Báo cáo thực tế chính trị xã hội | Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Lời mở đầu. Tổng quan về Thành Cổ Loa và Bát Tràng. Các địa điểm chi tiết trong chuyến đi. Bài học rút ra sau chuyến đi thực tế chính trị xã hội. Kết luận. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TUYỀN
KHOA XUẤT BẢN
BÁO CÁO
THỰC TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
Họ tên sinh viên: Trần Quỳnh Nhi
Lớp: Xuất Bản Điện Tử K41
Giảng viên hướng dẫn: Cô Trần Thu Quỳnh
Hà Nội – 2023
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................2
I, TỔNG QUAN VỀ THÀNH CỔ LOA VÀ BÁT TRÀNG...............................2
1.1, Thành Cổ Loa...........................................................................................2
1.2, Bát Tràng..................................................................................................4
II, CÁC ĐỊA ĐIỂM CHI TIẾT TRONG CHUYẾN ĐI......................................6
2.1, Thành Cổ Loa...........................................................................................6
2.2, Bát Tràng................................................................................................13
III, BÀI HỌC RÚT RA SAU CHUYẾN..........................................................18
ĐI THỰC TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI.................................................................18
3.1, Ưu điểm..................................................................................................18
3.2, Khuyết điểm............................................................................................18
KẾT LUẬN.......................................................................................................19
1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 06/01/2023 vừa rồi, chuyên ngành Xuất Bản Điện Tử K41 thuộc khoa
Xuất Bản của Học viện Báo chí Tuyên truyền đã chuyến đi thực tế đến
thành Cổ Loa Bát Tràng để phục vụ cho môn học “Thực tế chính hội”.
Nơi đây đều các địa điểm nổi bật lâu đời, giúp cho sinh viên chúng em
được học tập và trải nghiệm thêm về những truyền thống văn hóa, những sự vật
con người quen thuộc của dân tộc Việt Nam ta.
Dưới sự hướng dẫn của Trần Thu Quỳnh (trưởng đoàn), lớp Xuất Bản Điện
Tử K41 đã hoàn thành kế hoạch học tập trải nghiệm tại thành Cổ Loa Bát
Tràng: Bảo tàng Bát Tràng Làng gốm Bát Tràng trọn vẹn trong một ngày
06/01/2023. Trong chuyến đi, nhờ sự hướng dẫn chú đáo, tận tình của các thuyết
minh viênem đã trau dồi được cho bản thân mình rất nhiều kiến thức bổ ích
về những địa điểm mà em đã đi qua. Tất cả những thuyết minh viên đều là những
người có kiến thức chuyên sâu, chính xác về thành Cổ Loa và Bát Tràng, điều đó
khiến chuyến đi càng thêm thú vị. Thậm chí còn rất nhiều người nước ngoài
đến đây du lịch.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Học viện Báo chí Tuyên truyền cùng với Trần
Thu Quỳnh (trường đoàn) đã tạo cơ hội để chúng em có một chuyến đi bổ ích và
thú vị như vậy nhằm phục vụ cho môn học.
2
NỘI DUNG
I, TỔNG QUAN VỀ THÀNH CỔ LOA VÀ BÁT TRÀNG
1.1, Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa – một di tích lịch sửcùng quý giá của dân tộc Việt Nam. Ngôi
thành không chỉ tọa lạc tại một địa điểm mà được trải rộng trên địa phận ba xã là
Cổ Loa, Việt Hùng, Dục Tú thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội.
Nơi đây đã hai lần được lựa chọn làm kinh đô của dân tộc, lần thứ nhất vào thế
kỷ III TCN dưới thời vua An Dương Vương, lần thứ hai vào thế X dưới thời
vua Ngô Quyền. Trên mảnh đất cổ loa hiện nay còn tồn tại dấu tích của một tòa
thành cổ. Vùng cổ loa ngày nay trung tâm của Đồng bằng Bắc Bộ, còn vùng
cổ loa xưa trung tâm đất nước thời kỳ An Dương Vương. Bên cạnh đó, theo
truyền thuyết kể lại rằng, vua An Dương Vương được vua Hùng duệ vương đời
thứ XVIII nhường ngôi và ông lên ngôi vào ngày mùng sáu tháng giêng năm 257
TCN. Lúc này đất nước đã trải dài xuống vùng Thanh Nghệ Tĩnh, kinh đô
Văn Lang không còn là trung tâm của đất nước nữa.
Vua An Dương Vương cho xác nhập hai bộ tộc Âu Việt Lạc Việt làm một,
đồng thời chuyển kinh đô từ Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ về vùng Đồng bằng
châu thổ Sông Hồng, chọn Cổ Loa làm kinh đô cho xây dựng đây một tòa
thành theo hình xoáy chôn ốc. Ngày nay, trên mảnh đất Cổ Loa còn tồn tại dấu
vết của ba vòng thành chu vi lên tới 16.000m, được nhân dân quen gọi ba
thành từ trong ra ngoài là: thành nội, thành trung thành ngoại. Thành nội
chu vi dao động khoảng 1650m, tương truyền trước kia nơi của nhà vua
3
hoàng tộc. Thành trung chu vi khoảng 6500m, tương truyền trước kia nơi
dành cho quan lại. Cuối cùng, thành ngoại chu vi khoảng 8000m, tương
truyền trước kia là nơi ở của dân chúng.
Để thuận tiện cho việc chiến đấu chống quân xâm lược, trong quá trình xây
thành và bố trí quân sự, An Dương Vương đã cho xây thành rộng về phía Bắc
tạo một tòa thành phòng thủ trước quân xâm lược phương Bắc hẹp về phía
Nam tạo điều kiện cho quân của vua An Dương Vương dễ bề rút lui. Đặc biệt
ông còn cho bố trí các cửa thành so le chéo góc. Ở vòng thành trung có năm cửa
thành, vòng thành ngoại có 4 cửa thành và vòng thành nội tương truyền trước kia
một cửa thành đường vào Ngự Triều Di Quy nhưng nay đã biết mất. Mục
đích vua An Dương Vương xây dựng vị trí các cửa thành như vậy là để khi quân
địch tiến công vào thành bắt buộc phải đi theo đường dích dắc, song tại mỗi cửa
thành sẽ bố trí quân mai phục để địch không thể tiến sâu hơn nữa vào thành Cổ
Loa. Hơn nữa, theo truyền thuyết cũng như các kiểm chứng của khảo cổ học, tại
vòng thành nội có khoảng mười tám ụ đất nhô lên khỏi mặt thành từ 3-4m. Nó có
tác dụng kết hợp với quân linh trên mặt thành chia cắt quân địch, khiến chúng
không thể tiếp tục đi vào bên trong thành bằng cách dồn chúng vào các góc chết.
An Dương Vương cũng vô cùng sáng suốt khi đã tận dụng địa hình vùng này
vào việc xây thành. Ông cho đắp núi đồi khiến cho vòng thành trung ngoại
uốn lượn rất tự nhiên, không hình dáng xác định. Riêng vòng thành nội
hình vuông cân xứng như bây giờ do người đời sau đã tu sửa lại. Theo tương
truyền, mặc dân số khi đó của nước ta chưa tới một triệu người, thế
việc xây thành, đắp đất đã thể hiện tài năng sáng tạo của nhà vua cũng như của
quân và dân Âu Lạc.
4
1.2, Bát Tràng
Xã Bát Tràng, một nơi gắn hiền với nghề làm gốm truyền thống từ bao đời, năm
trên huyện Gia Lâm, thành Phố Hà Nội. Và làng gốm Bát Tràng là cái tên nổi bật
hơn cả về nghề làm gốm.
1.2.1, Trung tâm Tinh hoa Làng nghề Việt
Trung tâm Tinh hoa Làng nghề Việt, hay còn được gọi với cái tên quen thuộc
“Bảo tàng gốm Bát Tràng”, nằm ở số 28, thôn 5, đường Bát Tràng, Gia Lâm, Hà
Nội. Dưới sảnh tầng một còn có tên gọi là hội trường bàn xoay, nơi đây được gọi
như vậy do kiến trúc của bảo tàng xoắn ốc, được lấy cảm hứng từ những
hình ảnh nh dị đời thường của công việc làm gốm. Các tòa nhà tượng trưng
cho các bàn xoay vuốt gốm, khiến ta thể hình dung được ra những bàn tay
đang chuốt các khối đất mộc mạc, bình dị để tạo nên các sản phẩm gốm tuyệt
đẹp đang được bày trí tại bảo tàng. Màu sắc của tòa nhà không phải là dùng sơn
mới có mà đó đều là màu nâu tự nhiên của màu sắc
Các đồ vật được trưng bày và bày bán ở nơi đây đềunhững tinh hoa của nhân
loại, được các nghệ nhân dồn hết tâm huyết, mồ hôi, công sức để tạo nên, đó đều
là những đứa con mà họ thai nghén lâu ngày.
Bảo tàng ra đời với mục đích cốt yếu là để lưu giữ và phát triển truyền thống văn
hóa làng nghề nơi đây. một phần cũng cuộc sống ngày một phát triển
hiện đại hơn, thể dẫn đến hệ lụy các làng nghề truyền thống sẽ dần vơi đi
và biến mất. Cho nên việc xây bảo tàng như hiện nay là một sự lựa chọn vô cùng
đúng đắn để giúp bảo tồn nghề làm gốm. Và đây cũng là công trình tâm huyết và
5
nguyện vọng của Thị Vinh giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn
Gốm sứ Quang Vinh.
Với diện tích lên tới 3.300 mét vuông, bảo tàng bao gồm có năm tầng:
Tầng 1: Đón tiếp các khách tham quan và các gian hàng gốm.
Tầng 2: Không gian nghề gốm Bát Tràng xưa và nay.
Tầng 3: Trung tâm nghê thuật đương đại.
Tầng 4: Hội trường Cung Đình/ Nhà hàng Tinh Hoa/ Cafe Nghệ nhân
Tầng 5: Hương Sa Trà – Hương Sa Art House và Nghệ thuật điêu khắc ánh sáng.
Trong chuyến đi lần này, chúng em được tham quan tìm hiểu về hai tầng
tầng một và hai.
1.2.2, Chợ gốm và lò bầu cổ
Tại chợ gốm, rất nhiều sản phẩm gốm cho tất cả mọi người lựa chọn mua
về làm kỉ niệm. Lò bầu cổ là lò gốm duy nhất còn sót lại của Bát Tràng.
6
II, CÁC ĐỊA ĐIỂM CHI TIẾT TRONG CHUYẾN ĐI
2.1, Thành Cổ Loa
2.1.1, Đền thượng
Hay còn gọi “Đền thờ vua An Dương Vương”. theo truyền thuyết kể lại,
ngôi đền được xây trên nền đất ‘Cửu long chân châu” chín con rồng trên một
viên ngọc, con rồng độc nhãn long đã thắng thế áng ngự trên mảnh đất này.
Khi đi từ ngoài vào, ta thể thấy cổng nghi môn ngoại tượng trưng cho miệng
rồng, hai bên hố một bên đầy nước một bên cạn nước tượng trưng cho con
rồng độc nhãn long. Bên cạnh đó, tòa chính điện tượng nơi đây trưng cho gò trán
rồng.
do nơi đây được gọi con rồng độc nhãn long bởi thế đất đây
dòng lưu thủy chảy từ Đông sang Tây, dòng nước chảy từ dương về âm, tạo ra
thế cân đối hài hòa giúp mọi vật phát sinh phát triển. Nếu năm nào cả hai hố
cùng cạn nước thì năm đó sẽ hạn hán. Và ngược lại, nếu hai hố đầy nước thì sẽ
gây ra lũ lụt. Cho nên, việc để một hố đầy nước, một hố cạn nước tạo nên sự cân
bằng giúp cho mọi vật phát triển tự nhiên.
Khi ta đi từ ngoài vào trong sẽ bắt gặp cửa nghi môn ngoại, trên cổng đề ba
chữ “Ngự Thiên Cổ” (Ngàn đời ngưỡng mộ); mặt trong của cổng nghi môn
ngoại, đối diện với cổng nghi môn nội đề bốn chữ “Tiền từ đề nhất” (Ngôi
đền đẹp nhất ở vùng này).
Còn tại tòa chính điện, tổng cộng sáu ban thờ. gian tiền tế ban thờ
Quan văn võ, đi sâu vào là ban thờ Quan tứ trung triều đình, từ đường để ban thờ
Thần Kim Quy nỏ thần, hậu cung đang để bức tượng vua An Dương Vương
7
được đúc bằng đồng. tương truyền vào năm 1893, trong vùng trùng tu lớn
nhất, các cụ đào được kho đồng thiêng dưới nền điện song cho rằng đây
kho đồng được vua An Dương Vương để lại nên đã cho xây tượng đồng của
Người đặt trong hậu cung, bức tượng đang được đề nghị để chính phủ công nhận
làm bảo vật quốc gia. Song song, các đồ án hoa văn được khắc trên tượng như
các về tinh tú, đuôi rồng phụng, tay áo đều thể hiện thế lực của bề trên và sự gần
gũi giữa nhà vua với những người hành lễ. Bên cạnh đó, trong tòa hậu cung còn
hai ban thờ ban thờ phụ mẫu ban thờ hoàng hậu. Bên tay phải của đền
thờ vua An Dương Vương nhà bia, bên trong năm tấm bia, đều khắc lên
công đức cùng chung tay tu sửa đền thờ vua An Dương Vương. Đặc biệt tấm bia
bốn mặt chữ ở giữa, trong đó có một mặt là “Tạo lập thạch bi”, nói lên sắc phong
dưới thời vua Lê vua Nguyễn. Họ đã sắc phong cho vua An Dương Vương là bậc
hùng tài trong thiên hạ, bởi thời vua vua Nguyễn rất trọng dụng vua An
Dương Vương và cùng đất này. Không những thế, còn ban cho vùng đất cổ loa
“Hộ nhi tạo lệ” (Những người nhiệm vụ trông coi đền thờ vua An Dương
Vương hương khói quanh năm) tổ chức lễ hội Cổ Loa. Đồng thời, vùng này
còn được cấp một số mẫu ruộng được gọi ruộng công, giảm một số siu thuế
trong thời vua Lê vua Nguyễn.
2.1.2, Các hiện vật được trưng bày trong Cổ Loa
2.1.2.1, Nỏ Thần
Chắc rằng không còn ai xa lạ với nỏ thần Liên Châu của vua An Dương
Vương, chỉ núi núi tan chỉ ngàn ngàn cháy. Vào 1959, trên con đường từ quốc lộ
3 qua di tích Cổ Loa, trên con đường đó các công nhânvô tình đào được một
8
kho đồng với khối lượng 93kg với hàng vạn mũi tên. Từ đó nỏ thần của vua An
Dương Vương bắt đầu được làm sáng tỏ, tuy nhiên khi đó nhiều người vẫn chưa
tin, nghi ngờ rằng thời đó làm gì có công nghệ tiên tiến để làm ra nỏ thần, có thể
ông mua nó từ phương Bắc.
Nhưng nhờ những cuộc khai quật khảo cổ học tại đền thượng, được tương truyền
nơi của nhà vua hoàng tộc, từ năm 2004-2007, các nhà khảo cổ học đã
phát hiện ra rất nhiều khuôn nguyên liệu làm khuôn. Để chế tạo ra những
mang khuôn như vậy, dùng đá sa thạch hạt mịn không cứng quá cũng không
mềm quá dễ dàng chế tác. Từ những mang khuôn hình trụ, họ gia công, mài
để tạo ra mang khuôn hoàn chỉnh. Trên mỗi mang khuôn đều có hình mũi tên, để
tạo nên mũi tên đồng ba cạnh An Dương Vương đã dùng khuôn ba mang, gồm
ba khuôn chụm lại tạo thành một khuôn hoàn chỉnh. Bên trong khuôn rỗng hoàn
toàn để rót đồng nóng chảy vào, khi đồng nguội tách ra được một mũi tên đồng
ba cạnh. Loại tên này khác với loại hai cạnhchỗ, khi bắn ra sẽ giảm tối đa lực
cản của không khí và đạt vận tốc rất nhanh, cho nên sát thương rất cao. Do người
thời xưa thường ăn mặc đóng khổ trần, thế mũi tên chỉ cần tẩm độc bằn
cây rừng cũng như côn trùng độc khi gây xây xước ra có thể dẫn đến tử vong đối
với quân thù, song y tế trước đây không được hiện đại như bây giờ nên khó cứu
chữa. Chính Triệu Đà cũng không hiểu sao An Dương Vương thể tạo ra
mũi tên lợi hại đến vậy, còn cho rằng ông được Thần Kim Quy giúp sức. Nhưng
giờ đây mọi thức đã được khảo cổ học làm sáng tỏ.
2.1.2.2, Trống đồng
9
Năm 1982, trên thửa ruộng của một người nông dân xóm chợ, khi muốn dẫn
nước từ một mương cạnh đó vào ruộng ông hạ thấp ruộng của mình xuống.
Trong quá trình hạ thấp thửa ruộng của mình ông vô tình phát hiện ra một chiếc
trống đồng, chiếc trống đồng này đang trong trạng thái chân trống ngược lên
lên, mặt trống úp xuống dưới và trong lòng trống chứa khoảng 200 hiện vật đồng
các loại: giáo, dao găm, lưỡi cày đồng,và mảnh một chiếc trống đồng đang được
đúc dở. Chiếc trống đồng này được coi là một kho giấu của vì đồng cách đây hơn
2000 năm là một loại nguyên liệu quyền lực và tất cả những đồ quý giá được cất
vào lòng trống và chôn sâu dưới mặt đất.
2.1.2.3, Lễ hội cổ loa
Được tổ chứ vào mùng sáu tháng giêng, là một lễ hội vô cùng đặt sắc với nghi lễ
rước của bát xã, nghĩa tám xã cổ cùng thờ vua An Dương Vương, gọi “Bát
loan thành”. Bên cạnh đó, còn các phần hội như trò chơi: cờ người, đấu
vật,...
2.1.2.3, Bộ hiện vật làng nghề
Bộ hiện vật làm bún: Truyền thuyết kể lại rằng, này 13/08 ngày ăn sêu
chúa Mị Châu, trong quá trình tiếp đón nhà trai vua An Dương Vương đã cho
đầu bếp làm bánh bột lọc để thiết đãi quan khách. Nhưng trong quá trình làm
bánh, ông vô tình để bột đổ vào nồi nước sôi, ngay lập tức ông vội vàng lấy ra để
trụng vào thau nước lạnh nhưng không may bột đã kết thành những sợi được gọi
là bún. Rồi ông đem xào với rau cần dược nhà vua và quan khách ngợi khen. Từ
đó xuất hiện nghề làm bún Cổ Loa. Bún ở đây được làm ra khác hoàn toàn so
với những nơi khác, họ gạo sống vào trong chai cho đến khi gạo mềm thể
10
bóp ra, sau đó đem say rồi cho vào vại để ngâm khử chua và phải thay nước rất
nhiều lần. Đến khi đã hết chua họ đem ra thấu dẻo, giã bột, nhào bột. Khi bột
nhuyễn bỏ vào vắt để vắt bằng nước sôi. Bún Cô Loa đặc biệt ở chỗ nếu để trong
điều kiện bình thường đến 2-3 ngày cũng không hề bị hỏng, sợi bún không trắng
sáng như bún vùng khác sẽ màu hơi đục không qua công đoạn ngâm
hóa chất, sợi bún to xào với rau cần không hề bị nát.
Bộ dụng cụ nghề làm bỏng chủ: Ở vùng Cổ Loa có câu nói:
“Thục phương khách đến Cổ Loa
Mua phong bỏng chủ quê nhà thục vương
Nếp hoa vừng trắng mật đường
Chày khuôn nén chặt quân lương một thời”
Từ câu hát ta thể hình dung ra rằng bỏng chủ chính quân lương, lương
thực cho quân lính của vua An Dương Vương khi tập quân sự. Bỏng làng Cổ
Loa được làm từ gạo nếp cái hoa vàng của làng Dục Tú, gạo nếp cái hoa vàng
được rang trong chảo sau đó lấy hoa bỏng trắng trộn cùng mật mía, thảo quả, lạc.
Sau đó được cho vào khuôn để giã, một người đàn ông sẽ giã khoảng 15-20 chày
nén chặt khuôn bỏng, sau khi nén chặt sẽ lăn trong bột bỏng trắng gói vào
giấy hồng điều, tạo nên một phong bỏng vị ngon ngọt. Tuy hiện nay bỏng
không còn là một món ăn phổ biến trong đời sống thường ngày, nhưng lại là một
vật tế lễ quan trọng không thể thiếu trong ngày lễ mùng sáu tháng giêng tại vùng
Cổ Loa. Bỏng sẽ được giâng lên bàn thờ vua An Dương Vương.
2.1.3, Ngự triều di quy
| 1/21

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TUYỀN KHOA XUẤT BẢN BÁO CÁO
THỰC TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
Họ tên sinh viên: Trần Quỳnh Nhi
Lớp: Xuất Bản Điện Tử K41
Giảng viên hướng dẫn: Cô Trần Thu Quỳnh Hà Nội – 2023 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................1
NỘI DUNG............................................................................................................2
I, TỔNG QUAN VỀ THÀNH CỔ LOA VÀ BÁT TRÀNG...............................2
1.1, Thành Cổ Loa...........................................................................................2
1.2, Bát Tràng..................................................................................................4
II, CÁC ĐỊA ĐIỂM CHI TIẾT TRONG CHUYẾN ĐI......................................6
2.1, Thành Cổ Loa...........................................................................................6
2.2, Bát Tràng................................................................................................13
III, BÀI HỌC RÚT RA SAU CHUYẾN..........................................................18
ĐI THỰC TẾ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI.................................................................18
3.1, Ưu điểm..................................................................................................18
3.2, Khuyết điểm............................................................................................18
KẾT LUẬN.......................................................................................................19 1 LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 06/01/2023 vừa rồi, chuyên ngành Xuất Bản Điện Tử K41 thuộc khoa
Xuất Bản của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã có chuyến đi thực tế đến
thành Cổ Loa và Bát Tràng để phục vụ cho môn học “Thực tế chính – xã hội”.
Nơi đây đều là các địa điểm nổi bật và lâu đời, giúp cho sinh viên chúng em
được học tập và trải nghiệm thêm về những truyền thống văn hóa, những sự vật
con người quen thuộc của dân tộc Việt Nam ta.
Dưới sự hướng dẫn của cô Trần Thu Quỳnh (trưởng đoàn), lớp Xuất Bản Điện
Tử K41 đã hoàn thành kế hoạch học tập và trải nghiệm tại thành Cổ Loa và Bát
Tràng: Bảo tàng Bát Tràng và Làng gốm Bát Tràng trọn vẹn trong một ngày
06/01/2023. Trong chuyến đi, nhờ sự hướng dẫn chú đáo, tận tình của các thuyết
minh viên mà em đã trau dồi được cho bản thân mình rất nhiều kiến thức bổ ích
về những địa điểm mà em đã đi qua. Tất cả những thuyết minh viên đều là những
người có kiến thức chuyên sâu, chính xác về thành Cổ Loa và Bát Tràng, điều đó
khiến chuyến đi càng thêm thú vị. Thậm chí còn có rất nhiều người nước ngoài đến đây du lịch.
Em xin gửi lời cảm ơn đến Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với cô Trần
Thu Quỳnh (trường đoàn) đã tạo cơ hội để chúng em có một chuyến đi bổ ích và
thú vị như vậy nhằm phục vụ cho môn học. 2 NỘI DUNG
I, TỔNG QUAN VỀ THÀNH CỔ LOA VÀ BÁT TRÀNG 1.1, Thành Cổ Loa
Thành Cổ Loa – một di tích lịch sử vô cùng quý giá của dân tộc Việt Nam. Ngôi
thành không chỉ tọa lạc tại một địa điểm mà được trải rộng trên địa phận ba xã là
Cổ Loa, Việt Hùng, Dục Tú thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội.
Nơi đây đã hai lần được lựa chọn làm kinh đô của dân tộc, lần thứ nhất vào thế
kỷ III TCN dưới thời vua An Dương Vương, và lần thứ hai vào thế X dưới thời
vua Ngô Quyền. Trên mảnh đất cổ loa hiện nay còn tồn tại dấu tích của một tòa
thành cổ. Vùng cổ loa ngày nay là trung tâm của Đồng bằng Bắc Bộ, còn vùng
cổ loa xưa là trung tâm đất nước thời kỳ An Dương Vương. Bên cạnh đó, theo
truyền thuyết kể lại rằng, vua An Dương Vương được vua Hùng duệ vương đời
thứ XVIII nhường ngôi và ông lên ngôi vào ngày mùng sáu tháng giêng năm 257
TCN. Lúc này đất nước đã trải dài xuống vùng Thanh Nghệ Tĩnh, và kinh đô
Văn Lang không còn là trung tâm của đất nước nữa.
Vua An Dương Vương cho xác nhập hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt làm một,
đồng thời chuyển kinh đô từ Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ về vùng Đồng bằng
châu thổ Sông Hồng, chọn Cổ Loa làm kinh đô và cho xây dựng ở đây một tòa
thành theo hình xoáy chôn ốc. Ngày nay, trên mảnh đất Cổ Loa còn tồn tại dấu
vết của ba vòng thành có chu vi lên tới 16.000m, được nhân dân quen gọi ba
thành từ trong ra ngoài là: thành nội, thành trung và thành ngoại. Thành nội có
chu vi dao động khoảng 1650m, tương truyền trước kia là nơi ở của nhà vua và 3
hoàng tộc. Thành trung chu vi khoảng 6500m, tương truyền trước kia là nơi ở
dành cho quan lại. Cuối cùng, thành ngoại có chu vi khoảng 8000m, tương
truyền trước kia là nơi ở của dân chúng.
Để thuận tiện cho việc chiến đấu chống quân xâm lược, trong quá trình xây
thành và bố trí quân sự, An Dương Vương đã cho xây thành rộng về phía Bắc –
tạo một tòa thành phòng thủ trước quân xâm lược phương Bắc và hẹp về phía
Nam – tạo điều kiện cho quân của vua An Dương Vương dễ bề rút lui. Đặc biệt
ông còn cho bố trí các cửa thành so le chéo góc. Ở vòng thành trung có năm cửa
thành, vòng thành ngoại có 4 cửa thành và vòng thành nội tương truyền trước kia
có một cửa thành ở đường vào Ngự Triều Di Quy nhưng nay đã biết mất. Mục
đích vua An Dương Vương xây dựng vị trí các cửa thành như vậy là để khi quân
địch tiến công vào thành bắt buộc phải đi theo đường dích dắc, song tại mỗi cửa
thành sẽ bố trí quân mai phục để địch không thể tiến sâu hơn nữa vào thành Cổ
Loa. Hơn nữa, theo truyền thuyết cũng như các kiểm chứng của khảo cổ học, tại
vòng thành nội có khoảng mười tám ụ đất nhô lên khỏi mặt thành từ 3-4m. Nó có
tác dụng kết hợp với quân linh ở trên mặt thành chia cắt quân địch, khiến chúng
không thể tiếp tục đi vào bên trong thành bằng cách dồn chúng vào các góc chết.
Và An Dương Vương cũng vô cùng sáng suốt khi đã tận dụng địa hình vùng này
vào việc xây thành. Ông cho đắp núi đồi khiến cho vòng thành trung và ngoại
uốn lượn rất tự nhiên, không có hình dáng xác định. Riêng vòng thành nội có
hình vuông cân xứng như bây giờ là do người đời sau đã tu sửa lại. Theo tương
truyền, mặc dù dân số khi đó của nước ta chưa tới một triệu người, vì thế mà
việc xây thành, đắp đất đã thể hiện tài năng sáng tạo của nhà vua cũng như của quân và dân Âu Lạc. 4 1.2, Bát Tràng
Xã Bát Tràng, một nơi gắn hiền với nghề làm gốm truyền thống từ bao đời, năm
trên huyện Gia Lâm, thành Phố Hà Nội. Và làng gốm Bát Tràng là cái tên nổi bật
hơn cả về nghề làm gốm.
1.2.1, Trung tâm Tinh hoa Làng nghề Việt
Trung tâm Tinh hoa Làng nghề Việt, hay còn được gọi với cái tên quen thuộc là
“Bảo tàng gốm Bát Tràng”, nằm ở số 28, thôn 5, đường Bát Tràng, Gia Lâm, Hà
Nội. Dưới sảnh tầng một còn có tên gọi là hội trường bàn xoay, nơi đây được gọi
như vậy là do kiến trúc của bảo tàng có xoắn ốc, được lấy cảm hứng từ những
hình ảnh bình dị đời thường của công việc làm gốm. Các tòa nhà tượng trưng
cho các bàn xoay vuốt gốm, khiến ta có thể hình dung được ra những bàn tay
đang chuốt các khối đất mộc mạc, bình dị để tạo nên các sản phẩm gốm tuyệt
đẹp đang được bày trí tại bảo tàng. Màu sắc của tòa nhà không phải là dùng sơn
mới có mà đó đều là màu nâu tự nhiên của màu sắc
Các đồ vật được trưng bày và bày bán ở nơi đây đều là những tinh hoa của nhân
loại, được các nghệ nhân dồn hết tâm huyết, mồ hôi, công sức để tạo nên, đó đều
là những đứa con mà họ thai nghén lâu ngày.
Bảo tàng ra đời với mục đích cốt yếu là để lưu giữ và phát triển truyền thống văn
hóa làng nghề nơi đây. Và một phần cũng vì cuộc sống ngày một phát triển và
hiện đại hơn, có thể dẫn đến hệ lụy là các làng nghề truyền thống sẽ dần vơi đi
và biến mất. Cho nên việc xây bảo tàng như hiện nay là một sự lựa chọn vô cùng
đúng đắn để giúp bảo tồn nghề làm gốm. Và đây cũng là công trình tâm huyết và 5
là nguyện vọng của bà Hà Thị Vinh – giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Quang Vinh.
Với diện tích lên tới 3.300 mét vuông, bảo tàng bao gồm có năm tầng:
Tầng 1: Đón tiếp các khách tham quan và các gian hàng gốm.
Tầng 2: Không gian nghề gốm Bát Tràng xưa và nay.
Tầng 3: Trung tâm nghê thuật đương đại.
Tầng 4: Hội trường Cung Đình/ Nhà hàng Tinh Hoa/ Cafe Nghệ nhân
Tầng 5: Hương Sa Trà – Hương Sa Art House và Nghệ thuật điêu khắc ánh sáng.
Trong chuyến đi lần này, chúng em được tham quan và tìm hiểu về hai tầng là tầng một và hai.
1.2.2, Chợ gốm và lò bầu cổ
Tại chợ gốm, có rất nhiều sản phẩm gốm cho tất cả mọi người lựa chọn và mua
về làm kỉ niệm. Lò bầu cổ là lò gốm duy nhất còn sót lại của Bát Tràng. 6
II, CÁC ĐỊA ĐIỂM CHI TIẾT TRONG CHUYẾN ĐI 2.1, Thành Cổ Loa 2.1.1, Đền thượng
Hay còn gọi là “Đền thờ vua An Dương Vương”. Và theo truyền thuyết kể lại,
ngôi đền được xây trên nền đất ‘Cửu long chân châu” – chín con rồng trên một
viên ngọc, và con rồng độc nhãn long đã thắng thế áng ngự trên mảnh đất này.
Khi đi từ ngoài vào, ta có thể thấy cổng nghi môn ngoại tượng trưng cho miệng
rồng, và hai bên hố một bên đầy nước một bên cạn nước tượng trưng cho con
rồng độc nhãn long. Bên cạnh đó, tòa chính điện tượng nơi đây trưng cho gò trán rồng.
Lý do mà nơi đây được gọi là con rồng độc nhãn long là bởi thế đất ở đây có
dòng lưu thủy chảy từ Đông sang Tây, dòng nước chảy từ dương về âm, tạo ra
thế cân đối hài hòa giúp mọi vật phát sinh phát triển. Nếu năm nào cả hai hố
cùng cạn nước thì năm đó sẽ hạn hán. Và ngược lại, nếu hai hố đầy nước thì sẽ
gây ra lũ lụt. Cho nên, việc để một hố đầy nước, một hố cạn nước tạo nên sự cân
bằng giúp cho mọi vật phát triển tự nhiên.
Khi ta đi từ ngoài vào trong sẽ bắt gặp cửa nghi môn ngoại, trên cổng có đề ba
chữ “Ngự Thiên Cổ” (Ngàn đời ngưỡng mộ); mặt trong của cổng nghi môn
ngoại, đối diện với cổng nghi môn nội có đề bốn chữ “Tiền từ đề nhất” (Ngôi
đền đẹp nhất ở vùng này).
Còn tại tòa chính điện, có tổng cộng sáu ban thờ. Ở gian tiền tế là ban thờ bà
Quan văn võ, đi sâu vào là ban thờ Quan tứ trung triều đình, từ đường để ban thờ
Thần Kim Quy và nỏ thần, hậu cung đang để bức tượng vua An Dương Vương 7
được đúc bằng đồng. Và tương truyền vào năm 1893, trong vùng trùng tu lớn
nhất, các cụ có đào được kho đồng thiêng ở dưới nền điện song cho rằng đây là
kho đồng được vua An Dương Vương để lại nên đã cho xây tượng đồng của
Người đặt trong hậu cung, bức tượng đang được đề nghị để chính phủ công nhận
làm bảo vật quốc gia. Song song, các đồ án hoa văn được khắc trên tượng như
các về tinh tú, đuôi rồng phụng, tay áo đều thể hiện thế lực của bề trên và sự gần
gũi giữa nhà vua với những người hành lễ. Bên cạnh đó, trong tòa hậu cung còn
có hai ban thờ là ban thờ phụ mẫu và ban thờ hoàng hậu. Bên tay phải của đền
thờ vua An Dương Vương là nhà bia, bên trong có năm tấm bia, đều khắc lên
công đức cùng chung tay tu sửa đền thờ vua An Dương Vương. Đặc biệt tấm bia
bốn mặt chữ ở giữa, trong đó có một mặt là “Tạo lập thạch bi”, nói lên sắc phong
dưới thời vua Lê vua Nguyễn. Họ đã sắc phong cho vua An Dương Vương là bậc
hùng tài trong thiên hạ, bởi thời vua Lê vua Nguyễn rất trọng dụng vua An
Dương Vương và cùng đất này. Không những thế, còn ban cho vùng đất cổ loa là
“Hộ nhi tạo lệ” (Những người có nhiệm vụ trông coi đền thờ vua An Dương
Vương hương khói quanh năm) và tổ chức lễ hội Cổ Loa. Đồng thời, vùng này
còn được cấp một số mẫu ruộng được gọi là ruộng công, giảm một số siu thuế
trong thời vua Lê vua Nguyễn.
2.1.2, Các hiện vật được trưng bày trong Cổ Loa 2.1.2.1, Nỏ Thần
Chắc rằng không còn ai xa lạ gì với nỏ thần Liên Châu của vua An Dương
Vương, chỉ núi núi tan chỉ ngàn ngàn cháy. Vào 1959, trên con đường từ quốc lộ
3 qua di tích Cổ Loa, trên con đường đó các công nhân có vô tình đào được một 8
kho đồng với khối lượng 93kg với hàng vạn mũi tên. Từ đó nỏ thần của vua An
Dương Vương bắt đầu được làm sáng tỏ, tuy nhiên khi đó nhiều người vẫn chưa
tin, nghi ngờ rằng thời đó làm gì có công nghệ tiên tiến để làm ra nỏ thần, có thể
ông mua nó từ phương Bắc.
Nhưng nhờ những cuộc khai quật khảo cổ học tại đền thượng, được tương truyền
là nơi ở của nhà vua và hoàng tộc, từ năm 2004-2007, các nhà khảo cổ học đã
phát hiện ra rất nhiều khuôn và nguyên liệu làm khuôn. Để chế tạo ra những
mang khuôn như vậy, dùng đá sa thạch hạt mịn không cứng quá và cũng không
mềm quá dễ dàng chế tác. Từ những mang khuôn có hình trụ, họ gia công, mài
để tạo ra mang khuôn hoàn chỉnh. Trên mỗi mang khuôn đều có hình mũi tên, để
tạo nên mũi tên đồng ba cạnh An Dương Vương đã dùng khuôn ba mang, gồm
ba khuôn chụm lại tạo thành một khuôn hoàn chỉnh. Bên trong khuôn rỗng hoàn
toàn để rót đồng nóng chảy vào, khi đồng nguội tách ra được một mũi tên đồng
ba cạnh. Loại tên này khác với loại hai cạnh ở chỗ, khi bắn ra sẽ giảm tối đa lực
cản của không khí và đạt vận tốc rất nhanh, cho nên sát thương rất cao. Do người
thời xưa thường ăn mặc đóng khổ ở trần, vì thế mũi tên chỉ cần tẩm độc bằn lá
cây rừng cũng như côn trùng độc khi gây xây xước ra có thể dẫn đến tử vong đối
với quân thù, song y tế trước đây không được hiện đại như bây giờ nên khó cứu
chữa. Chính Triệu Đà cũng không hiểu vì sao An Dương Vương có thể tạo ra
mũi tên lợi hại đến vậy, còn cho rằng ông được Thần Kim Quy giúp sức. Nhưng
giờ đây mọi thức đã được khảo cổ học làm sáng tỏ. 2.1.2.2, Trống đồng 9
Năm 1982, trên thửa ruộng của một người nông dân ở xóm chợ, khi muốn dẫn
nước từ một mương cạnh đó vào ruộng ông hạ thấp ruộng của mình xuống.
Trong quá trình hạ thấp thửa ruộng của mình ông vô tình phát hiện ra một chiếc
trống đồng, chiếc trống đồng này đang ở trong trạng thái chân trống ngược lên
lên, mặt trống úp xuống dưới và trong lòng trống chứa khoảng 200 hiện vật đồng
các loại: giáo, dao găm, lưỡi cày đồng,và mảnh một chiếc trống đồng đang được
đúc dở. Chiếc trống đồng này được coi là một kho giấu của vì đồng cách đây hơn
2000 năm là một loại nguyên liệu quyền lực và tất cả những đồ quý giá được cất
vào lòng trống và chôn sâu dưới mặt đất. 2.1.2.3, Lễ hội cổ loa
Được tổ chứ vào mùng sáu tháng giêng, là một lễ hội vô cùng đặt sắc với nghi lễ
rước của bát xã, nghĩa là tám xã cổ cùng thờ vua An Dương Vương, gọi là “Bát
xã loan thành”. Bên cạnh đó, còn có các phần hội như trò chơi: cờ người, đấu vật,...
2.1.2.3, Bộ hiện vật làng nghề
Bộ hiện vật làm bún: Truyền thuyết kể lại rằng, này 13/08 là ngày ăn sêu bà
chúa Mị Châu, trong quá trình tiếp đón nhà trai vua An Dương Vương đã cho
đầu bếp làm bánh bột lọc để thiết đãi quan khách. Nhưng trong quá trình làm
bánh, ông vô tình để bột đổ vào nồi nước sôi, ngay lập tức ông vội vàng lấy ra để
trụng vào thau nước lạnh nhưng không may bột đã kết thành những sợi được gọi
là bún. Rồi ông đem xào với rau cần dược nhà vua và quan khách ngợi khen. Từ
đó xuất hiện nghề làm bún ở Cổ Loa. Bún ở đây được làm ra khác hoàn toàn so
với những nơi khác, họ ủ gạo sống vào trong chai cho đến khi gạo mềm có thể 10
bóp ra, sau đó đem say rồi cho vào vại để ngâm khử chua và phải thay nước rất
nhiều lần. Đến khi đã hết chua họ đem ra thấu dẻo, giã bột, nhào bột. Khi bột
nhuyễn bỏ vào vắt để vắt bằng nước sôi. Bún Cô Loa đặc biệt ở chỗ nếu để trong
điều kiện bình thường đến 2-3 ngày cũng không hề bị hỏng, sợi bún không trắng
sáng như bún vùng khác mà sẽ có màu hơi đục vì không qua công đoạn ngâm
hóa chất, sợi bún to xào với rau cần không hề bị nát.
Bộ dụng cụ nghề làm bỏng chủ: Ở vùng Cổ Loa có câu nói:
“Thục phương khách đến Cổ Loa
Mua phong bỏng chủ quê nhà thục vương
Nếp hoa vừng trắng mật đường
Chày khuôn nén chặt quân lương một thời”
Từ câu hát ta có thể hình dung ra rằng bỏng chủ chính là quân lương, là lương
thực cho quân lính của vua An Dương Vương khi tập quân sự. Bỏng ở làng Cổ
Loa được làm từ gạo nếp cái hoa vàng của làng Dục Tú, gạo nếp cái hoa vàng
được rang trong chảo sau đó lấy hoa bỏng trắng trộn cùng mật mía, thảo quả, lạc.
Sau đó được cho vào khuôn để giã, một người đàn ông sẽ giã khoảng 15-20 chày
nén chặt khuôn bỏng, sau khi nén chặt sẽ lăn trong bột bỏng trắng và gói vào
giấy hồng điều, tạo nên một phong bỏng có vị ngon ngọt. Tuy hiện nay bỏng
không còn là một món ăn phổ biến trong đời sống thường ngày, nhưng lại là một
vật tế lễ quan trọng không thể thiếu trong ngày lễ mùng sáu tháng giêng tại vùng
Cổ Loa. Bỏng sẽ được giâng lên bàn thờ vua An Dương Vương. 2.1.3, Ngự triều di quy