












Preview text:
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
CHƯƠNG TRÌNH CHẤT LƯỢNG CAO CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI
CHỦ ĐỀ: VẤN ĐỀ ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO HIỆN NAY GROUP 5
STT TÊN MÃ SINH VIÊN
1 Đỗ Ánh Phượng (leader) 25A4013086
2 Nguyễn Thùy Anh 25A4013005 3 Nguyễn Bích Ngọc 25A4013078 4
Đinh Hoàng Lâm 25A4013043 5
Phạm Việt Anh 25A4013007 6
Lê Đức Sơn 25A4013090 Ha Noi - 12/2023
Mục đích nghiên cứu:
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời và biến đổi theo sự biến động của hoàn cảnh lịch
sử xã hội. Cũng từ đó, chúng ta còn biết một cách khái quát rằng, tôn giáo còn tồn tại trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vậy, trong quá trình xây dựng đó, tôn giáo còn tồn tại là do
những nguyên nhân cụ thể gì? Mặt khác, Trên đây là những mục đích mà nhóm em muốn
hướng tới khi nghiên cứu đề tài: “Vấn để tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
Nội dung nghiên cứu:
Nhóm chúng em nghiên cứu về đề tài: “VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG TIẾN TRÌNH XÂY
DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM ’’
Nội dung nghiên cứu bao gồm 3 chương và phần kết luận trình bày quan điểm của nhóm chúng em.
Chương 1: Tìm hiểu chung về tôn giáo ở Việt Nam
Chương 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin về vấn đề tôn giáo
Chương 3: Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
1. TÌM HIỂU CHUNG VỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Tôn giáo và ý nghĩa tôn giáo trong đời sống a) Khái niệm
Tôn giáo là một hình thức đặc biệt của ý thức xã hội, trong đó hiện tượng khách quan được
phản ảnh bằng những biểu tượng hư ảo.
b) Ý nghĩa của tôn giáo đối với đời sống
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã nhận
đinh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tôn giáo có những giá trị tốt đẹp về
đạo đức, văn hóa. Vấn đề tôn giáo đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giáo
lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền
đạo đức mới và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo
là góp phần duy trì đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân
- Thiện - Mỹ. Tuy nhiên, đạo đức tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người
đến hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động, sáng tạo của con người. Vấn đề đặt ra là, cần
nhận điện đúng vai trò của tôn giáo nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn
chê những tác động tiêu cực của nó đối với việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam hiện
nay. Trong xu thế đổi mới hiện nay, cùng với những chuyển biến căn bản trong đời sống kinh
tế - xã hội, sự đổi mới trong tư duy lý luận, trong nhận thức về tôn giáo cũng đã và đang diễn
ra. Trước đây, trong một thời gian dài, chúng ta đã coi tôn giáo như là "tàn dư" của
xã hội cũ, là kết quả sai lầm trong nhận thức của con người. Tôn giáo bị xem như cái đối lập
với chủ nghĩa xã hội, với khoa học, kỹ thuật hiện đại và cần phải loại bỏ. Tuy nhiên trong tiến
trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định mang tính khách
quan, khoa học về tôn giáo, xác định tôn giáo còn tồn tại lâu dài và có một số giá trị đạo đức
phù hợp với lợi ích của toàn dân, với công cuộc xây dựng xã hội mới và do vậy, cần phát huy
những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong
việc họach định chính sách tôn giáo, bảo vệ và tu tạo các di sản văn hóa tôn giáo. Việc tìm hiểu,
chỉ ra chân giá trị của các tôn giáo còn có ý nghĩa nhất định trong công cuộc đổi mới hiện nay,
khi mà chúng ta cần phải huy động mọi nguồn lực tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có vấn đề quan trọng là củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc và kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức trong tôn giáo vào việc xây dựng
nền đạo đức mới, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2 Một số tôn giáo phổ biến ở nước ta
Việt Nam là một Quốc gia đa tôn giáo, trong đó có 6 tôn giáo chính, tồn tại và phát triển
cùng với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là: Phật giáo, Thiên Chúa giáo,
đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài. Mỗi một tôn giáo đều mang những nét đặc
trưng riêng, tuy vậy các tôn giáo đều có chung một đặc điểm đó là khuyến khích giáo dân của
đạo mình làm những việc tốt đạo đẹp đời , hoạt động tôn giáo trên khuân khổ của pháp luật Việt Nam.
2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
2.1. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo a) Bản chất của tôn giáo
Vấn đề 1: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất của tôn giáo
● Lời giải thích 1: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực
khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí.
● Vậy thì Nhân tố nào quyết định sự tồn tại - phát triển của hình thái ý thức xã hội
của tôn giáo? - Nhân tố đó là Sản xuất vật chất và các quan hệ kinh tế. Thế thì tại
sao MLN lại chọn nhân tố này?
→ Không để các bạn phải suy nghĩ thêm lâu, đó là bởi vì: Mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ
chức, thiết chế tôn giáo đều được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ những điều kiện sống
nhất định trong xã hội và rồi chúng sẽ đều thay đổi theo những thay đổi của nền kinh tế.
● Lời giải thích 2: Tôn giáo là một thực thể xã hội (Các tôn giáo cụ thể: Công giáo, Tin
lành, Phật giáo, Hồi giáo, …) - Tiêu chí cơ bản:
+ Có niềm tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tôn giáo).
+ Có hệ thống giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, nhân
sinh quan, đạo đức, lễ nghi của tôn giáo.
+ Có hệ thống cơ sở thờ tự.
+ Có tổ chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo chuyên nghiệp.
+ Có hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự nguyện tin theo một tôn giáo nào
đó và được tôn giáo đó thừa nhận.
● Sau 2 lời giải thích trên, Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã tổng hợp lại và khẳng định:
“Tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra”
- Con người sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ,
nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Tuy nhiên, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc
vào tôn giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.
=> Theo khoa học CNMLN, về phương diện thế giới quan, các tôn giáo mang thế giới quan
duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng. Mặc dù có sự khác biệt về thế
giới quan, nhưng 2 trường phái này vẫn có thể cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn
ở thế giới hiện thực.
Vấn đề 2: Phân biệt Tôn giáo - Tín ngưỡng - Mê tín dị đoan
- Tín ngưỡng: hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cách thức thể hiện niềm tin của
con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần thánh, linh thiêng để cầu
mong sự che chở, giúp đỡ.
- Có nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, Tín ngưỡng thờ
anh hùng dân tộc, Tín ngưỡng thờ Mẫu, …
● Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất, nhưng có giao thoa nhất định → Giống nhau:
+ Đều có niềm tin vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao mà con người không thể nhìn thấy
bằng da bằng thịt (VD: những người theo Công giáo thì tin vào Đức Chúa Trời, người
theo tín ngưỡng thì tin vào gia tiên)
+ Điều chỉnh hành vi ứng xử sao cho giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình và
noi gương sáng những của đấng được tôn thờ.
→ Khác nhau: mình đã vạch ra 4 khía cạnh để phân biệt 2 loại hình này Tôn giáo Tín ngưỡng Giáo chủ
Chỉ thờ 1 chủ duy nhất là Xuất phát từ tập tục truyền thống của
(người sáng tạo đấng sáng lập ra tôn giáo dân tộc từ thời xa xưa, không rõ ra tôn giáo ấy) đó.
người sáng lập nên người dân có
quyền đa dạng tín ngưỡng.
VD: Thích ca Mâu Ni VD: Một người có tín ngưỡng thờ
sáng lập ra đạo Phật; Nhà cúng gia tiên, nhưng ngày mồng Một
tiên tri Mô-ha-mét sáng và Rằm âm lịch hàng tháng, người đó lập ra đạo Hồi còn ra đình lễ Thánh.
Giáo lý (lời răn Có hệ thống kinh điển đồ Chỉ có một số bài văn tế (đối với tín
dạy kinh điển sộ.
ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn của giáo chủ
VD: Những bộ kinh thư (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ cho các tín đồ)
đồ sộ của Phật giáo; Mẫu), các cuốn Gia phả,...
Kinh thánh và giáo luật → không phải kinh điển của Công giáo, … Giáo
Chỉ có những điều kiêng, kị được Mỗi tôn giáo đều có luật
truyền qua nhiều thế hệ mỗi khi hành những cuốn giáo luật (những
lễ thờ thần thánh. Không rõ người
riêng rẽ do đoàn giáo hội điều luật
soạn thảo nên không phải ai cũng
chuyên nghiệp soạn thảo do giáo hội soạn
tin và tránh những điều kiêng cữ (đoàn được đào tạo thảo và ban đó.
chuyên môn sâu, học vấn
hành để duy trì cao, …) nếp sống đạo)
Tín đồ (người tự Có và chỉ tin theo thần Không vì họ được tùy ý thờ đa dạng nguyện theo của tôn giáo họ.
thần theo ý mình mong muốn. tôn giáo)
● Mê tín dị đoan
- Mê tín dị đoan: niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần thánh đến mức
độ mê muội, cuồng tín,
→ dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch quá mức, trái với các giá trị văn hóa, đạo
đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và cộng đồng.
b) Nguồn gốc của tôn giáo ●
Nguồn gốc tự nhiên
- Trong xã hội công xã nguyên thủy, do lực lượng sản xuất chưa phát triển, trước thiên
nhiên hùng vĩ tác động khiến con người cảm thấy yếu đuối và bất lực. Do không giải
thích được nên con người đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí.
VD: thần sấm sét Thor , Thần mưa, Thần tình yêu, …
- Trong xã hội giai cấp, có áp bức bất công, do không giải thích được nguồn gốc của sự
phân hóa giai cấp và áp bức bóc lột bất công, …; sự lo sợ trước sự thống trị của các lực
lượng xã hội, con người trông chờ vào sự giải phóng của một lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế.
VD: Nữ thần hòa bình, Thần nông, Thần sung túc, …
● Nguồn gốc nhận thức
- Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo chính là sự tuyệt đối hóa, sự cường điệu mặt
chủ thể của nhận thức con người, biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh.
→ Sự nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình có giới hạn.
→ Do, khi mà khoảng cách giữa “biết” và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà
khoa học chưa giải thích được, thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính
các tôn giáo. Ngay cả những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ
dân trí thấp, chưa thể nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn
giáo ra đời, tồn tại và phát triển
→ Con người đã tuyệt đối hóa, sự cường điệu, biến cái nội dung khách quan thành cái siêu nhiên, thần thánh.
● Nguồn gốc tâm lý
- Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay trong những lúc ốm đau, bệnh
tật; ngay cả những may, rủi bất ngờ xảy ra, hoặc tâm lý muốn được bình yên khi làm
một việc lớn (ma chay, cưới xin, làm nhà, khởi đầu sự nghiệp kinh doanh, …), con
người cũng dễ tìm đến tôn giáo.
- Thậm chí cả những tình cảm tích cực như tình yêu, lòng biết ơn, lòng kính trọng đối với
những người có công với nước, với dân cũng dễ dẫn con người đến với tôn giáo (thờ
các anh hùng dân tộc, thờ các thành hoàng làng, …)
c) Tính chất của tôn giáo ● Tính lịch sử
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử. Nó có sự hình thành, tồn tại và phát
triển có khả năng biến đổi trong những giai đoạn lịch sử nhất định để thích nghi với
nhiều chế độ chính trị - xã hội qua từng thời kỳ. Chính các điều kiện kinh tế - xã hội,
lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị phân liệt, chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.
VD: Đạo Kito (Kito giáo) được chia thành nhiều hệ phái khác nhau để phù hợp với quan
hệ lịch sử - xã hội của tín đồ như hệ phái Công giáo, Chính thống giáo (phương Đông
và phương Tây), Tin lành và Anh giáo.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi
khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất
các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời
sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
● Tính quần chúng
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất cả dân tộc, quốc gia, châu lục.
- Không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ rất đông đảo (¾ dân số thế giới); mà còn thể hiện
ở chỗ, các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.
- Dù tôn giáo hướng con người vào niềm tin hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, nhưng
nó luôn luôn phản ánh khát vọng của những người lao động về một xã hội tự do, bình
đẳng, bác ái. Nhiều tôn giáo có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện, vì thế, được
nhiều người ở các tầng lớp khác nhau trong xã hội, đặc biệt là quần chúng lao động tin theo. ● Tính chính trị
- Khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của
con người về bản thân và thế giới xung quanh mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị.
- Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự đối
kháng về lợi ích giai cấp. Do:
+ Tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích,
nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc nên tôn giáo mang tính chính trị.
+ Khi các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp
mình, chống lại các giai cấp lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính
trị tiêu cực, phản tiến bộ.
=> Vì vậy, cần nhận rõ ràng rằng, đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu
cầu tinh thần; song trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị - xã hội lợi dụng
thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ.
VD: Vào những năm 20 của thế kỷ XX, chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nổ ra
nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu, với mục tiêu hàng đầu là xuyên tạc, phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản; trong đó có Việt Nam.
Về vấn đề tôn giáo, các thế lực thù địch đi sâu tuyên truyền, gieo rắc tâm lý cho rằng,
chủ nghĩa xã hội không chấp nhận tôn giáo, xóa bỏ tôn giáo, từ đó tạo ra khoảng cách, sự đối
kháng giữa tôn giáo với đời sống hiện thực xã hội. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta chưa bao giờ có tư tưởng kỳ thị hay áp bức tôn giáo mà luôn nhất quán nhận thức: tín ngưỡng,
tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, chúng ta cần quán triệt, thực hiện và
kiên quyết đấu tranh với những luận điệu vu khống, xuyên tạc của các thế lực thù địch, cho
rằng Đảng, Nhà nước ta kỳ thị tôn giáo.
2.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tình hình tôn giáo có thể biến đổi theo nhiều
cách khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh lịch sử và văn hóa cụ thể của từng quốc gia. Tuy
nhiên, ở nhiều nơi trên thế giới, quá trình này thường đi kèm với sự thay đổi đáng kể trong
vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo trong xã hội.Nó thường phức tạp và đa dạng. Có thể mở ra
cơ hội cho sự đa dạng tôn giáo và tự do tín ngưỡng, nhưng cũng có thể tạo ra sự căng thẳng
giữa các giá trị tôn giáo truyền thống và các giá trị xã hội mới.
Vì vây, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo các nguyên tắc sau;̣
a) Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do, không tín ngưỡng của nhân dân
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng thiêng
liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuôc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín ngưỡng và tự dọ
không tín ngưỡng thuôc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Quyền này nói lên rằng việ c
theọ đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuôc quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không ̣
môt cá nhân, tổ chức nào, kể cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hộ i… được quyền
caṇ thiêp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản đều xâm phạm đến quyền tự
dọ tư tưởng của họ.Ví dụ: người chồng ép vợ mình đổi từ đạo Thiên Chúa sang đạo Phật để
giống với gia đình, dòng họ nhà chồng; hành vi này vi phạm Điều 24 Hiến pháp 2013 và Luật
Hôn nhân và Gia đình "quyền Bình đẳng Hôn nhân Và Gia đình trong quan hệ nhân thân".
Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiên bản chất ưụ viêt
của chế độ xã hộ i chủ nghĩa. Nhà nước xã hộ i chủ nghĩa không can thiệ p và không chọ bất
cứ ai can thiêp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền lựa chọn theo hay không ̣ theo
tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo và hoạt đông tôn giáo bình thường, các cơ sở thờ tự,̣ các
phương tiên phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân được Nhà nước ̣ xã hôi
chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ .̣Ví dụ: Nhà nước Việt Nam cho phép các nhà thờ, giáo xứ đạo
Thiên Chúa hằng tuần tổ chức các buổi đọc Kinh thánh, nghe giảng và xem những tiết mục liên
quan đến Thiên Chúa giáo.
b) Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
Nguyên tắc này để khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ hướng vào giải quyết những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủ trương can thiêp ̣ vào
công viêc nộ i bộ của các tôn giáo. Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, muốn thay đổi ý ̣ thức
xã hôi, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hộ
i; muốn xoá bỏ ảo tưởng nảỵ sinh
trong tư tưởng con người, phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra ảo tưởng ấy. Điều cần thiết trước hết
là phải xác lâp được mộ t thế giới hiệ n thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và ̣ thất học…
cũng như những tê nạn nảy sinh trong xã hộ i. Đó là mộ t quá trình lâu dài, và ̣ không thể thực
hiên được nếu tách rời việ c cải tạo xã hộ i cũ, xây dựng xã hộ i mới.̣
c) Phân biêt hai mặt chính trị và tư tưởng; tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng ̣ tín
ngưỡng, tôn giáo trong quá trình giải quyết vấn đề tôn giáo
Trong xã hôi công xã nguyên thuỷ, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiệ n thuần tuý về tự
tưởng. Nhưng khi xã hôi đã xuất hiệ n giai cấp thì dấu ấn giai cấp – chính trị ít nhiều đều in rõ ̣
trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiên và có mối quan hệ vớị
nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo. Mặt chính trị phản ánh mối quan hê giữạ
tiến bô với phản tiến bộ , phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các ̣
giai cấp, mâu thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiêp cách mạng vớị
lợi ích của nhân dân lao đông. Mặt tư tưởng biểu hiệ n sự khác nhau về niềm tin, mức độ tiṇ
giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như những
người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng.
Phân biêt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực chất là ̣ phân biêt
tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo và ̣ trong vấn đề
tôn giáo. Sự phân biêt này, trong thực tế không đơn giản, bởi lẽ, trong đời sống ̣ xã hôi, hiệ n
tượng nhiều khi phản ánh sai lệ ch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong ̣ tôn giáo
thường đan xen vào nhau. Mặt khác, trong xã hôi có đối kháng giai cấp, tôn giáọ thường bị yếu
tố chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhân biết vấn đề chính trị hay tư tưởng ̣ thuần tuý trong
tôn giáo. Viêc phân biệ t hai mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng ̣ cực đoan trong quá
trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.
d) Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo không phải là môt hiệ n tượng xã hộ i bất biến, ngược lại, nó luôn luôn vậ n độ ng ̣
và biến đổi không ngừng tuỳ thuôc vào những điều kiệ n kinh tế – xã hộ i – lịch sử cụ thể. Mỗị
tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển nhất định. Ở những thời kỳ
lịch sử khác nhau, vai trò, tác đông của từng tôn giáo đối với đời sống xã hộ i không giống ̣
nhau. Quan điểm, thái đô của các giáo hộ i, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của đời sống ̣
xã hôi luôn có sự khác biệ t. Vì vậ y, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánḥ
giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể.
3. TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG,
NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
3.1 Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam a) Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo
Hiện Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo (chiếm 27% dân số cả nước), hơn
54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự... (Với vị trí địa lý nằm ở
khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu
với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hoá,
các tôn giáo trên thế giới)
b) Tôn giáo ở Việt Nam thì đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình và gần như
không có xung đột, đấu tranh tôn giáo
- Sự đa dạng về nguồn gốc:
+ phương Đông: Phật giáo,Lão giáo và Nho giáo.
+ phương Tây: Thiên Chúa giáo, Đạo tin lành
- Tín đồ các tôn giáo khác nhau chung sống hoà bình trên một địa bàn, có sự tôn trọng
lẫn nhau và chưa từng xảy ra xung đột.
c) Các tôn giáo vào Việt Nam nói chung luôn đồng hành cùng dân tộc, và có
nhiều đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước
- Cùng tầng lớp nhân dân làm nên thắng lợi to lớn, vẻ vang trong các giai đoạn lịch sử,
có ước vọng sống “ tốt trời, đẹp đạo”
- Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn xuất thân từ nhân dân lao động có tinh thần yêu
nước, có tinh thần dân tộc chống giặc ngoại xâm, tôn trọng công lý, đi theo Đảng, cách
mạng, hăng hái tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
d) Hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong giáo hội, có
uy tín, ảnh hưởng với tín đồ
- Chức sắc tôn giáo là: tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo
- Chức năng: hướng dẫn, vận động, khuyên bảo tín đồ chăm chỉ làm ăn, chấp hành tốt
pháp luật, tránh các tệ nạn xã hội, chấp hành các quy định ở địa phương, xây dựng tình
làng nghĩa xóm, tôn trọng và đoàn kết các tôn giáo, dân tộc.
e) Các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài
- Ở nước ta, không chỉ tôn giáo ngoại nhập mà tôn giáo ngoại sinh đều có quan hệ với
các tổ chức, cá nhân nước ngoài
(Hiện nay, nhà nước Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên toàn thế giới => đây là điều kiện gián tiếp để củng cố phát sinh mối
quan hệ giữa tôn giáo ở Việt Nam và trên toàn thế giới)
- Quan hệ quốc tế của các tôn giáo rất đạ dạng (hoạt động thuần túy theo giáo lý, giáoluận;
các hội nghị, hội thảo khóa đào tạo tôn giáo ở nước ngoài, ...)
- Thế lực xấu chưa bao giờ từ bỏ âm mưu “diễn biến hoà bình” lợi dụng tự do tín ngưỡng,
tôn giáo móc nối với số bất mãn chế độ, có tư tưởng định kiến với Đảng, Nhà nước ta,
xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, quy chụp những điều không có thật,
yêu cầu thả người “đấu tranh cho tự do tôn giáo”, xuyên tạc quy định cua Luật tín
ngưỡng, tôn giáo “việc đăng ký điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung” là nhằm “kìm
kẹp hoạt động tôn giáo”, lợi dụng những vấn đề xã hội như: ô nhiễm môi trường, công
tác cán bộ, công tác phòng chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước để xuyên tạc quan
điểm, chủ trương, chính sách pháp luật của Việt Nam. Mục tiêu là gây rối loạn trong
lòng dân, trong chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, gây sự hoài ghi, giảm sút niềm
tin của chức sắc tôn giáo và tín đồ quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước ta.
Tháng 9/2019, A Ga (đối tượng FULRO
lưu vong ở Mỹ hiện đang bị Công an
tỉnh Gia Lai truy nã về tội “Tổ chức
người khác trốn đi nước ngoài” đã thành
lập một tổ chức để chống phá
Bề ngoài, “Hội thánh Tin lành đấng
Christ Tây Nguyên” là tổ chức sinh hoạt
tôn giáo bình thường với các hoạt động
hát thánh ca, chia sẻ kinh thánh và cầu
nguyện. Tuy nhiên, bản chất của “Hội
thánh Tin Lành đấng Christ Tây
Nguyên” chính là tổ chức phản động đội
lốt tôn giáo để tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia. A Ga đã liên kết với các tổ
chức phản động nước ngoài khác như “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” (BPSOS) của Nguyễn
Đình Thắng ở Mỹ, nhóm “Người Thượng đứng lên vì công lý” (MSFJ) của Y Quynh Bdăp ở
Thái Lan.Mục đích của tổ chức bất hợp pháp này là tập hợp tín đồ là người dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên liên kết với các nhóm Tin lành khác và số đối tượng phản động người Việt lưu
vong, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để chống phá nhà nước, đòi thành
lập “nhà nước riêng, tôn giáo riêng” cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
3.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo hiện nay a) Đồng
bào các dân tộc tôn giáo là bộ phận của khối đoàn kết đại dân tộc
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn
tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng đất nước. Cần tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
đồng thời chống lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp
luật, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ dân tộc, gây rối, xâm phạm đến lợi ích quốc gia. Đoàn
kết gắn bó đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Các dân tộc tôn giáo cùng phấn đấu cho lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ
gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
b) Mọi người dân đều có quyền tự do chọn tôn giáo
Mỗi người dân của nước Việt Nam đều có quyền tự chọn tôn giáo để theo, miễn rằng tôn
giáo đó được nhà nước thừa nhận hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Đồng
thời người dân có thể lựa chọn không theo tôn giáo nào mà vẫn có quyền tham gia các hoạt
động của bất kỳ tôn giáo nào nếu được sự cho phép của những người đứng đầu của tôn giáo đó ở nước ta.
c) Công tác vận dụng quần chúng là cốt lõi của công tác tôn giáo
Ba là, nội dung dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Hướng
công tác tôn giáo vào công tác vận động quần chúng, từ đó tìm mẫu số chung, sự tương đồng
giữa người có đạo và người không có đạo để đoàn kết phấn đấu cho lợi ích chung là độc lập
cho dân tộc và cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi người, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Công tác vận động quần chúng tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu
nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các
chính sách kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân
dân, trong đó có đồng bào tôn giáo.
d) Làm tốt công tác tôn giáo là trác nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị
Bốn là, công tác tôn giáo có trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tôn giáo và những hoạt
động tôn giáo gắn với đời sống tâm linh của đồng bào có đạo và liên quan đến nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội, quan hệ đến các cấp, các ngành, các địa bàn dân cư. Vì vậy, làm tốt công
tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, làm tốt công tác tôn giáo. Tăng cường củng
cố và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo, nhất là
ở những địa bàn trọng điểm có đông đồng bào tôn giáo.
Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng quyền tự do tôn giáo của công dân.
e) Mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận
được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mỗi tín đồ có quyền tự bày tỏ niềm
tin tôn giáo của mình tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc
theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật: không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín, dị đoan, không
được ép buộc người dân theo đạo.
Đồng thời, nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định Hiến pháp và pháp luật. Các tổ chức tôn giáo có tôn
chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật được Nhà nước
cho phép, được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh
thánh và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định pháp luật...
Như vậy, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo là nhất quán
và xuyên suốt và xoay quanh 5 nhóm vấn đề lớn đảm bảo nguyên tắc mọi hoạt động tôn giáo
đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, hướng đến mục tiêu chung đoàn kết gắn bó đồng bào
theo các tôn giáo và không theo tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân
3.3 Liên hệ tôn giáo: đoàn kết tôn giáo, xây dựng đất nước a) Đối với học sinh,
sinh viên trong vấn đề dân tộc, tôn giáo
● Tôn trọng và thực hiện đúng các quy định pháp luật, cống hiến cho sự phát triển của đất
nước: Xây dựng tư tưởng chính trị vững vàng, tìm hiểu nắm rõ đường lối tư tưởng của Đảng và Nhà nước.
● Đặt niềm tin vào các tôn giáo và tôn trọng các giá trị tôn giáo của mình, đồng thời tôn
trọng và đối xử bình đẳng với những người thuộc tôn giáo khác.
● Tham gia vào các hoạt động tình nguyện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng
trong đoàn kết dân tộc, tích cực giao lưu và tìm hiểu các dân tộc, tôn giáo khác nhau.
Qua đó phát huy những giá trị tốt đẹp vốn có của dân tộc.
● Quan tâm đến các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội, tham gia vào các cuộc thảo luận
và đóng góp ý kiến để cùng nhau tìm kiếm giải pháp cho vấn đề dân tộc, tôn giáo.
● Học sinh, sinh viên luôn tích cực tham gia, cập nhật những tin tức mới về tình hình tôn
giáo mới trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và tầm ảnh hưởng của nó.
b) Đối với gia đình, trường học trong vấn đề dân tộc, tôn giáo
Vì gia đình là tế bào của xã hội nên cũng có ảnh hưởng nhất định đến các vấn đề dân
tộc tôn giáo nên theo em phải có những trách nhiệm sau:
● Giảng dạy con em không được phân biệt đối xử với bạn bè dân tộc thiểu số.
● Cha mẹ, nhà trường luôn đi đầu về những tư tưởng công bằng về đoàn kết dân tộc, tôn giáo.
● Tổ chức các hoạt động liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo để các em được tìm hiểu nhiều hơn.
● Khuyến khích con em tham gia những hoạt động về đoàn kết dân tộc, tôn giáo.
c) Đối với công tác quản lý và vận động trong vấn đề hiện tượng tôn giáo mới
thời gian tới, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc cần có những giải pháp sau:
● Một là, tăng cường công tác nghiên cứu nhận diện, phân loại và đánh giá tác động xã
hội để tạo luận cứ khoa học trong xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật đối với
các loại hiện tượng tôn giáo mới.
● Hai là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phố biến và thống nhất trong giải
quyết đối với các hiện tượng tôn giáo mới.
● Ba là, cần có định hướng rõ cho việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tôn giáo với
tín ngưỡng truyền thống, giữa tôn giáo truyền thống và các hiện tượng tôn giáo mới xâm nhập.
● Bốn là, cần phân biệt rõ đâu là hiện tượng tôn giáo mới đơn thuần do nhu cầu tâm linh
của người dân, đâu là các hiện tượng tôn giáo mới có biểu hiện trục lợi, phản văn hóa,
bị lợi dụng về chính trị.
● Năm là, tập trung phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá,
tinh thần cho Nhân dân. Thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội,
giúp người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn hoà nhập cộng đồng, vươn lên trong cuộc sống.