Báo cáo ôn tập - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Báo cáo ôn tập - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................2
2. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................3
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..............................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................
I. Sự xuất hiện của Đảng chính trị............................................................
1. Khái niệm, bản chất của các Đảng chính trị.....................................4
2. Vai trò của đảng chính trị.................................................................8
3. Các yếu tố cấu thành một đảng chính trị..........................................8
II. Phân loại các chính đảng........................................................................
1. Hệ thống đa đảng..............................................................................8
2. Chế độ lưỡng đảng............................................................................9
IV. Đảng chính trị tại Việt Nam.................................................................
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.........................................12
2. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam....................................15
3. Định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua báo cáo chính
trị Đại hội XIII......................................................................................15
KẾT LUẬN.....................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chính trị học là khoa học nghiên cứu đời sống chính trị của xã hội với tư
cách là một chỉnh thể nhằm làm sáng tỏ những quy luật và tính quy luật
chung nhất của chính trị; nghiên cứu cơ chế tác động và những phương
thức, thủ thuật chính trị để hiện thực hoá tính quy luật và những quy luật đó
trong xã hội được tổ chức thành nhà nước. Và Đảng chính trị nói chung hay
Đảng Cộng sản nói riêng đều có mối quan hệ gắn bó sâu sắc, chặt chẽ với
sự hình thành tổ chức nhà nước.
Đảng chính trị được hiểu là một dạng đặc biệt của tổ chức xã hội. Nó không
giống một hiệp hội, liên đoàn mà mọi hoạt động và tổ chức đều mang tính
chính trị. Đảng chính trị đấu tranh để đưa ra quan điểm chính trị cũng như
đại diện cho nhân dân giành quyền lợi trong quốc hội. Các Đảng chính trị
giành quyền lực thông qua việc bỏ phiếu của nhân dân. Trách nhiệm của
Đảng chính trị là thực hiện đúng và đủ những cam kết được đưa ra trong chiến dịch tranh cử.
Đảng chính trị là một mô hình phổ biến ở các nước phương Tây. Việt Nam
chúng ta là một nước đang phát triển nên việc học hỏi, tìm hiểu những ưu
điểm của Đảng chính trị và phát hiện ra những nhược điểm để rút kinh
nghiệm, góp phần giúp Đảng Cộng sản Việt Nam thêm lớn mạnh, phát
triển để sánh vai với các cường quốc năm châu. Việc tìm hiểu về Đảng
chính trị là cần thiết với đất nước ta hiện nay. Do đó, chúng em xin chọn đề
tài “Đảng chính trị” để làm rõ về khái niệm, vai trò của Đảng chính trị và
liên hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a. Mục đích -
Tìm hiểu, phân tích khái niệm, bản chất, vai trò và yếu tố cấu thành của Đảng chính trị. -
Phân loại các chính Đảng để phát hiện ra ưu và nhược điểm của mỗi Đảng. -
Sự ra đời của Đảng Cộng sản ở Việt Nam và định hướng lâu dài của
Đảng Cộng sản Việt Nam. b. Nhiệm vụ -
Phân tích, trình bày, lấy dẫn chứng về Đảng chính trị nói chung và
Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Từ đó đưa ra những ưu điểm cần
phát huy và nhược điểm cần phải khắc phục.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu về Đảng chính trị và liên hệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu -
Đề tài sử dụng phương pháp biện chứng duy vật với các phương
pháp như: phân tích, tổng hợp, khái quát và hệ thống hoá.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài a. Ý nghĩa lý luận -
Khi nghiên cứu, nhóm chúng em cố gắng nhìn nhận vấn đề từ nhiều
khía cạnh khác nhau để thấy được đặc trưng tổng quát về Đảng chính
trị cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam. b. Ý nghĩa thực tiễn -
Tổng quát, đánh giá chung về đường lối, chính sách và mục tiêu dài
hạn của Đảng Cộng sản Việt Nam. -
Vận dụng kiến thức về Đảng chính trị để đánh giá sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như những hạn chế cần nhìn nhận và thay đổi. NỘI DUNG I.
Sự xuất hiện của Đảng chính trị
1. Khái niệm, bản chất của các Đảng chính trị a. Khái niệm
Có nhiều cách hiểu về các đảng phái: -
Theo B.Konstan, người đại diện cho các trường phái bảo thủ ở Anh
quốc, đảng phái được định nghĩa là một tập hợp các cá nhân chia sẻ
cùng một tư tưởng chính trị.[1] -
Nhà triết học chính trị Xô viết Anatôli Butenkô đã đưa ra một định
nghĩa khác: "Chính đảng là tổ chức chính trị đoàn kết những đại
diện tích cực nhất của các giai cấp xã hội nhất định (hay một nhóm
xã hội) và thể hiện (trong văn kiện cương lĩnh và các văn kiện khác)
những lợi ích cơ bản của giai cấp đó. Chức năng quan trọng nhất
của đảng là tìm ra những phương hướng và phương tiện thực hiện
những lợi ích đó, là người tổ chức những hoạt động của giai cấp và
của các đong minh của nó”.[2] -
Theo quan điểm của Ăng-ghen, đấu tranh chính trị giữa các giai cấp
biểu hiện tập trung nhất trong cuộc đấu tranh giữa các đảng chính trị. -
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng chính trị là bộ
phận tích cực nhất, có tổ chức của một giai cấp nào đó hay một tầng
lớp nào đó của một giai cấp. Sự ton tại của đảng chính trị liên quan
chặt chẽ đến sự phân chia xã hội thành giai cấp và sự không đong
nhất của giai cấp và của các từng lớp không hợp thành giai cấp.
b. Bản chất của Đảng phái chính trị
Thứ nhất, Đảng chính trị là một trong những công cụ quan trọng nhất mà
nhờ đó giai cấp đấu tranh cho lợi ích của mình. Chẳng hạn như chính đảng
vô sản chính là đảng của giai cấp công nhân, đảng mang bản chất giai cấp
công nhân; đảng luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và mọi
chủ trương, chiến lược, sách lược của đảng đều luôn luôn phải xuất phát từ
lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đại biểu cho quyền lợi của toàn thể nhân dân lao động.
Thứ hai, Đảng chính trị bắt đầu trong điều kiện đấu tranh giai cấp đã phát
triển đến trình độ nhất định của cuộc đấu tranh chính trị, khi mục tiêu
giành chính quyền được đặt ra trực tiếp.
Trong xã hội nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, với công
cụ bằng đá, gậy gộc, cung tên... con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để ton
tại, duy trì nòi giống, chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa xuất
hiện chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do đó, chưa xuất hiện việc
phân chia giai cấp trong xã hội. Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, do xuất hiện
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên trong xã hội xuất hiện giai cấp.
Có thể nói sự ton tại của Đảng chính trị gắn liền với sự phân chia xã hội
thành giai cấp. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và
phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố chế độ kinh tế
xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Lợi ích
cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị.
Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp.
Trong lúc đấu tranh, mỗi giai cấp ngày càng ý thức rõ hơn là phải giành
được quyền lực chính trị về tay giai cấp mình. Đấu tranh chính trị đòi hỏi
phải có mục tiêu chính trị rõ rệt, phải có tổ chức chặt chẽ để tập hợp lực
lượng giai cấp huy động đong minh đánh bại kẻ thù giành thắng lợi. Vào
những năm 40 của thế kỷ XIX khi chủ nghĩa tư bản đang bước vào giai
đoạn phát triển mạnh mẽ, thì đong thời mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và
vô sản cũng trở nên gay gắt nhất. Lúc này giai cấp vô sản đã đứng lên để
đấu tranh chống lại áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Lúc đầu giai cấp
công nhân chỉ đơn giản đòi lợi ích kinh tế, họ đập phá nhà máy, xưởng,
máy móc, thực hiện các cuộc đình công, … Tuy nhiên, họ nhận ra đòi
quyền lợi về mặt kinh tế thì họ vẫn còn là người làm thuê, bị bóc lột và
nếu muốn tự do thì phải là những người làm chủ. Giai cấp công nhân giác
ngộ ra việc cần phải đòi lợi ích về chính trị. Họ chỉ có thể thực hiện được
sứ mệnh lịch sử của mình khi biết tự tổ chức nên chính Đảng và được
Đảng đó trực tiếp lãnh đạo với mục tiêu đấu tranh là giải phóng giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức bóc lột, xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, đưa dân tộc đến chế độ tự do, ấm no và hạnh phúc. Đảng
chính là người đề ra đường lối, phương thứcđối tranh, là bộ tham mưu của giai cấp.
Thứ ba, Đảng gắn liền với cơ cấu giai cấp. Cơ cấu giai cấp là một thuật
ngữ được sử dụng để chỉ sự phân chia và ton tại của các tầng lớp xã hội
dựa trên mức độ sở hữu tài sản, quyền lực và vai trò trong sản xuất. Cơ
cấu giai cấp thường xuất hiện trong các xã hội có cơ sở kinh tế phân chia
lao động và sở hữu tài sản. Trong xã hội hiện đại, tương ứng với cơ cấu
giai cấp của nó có thể là đảng vô sản, đảng tư sản, đảng địa chủ, đảng liên
minh các giai cấp, đảng mang màu sắc dân tộc.
Thứ tư, Đảng chính trị là tổ chức luôn theo đuổi những mục đích chính trị
nhất định, cố gắng gây ảnh hưởng, lãnh đạo đối với chính trị và tổ chức xã
hội, ra sức giành và giữ chính quyền để thực hiện lợi ích của mình.
Trong suốt 93 năm qua, mục tiêu mà Đảng ta luôn hướng tới là: Tất cả vì
độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc của Nhân dân. Khi nước mất, Chủ
tịch Ho Chí Minh và Đảng ta xác định độc lập cho Tổ quốc và bước đầu
thiết lập tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu và hành động cần kíp
trước tiên. Xuất phát từ nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Ho Chí
Minh, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên tại Hội nghị thành lập,
Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược: Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn
độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Trong thời kỳ đầu mới ra đời Đảng xác
định nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ trọng tâm trước
hết, bởi nếu không giành được độc lập cho dân tộc thì không thể thể có cơ
sở, tiền đề để xác lập được tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Thứ năm, Đảng chính trị hành động bằng thuyết phục. Ở Việt Nam,
phương thức lãnh đạo của Đảng không phải là dùng mệnh lệnh hành
chính, mà là phát huy dân chủ, đề cao tính Đảng và nâng cao năng lực
thực tế của tổ chức Đảng và đảng viên. Đong thời phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với toàn xã hội phải được thể hiện bằng sự thuyết phục, vận
động mọi tổ chức chính trị - xã hội, toàn thể nhân dân ra sức phấn đấu
thực hiện tốt các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng. Mặc dù các chủ trương,
chính sách trong các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng là đúng đắn nhưng có
được thực hiện tốt hay không lại phụ thuộc rất lớn vào sự thuyết phục, vận
động mọi tổ chức chính trị - xã hội và toàn thể quần chúng nhân dân.
Tính thuyết phục là một yếu tố quan trọng trong phương pháp lãnh đạo
của Đảng. Từ việc thuyết phục mạnh mẽ trong lãnh đạo, Đảng có khả năng
chuyển đổi sự quyết tâm của Đảng thành quyết tâm của cả hệ thống chính
trị và toàn bộ nhân dân. Sự thuyết phục chính trị trong lãnh đạo được thể
hiện thông qua việc đề ra đường lối, chính sách đúng, khoa học và hợp
lòng dân, cũng như thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng,
chính trị và đạo đức sống... đặc biệt là thuyết phục thông qua những hành
động cụ thể của các tổ chức Đảng và từng đảng viên.
Việc thuyết phục và tác động trong lãnh đạo phụ thuộc rất nhiều vào uy tín
của Đảng và tính tiên phong gương mẫu của cán bộ và đảng viên. Nếu các
tổ chức Đảng, cán bộ và đảng viên mất đi vai trò tiên phong gương mẫu và
không được dân tin tưởng, thì không thể thuyết phục được nhân dân. Chủ
tịch Ho Chí Minh đã rõ ràng chỉ ra: "Chỉ khi trong cuộc đấu tranh và công
việc hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi chấp nhận chính sách đúng đắn
và khả năng lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới có thể giành được vị trí lãnh đạo".
Tóm lại, đảng chính trị nào cũng mang bản chất giai cấp, ton tại với mục
đích nắm quyền lực nhà nước để bảo vệ lợi ích giai cấp mà nó đại diện.
Không có đảng chính trị nào phi giai cấp, siêu giai cấp.
2. Vai trò của đảng chính trị
Vai trò của đảng chính trị tùy thuộc vào địa vị lịch sử của các giai cấp
đong thời còn phụ thuộc vào bản chất của giai cấp mà đang đó đại diện. -
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, vai trò Đảng chính trị thể hiện rõ nhất
trong các cuộc bầu cử giành quyền lực nhà nước.
Điểm tích cực: Thông qua bầu cử, thắng cử, nắm quyền, các
đảng chính trị có vai trò trong việc định hướng phát triển kinh tế
- xã hội thông qua cương lĩnh chính trị, bố trí, tuyển lựa thành
viên của đảng vai trò các cương vị chủ chốt của chính quyền.
Điểm hạn chế: Nhằm đạt được mục tiêu, đảng chính trị đã sử
dụng nhiều biện pháp để phân chia và tách rời nhân dân khỏi
chính trị. Để làm điều này, đảng chính trị đã sử dụng cả những
chiêu trò và biện pháp, kích thích sự thèm khát quyền lực chính
trị và tạo điều kiện cho tham nhũng, đong thời tước bỏ đi quyền dân chủ của nhân dân.
Tiêu biểu cho Đảng chính trị ở các nước Tư bản chủ nghĩa phải
kể đến Đảng Dân chủ Xã hội Đức, Đảng Cộng Hòa Hoa Kỳ,
Đảng Bảo thủ Vương quốc Liên hiệp Anh, … -
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, hầu hết các Đảng chính trị ra đời trong
các hoàn cảnh mất độc lập của quốc gia, và vai trò của chúng được
thể hiện qua việc đề ra đường lối để đạt được độc lập và xây dựng
một chính quyền phát triển đất nước.
Trước khi thành lập, các Đảng chính trị thường đối mặt với thực
tế rằng quốc gia của họ chịu sự chi phối hoặc áp bức từ các lực
lượng ngoại vi hoặc chế độ thống trị. Trong bối cảnh này, mục
tiêu quan trọng của Đảng là giành lại độc lập cho quốc gia và
xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và phát triển. Đảng Cộng
sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về
chính trị của giai cấp công nhân để xây dựng nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân nhân, do nhân dân, vì nhân dân
và quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội.
Đảng Cộng sản đại diện cho giai cấp công nhân chịu trách nhiệm
hoàn toàn trước vận mệnh phát triển của dân tộc, lãnh đạo mọi
mặt của đời sống, kinh tế, văn hoá, chính trị xã hội. Để thực hiện
sứ mệnh to lớn điều kiện tiên quyết là đảng phải không ngừng vươn lên mọi mặt.
Như vậy, Đảng chính trị đóng một vai trò tích cực và không thể thiếu
trong một tầng lớp xã hội, đại diện cho tầng lớp đó. Với bản chất và vai trò
của mình, mỗi đảng chính trị cần tiếp tục phát triển và hoàn thiện, nâng
cao vai trò, vị thế của mình, và tận dụng vai trò lãnh đạo và định hướng
chính trị của mình để thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh, giành và duy trì quyền lực chính quyền.
3. Các yếu tố cấu thành một đảng chính trị
Thứ nhất, đảng đó phải có hệ tư tưởng - mọi đảng phái về bản chất là
người đại diện cho hệ tư tưởng hoặc ít nhất cũng phải thể hiện một định
hướng nhất định về thế giới quan hoặc nhân sinh quan. Nền tảng tư tưởng
của Đảng là cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng, tổ chức và hoạt động của
Đảng. Điều này bao gom nguyên tắc tổ chức, định hướng phát triển và
mục tiêu đấu tranh cách mạng của Đảng. Một đảng chính trị cần phải có
nền tảng tư tưởng riêng, và nền tảng này không thể tách rời, nếu không sẽ
biến thành một đảng hoặc tổ chức khác. V.I. Lênin đã nhấn mạnh rằng
"Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng" và "chỉ có đảng nào có lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả
năng đóng vai trò tiền phong". Nền tảng tư tưởng của Đảng là một yếu tố
quan trọng và căn bản, tạo cơ sở và tiền đề quyết định mọi hoạt động xây
dựng, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng. Nếu nền tảng tư tưởng thay đổi, sẽ
dẫn đến thay đổi về mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc tổ chức và phương
hướng hoạt động chính trị của Đảng. Chủ tịch Ho Chí Minh đã khẳng định
rằng: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa đó. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"
Thứ hai, đảng là một tổ chức, nghĩa là có một sự liên kết con người tương
đối lâu dài theo thời gian thành các thành viên (Đảng viên) hợp thành là 1
thiết chế mà nhờ đó các đảng khác với các tập hợp người khác
Thứ ba, mục tiêu của đảng là giành và thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong hệ thống đa đảng, tự thân đảng khó có thể trở thành đảng cầm
quyền. Một trong những điều kiện cơ bản để trở thành đảng cầm quyền đó
là đảng phải có chương trình vận động tranh cử, phải được nhân dân tín
nhiệm. Để trở thành đảng cầm quyền, đảng phải xây dựng một chương
trình vận động tranh cử rõ ràng và hấp dẫn, tập trung vào các vấn đề quan
trọng và đáp ứng nhu cầu của cử tri. Chương trình này nên thể hiện tầm
nhìn và giá trị của đảng, cam kết cải thiện đời sống của người dân, đảm
bảo quyền lợi và truyền thống của quốc gia. Đong thời, đảng cần xây dựng
niềm tin và tín nhiệm từ người dân thông qua sự trung thực, minh bạch và
hiệu quả trong hoạt động chính trị. Điều này bao gom việc thúc đẩy sự
tham gia dân chủ và lắng nghe ý kiến của người dân, đáp ứng nhu cầu và
quan tâm của họ. Đảng cần phải tạo ra các cơ chế và cơ sở để người dân
có thể tham gia tích cực vào quyết định chính sách và quản lý công việc công cộng.
Thứ tư, các đảng phái phải nỗ lực tranh thủ, thu hút sự ủng hộ rộng rãi của
nhân dân. Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Ho Chí Minh và đường lối của
Đảng ta, đối ngoại nhân dân đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp
cách mạng của dân tộc qua nhiều thời kỳ. Việt Nam xứng đáng là một điển
hình trên thế giới về thành công trong vận động sự ủng hộ của quần chúng
nhân dân thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Trong thực
tiễn nước ta, đối ngoại nhân dân được vận dụng và phát huy hiệu quả trong
từng giai đoạn cách mạng. Trước khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời năm 1945, Chủ
tịch Ho Chí Minh đã chủ động triển khai các hoạt động đối ngoại nhân dân
để phục vụ mục tiêu cao nhất lúc đó là giải phóng dân tộc. Người tiên
phong mở đường và trực tiếp triển khai, đưa đối ngoại nhân dân trở thành
một kênh đối ngoại quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam trước
khi nước ta có kênh liên lạc chính thức với các nước. Đây chính là cơ sở
quan trọng để Việt Nam tạo nền tảng quan hệ thân thiện, hữu nghị với
nhân dân các nước trên thế giới. II.
Phân loại các chính đảng 1. Hệ thống đa đảng a. Khái niệm
Chế độ đa đảng là một hình thái chính trị nhà nước trong đó lý do ton
tại của các đảng là sự cạnh tranh về quyền lực. Mỗi đảng thường đại diện
quyền lực cho các lực lượng chính trị khác nhau, các nhóm lợi ích khác
nhau… theo đuổi những lý tưởng, mục tiêu khác nhau, thường là đối lập
với nhau về nhiều mặt, từ chính sách đối nội, đối ngoại, đến quan điểm hệ
tư tưởng - chế độ xã hội và ngày nay còn là thái độ, ứng xử đối với môi
trường. Đa đảng đối lập là nét đặc trưng của các thể chế chính trị tư sản trên thế giới hiện nay.
Nói chung các nước tư bản, về hình thức, đa đảng chính trị đều “tự
do”, “bình đẳng” trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng trở
thành đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế chỉ có các đảng lớn, có thế lực
mới có khả năng chiến thắng và bao giờ cũng có một đảng cầm quyền hoặc
lãnh đạo, có khi kéo dài nhiều thập kỷ. Mặt khác, chế độ đa đảng ở các
nước phương tây, về thực chất, cũng là dựa trên cơ sở nhất nguyên chính
trị, vì tất cả các đảng cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản.
Như vậy hệ thống đa đảng là hệ thống của các nước có nhiều đảng
phái ton tại, các đảng này buộc phải liên minh với nhau để thành lập chính
phủ, không có đảng nào chiếm đa số tuyệt đối trong nghị viện. Đây là
trường hợp của Pháp, Ý, Cộng hòa liên bang Đức. b. Ưu điểm
Chế độ đa đảng đã thiết lập ra cơ chế "kiềm chế - đối trọng" để hạn chế lạm
dụng quyền lực đối với các đảng phái muốn độc quyền hoàn toàn. Không
chỉ vậy, chế độ đa đảng đã tạo ra động lực to lớn cho các đảng cạnh tranh,
đổi mới, nâng cao chất lượng lãnh đạo. c. Nhược điểm
Sự phân quyền, cạnh tranh quá mức có thể dẫn đến bế tắc, trì trệ
trong hoạt động của nhà nước trước chế độ đa đảng. Theo đó, có quá nhiều
đảng cũng sẽ dẫn đến khó khăn trong việc hình thành cơ sở chính trị và thu
hút phiếu bầu của các đảng phái hay các lực lượng chính trị khác nhau.
2. Chế độ lưỡng đảng a. Khái niệm
Hệ thống lưỡng đảng là hệ thống ở các nước có hai đảng thay phiên
nhau cầm quyền. Một đảng cầm quyền và một đảng đối trọng với đảng cầm
quyền. Đó là hệ thống đảng của nhà nước Anh, nhà nước Mỹ.
Trong xã hội Anh, người Anh quan niệm hết sức giản đơn sự hoạt
động và hình thành chế độ lưỡng đảng. Chính trị cũng như một và chơi thể
thao vậy, cần phải có một bên thắng và một bên bại. Còn ở Mỹ (Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ) trong tiềm thức của nhân dân mỹ thì muốn có hai đảng,
không bao giờ người ta muốn có một đảng thứ ba hoặc độc đảng. Đã hơn
200 năm nay kể từ khi thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, nếu có nguy cơ
là ba đảng thì người ta lại tìm cách loại trừ đi một đảng, hoặc tìm cách nhập
chúng lại tại những nơi đầu phiếu. Khi mà có quy cơ một đảng, thì họ lại
khơi dậy một khả năng sinh ra một đảng khác.
Mặc dù cùng nằm trong hệ thống lưỡng đảng, nhưng cách tổ chức
hai đảng của Anh cũng có nhiều điểm khác của Mỹ. Nếu như đảng Bảo thủ
và Công đảng ở Anh có một tổ chức chặt chẽ thì ở Mỹ đảng Cộng hòa và
đảng dân chủ lại không phải như vậy. Nếu như ở Anh, Thủ tướng Anh bao
giờ cũng yên tâm rằng các đảng viên thuộc đảng của mình luôn luôn ủng hộ
(bỏ phiếu) cho chính sách của mình thì ở Mỹ Tổng thống - người đứng đầu
bộ máy hành pháp lại chưa thể có được sự an tâm đó. Nếu như ở Anh, đảng
viên phải sinh hoạt trong một tổ chức đảng nhất định thì ở Mỹ điều này
không cần thiết: chỉ cần tuyên bố rằng trong đợt bầu cử tới sẽ bỏ phiếu cho
ứng cử viên của đảng nào thi được tính là đảng viên của đảng đó.
Điểm giống nhau giữa hai hệ thống lưỡng đảng của hai nước tư bản
phát triển này, đong thời cũng là đặc điểm của hệ thống đảng phái chính trị
tư sản, là chúng không dựa trên nền tảng tư tưởng nào nhất định. Đảng
cộng hòa gần giống như đảng bảo thủ đại diện cho quyền lợi của dòng dõi
tư sản quý tộc gắn liền với tầng lớp phong kiến, tầng lớp thượng lưu của
giai cấp tư sản. Bảo thủ tức là thể hiện khuynh hướng hoài cổ, chậm chắc,
sự chín chắn trong các hành động của mình, thể hiện đúng bản chất thực
dụng của người Anh: "Thà làm những gì ngu si đã từng làm, còn hơn làm
những cái gì đó thông minh nhưng chưa từng làm bao giờ" hoặc tinh thần
"Cần phải khai thác những cái tinh túy trong dĩ vãng để xây đắp cho tương lai.
Công đảng và đảng Dân chủ đại diện cho tầng lớp tư sản mới và
đong thời hai đảng này đều mệnh danh bảo vệ quyền lợi cho quần chúng
nhân dân lao động. Nhưng nhìn chung các đảng trên đều đặt lợi ích của giai
cấp tư sản lên hàng đầu, cho nên chính sách của các đảng nhiều khi khó
phân biệt. Mặc dù qua mỗi lần bầu cử, các đảng cầm quyền có thể thay đổi,
nhưng nhìn chung chính sách thì không thay đổi. Chẳng hạn ngày
20/1/1993, chính quyền Clinton của đảng Dân chủ thay chính quyền Bus
của đảng Cộng hòa, nhưng chính quyền Clinton tuyên bố vẫn tiếp tục chính
sách ngoại giao trước đây của chính quyền Bus.
Nhận định về sự giống nhau của hai đảng cầm quyền Mỹ, tác giả
David Cusman Copyle viết: "Đến nay, hai đáng (Đảng Cộng hòa và Đảng
dân chủ) giống nhau ở rất nhiều điểm đến nỗi đôi khi hai đảng được gọi là
hai anh em sinh đôi. Cứ hai năm một lần hai đảng thỏa thuận so tài một trận
mà trong đó cả hai đều được bảo vệ vừa đủ để tránh thiệt hại cho phe thua.
Hệ thống lưỡng đảng của Anh vì có tổ chức chặt chẽ và có kỷ luật,
khác hệ thống lưỡng đảng Hoa Kỳ.
Ở Anh, hệ thống lưỡng đảng đã đưa đến một chính quyền đảng trị, sự
lãnh đạo quốc gia của một đảng cầm quyền. Hành pháp và lập pháp đều
được tập trung cho đảng cầm quyền, Chính phủ (nội các) của Anh chẳng
khác gì một Ban chấp hành trung ương của đảng cầm quyền. Trọng tâm của
các quyết định quan trọng được Quốc hội Anh thông qua là hợp lý hóa các dự án của
Chính phủ. Nhưng chỉ có một điều khác làm cho nền chính trị Anh
ổn định là ở Quốc hội có ton tại một đảng đối lập. Ở Hoa Kỳ thì ngược lại,
không có một chính quyền đảng trị. Các cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ và bầu
cử tổng thống không được tiến hành đong thời (lệch nhau), cho nên có thể
có trường hợp Tổng thống và đa số nghị sĩ không cùng một đảng. Trong
trường hợp này một đảng nắm quyền lập pháp còn đảng kia nắm quyền hành pháp. b. Ưu điểm
Chế độ lưỡng đảng giúp người dân dễ dàng chọn theo đảng phái nào
tuỳ theo nhận thức và sở thích của bản thân. Mỗi đảng phải có lập trường
riêng đại diện cho đông đảo quần chúng. Khác với hệ thống đa đảng, chế
độ lưỡng đảng có thể tổ chức bầu cử một cách thuận lợi. c. Nhược điểm
Tuy nhiên chế độ lưỡng đảng khó có thể thay thế quyền lực lưỡng đảng.
Những người không ủng hộ cho cả hai đảng phái chính trở nên mất đi tiếng
nói. Hai đảng cạnh tranh đấu đá gay gắt gây trì trệ trong hoạt động nhà
nước, chính phủ làm việc kém hiệu quả.
4. Chế độ một đảng cầm quyền a. Khái niệm
Chế độ luôn chỉ có một đảng cầm quyền (chế độ chính trị nhất
nguyên). Ở Trung Quốc ton tại hệ thống đa đảng, nhưng chỉ có đảng Cộng
sản Trung Quốc cầm quyền, các đảng khác không đóng vai trò trong việc cầm quyền. b. Ưu điểm
Ổn định chế độ chính trị, tạo sự thống nhất trong ý chí và hành động
của Đảng cũng như hệ thống chính trị. c. Nhược điểm
Dễ rơi vào tình trạng toàn trị, làm cho bầu cử và hoạt động của nghị
viện rất dễ rơi vào tình trạng hình thức nếu như dân chủ không được phát
huy trong hệ thống chính trị cũng như toàn xã hội. Cùng với đó các chính
khách có thể được thay đổi thông qua bầu cử quốc hội nhưng rất ít. Ngoài
ra, cũng rất dễ rơi vào tình trạng đảng trị và hình thành bộ máy của Đảng
song song với bộ máy của chính quyền, tức là song song với bộ máy hành
pháp nếu như không phân định rõ vai trò, chức năng, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ chính trị. IV.
Đảng chính trị tại Việt Nam
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam a. Nguon gốc
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng
sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng
Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở
Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp
nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện:
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ
vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị
thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và
Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đong bào, đong chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành
đảng cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội Việt
Nam. Đảng cầm quyền là đảng duy nhất (hay liên minh một số đảng) nắm
quyền đại diện ý chí chính trị chung trong xã hội, do đó, đảng này (hay liên
minh các đảng) nắm quyền chi phối hoạt động của chính quyền. b. Vai trò
Đảng có vai trò lãnh đạo tuyệt đối lên Nhà nước và xã hội. Theo đó, Hiến
pháp Việt Nam xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) của
Đảng đã đưa ra một chủ trương mới trong đường lối lãnh đạo. Cụ thể, Đảng
cần có vai trò lãnh đạo đất nước dựa trên chủ trương “quản trị quốc gia”.
Quản trị quốc gia là xây dựng một “xã hội có tổ chức”, trong đó nhiều dịch
vụ quan trọng được cung cấp thông qua tổ chức các chương trình. Các
chương trình này về cơ bản là “các cụm liên kết với nhau của các công ty,
chính phủ và các hiệp hội được kết hợp với nhau trong khuôn khổ của
những chương trình này” (Hjem và Porter, 1981, tr. 212-213).
Bên cạnh đó, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam còn được thể hiện xuyên
suốt thực tiễn từ thời cách mạng cho đến khi xây dựng đất nước. Đảng đã
lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây
Nam và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Sau khi độc
lập, Đảng ta đã khởi xướng đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân thực
hiện công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực. Cùng với đó, Đảng đã xác
định và lãnh đạo sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo vệ, bảo
đảm quyền và lợi ích của cá nhân, công dân.
c. Cơ cấu tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tổ chức của Đảng Cộng sản Việt nam hiện nay gom: -
Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp Trung ương, cấp tỉnh, huyện, cơ sở, chi bộ); -
Cơ quan lãnh đạo của Đảng các cấp (đại hội, cấp uỷ); -
Cơ quan tham mưu giúp việc cấp uỷ (các ban đảng, đơn vị sự nghiệp của Đảng); -
Tổ chức đảng được lập trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể
chính trị xã hội (ban cán sự đảng, đảng đoàn).
Nguyên tắc tổ chức Đảng dựa trên nguyên tắc dân chủ, cụ thể: -
Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. -
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn
quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội
đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban
Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi
bộ (gọi tắt là cấp uỷ). -
Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới;
định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức
đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình. -
Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân
phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội
đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. -
Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi
hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán
thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý
kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền
bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu
toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không
được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có
thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối
xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. Tổ chức đảng quyết
định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không
được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
2. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
a. Những thành công trong quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo của ĐCSVN từ năm 1930 đến nay, Đảng ta đã làm được: -
Trong thời kỳ chiến tranh, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên
những thắng lợi lẫy lừng: cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945;
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu” hay đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước. Hiến pháp năm 1959 đã khẳng
định: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt
Nam đã tiến lên một giai đoạn mới”. -
Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước yêu cầu mới của
sự phát triển đất nước, trên cơ sở tổng kết thực tiễn sáng tạo của
quần chúng nhân dân, phân tích và dự báo đúng tình hình thế giới
và xu thế thời đại, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đổi
mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và đề ra đường lối đổi
mới, đánh dấu bước chuyển to lớn, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự nghiệp
đổi mới là sự lựa chọn mang tính lịch sử, là quá trình thay đổi sâu
sắc, toàn diện về nhận thức, tư duy lý luận, về chủ trương, đường
lối xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc, đã thật sự trở
thành sản phẩm sáng tạo vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam và
nhân dân Việt Nam, mang lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, để đất nước Việt Nam có được cơ đo, tiềm lực, vị thế và
uy tín quốc tế như ngày nay.
Hơn 35 năm hoạt động vừa roi đã chứng minh được rằng đường lối đổi mới
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là đúng đắn, phù hợp với xu thế đổi
mới, hiện đại ngày nay. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng Cộng sản Việt Nam hướng vào khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phon vinh, dân tộc hùng cường, nhân dân ấm no, hạnh phúc; đề ra
mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam trở thành nước phát
triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này thể hiện sự
đong điệu giữa tầm nhìn của Đảng và mong muốn của người dân, là cơ hội
phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường và sự đoàn kết dân tộc để nước
ta ngày một phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu. Trong điều
kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền, Đảng ta càng ý thức được tầm quan
trọng của nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.
b. Những hạn chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tuy có rất nhiều khởi sắc trong suốt quá trình hoạt động, thế nhưng
Đảng vẫn còn một số hạn chế nhất định: -
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về Đảng. Hơn
75 năm cầm quyền nhưng khái niệm về đảng cầm quyền, nội
dung, phương thức cầm quyền của Đảng dường như vẫn là vấn đề
còn mới mẻ, không được nghiên cứu bài bản, đúng mức. -
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết
của Đảng. Việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn còn còn điểm chưa phù
hợp với lợi ích của nhân dân. Có những chính sách đưa vào thực thi đã xảy ra bất cập. -
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng. Các văn kiện của Đảng những năm gần đây đã thẳng thắn
chỉ ra những hạn chế, yếu kém, bất cập của công tác tư tưởng, lý
luận và việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn của Đảng.