economics: Logic of Conflict,
silk-road-vs-the-string-of-pearls, truy cập
Grammar of Commerce,” National Interest 20 ngày 13/2/2014.
[18] Salvatore Babones (2020) “The Next Front in
[30]..http://www.scmp.com/new/china/diplomacy-
the India - China Conflict Could Be a Thai
defence/article/2161580/xi-jinping-says-belt-
Canal”, Foreign Policy, 01/09.
and-road-plan-isnt-about-creating, truy cập
[19] Nick Freeman (2019), “Lao’s High-Speek ngày 12/04/2020.
Railway Coming Round the Bend”, ISEAS
[31]..https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/dau- Perspective, 05/12.
tu/huy-vay-10-ty-usd-cua-trung-quoc-tong-
[20] Ricardo Housman (2001), “Prisoners of
thong-tanzania-thoat-khoi-bay-mat-chet-nguoi-
Geography”, Foreign Policy, No. 122 (Jan-
636463.html, truy cập ngày 18/06/2020. Feb).
[32]..https://dantri.com.vn/kinh-doanh/sang-kien-
[21] Nicholas J. Spykman (1942), American’s Strategy
vanh-dai-va-con-duong-cua-trung-quoc-sap-
in World Politics: The United States and Balance
toi-hoi-ket-20200629112606723.htm, truy cập
of Power, Harcourt, Brace, New York. ngày 30/6/2020. 20