



















Preview text:
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO 
KHOA TRUYỀN THÔNG VÀ VĂN HOÁ ĐỐI NGOẠI    BÁO CÁO 
MÔN VĂN HOÁ VIỆT NAM & HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐỀ TÀI: 
ĐẶC TRƯNG ẨM THỰC MIỀN BẮC 
Giảng viên bộ môn: 
TS. Lương Thị Thu Hường  Lớp học phần:  VHVN&HNQT_5  Thành viên: 
Nguyễn Thị Tố Uyên TTQT51B41914 
Hải Khánh Linh TTQT51B41723 
Trần Minh Hằng TTQT51C41639 
Dương Quế Anh TTQT51B41516  Lê Minh Anh TTQT51C31556 
Phạm Nguyễn Minh Ngọc NNA50C11127 
Nguyễn Huyền Anh TTQT51A41511  Lê Phương Anh TTQT51B31522        Hà Nội/2024      MỤC LỤC     LỜI CẢM ƠN  4 
MỞ ĐẦU...........................................................................................................5 
1. Giới thiệu về bộ môn Văn hóa Việt Nam và hội nhập quốc tế..............5 
2. Giới thiệu về bài báo cáo..........................................................................5 
3. Cấu trúc bài báo cáo.................................................................................6 
NỘI DUNG.......................................................................................................7 
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ẨM THỰC MIỀN BẮC..........................7 
CHƯƠNG II: ẨM THỰC MIỀN BẮC.......................................................8 
PHẦN 1: NGUỒN GỐC............................................................................8 
1.1. Lịch sử...............................................................................................8 
1.2. Địa lý...............................................................................................10 
PHẦN 2: ĐẶC TRƯNG HƯƠNG VỊ VÀ PHONG CÁCH CHẾ BIẾN 
CỦA ẨM THỰC MIỀN BẮC.................................................................13 
2.1. Món ăn mang hương vị thanh đạm..............................................13 
2.2. Nguyên liệu tươi ngon, tự nhiên...................................................13 
2.3. Phương pháp chế biến món ăn.....................................................14 
2.4. Tính lịch sự, trang trọng trong cách bày biện.............................15 
2.5. Sự tinh tế trong các món ăn gia đình...........................................15 
PHẦN 3: MỘT SỐ MÓN ĂN ĐẶC TRƯNG........................................17 
3.1. Các tỉnh miền núi Tây Bắc............................................................17 
3.2. Lạng Sơn.........................................................................................17 
3.3. Hà Nội.............................................................................................18 
3.4. Hải Phòng.......................................................................................18 
3.5. Hải Dương......................................................................................19 
3.6. Ninh Bình........................................................................................19 
3.7. Hà Nam...........................................................................................19     
PHẦN 4: QUY TẮC TRÊN BÀN ĂN VÀ VĂN HÓA ẨM THỰC.....21 
4.1. Quy tắc bàn ăn...............................................................................21 
4.2. Văn hóa ẩm thực ngày lễ miền Bắc..............................................22 
PHẦN 5: ĐẶC TRƯNG ẨM THỰC MIỀN BẮC ĐƯỢC TẠO NÊN TỪ 
NHIỀU YẾU TỐ & SỰ PHÁT TRIỂN TRONG THỜI KỲ HỘI 
NHẬP........................................................................................................25 
5.1. Khí hậu...........................................................................................25 
5.2. Ảnh hưởng từ tính cộng đồng.......................................................25 
5.3. Ảnh hưởng từ văn hoá, lễ nghi.....................................................26 
5.4. Ảnh hưởng từ tín ngưỡng, tôn giáo..............................................26 
5.5. Sự phát triển trong thời kỳ hội nhập...........................................28 
PHẦN 6: Ý NGHĨA.................................................................................30 
6.1. Đối với vùng miền, dân tộc............................................................30 
6.2. Đối với quốc tế................................................................................31 
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ........................................................................32 
KẾT LUẬN.....................................................................................................34 
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................35                LỜI CẢM ƠN 
Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa Truyền 
thông và Văn hóa đối ngoại, Học viện Ngoại giao đã đưa môn học Văn hóa Việt 
Nam và hội nhập quốc tế vào chương trình giảng dạy. Đặc biệt, chúng em xin gửi 
lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn - Cô Lương Thị Thu Hường đã dạy dỗ, 
truyền đạt những kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa 
qua. Trong thời gian tham gia lớp học Văn hóa Việt Nam và hội nhập quốc tế của 
cô, chúng em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu 
quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, là hành trang để 
em có thể vững bước sau này. 
Bộ môn Văn hóa Việt Nam và hội nhập quốc tế là môn học thú vị, vô cùng 
bổ ích và có tính thực tế cao. Đảm bảo cung cấp đủ kiến thức, gắn liền với nhu cầu 
thực tiễn của sinh viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả 
năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc dù chúng em đã cố gắng hết sức 
nhưng chắc chắn bài tiểu luận khó có thể tránh khỏi những thiếu sót và nhiều chỗ 
còn chưa chính xác, kính mong cô xem xét và góp ý để bài tiểu luận của chúng em  được hoàn thiện hơn. 
Chúng em xin chân thành cảm ơn!                MỞ ĐẦU 
1. Giới thiệu về bộ môn Văn hóa Việt Nam và hội nhập quốc tế 
Văn hóa là một lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu, bộ môn này giúp sinh viên 
tìm hiểu về bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, đồng thời khám phá quá trình 
hội nhập của văn hóa Việt Nam vào bối cảnh quốc tế. Chương trình học tập trung 
vào việc nghiên cứu các giá trị văn hóa truyền thống, những yếu tố tạo nên sự độc 
đáo của văn hóa Việt Nam, cũng như những thách thức và cơ hội khi văn hóa Việt 
Nam giao thoa với các nền văn hóa khác trên thế giới. 
Ngoài việc khám phá lịch sử, nghệ thuật, văn học, và tín ngưỡng dân gian 
của Việt Nam, sinh viên còn được trang bị kiến thức về các chính sách văn hóa, 
quan hệ quốc tế, và các xu hướng toàn cầu đang ảnh hưởng đến sự phát triển và 
bảo tồn giá trị văn hóa. Việc tìm hiểu về hội nhập quốc tế giúp sinh viên hiểu rõ 
hơn về cách thức văn hóa Việt Nam được thế giới tiếp nhận và giao lưu, đồng thời 
hình thành khả năng đánh giá và đề xuất những giải pháp bảo vệ và phát huy bản 
sắc văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa. 
2. Giới thiệu về bài báo cáo 
Ẩm thực miền Bắc Việt Nam từ lâu đã được biết đến không chỉ với những 
món ăn đậm đà hương vị mà còn là những tác phẩm nghệ thuật chứa đựng linh 
hồn của nền văn hóa lâu đời. Mỗi món ăn, từ những bát phở nghi ngút khói đến 
những đĩa bún chả thơm lừng, đều mang trong mình câu chuyện của đất và người, 
thể hiện sự khéo léo, tinh tế trong cách chế biến, đồng thời phản ánh những giá trị 
sâu sắc về lịch sử, phong tục và tập quán của người dân nơi đây. 
Ẩm thực miền Bắc nổi bật với sự tinh giản nhưng không kém phần tinh tế, 
trong đó hương vị thanh đạm, nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu lắng, không chỉ là sự 
kết hợp hoàn hảo giữa các nguyên liệu tự nhiên mà còn là biểu hiện của lối sống, 
cách nghĩ và quan niệm về sự hài hòa trong cuộc sống. Từ lâu, những món ăn này 
đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người dân miền 
Bắc, gắn liền với các dịp lễ hội, sum họp gia đình hay những buổi chiều vắng lặng 
bên những tách trà, chiếc bánh thơm lừng. 
Trong một thế giới ngày càng hội nhập và toàn cầu hóa, ẩm thực không chỉ 
đơn thuần là thức ăn mà còn là một phần không thể thiếu trong việc xây dựng cầu 
nối văn hóa giữa các dân tộc. Mỗi món ăn miền Bắc, dù giản dị hay cầu kỳ, đều 
có sức mạnh riêng để chinh phục khẩu vị của bạn bè quốc tế, đồng thời giữ gìn 
những giá trị truyền thống của dân tộc. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập ngày nay,     
việc bảo tồn và phát huy những nét đặc trưng của ẩm thực miền Bắc không chỉ là 
trách nhiệm đối với di sản văn hóa dân tộc, mà còn là cách để Việt Nam góp mặt 
một cách mạnh mẽ và tự tin trong cộng đồng văn hóa thế giới. 
Bài viết này sẽ đi sâu vào nghiên cứu những đặc trưng của ẩm thực miền 
Bắc Việt Nam, phân tích những yếu tố lịch sử, địa lý, văn hóa đã góp phần hình 
thành nên nền văn hóa độc đáo này. Đồng thời, bài viết cũng sẽ làm rõ tầm quan 
trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị ẩm thực truyền thống trong bối cảnh toàn 
cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. 
3. Cấu trúc bài báo cáo 
Bài báo cáo sẽ được thực hiện theo cấu trúc:  Phần I: Mở đầu  Phần II: Nội dung  Phần III: Kết luận        NỘI DUNG 
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ẨM THỰC MIỀN BẮC 
Ẩm thực là nét văn hoá tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Mỗi quốc gia, 
vùng miền lại có những nét đặc trưng riêng biệt tạo nên bản sắc khó trộn lẫn. Ẩm 
thực Việt từ lâu đã nổi tiếng với đông đảo bạn bè quốc tế với hương vị thanh nhã, 
kết hợp với gia vị khéo léo và đa dạng. Một bữa ăn có sự kết hợp hài hoà như có 
thịt phải có rau, có cơm phải có canh, cùng với sự kết hợp đa dạng các vị chua - 
cay - mặn - ngọt tiêu biểu của triết lý âm dương tồn tại ngay trong đời sống thường 
nhật của người dân đất Việt. 
Ẩm thực miền Bắc đặc biệt chú trọng vào triết lý âm dương sự kết hợp âm 
dương được thể hiện qua cách chọn nguyên liệu, chọn thực phẩm để cân bằng tính 
chất, phương pháp chế biến kết hợp nguyên liệu để giảm bớt hoặc tăng tính âm 
dương đồng thời kết hợp các món ăn kèm giúp hài hòa hương vị và tính chất của 
món chính. Việc cân bằng âm dương không chỉ đảm bảo hương vị mà còn giúp 
duy trì sức khỏe, hạn chế bệnh tật do thời tiết hoặc cơ địa. 
Ẩm thực miền Bắc Việt Nam nổi bật với sự nhẹ nhàng, thanh đạm và hài 
hòa trong hương vị cùng cách bài trí vô cùng tinh tế thể hiện rõ nét văn hoá lâu 
đời và phong cách sống của người dân nơi đây. Văn hóa ẩm thực nơi đây mang 
đậm tính thanh nhã và tinh tế, với hương vị thanh đạm, không quá cay, ngọt hay 
béo. Các món ăn thường sử dụng gia vị một cách vừa phải để giữ nguyên vị tự 
nhiên của nguyên liệu tạo nên cảm giác nhẹ nhàng, hài hoà. Người miền Bắc 
thường ưa thích các món ăn có vị mặn nhẹ và chua dịu đặc biệt là các món dưa 
muối và rau sống. Ẩm thực miền Bắc thường gắn liền với các món ăn theo mùa, 
kết hợp nhiều loại nguyên liệu và gia vị truyền thống như mắm tôm, nước mắm,... 
Bữa ăn được bày trí gọn gàng, giản dị không chỉ để thưởng thức mà còn thể hiện 
sự hoà hợp và cân bằng trong văn hoá ẩm thực vùng đồng bằng sông Hồng. Văn 
hóa ẩm thực Bắc bộ tuy không rực rỡ về màu sắc và hương vị đậm đà như miền 
Nam hay miền Trung nhưng lại thu hút bởi nét đẹp tao nhã và giản dị khiến người 
thưởng thức dễ dàng cảm nhận sự giản dị mà tinh tế của vùng đất này. 
 =>> Ẩm thực miền Bắc lại mang cho mình một hơi thở riêng của một nền 
ẩm thực lâu đời của xứ sở kinh kỳ.     
CHƯƠNG II: ẨM THỰC MIỀN BẮC 
PHẦN 1: NGUỒN GỐC  1.1. Lịch sử 
 Bắc bộ Việt Nam là nơi ghi lại dấu ấn lịch sử lâu đời nhất của dân tộc Việt 
Nam ta, với vị trí địa lý thuận lợi nằm bên dòng sông Hồng, Bắc bộ không chỉ là 
nơi khởi nguồn của nền văn minh Việt mà còn là cái nôi của nhiều giá trị văn hóa 
truyền thống đặc sắc. Trải dài trong suốt khoảng thời gian lịch sử từ 1000 năm 
dưới ách đô hộ của thực dân phong kiến phương Bắc cho đến khoảng 80 năm Pháp 
thuộc, dân tộc miền Bắc đã phải chịu nhiều ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nền văn 
minh khác nhau, điển hình như qua ngôn ngữ, chữ viết, kiến trúc, tư tưởng tôn 
giáo hay còn cả phong tục tập quán. Và theo lẽ tự nhiên, ẩm thực miền Bắc cũng 
không ngoại lệ. Mỗi nền văn hóa này đã để lại dấu ấn riêng biệt với nền ẩm thực 
Bắc bộ, từ cách chế biến cho đến khẩu vị các món ăn, làm cho ẩm thực nơi đây 
không chỉ đa dạng mà còn mang tính đặc trưng, kết hợp từ sự phong phú của cả  hai nền văn minh. 
 Trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc, văn hóa Trung Hoa đã tạo nên ảnh 
hưởng mạnh mẽ đến ẩm thực miền Bắc Việt Nam. Trên quê hương mình, ẩm thực 
Trung Hoa được chia thành bốn trường phái lớn: Quảng Đông, Sơn Đông, Giang 
Tô và Tứ Xuyên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, miền Bắc Việt Nam chịu ảnh hưởng 
nhiều nhất từ trường phái ẩm thực Quảng Đông, nơi có văn hóa ẩm thực cùng khí 
hậu tương đồng. Trước hết về ẩm thực Quảng Đông, với đặc trưng các món ăn 
được biết đến qua hương vị thanh đạm, tươi non nhưng không hề nhạt nhẽo kèm 
theo đó là hơn 20 phương pháp chế biến phong phú và đa dạng nhưng vẫn giữ 
được nguyên hương vị tự nhiên của nguyên liệu. Cũng tương tự với đặc trưng ẩm 
thực miền Bắc, khi các món ăn ở đây đều đề cao sự thanh tao, đạm bạc nhưng vẫn 
tôn lên được hương vị tinh túy của món ăn, người Bắc cũng đặc biệt chú trọng vào 
sự hài hòa trong cảm quan, bằng cách chế biến các món ăn với hương vị vừa phải, 
không quá chua, quá cay, cũng không quá mặn nồng. Chịu nhiều ảnh hưởng mạnh 
mẽ từ nền văn hóa ẩm thực Quảng Đông là thế, nhưng dựa vào điều kiện địa lý 
cũng như khẩu vị mà cách chế biến các món ăn của người Việt ta vẫn có sự khác 
biệt so với Trung Hoa. Chẳng hạn như món sủi cảo đặc trưng của vùng Quảng 
Đông, sủi cảo là một loại bánh có nhân bánh đa dạng chủ yếu được làm từ tôm 
tươi, thịt băm, cải thảo và các gia vị khác. Khi du nhập vào Việt Nam, sủi cảo đã 
có những biến thể nhất định để phù hợp với khẩu vị người Việt, như cách chế biến 
nhân bánh cũng tương tự như cách chế biến nhân món nem rán, bao gồm nguyên     
liệu chính là thịt, nấm mộc nhĩ, miến và rau củ,... Bên cạnh ảnh hưởng riêng từ 
trường phái ẩm thực Quảng Đông, cách chế biến các món ăn của người Bắc cũng 
chịu ảnh hưởng không ít từ trường phái ẩm thực Giang Tô, được thể hiện qua 
phương pháp hầm, ninh, hấp, hay cách chế biến các món canh, nước dùng các món 
bún, phở với vị nhẹ nhàng và ngọt thanh. Ẩm thực Giang Tô cũng chú trọng đến 
cách trình bày, tạo cảm giác trang nhã và tinh tế, người miền Bắc cũng rất coi trọng 
cách bày biện các món ăn, nhất là trong những bữa tiệc gia đình hay dịp lễ Tết, 
với các món như nem rán, giò chả, và xôi gấc được sắp xếp tỉ mỉ, trang trí đẹp 
mắt. Không dừng lại ở những bữa ăn mặn thường ngày, người Bắc cũng du nhập 
về nhiều những món ăn tráng miệng độc đáo, chẳng hạn như món tào phớ quen 
thuộc trong tuổi thơ của nhiều thế hệ. Nhưng thay vì dùng hoàn toàn nước đường 
làm nước dùng như ở Trung Quốc, món tào phớ khi du nhập về Việt Nam đã được 
người dân biến tấu với nhiều kiểu chế biến khác nhau, phổ biến nhất là kiểu pha 
nước đường ướp hoa nhài bắt nguồn từ làng An Phú (Hà Nội) làm nên hương vị 
cũng như mùi hương đặc trưng của món tào phớ ở miền Bắc. Ngoài ra, ẩm thực 
Trung Hoa còn ảnh hưởng đến vô vàn những món ăn khác như nem rán có nguồn 
gốc từ chả giò, bánh cuốn với ảnh hưởng từ bánh hấp cuốn, thịt kho Tàu, đậu hũ 
nhồi thịt, bánh bao hay các loại chè tráng miệng và bánh nướng, đặc biệt là món 
bánh nướng bánh dẻo Trung thu với đủ loại nhân đặc sắc như xá xíu, đậu xanh, 
khoai môn, trứng muối,... 
 Bên cạnh đó, cũng có nhiều những món ăn truyền thống của Việt Nam ra 
đời trong thời kỳ Pháp thuộc. Người Pháp mang theo những nguyên liệu mới như 
bơ, sữa, bánh mì, phô mai và các loại thịt chế biến sẵn, họ cũng giới thiệu những 
kỹ thuật chế biến món ăn mới như nướng, đút lò,... cũng như việc sử dụng các loại 
sốt béo để gia tăng độ ngậy cho món ăn. Trong khi ẩm thực Trung Hoa chú trọng 
đến hương vị mạnh mẽ, ẩm thực Pháp lại hướng đến sự tinh tế, cân đối và cầu kỳ 
trong cách chế biến mà điển hình phải kể đến chính là món bánh mì nổi tiếng đã 
từng được bầu chọn là một trong những món ăn đường phố ngon nhất thế giới. 
Thuở sơ khai, bánh mì được bắt nguồn từ baguette của Pháp, là loại bánh được 
biết đến với dáng hình dài với lớp vỏ giòn, ruột mềm. Vào những năm 50-60 của 
thế kỷ XX, với sự gia tăng của các lò bánh mì ở miền Bắc và sự cải tiến nguyên 
liệu, người dân đã biến tấu món bánh mì bằng cách thu nhỏ lại cỡ 2-3 lần và bỏ 
thêm các nguyên liệu như thịt, chả lụa, pate (pa-tê) với các loại rau củ quả đặc 
trưng, tạo ra sự pha trộn giữa tính cầu kỳ của ẩm thực Pháp và sự giản dị, tươi mới 
của nguyên liệu Việt Nam. Ngoài ra, Pháp cũng đem đến mảnh đất ta nhiều loại 
bánh ngọt và kem như caramel (ca-ra-men), bánh su kem, bánh bông lan, bánh tart 
(tác),... những loại bánh với giá thành rất rẻ trên thị trường miền Bắc, tạo nên sự     
đa dạng trên các bàn ăn tráng miệng. Và dù cho hầu hết mọi loại bánh này đều 
được điều chỉnh hương vị ít ngọt hơn để phù hợp với khẩu vị người Việt, nhưng 
ta cũng không thể không phủ nhận rằng người Pháp đã mang theo một làn sóng 
mới lạ cho ẩm thực nước ta thời bấy giờ. 
 Ta cũng không thể không kể đến một món ăn đặc biệt - phở. Dù là một 
trong những món ăn biểu tượng của Việt Nam, nhưng nguồn gốc của phở lại được 
cho là kết quả của sự giao thoa giữa nước ta và cả hai nền văn hóa Trung Quốc - 
Pháp. Phở như ngày nay đã ra đời từ khoảng đầu thế kỷ 20, với xuất xứ khá mơ 
hồ bắt nguồn từ Hà Nội hoặc Nam Định. Theo nhiều giả thuyết, món phở chủ yếu 
chịu ảnh hưởng từ một món ăn Quảng Đông mang tên “ngưu nhục phấn” - một 
món bún ăn với thịt bò và chan với nước sốt nấu từ thịt. Cũng có giả thuyết cho 
rằng nguồn gốc của món phở là từ phương pháp chế biến bò hầm của món “pot-
au-feu”. Nhưng nhìn chung, phở và hai món ăn trên đều có điểm tương đồng là 
nước dùng rất thơm ngon, được ninh từ thịt hoặc xương heo, xương bò, tạo nên vị 
thanh đạm tự nhiên nhưng cũng rất đậm đà; và về kết cấu thì nguyên liệu chính 
của phở và “ngưu nhục phấn” đều là phần bánh dạng sợi.  1.2. Địa lý 
1.2.1. Vị trí địa lý 
 Châu thổ Bắc Bộ nằm ở vị trí chiến lược trên con đường giao lưu quốc tế 
theo hai trục chính là Tây - Đông và Bắc - Nam. Vị trí này giúp nơi đây trở thành 
tiền đồn quan trọng để tiến đến các vùng đất trong nước, đồng thời cũng là mục 
tiêu xâm lược hàng đầu của các thế lực muốn mở rộng ảnh hưởng tại Đông Nam 
Á trong quá khứ. Tuy nhiên, chính vị trí chiến lược đặc biệt này cũng mang lại cho 
cư dân châu thổ Bắc Bộ nhiều thuận lợi trong việc giao lưu văn hóa với các nền 
văn minh khác trên thế giới.  1.2.2. Địa hình 
 Địa hình Bắc bộ đa dạng và phức tạp, bao gồm đồi núi, đồng bằng, bờ 
biển và thềm lục địa. Bắc bộ có bề mặt địa hình thấp dần, xuôi theo hướng Tây 
Bắc - Đông Nam, được thể hiện thông qua hướng chảy của các dòng sông lớn. 
 Khu vực đồng bằng rộng lớn nằm ở lưu vực sông Hồng. Với diện tích 
khoảng 15.000 km² cùng với điều kiện tự nhiên thuận lợi như hệ thống sông ngòi 
dày đặc bồi đắp cho đất phù sa màu mỡ hay khí hậu 4 mùa phù hợp, đồng bằng 
sông Hồng trở thành khu vực thuận lợi cho việc thâm canh lúa nước, góp phần 
hình thành nên nguồn nguyên liệu phong phú, tươi ngon, thậm chí còn có thể trồng 
các loại cây ưa lạnh có giá trị vào mùa đông. Chính vì vậy, từ xa xưa, cư dân đồng     
bằng Bắc bộ sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp một cách thuần túy. 
Nền văn hóa lúa nước ở đây đã định hình nên một nền ẩm thực phong phú, với 
gạo là nguyên liệu chính trong các món ăn, chẳng hạn như cơm trắng không thể 
thiếu trong mỗi bữa ăn của người dân Việt. Ngoài ra, cư dân Bắc bộ còn quen 
thuộc với món xôi trong các bữa sáng, xôi thường được làm từ gạo nếp với đủ mọi 
loại biến tấu đa dạng từ xôi gấc, xôi lạc, xôi ngô,... Quanh Hà Nội nổi tiếng với 
các làng xôi Phú Thượng, Tương Mai, được cho là nôi của nhiều loại xôi Bắc bộ. 
Và nhắc đến nền văn hóa lúa gạo, ta không thể bỏ qua món bánh chưng, bánh dày 
- những món ăn truyền thống thường được sử dụng trong các dịp lễ Tết. Tuy nhiên, 
ngành nông nghiệp chăn nuôi ở khu vực này còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong thời 
kỳ dân ta còn phải chịu ách đô hộ của thực dân: do tình trạng khan hiếm lương 
thực ở những vùng nông thôn miền Bắc, vô số vùng đã phải sử dụng thịt chó làm 
thức ăn, dần dần, thịt chó trở thành đặc sản của miền Bắc với 6 món: luộc, chả,  dồi, xáo, chạo, nem. 
 Ở vùng trung du và miền núi, với đặc trưng địa hình dốc, thoải, thiên nhiên 
và sản xuất cũng không trù phú như ở đồng bằng Bắc bộ nên thói quen ăn uống 
của cư dân thường hướng vào mức ăn cho no, cho chắc. Chính vì vậy, nơi đây phát 
triển trồng trọt và canh tác các loại cây như ngô, khoai, sắn và một số loại rau màu. 
Người dân miền núi thường khai thác và chế biến các loại cây trồng phù hợp với 
điều kiện địa hình, từ đó sáng tạo nên các món ăn đặc trưng như mèn mén (món 
bắp xay của người H’Mông) và các món ăn từ khoai, sắn. Ngoài ra, các dân tộc 
thiểu số ở miền núi như Thái, Tày, Nùng, Mường thường sử dụng lá cây và các 
loại rau rừng trong bữa ăn hàng ngày, tạo nên nét đặc trưng độc đáo của ẩm thực  miền núi phía Bắc. 
 Trong khi vùng cao Tây Bắc nổi tiếng với nhiều loại thực vật, gia vị núi 
rừng, thì vùng Đông Bắc lại đa dạng các loại rau xanh, lúa gạo và thủy hải sản. 
Đối với con người Tây Bắc, các loại gia vị đặc trưng của núi rừng chính là linh 
hồn của ẩm thực nơi này, như mắc khén hay hạt dổi với hương vị thơm chất đại 
ngàn. Đồng bào Tây Bắc dùng mắc khén để chấm xôi nếp nương Tú Lệ, hoặc để 
ướp cùng các món nướng như pa pỉnh tộp (cá nướng), thịt lợn và thịt trâu gác bếp. 
Ngoài ra, Tây Bắc còn được biết đến với nhiều loại măng - một loại gia vị được ví 
như “lộc rừng” của mảnh đất này. Đi tiếp về hướng Đông Bắc, ta sẽ được biết đến 
với nhiều món ăn đặc sắc như bánh cuốn nước canh, các loại thủy hải sản như tôm 
chua, cá chua vùng hồ Ba Bể của người Tày.       
PHẦN 2: ĐẶC TRƯNG HƯƠNG VỊ VÀ PHONG CÁCH CHẾ BIẾN 
CỦA ẨM THỰC MIỀN BẮC 
Triết lý âm dương có ảnh hưởng sâu sắc đến ẩm thực miền Bắc Việt Nam, 
thể hiện rõ qua sự cân bằng hương vị và phong cách chế biến. Món ăn miền Bắc 
thường mang hương vị thanh đạm, với sự hòa quyện giữa vị ngọt, mặn, chua, cay, 
tạo nên sự hài hòa hoàn hảo. Nguyên liệu được lựa chọn cẩn thận, thường kết hợp 
giữa thực phẩm tươi sống (âm) như rau củ và thực phẩm nấu chín (dương) như 
thịt cá, nhằm đạt được sự cân bằng dinh dưỡng. Các kỹ thuật chế biến tinh tế như 
ninh, hầm, hay nướng không chỉ làm nổi bật hương vị của nguyên liệu mà còn tạo 
ra sự tương phản thú vị. Bên cạnh đó, cách trình bày món ăn cũng rất chú trọng 
đến sự hài hòa về màu sắc và hình thức, phản ánh triết lý âm dương trong việc duy 
trì sức khỏe con người. 
2.1. Món ăn mang hương vị thanh đạm 
Ẩm thực miền Bắc chú trọng vào sự nhẹ nhàng và thanh thoát trong hương 
vị. Các món ăn thường không quá mặn, quá cay, quá chua hay quá ngọt. Chính sự 
vừa vặn trong gia vị tạo nên một hương vị đặc trưng, dễ chịu, dễ ăn và không làm 
"quá tải" vị giác. Người miền Bắc thường chú trọng sự cân bằng , các món ăn 
thường có sự kết hợp hài hòa giữa các thành phần như mặn - ngọt - chua - cay , 
nhưng tất cả đều được thể hiện một cách nhẹ nhàng, tinh tế. Gia vị được sử dụng 
chủ yếu là nước mắm, gừng, hành, tỏi, tiêu và chút gia vị như đường, muối. Sự kết 
hợp của những gia vị này không phải để làm nổi bật mà để làm nền, làm nổi lên 
hương vị tự nhiên của nguyên liệu. Nước mắm là thành phần chủ đạo với độ mặn 
vừa phải và hương thơm nhẹ nhàng, là gia vị đặc trưng trong rất nhiều món ăn  miền Bắc. 
Các món ăn miền Bắc thường ít dầu mỡ, sử dụng nhiều rau củ, cá, thịt gia 
cầm, tạo cảm giác thanh đạm nhưng vẫn đầy đủ dinh dưỡng. Ví dụ như bún thang, 
phở, cháo… đều là những món ăn dễ ăn, ít gây ngán. Các món ăn được chế biến 
từ những nguyên liệu bình dân. Người Bắc rất sáng tạo trong việc chế biến các 
món ăn từ những nguyên liệu bình dân nhưng vẫn giữ được hương vị đặc sắc, 
chẳng hạn như bánh cuốn, bánh đúc hay canh măng,.... 
2.2. Nguyên liệu tươi ngon, tự nhiên 
Ẩm thực miền Bắc rất chú trọng đến nguyên liệu tươi ngon và sạch, điều 
này thể hiện rõ trong mỗi món ăn. Các món ăn thường sử dụng nguyên liệu tự 
nhiên như thịt, cá, rau củ quả theo mùa, mang đến hương vị đích thực của từng     
sản phẩm. Việc lựa chọn nguyên liệu tươi ngon không chỉ giúp món ăn trở nên hấp 
dẫn mà còn tạo ra hương vị đặc trưng, tự nhiên, phản ánh bản sắc ẩm thực nơi đây. 
Trong ẩm thực Bắc bộ, sự tươi mới của nguyên liệu luôn được đặt lên hàng 
đầu, và điều này không chỉ thể hiện sự tinh tế, cẩn trọng, mà còn là sự tôn trọng 
đối với nguyên liệu của người chế biến. Mỗi món ăn được làm ra đều được chăm 
chút từ khâu chọn nguyên liệu cho đến quá trình chế biến. Người miền Bắc không 
chỉ chú trọng đến hương vị mà còn rất quan tâm đến chất lượng và độ tươi ngon 
của thực phẩm. Họ thường đến chợ sớm để chọn lựa những sản phẩm tươi nhất, 
hoặc tự trồng rau củ tại nhà để đảm bảo sự sạch sẽ và an toàn cho bữa ăn của gia  đình. 
Mỗi món ăn không chỉ là sự kết hợp của các nguyên liệu, mà còn là sự cân 
bằng hoàn hảo giữa hương vị tự nhiên và kỹ thuật chế biến. Kỹ thuật nấu ăn của 
người miền Bắc thường nhẹ nhàng, tinh tế, giúp giữ lại hương vị nguyên bản của 
thực phẩm. Họ biết cách kết hợp các gia vị một cách hài hòa, không làm lấn át 
hương vị tự nhiên của nguyên liệu mà chỉ hỗ trợ làm nổi bật nó lên. Điều này khiến 
cho mỗi bữa ăn không chỉ ngon miệng mà còn có chiều sâu trong hương vị, mang 
lại trải nghiệm ẩm thực đáng nhớ cho người thưởng thức.Từ những bữa cơm gia 
đình đơn giản đến các món ăn trong những dịp lễ hội, tất cả đều mang dấu ấn của 
sự chăm chút và tình yêu dành cho ẩm thực. 
2.3. Phương pháp chế biến món ăn 
Ẩm thực miền Bắc Việt Nam nổi bật với sự tinh tế và hương vị thanh nhẹ, 
sử dụng nguyên liệu tươi ngon và các phương pháp chế biến đa dạng. Một trong 
những cách phổ biến là hấp, giúp giữ nguyên hương vị tự nhiên của thực phẩm. 
Luộc cũng là phương pháp thông dụng để nấu các món ăn, đặc biệt với các món 
rau muống hay thịt gà, thường được ăn kèm với nước chấm. Đối với những món 
ăn đậm đà hơn, người Bắc thường sử dụng phương pháp kho, chẳng hạn như thịt 
kho tàu hay cá kho tộ, tạo nên hương vị thơm ngon. Ngoài ra, món ăn có thể được 
chiên giòn, như chả giò hay đậu hũ chiên, đem lại cảm giác thích thú. Phương 
pháp nướng cũng rất phổ biến, với các món thịt nướng thơm lừng hay bánh mì 
nướng. Phương pháp xào giúp giữ độ giòn của nguyên liệu, như mì xào giòn hay 
đậu cô ve xào tỏi, trong khi ngâm thực phẩm trong nước muối hay giấm tạo ra các 
món dưa chua hấp dẫn như dưa hành hay dưa cà. Những phương pháp chế biến 
này không chỉ làm phong phú thêm món ăn miền Bắc mà còn thể hiện tinh thần 
giản dị, thanh đạm nhưng vẫn đậm đà hương vị.     
2.4. Tính lịch sự, trang trọng trong cách bày biện 
Trong ẩm thực miền Bắc, việc bày biện món ăn không chỉ đơn thuần là sắp 
xếp các món ăn lên bàn mà còn là một nghệ thuật tinh tế thể hiện sự tôn trọng đối 
với khách mời, gia đình và những giá trị văn hóa truyền thống. Đặc biệt, trong các 
dịp lễ Tết hay những bữa cỗ trọng thể, sự trang trọng và chỉn chu trong cách bày 
biện luôn được đặt lên hàng đầu. Những bữa ăn này thường được chuẩn bị công 
phu, từ khâu chọn lựa nguyên liệu cho đến cách chế biến và cuối cùng là việc trình  bày món ăn. 
Người miền Bắc thường sử dụng những loại đĩa, chén, và bát có họa tiết 
truyền thống, tạo cảm giác gần gũi và thân thuộc. Mỗi món ăn được bày biện cẩn 
thận, thể hiện sự tôn trọng đối với các món ăn và những người thưởng thức. Họ 
chú trọng đến sự hài hòa về màu sắc và hình thức, với những món ăn được sắp xếp 
một cách hợp lý để tạo sự cân đối. Thông thường, bàn ăn sẽ được trang trí bằng 
các loại hoa tươi hoặc trái cây, không chỉ làm cho không gian trở nên sinh động 
mà còn mang lại ý nghĩa phong thủy tốt lành, thể hiện lòng hiếu khách của gia  chủ. 
Hơn nữa, bữa ăn miền Bắc không chỉ đơn thuần là thời gian để ăn uống mà 
còn là dịp để mọi người quây quần bên nhau, chia sẻ những câu chuyện, tình cảm 
và ý nghĩa của gia đình. Tính trang trọng trong bày biện món ăn cũng góp phần 
khẳng định văn hóa hiếu kính, nhấn mạnh vai trò của gia đình trong xã hội. Trong 
mỗi bữa ăn, sự khiêm nhường và tôn trọng đối với tổ tiên, những người đi trước 
được thể hiện qua từng món ăn, từng lời mời và cả những cử chỉ của người phục 
vụ. Qua đó, không chỉ món ăn mà cả những giá trị văn hóa và đạo lý của người 
miền Bắc được truyền tải một cách trọn vẹn. Tất cả những yếu tố này kết hợp lại, 
tạo nên một bữa ăn không chỉ ngon miệng mà còn đậm đà hương vị văn hóa. 
2.5. Sự tinh tế trong các món ăn gia đình 
Bữa cơm gia đình miền Bắc tuy không cần quá cầu kỳ nhưng luôn thể hiện 
được sự tinh tế, đơn giản mà đầy đủ dưỡng chất. Các món ăn như cơm trắng, thịt 
kho, canh chua, rau xào đều có sự hòa quyện hoàn hảo giữa hương vị và chất dinh 
dưỡng, điều này không chỉ giúp các thành viên trong gia đình thưởng thức bữa ăn 
ngon miệng mà còn giúp gắn kết tình cảm với người thân. Mỗi món ăn được chế 
biến với tình yêu thương và sự chăm chút. Thịt kho được ướp đậm đà, thường là 
thịt heo hoặc thịt gà, kết hợp với nước dừa và gia vị, mang đến hương vị thơm 
ngon, quyến rũ. Canh chua, với vị chua thanh mát từ dứa , sấu hoặc cà chua, thường 
được nấu với các loại cá tươi ngon, không chỉ bổ sung độ ẩm cho bữa ăn mà còn 
tạo sự cân bằng hương vị.     
Rau xào, một phần không thể thiếu, không chỉ giúp bữa cơm thêm màu sắc 
mà còn cung cấp vitamin và khoáng chất cần thiết cho sức khỏe. Những món rau 
như rau muống, cải xanh hay mồng tơi được chế biến nhanh chóng, giữ nguyên 
độ giòn và màu xanh tươi, mang lại cảm giác tươi mới cho bữa ăn. Đặc biệt, bữa 
cơm miền Bắc còn thường kèm theo những món dưa muối hay dưa hành, tạo nên 
sự phong phú trong khẩu vị, đồng thời là món ăn truyền thống gắn liền với văn  hóa ẩm thực nơi đây. 
Chính sự đơn giản, mộc mạc và thân thiện trong các món ăn là điểm đặc 
biệt khiến bữa cơm miền Bắc trở nên ấm áp, thấm đượm tình yêu thương và là một 
phần không thể thiếu trong mỗi gia đình. Những bữa cơm này không chỉ đơn thuần 
là việc ăn uống mà còn là thời gian để các thành viên trong gia đình quây quần 
bên nhau, chia sẻ những câu chuyện trong ngày, tạo nên những kỉ niệm đáng nhớ. 
Không khí ấm cúng, tiếng cười nói rộn ràng, cùng với hương vị của những món 
ăn quen thuộc, tất cả tạo nên một không gian sum vầy đầy ý nghĩa.       
PHẦN 3: MỘT SỐ MÓN ĂN ĐẶC TRƯNG 
3.1. Các tỉnh miền núi Tây Bắc 
Trâu gác bếp Tây Bắc 
Gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân miền núi, nơi điều kiện tự 
nhiên khắc nghiệt và các nguồn thực phẩm không phải lúc nào cũng có sẵn. Được 
biết đến như một đặc sản nổi tiếng của các dân tộc vùng núi Tây Bắc, đặc biệt là 
ở các tỉnh như Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Món ăn này được chế biến từ thịt 
trâu tươi, Phần thịt sau khi được thái thành từng miếng vừa ăn, sẽ được ướp với 
gia vị như tiêu, tỏi, ớt, mắc khén, và muối, sau đó đem treo lên gác bếp. Quá trình 
gác bếp giúp thịt trâu dần khô lại, thấm đẫm gia vị, tạo nên hương vị đặc trưng 
thơm ngon, dai dai nhưng không cứng, thơm mùi của khói. Trâu gác bếp có thể ăn 
trực tiếp hoặc chế biến thành món nhúng, nướng hoặc xào với rau thơm.Món trâu 
gác bếp không chỉ là món ăn đậm đà hương vị núi rừng mà còn chứa đựng nét văn 
hóa đặc sắc của người dân Tây Bắc, là món quà quê vừa ngon miệng, vừa mang 
đậm bản sắc dân tộc.  3.2. Lạng Sơn  3.2.1 Khau nhục 
Khau nhục được biết đến là món ăn đặc trưng tại xứ Lạng và cũng là đặc 
sản Lạng Sơn nổi tiếng. Cái tên "Khau nhục" trong tiếng Tày có nghĩa là "thịt lợn 
hấp", "khâu" là "hấp", "nhục" là "thịt". Vì vậy, khau nhục là món thịt lợn được chế 
biến theo cách hấp với gia vị đặc trưng của vùng núi rừng.Khau nhục không chỉ 
ngon mà còn thể hiện sự khéo léo và tinh tế trong ẩm thực của người dân Lạng 
Sơn. Món ăn này thường được dùng trong các dịp lễ tết, tiệc tùng hay đón tiếp 
khách quý, vì vậy nó còn mang một ý nghĩa tượng trưng cho sự sum vầy, đoàn 
viên và lòng hiếu khách của người dân nơi đây. Món khau nhục Lạng Sơn được 
xem là "vị ngon của núi rừng", và khi đã thưởng thức một lần, nhiều người không 
thể quên được hương vị đặc biệt của nó, khiến ai cũng muốn quay lại để thưởng  thức thêm.  3.2.2. Phở chua 
Bắt nguồn từ những ngày xưa, khi người dân nơi đây sáng tạo ra món ăn 
này để tận dụng những nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, đồng thời tạo ra một 
món ăn vừa ngon, vừa dễ bảo quản trong những ngày không có nhiều thực phẩm 
tươi sống. Điểm đặc biệt là ở phần nước sốt (nước lủ) với thành phần quan trọng 
nhất là giấm đường, hòa quyện cùng hành tỏi phi thơm, mắm, gừng mà công thức     
làm ra phần nước sốt ấy thì chỉ riêng vùng đất Lạng Sơn mới có. Vậy nên nếu có 
thời gian, cơ hội nhất định thưởng thức món ăn này nhé!  3.3. Hà Nội 
3.3.1. Bún ốc nguội 
Phát triển từ những món ăn truyền thống của người Hà Nội, đặc biệt là 
những món ăn chế biến từ ốc. Bún ốc nguội là một trong những thức quà chứa 
đựng cái tinh tế, cầu kỳ của ẩm thực Hà thành. Điểm làm nên hương vị đặc trưng 
cho nước dùng là giấm bỗng từ nếp cái hoa vàng. Giấm bỗng có nơi tự ủ nên vị sẽ 
khác nhau. Dù ăn được cay hay không thì thực khách cũng nên cho một chút ớt 
chưng để bát bún ốc nguội của thêm màu sắc đậm đà, vị cay làm bật vị thanh chua, 
thơm dịu trong nước dùng.  3.3.2. Bún chả 
Món bún chả đã xuất hiện từ rất lâu đời, có thể là từ thế kỷ 19, trở thành 
một phần không thể thiếu trong ẩm thực Hà Nội. Bún chả là món ăn đặc biệt ngay 
từ khâu chế biến tới cách thưởng thức, gây thương nhớ và khiến biết bao tâm hồn 
yêu ẩm thực phải mê say.  3.3.3. Cốm 
Cốm - nét đặc trưng văn hóa ẩm thực của thủ đô nghìn năm văn hiến, mang 
một hương vị tinh tế, thanh tao của mùa thu. Đây không chỉ là một loại thực phẩm 
mà còn là một thức quà đặc biệt, gắn kết với những giá trị truyền thống. Mỗi hạt 
cốm dẻo đều mang vị sữa non thanh mát, hương thơm đặc trưng và phải trải qua 
nhiều công đoạn chế biến cẩn thận để tạo ra mẻ cốm hoàn hảo. Lúa nếp sau khi 
rang sẽ được giã và sàng sảy để loại bỏ vỏ trấu, sau đó nấu với nước lá cốm. Cốm 
Hà Nội được chế biến thành rất nhiều món ăn khác nhau như: bánh cốm, chả cốm, 
xôi cốm, chè cốm dẻo, cốm xào, chuối tiêu chấm cốm, cốm dẹp trộn dừa dẻo… 
Mỗi món ăn đều mang đến những hương vị đặc trưng làm mê mẩn thực khách.  3.4. Hải Phòng  3.3.1. Bánh mì que 
Bánh mì que là một thức quà ăn vặt nổi tiếng và đặc trưng của Thành phố 
Cảng. Bánh mì cay có kích thước nhỏ hơn bánh mì thường, bề ngang to bằng 
khoảng hai đầu ngón tay, dài khoảng một gang tay. Bên trong chỉ có nhân pate đơn 
giản và ăn cùng với “chí chương” - một loại tương ớt của Hải Phòng.     
3.4.2. Bánh đa cua Hải Phòng 
Bánh đa cua là một món ăn đặc trưng và nổi tiếng của Hải Phòng, được 
nhiều người xem là món ăn có tính đại diện rõ nhất cho phong cách chế biến ẩm 
thực của Hải Phòng. Được làm từ nguyên liệu chính là cua đồng tươi ngon hòa 
quyện cùng bánh đa dai dai và nhiều loại rau xanh theo mùa khác nhau. Thêm 
topping là giò, chả lá lốt, tôm mang đến một bát bánh đa nhiều màu sắc vô cùng  hấp dẫn.  3.5. Hải Dương  Bánh đậu xanh 
Bánh đậu xanh đã sớm trở thành sản vật đặc trưng nhất của tỉnh Hải Dương. 
Bánh đậu xanh không quá cầu kỳ mà thật giản dị, mộc mạc nhưng lại chứa đựng 
hương vị nồng nàn của miền quê Bắc Bộ. Bánh ngon làm bằng bột ướt, có trộn 
mỡ, đường vừa phải để tạo độ ngọt thanh và phải béo ngậy, thơm mùi đậu xanh. 
Để thưởng thức được trọn vẹn hương vị của bánh, có thể dùng thêm trà tàu hoặc 
chè xanh, vừa thư thái nhâm nhi, vừa tận hưởng cảm giác từng viên bánh tan đều 
trong miệng, thơm ngon, béo ngậy và vô cùng thanh mát.  3.6. Ninh Bình  Cơm cháy Ninh Bình 
Phát minh từ khi người dân phải tận dụng cơm thừa để chế biến món ăn. 
Với nguyên liệu hòa trộn giữa hai loại gạo khô và dẻo, qua nhiều công đoạn phơi 
khô, chiên phồng để cho ra được những mẻ cơm cháy giòn rụm, thơm phức. Cơm 
cháy thường sẽ ăn chung với ruốc hoặc hành lá phi thơm. Cơm cháy Ninh Bình 
không chỉ là một món ăn, mà còn là một hành trình khám phá vị giác đầy phấn 
khích. Hương vị của nó đa dạng, từ chà bông mềm mịn đến hương thơm từ những 
hạt gạo nếp thơm lừng. Chính vì vậy, Cơm cháy Ninh Bình Vàng mang đến sự 
hoàn hảo trong xu hướng thưởng thức của mỗi thực khách.  3.7. Hà Nam 
Cá kho làng Vũ Đại 
Món ăn này đã có từ rất lâu, khoảng từ thế kỷ 19, thời kỳ phong kiến. Vào 
thời điểm đó, người dân trong làng có nghề đánh bắt cá và chế biến các món ăn từ 
cá. Món cá kho này đã trở thành biểu tượng ẩm thực của vùng quê Bắc Bộ và được 
biết đến rộng rãi qua những câu chuyện dân gian, đặc biệt là qua tác phẩm "Chí 
Phèo" của nhà văn Nam Cao, nơi có nhắc đến món cá kho làng Vũ Đại. Với nguyên 
liệu chủ yếu là cá tươi, nước mắm ngon, gia vị tự nhiên như gừng, tỏi, ớt, tiêu, và     
đặc biệt là nước dừa tươi. Một yếu tố quan trọng tạo nên hương vị đặc trưng của 
món cá kho này là cách kho chậm, trong thời gian dài, giúp cá thấm đều gia vị, 
mềm mại, ngọt thịt mà không bị nát. Món cá kho làng Vũ Đại có màu nâu sậm, 
mùi thơm đặc trưng của nước mắm, thịt cá chắc, thấm đẫm gia vị. Khi ăn, người 
thưởng thức sẽ cảm nhận được sự hòa quyện hoàn hảo giữa vị ngọt tự nhiên của 
cá, mặn mà của nước mắm, và một chút cay cay, thơm nồng của gừng, tỏi. Món 
ăn này thường được dùng kèm với cơm trắng và rau sống, tạo nên một bữa ăn đậm 
đà hương vị truyền thống.       
PHẦN 4: QUY TẮC TRÊN BÀN ĂN VÀ VĂN HÓA ẨM THỰC 
4.1. Quy tắc bàn ăn 
Ẩm thực miền Bắc không chỉ nổi tiếng với những món ăn tinh tế mà còn 
được biết đến với những quy tắc và nghi thức trên bàn ăn. Những quy tắc này thể 
hiện sự trang trọng cũng như phản ánh giá trị văn hóa và phong tục tập quán của 
người dân nơi đây. Triết lý âm dương, một yếu tố cốt lõi trong văn hóa Việt Nam, 
thấm nhuần vào mọi khía cạnh đời sống, bao gồm cả quy tắc trên bàn ăn của người 
miền Bắc. Trong bữa cơm miền Bắc, các món ăn thường được phối hợp sao cho 
đạt sự cân bằng âm dương: món mặn đi kèm món nhạt, món nóng kết hợp với món 
nguội, hay món có tính hàn như canh cua thì ăn cùng rau muống chẻ và cà pháo 
muối có tính nhiệt. Quy tắc này không chỉ đảm bảo sự hài hòa về vị giác mà còn 
phản ánh quan niệm duy trì sức khỏe thông qua ăn uống. 
Trên bàn ăn, cách sử dụng đũa và bát cũng mang tính biểu tượng âm dương. 
Đũa, với hình dáng dài và thanh mảnh, tượng trưng cho dương; bát, với hình dáng 
tròn, tượng trưng cho âm. Sự kết hợp này thể hiện tinh thần cân đối trong từng chi 
tiết nhỏ. Khi gắp thức ăn, người miền Bắc thường nhắc nhở sử dụng đầu đũa ngược 
để thể hiện sự sạch sẽ và tôn trọng, điều này cũng gắn liền với triết lý “âm dương 
không lẫn lộn”. Trong cách bày trí, màu sắc và hình dáng món ăn được sắp xếp 
khéo léo để tạo sự hài hòa, ví dụ: màu xanh của rau củ kết hợp với màu đỏ của thịt 
hay màu vàng của xôi, thể hiện sự đối lập nhưng bổ sung, như nguyên lý âm dương  luôn song hành. 
 Trong bữa ăn gia đình hoặc dịp trong các dịp đặc biệt, người lớn tuổi thường 
được ưu tiên ngồi ở vị trí quan trọng như ở đầu hoặc ở trung tâm bàn ăn nhằm thể 
hiện sự tôn trọng và hiếu thảo của con, cháu trong nhà. Khác với miền Nam, khi 
ăn cơm, người miền Bắc thường mời cơm từ người lớn tuổi nhất trong nhà, từ ông 
bà rồi mới tới cha mẹ và anh chị. Khi nhà có khách, chủ nhà sẽ đơm cơm rồi mời 
họ ăn trước. Lời mời phải nhẹ nhàng, lễ phép đi kèm với hành động so đũa, lau 
bát cho người lớn tuổi hơn, thể hiện sự kính trọng bề trên, sự tôn trọng khách mời 
trong bữa ăn nói riêng và trong văn hóa ứng xử nói chung. 
Với các gia đình truyền thống ở Bắc bộ, những thế hệ đi trước như ông bà, 
cha mẹ đều rất coi trọng việc giáo dục, dạy dỗ con cháu các quy tắc trên bàn ăn, 
ví dụ như: Đũa được cầm bằng tay phải và sử dụng một cách nhẹ nhàng, không gõ 
đũa vào bát hoặc đĩa, vì điều này được xem là thiếu tôn trọng; hay việc không 
được rung đùi khi ăn vì hành động này được coi là vô lễ, theo nhân tướng học, 
rung đùi còn là tướng bần tiện của nam và tướng dâm dục ở nữ; khi ăn cơm trắng 
thì phải ăn hết không để sót lại hạt nào, việc này thể hiện sự biết ơn công sức làm