



















Preview text:
TRƯ Ờ NG Đ Ạ I H Ọ C C Ầ N THƠ KHOA KHOA H
Ọ C CHÍNH TR Ị BÀI BÁO CÁO TRI
Ế T H Ọ C PHƯƠNG TÂY HI Ệ N Đ Ạ I
Ch
ủ đ ề : CH Ủ NGHĨA HI Ệ N SINH GI
Ả NG VIÊN HƯ Ớ NG D Ẫ N SINH VIÊN TH Ự C HI Ệ N TS. NGUY Ễ N THÀNH NHÂN Nhóm 3
C Ầ N THƠ 19 / 10 / 202 3 lOMoAR cPSD| 58493804
MỤC LỤC 1. Khái luận về chủ nghĩa hiện
sinh…………………………………………3
1.1 Chủ nghĩa hiện sinh là gì?............................................................................3
1.2 Hoàn cảnh ra đời…………………………………………………………..3
1.3 Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa hiện sinh……………………………..….4
1.3.1 Nguồn gốc kinh tế và xã hội, chính trị………………………………..…4
1.3.2 Nguồn gốc tư tưởng……………………………………………….……5
1.3.3 Nguồn gốc nhận thức………………………………………………..….7
1.3.4 Đối tượng và phương pháp của chủ nghĩa hiện sinh…………….………8
1.3.5 Sự phát triển của chủ nghĩa hiện sinh và các phái hiện sinh chủ yếu….8
2. Những đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh………………...……10
2.1 Triết học hiện sinh Martin Heidegger……………………………………10
2.2 Triết học hiện sinh Karl Theodor Jaspers…………………...……………16
2.3 Chủ nghĩa hiện sinh Jean Paul Sartre …………………..…..……………22 3.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đến đời sống xã hội và văn học như
thế nào………………………………………………………………………24 4.
Kết luận ………………………………………………………………….26 lOMoAR cPSD| 58493804
1. Khái luận về chủ nghĩa hiện sinh
1.1 Chủ nghĩa hiện sinh là gì ?
Chủ nghĩa hiện sinh (hay triết học tồn tại ) là một trong những trào lưu tư tưởng
triết học phương tây hiện đại xem con người như là một bản thể độc đáo, có một không
hai, có khả năng tự quyết định số phận của mình. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời vào giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh thế giới thứ hai và kéo dài cho đến cuối
những năm 60 của thế kỷ XX . Chủ nghĩa hiện sinh ra đời góp phần vào sự phát triển của
triết học phương tây hiện đại và hệ tưởng của chủ nghĩa tư sản . Tư tưởng hiện sinh không
chỉ ảnh hưởng tới đời sống tinh thần ở châu Âu nơi nó ra đời mà nó còn có tầm ảnh hưởng
trên cả thế giới, không chỉ lúc nó ra đời mà còn tận tới ngày nay.
1.2 Hoàn cảnh ra đời
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, châu Âu bước vào tình trạng khủng hoảng về tất
cả các mặt từ chính trị, xã hội, tư tưởng ... Khoảng năm 1870, nước Đức thống nhất trở
thành một quốc gia hùng mạnh ở châu Âu . Tình trạng bất an ngày càng gia tăng với nguy
cơ trả thù . Đặc biệt là chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra làm hàng triệu người trở thành
nạn nhân của “ trò chơi chiến tranh” của các tài phệt chủ nghĩa để quốc.
Tinh thần của con người lúc này rơi vào tình trạng hoang mang đến tột độ . Giờ đây
nhân tính được thay bằng thú tính, cơ cấu xã hội bị đảo lộn lung lay đến tận gốc rễ, pháp
luật chính trị trở thành trò chơi “ảo thuật trong tay những người cầm quyền”, mọi luân lý
bị xem thường, bao nhiêu nghịch cảnh thương tâm xảy ra . Con người trong giai đoạn này
dường như mất hết niềm tin vào cuộc sống, nghi ngờ mọi giá trị, con người trở nên buồn
chán, vô nghĩa phi lý, và nhân cách bị tha hóa theo hoàn cảnh sống .
Mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh xảy ra liên miên nhưng khoa học kỷ thuật vẫn
tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể góp phần vào việc tăng năng suất
tạo ra nhiều của vật chất hơn. Nhưng từ đó cũng là nguyên nhân làm cho con người thêm
phần nghi ngờ tại sao khoa học kỷ thuật pháp triển làm ra nhiều của cải hơn vậy sao lại
vẫn có chiến tranh, sao không mang lại cho nhân loại cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trong
bối cảnh ngự trị của tư duy duy lý cực đoan đó con người chỉ như những đồ vật, những
cái linh kiện máy móc của các thiết bị trong các nhà máy công xưởng của các ông chủ tư bản mà thôi.
1.3 Nguồn gốc ra đời của chủ nghĩa hiện sinh.
1.3.1 Nguồn gốc kinh tế và xã hội, chính trị. lOMoAR cPSD| 58493804
Chủ nghĩa hiện sinh phản ánh bước tranh hiện thực về sự khủng hoảng tột độ của
chủ nghĩa tư bản chuyển vào giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Là sự phản ứng tiêu cực của
giới trí thức tư sản và tiểu tư sản đối với sự tha hóa xã hội và mặt trái của khoa học kỷ thuật
a. Kinh tế-xã hội
Đây là giai đoạn mà kinh tế tư bản phát triển đến giai đoạn phồn thịnh nhất, nền sản
xuất tư bản được áp dụng những thành tựu của khoa học kỷ thuật nên tạo ra năng suất cao
hơn như C.Mác nói “phương thức sản xuất tư bản đã tạo ra lượng của cải nhiều gấp mấy
làn các phương thức sản xuất trước đã tạo ra” Nhưng lượng của cải này không phải là
lượng của cải của toàn xã hội mà tập trung trong tay cảu giai cấp tư sản giai cấp thống trị
xã hội . Giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính là những người tạo ra nguồn của
cải khổng lồ của chủ nghĩa tư bản nhưng chính họ lại là những người sống dưới mức nghèo
khổ chiếm phần lớn của xã hội còn giai cấp tư sản chỉ chiếm một số lượng rất í nhưng lại
chiếm phần lớn của cải xã hội, không những thế giai cấp công nhân vào những người lao
động họ không biết sẽ bị đẩy ra ngoài đường lúc nào không biết, nguy cơ thất nghiệp là rất lớn.
Mọi người trong xã hội đặt ra câu hỏi răng khoa học kỷ thuật phát triển tạo ra một
lượng cua cải khổng lồ những nền kinh tế tư bản lại không mang lại cho mọi người cuộc
sống ấm no, mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động vẫn sống cuộc sống nghèo khổ
sống trong những khu nhà ổ chuột . Họ đang sống trong nền kinh tế tư bản đầy bất công
sự giàu có thì có thừa nhưng sao họ không được hưởng thụ và đó cũng là những công sức mà họ làm ra .
Kinh tế phát triển nhưng kế quả của sự phát triển đó là chiến tranh xảy ra liên miên
chỉ chưa đầy 1/4 thế kỷ mà đã có hai cuộc chiến tranh xảy ra trên phạm vi thế giới . Chiến
tranh đẩy nhân dân vào vòng lầm than, khổ ải Những cuộc chiến nãy xảy ra không một
chút chính nghĩa nào chỉ là để chứng tỏ “xem ai là kẻ đi ăn cướp được nhiều nhất” kẻ nào
thể hiện được bản chất ăn cướp của mình nhất .Vì chiến tranh mà đã làm cho tất cả mọi
thứ ở trên đời này không con dù chỉ là một chút nghĩa lý nào cả, tất cả đều vô nghĩa, con
người mất đi niềm tin vào cuộc sống . Đây chính là một chủ đề mà được các tác phẩm văn
chương hay triết học trong giai đoạn này đều mô tả và đề cập đến . Qua các tác phẩm này
mỗi mỗi tác gia đều trở thành những nhà hiện sinh, họ đều muốn tìm vào một nơi nào đó
để chia sẻ sự chán chường về cuộc sống thực tại đầy đau khổ, không lối thoát, mọi thứ
trên đời trở nên phi lý buồn bã, sự đảo lộn của xã hội, nhân sinh quan về cuộc sống của
con người trong giai đoạn này, và những tác phẩm đó họ muốn lối thoát, họ muốn chứng
minh sự tồn tại của họ với xã hội. lOMoAR cPSD| 58493804 b. Chính trị
Trong xã hội tư bản quyền lực chính trị tập trung trong tay của giai cấp tư sản, những
tài phiệt tư bản đã biến quyền lực chính trị trong tay mình như những trò hề, là con rối
.Các nhà tư sản có tiền thì đồng nghĩa với việc có quyền lực,và các đảng phái tư sản thay
nhau cầm quyền thống trị giai cấp công nhân và nhân dân lao động .Giai cấp tư sản thực
hiện các quyền lực chính trị chỉ để nhằm mục đích có lợi cho giai cấp tư sản chữ không
quan tâm đến lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội.
1.3.2 Nguồn gốc tư tưởng
Chủ nghĩa hiện sinh có 3 nguồn tư tưởng chủ yếu và trực tiếp :
1. Triết học của Kierkegaard(Kiếc-cơ-gát)
2. Triết học đời sống của A.Schopenhuaer (soopenhuơ),F.Nietzsche(Nítsơ) 3. Hiện
tượng luận E.husserl(hutxeclo).
Ngoài ra chủ nghĩa hiện sinh còn chịu ảnh hưởng của A.Augustin,
B.Pascal,F.M.Dostoievski, đạo tin lành, đạo do thái, I.Kant, chủ nghĩa lãng mạng Đức
đầu thế kỷ XIX, F,Kafka.v.v...
Chủ nghĩa hiện sinh đã mượn ở Kierkegaard khái niệm “hiện sinh” ; quan niệm về
“tư duy hiện sinh” và sự đối lập của nó với tư duy khoa học. Theo quan niệm này, không
phải tư duy khoa học mà chỉ có tư duy hiện sinh mới có thể nhận thức được và thâm nhập
được và thế giới nội tâm của con người và tồn tại con người với tư cách là hiện sinh.
Chủ nghĩa hiện sinh đã mượn một số yếu tố trong triết học đời sống, chẳng hạn
mượn ở Dilthey phương pháp chú giải học như một phương pháp đặc biệt khác với các
phương pháp khoa học, các phương pháp logic để nhận thức được cái tinh thần hay
“mượn” ở Nitzsche thái độ hạ thấp coi thường khoa học và tư duy khoa học trong việc
nhận thức đời sống bất tận với tư cách là một hiện thực đặc biệt, hay “mượn ở Bergson
với thuyết trực giác, bằng tình cảm, so với nhận thức bằng trí tuệ, lý tính và khoa học. Chủ
nghĩa hiện sinh còn đi xa hơn triết học đời sống . Nếu triết học đời sống coi tư duy khoa
học là thô thiển, nhưng vẫn là phương tiện để thích nghi với cuộc sống, thì trái lại chủ
nghĩa hiện sinh khẳng định sự bất lực của nó trong việc giải quyết vẫn đề tồn tại của con người .
Chủ nghĩa hiện sinh đã sử dụng phương pháp hiện tượng học của Husserl, phương
pháp hướng vào việc nhìn thấu một cách trực tiếp bản chất của sự vật trong quá trình trải
nghiệm sự vật đó sau các giai đoạn quy giảm hiện tượng học và quy giảm tiên nghiệm trên
cơ sở phân tích ý hướng tính . Chủ nghĩa hiện sinh đã bản thể luận hóa hiện tượng học của lOMoAR cPSD| 58493804
husserl hay hiện tượng học hóa bản thể luận của kierkegaard, cố gắng qua đó tìm ra được
cấu trúc tiên nghiệm của tồn tại con người
Kierkegaard xem xét tồn tại con người, hiện sinh như một đối tượng triết học, ông
xác định cấu trúc hiện sinh với khái niệm “sợ hãi”, “sự tuyệt vọng” và “tính cương quyết”
. Theo Kierkegaard, chỉ có tư duy hiện sinh chữ không phải là lý tính, tư duy khoa học có
khả năng tiếp cận nhận thức thế giới nội tâm của con người và thâm nhập được vào tồn
tại con người với tư cách hiện sinh, bởi vì tư duy khoa học chỉ xuất phát từ sự quan tâm
thuần túy, trừu tượng và vô tình, còn tư duy hiện sinh liên quan đến những tình cảm khởi
thủy nhất của con người và đời sống nội tâm của con người. Chủ nghĩa hiện sinh sau này
đã tiếp nhận ở kierkegaard luận điểm này . Do vậy kierkegaard đã thực sự trở thành cha
đẻ của chủ nghĩa hiện sinh nói chung.
Triết học đời sống là một xu hướng triết học phi lý ở Đức và Pháp từ nửa cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cố gắng làm sáng tỏ các vẫn đề về ý nghĩa, mục tiêu và giá trị của
cuộc sống . Triết học đời sống, xem xét mọi tồn tại như là biểu hiện của cuộc sống, biểu
hiện của một khởi nguyên nào đó không đồng nhất với cả vật chất lẫn tinh thần và hiện
thực đó có thể là nhận thức được nhờ trực giác. Gắn liền với sự phát triển của sinh vật
học, tâm lý học, triết học đời sống là sự phản ứng của bức tranh cơ giới thế giới, đối với
chủ nghĩa duy vật máy móc . Triết học đời sống có thể xem là một cố gắng khắc phục
những hạn chế của duy vật máy móc đó từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm, từ quan
điểm của chủ nghĩa phi duy lý, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa bài khoa học . Như vậy, triết
học đời sống bênh vực tình cảm, bản năng chống lại lý trí, trí tuệ, bênh vực trực giác chống
lại khái niệmbênh vực cái sáng tạo chống lại cái máy móc.
Có hai nhóm chủ yếu trong triết học đời sống :
+ Nhóm thứ nhất gồm có các đại diện tiêu biểu chủ yếu như A.Schopenhauer (1788-
1860) F.Nitzsche(1844-1900).W.Dilthey(1833-1911). Nhóm này xem cuộc sống như là ý
chí, cảm tính bên trong, như là trò chơi phi lý của các thế lực tinh thần. Nhóm này chống
lại việc xem xét các hiện tượng tinh thần, ý thức từ quan điểm của khoa học tự nhiên .
+ Nhóm thứ hai với đại diện là Bergson (1859- 1941) xem xét cuộc sống dưới góc
độ sinh học cho toàn bộ hiện thực . Đưa ra thuyết trực tính, khoa học .Chủ nghĩa hiện sinh
đã tiếp nhận ít nhiều các yếu tố này ở các đại biểu khác nhau của triết học đời sống.
1.3.3 Nguồn gốc nhận thức
Về mặt nhận thức, chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng đối với chủ nghĩa duy lý với
các hình thái khác nhau của nó như tư tưởng khai sáng châu Âu và tư tưởng triết học cổ
điển Đức . Theo các nhà tư tưởng hiện sinh, đặc trưng cơ bản của tư duy duy lý là ở chỗ
nó xuất phát giữa chủ thể và khách thể, chia thế giới thành hai lĩnh vực là khách quan và
chủ quan . Kết quả là, đối với nhà duy lý, toàn bộ thế giới hiện thực, kể cả con người chỉ lOMoAR cPSD| 58493804
được xem như một đối tương hay bản chất nào đó của nền khoa học và triết học khách
quan Sự tồn tại đặc thù của con người như một nhân cách tư do đã không hề được chú ý
đến. Nguồn nhận thức của tư tưởng hiện sinh chính là sự khủng hoảng của nền khoa học,
sự bất lực của nó đối với về ý nghĩa của con người
Cho đến thế kỷ XIX, ngự trị một xu hướng cho rằng khoa học vai trò vạn năng của
khoa học, khoa học có thể giải quyết tất cả các vẫn đề về nhân sinh, rằng vũ trụ không có
gì là huyền nhiệm, với sự phát triển của khoa học kỷ thuật thì nhất định con người có thể
thỏa mãn tất cả các nhu cầu về tinh thần và vật chất . Tuy nhiên sự phát triển của khoa học
kỷ thuật không đồng nhất với sự phát triển của xã hội . Lý trí khoa học đã không cải thiện
được nhân sinh . Khoa học bị rơi vào cuộc khủng hoảng nền tảng sâu sắc . Cuộc khủng
hoảng này gắn liền với cuộc khủng hoảng trong vật lý và sự ra đời của thuyết tương đối
của Anxtanh. Khoa học còn tỏ ra bất lực trước vẫn đề tồn tại của con người, trước cảm
giác sợ hãi, chán chường và bế tắc, bất lực của con người . Đặc biệt khoa học và lý tính bị
tố cáo là sai lầm, vì đã xem con người là một hiện tương vật lý thuần túy, không thấy được
vị trí đặc biệt của con người.
Yếu tố này đã đặt cơ sở cho tư tưởng hiện sinh- chủ nghĩa hiện sinh ra đời , xu
hướng nghiên cứu tồn tại đặc biệt của con người, vẫn đề tự do, vẫn đề ý nghĩa sự tồn tại
của con người , giải đáp các vẫn đề ý nghĩa tồn tại của con người, giải đáp các vẫn đề
khủng hoảng xã hội vv..
Vì vậy, sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện sinh đã có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với các
tầng lớp trí thức trẻ, nhất là giới sinh viên, vì nó đánh trúng tâm tư nguyện vọng của họ
muốn lý giải và thay đổi số phận của mình, không muốn tiếp tục tha hóa khỏi bản chất của
mình trong một thế giới buồn chán và phi lý, phá bỏ mọi quy tác trật tự của xã hội tư bản
chủ nghĩa, để đặt được tự do tuyệt đối cho cá nhân, đặt được bản sắc cá nhân độc đáo của mình.
1.3.4 Đối tượng và phương pháp của chủ nghĩa hiện sinh
a. Đối tượng của chủ nghĩa hiện sinh
Đối tượng mà chủ nghĩa hiện sinh quan tâm giải quyết là con người, nhưng đó
không phải là con người nói chung hay loài người như triết học truyền thống, mà là “sự
hiện hữu của từng cá thể đặc thù” (Eller), đó là tôi, anh hay một chị X nào đó.
b. Phương pháp của chủ nghĩa hiện sinh
Phương pháp của chủ nghĩa hiện sinh là phương pháp hiện tượng học do Husserl
xây dựng, với tư tưởng cơ bản là sự liên quan hay tương hỗ không thể tách rời giữa chủ lOMoAR cPSD| 58493804
thể và khách thể: Ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì và Đối tượng bao giờ cũng
là đối tượng cho một ý thức.
1.3.5 Sự phát triển của chủ nghĩa hiện sinh và các phái hiện sinh chủ yếu.
a. Sự phát triển của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh và có ảnh
hưởng khá lớn, chủ nghĩa hiện sinh được hình thành ở nước Đức sau chiến tranh thế giới
thứ nhất. Từ khi Hitler lên cầm quyền, nhất là từ sau đại chiến thế giới thứ hai, trung tâm
của chủ nghĩa hiện sinh đã dời từ Đức sang Pháp.
Ngoài hai nước Đức, Pháp, chủ nghĩa hiện sinh cũng có không ít tín đồ ở các nước
tư bản chủ nghĩa khác. Ở Tây Ban Nha, Mỹ.
b. Các phái hiện sinh chủ yếu
Chủ nghĩa hiện sinh hữu thần gồm các đại biểu: S. Kierkegaard, K. Jaspers, M.
Buber, Jean Wahl, G. Marcel...
Chủ nghĩa hiện sinh vô thần gồm các đại biểu: F. Nietzche, M. Heidegger, J.P.
Sartre, A. Camus, Simone de Beauvoir
1.3.6 Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh
a. Chân lý là chủ quan
Soren Kierkegaard cho rằng chân lý là chủ quan. Ông bác bỏ quan điểm cho rằng
khoa học và chân lý khách quan có thể cung cấp ý nghĩa cho cuộc sống cá nhân. Ông viết:
“Tôi phải tìm một chân lý nó đúng với tôi...tư tưởng mà theo đó tôi có thể sống hoặc chết”.
b. Sự phi lý và nổi loạn
Chủ nghĩa phi lý tính là một khía cạnh của chủ nghĩa hiện sinh. Các nhà hiện sinh
cho mọi tồn tại đều là phi lý. Cái phi lý là cái không có bản chất, không có tính tất yếu,
không có quy luật, không có nguyên nhân, mục đích, nói chung là không thể giải thích bằng lý trí.
c. Sự kinh sợ, sự trăn trở, sự đau khổ
Các nhà hiện sinh Kitô giáo, như Kierkegaard coi sự lo sợ không chỉ một đối tượng
cụ thể mà còn là một trạng thái khủng khiếp, kinh sợ nói chung không gắn một cách trực
tiếp với đối tượng cụ thể nào cả. Họ giải thích đây là cách mà Thiên chúa kêu gọi mỗi cá
nhân cam kết thực hành một lối sống chân chính. d. Sự hư vô
Chủ nghĩa hiện sinh phủ nhận mọi bản chất, kết cấu của con người cũng như của
thế giới do triết học, khoa học, chính trị, tôn giáo áp đặt... Con người không có một bản lOMoAR cPSD| 58493804
chất, một kết cấu tri thức, một giá trị đạo đức, một mối quan hệ vốn có nào cả. Nói tóm
lại, nó đơn thuần chỉ là một sự trống rỗng, hư vô. Sự hư vô làm cho con người luôn luôn
sống trong sự đau khổ, lo âu, tuyệt vọng. Vì thế, con người có tự do tuyệt đối lựa chọn
cho mình trở thành một cái gì. f. Cái chết
Đối với con người hiện sinh, cái chết là vấn đề quan trọng nhất. Con người hiện
sinh là con người luôn luôn sợ hãi trước cái chết, vì sự sống là sự tồn tại dẫn đến cái chết
Theo Sartre, cái chết cũng phi lý như sự sinh ra. Nó không là cái gì khác hơn là chỉ là cái
xóa đi sự hiện hữu của tôi. Cái chết cũng là một bằng chứng khác về sự phi lý của cuộc đời.
g. Sự tha hóa
Chủ nghĩa hiện sinh phát triển khái niệm tha hóa đến cực đoan. Con người hiện sinh
là con người bị tha hóa với tất cả các mối quan hệ: với thế giới đồ vật, với xã hội, trong
quan hệ với người khác, kể cả trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái, giữa con cái với
nhau, trong quan hệ vợ chồng, trong tình yêu...
2. Những đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh
2.1 Triết học hiện sinh Martin Heidegger
Martin Heidegger (26/11/1889 - 26/5/1976) là một triết gia Đức, người triển khai
hiện tượng luận hiện sinh, đặt nền tảng cho triết học hiện sinh và được thừa nhận rộng
rãi với tư cách một triết gia độc đáo, có ảnh hưởng vào bậc nhất của thế kỷ XX. Với
những đóng trong triết học của ông, có người đã nhận xét: Tầm vóc lỗi lạc của ông chỉ
có triết gia Đức Wittgenstein mới sánh được(1). M.Heidegger sinh tại Messkirche, Baden
và từng là học trò của Rickert. Ông nghiên cứu thần học Công giáo La Mã và sau đó là
triết học tại Đại học Freiburg, nơi ông là trợ giảng cho triết gia Edmund Husserl - người
sáng lập hiện tượng luận. Năm 1914, ông bảo vệ luận án tiến sĩ triết học "Học thuyết
về phán đoán trong chủ nghĩa duy lý"; sau đó, ông lại tiếp tục bảo vệ luận án "Học lOMoAR cPSD| 58493804
thuyết Duns Scotus về phạm trù và nghĩa" (một triết gia tôn giáo và đạo đức thế kỷ
XIV). M.Heidegger bắt đầu giảng dạy triết học tại Đại học Freiburg từ năm 1915 với
tư cách trợ giảng cho Husserl. Từ năm 1923 đến năm 1928, ông giảng dạy tại Đại học Marburg.
Trong cuộc đời nghiên cứu lý luận của mình, M.Heidegger đã công bố nhiều
công trình nghiên cứu có giá trị, như Sein und Zeit -Tồn tại và thời gian (1927); Die
Grundprobleme der Phaenomenologie - Những vấn đề căn bản của hiện tượng luận
(1927); Kant und das Problem der Metaphysik - Cantơ và vấn đề siêu hình học (1929);
Was ist Metaphysik? - Siêu hình học là gì? (1929); Vom Wesen der Wahrheit - Về bản
chất của chân lý (1930); Was ist das - die Philosophie? - Triết lý là gì?(1956); Nietzsche (1961)..
Như chúng ta đã biết, M.Heidegger là học trò lớn nhất của Husserl (khởi đầu
nghiên cứu của ông là một nhà hiện tượng luận dưới sự hướng dẫn của
Husserl), nhưng, điều thú vị là chính ông đã trở thành "đối thủ" lớn nhất của Husserl
trong triết học(3). M.Heidegger đã xuất phát từ hiện tượng học Husserl; hơn nữa, cả hai
ông luôn phê phán lẫn nhau và điều quan trọng là sự phê phán đó đóng một vai trò rất
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng của cả hai nhà triết học.
M.Heidegger đặc biệt quan tâm tới vấn đề tồn tại (being) và tác phẩm mang lại tên tuổi
cho ông là Tồn tại và thời gian (1927). Trong lần đầu tiên xuất bản, tác phẩm này mới
chỉ trình bày được một phần ba toàn bộ “dự phóng triết học” đã vạch ra trong lời dẫn
nhập, song nó vẫn được coi là một bản thể luận về hiện tượng(4)và tạo ra một bước ngoặt
trong triết học châu Âu, gây nên sự bàn luận nhiều nhất trong thế kỷ XX.
Ý niệm về tồn tại là chủ đề nghiên cứu chủ yếu trong suốt chiều dài lịch sử triết
học phương Tây từ thời Parmenides. Theo M.Heidegger, tồn tại hay cái thường hằng
không thấy được đằng sau mọi biến thể đã bị lãng quên trong thời đại Ánh sáng và
công việc cần thiết bây giờ là phải phục sinh nó đúng với ý nghĩa vốn có của nó.
M.Heidegger đã cố gắng đưa tồn tại vào trong lịch sử, tức thời gian để từ đó, khám phá
ra bản chất thực sự của nó. Rõ ràng, đây là điều hoàn toàn trái ngược với lôgíc, bởi tồn
tại - nếu nó tồn tại - theo như định nghĩa, không bị ảnh hưởng bởi thời gian hay lịch sử.
Thuộc tính thực của nó chống lại lịch sử, trái ngược với những gì đang diễn ra. Đi từ
chỗ bắt đầu của tồn tại, khởi nguồn trong tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại và bằng việc
kế thừa tư tưởng tinh tuý của Nietzsche, M.Heidegger đã đánh giá lại Platôn một cách
nghiêm túc, đồng thời gạt bỏ toàn bộ thế giới quan duy tâm trong học thuyết Platôn.
Ông coi tồn tại như một đối tượng của thời gian và lịch sử để khôi phục lại một vấn đề
đã bị lãng quên và bị coi nhẹ trong triết học đương đại. lOMoAR cPSD| 58493804
M.Heidegger đã từng bộc bạch trong Tồn tại và thời gian là phải nghiên cứu cụ
thể, làm rõ mục đích của tồn tại và để làm rõ được mục đích này thì cần phải hiểu ai
hỏi về mục đích của tồn tại. Tư tưởng này đã được ông thể hiện trên một số phương diện sau: 1.
Tồn tại ở đây và phương pháp phân tích hiện sinh.
Việc giải quyết vấn đề tồn tại có nghĩa là làm sáng tỏ một cái hiện hữu cụ thể,
xác định và chính con người đang tìm kiếm mục đích của tồn tại. Điều này có nghĩa là,
chỉ có thể hiểu được vấn đề mục đích của tồn tại nếu chúng ta biết rõ có thể đạt tới mục
đích của tồn tại thông qua cái hiện hữu(5). M.Heidegger viết: "Để lý giải vấn đề tồn tại
một cách hoàn toàn rõ ràng thì đầu tiên cần phải giải thích rõ phương thức thâm nhập
vào tồn tại, phương thức thấu hiểu và nắm bắt mục đích của nó bằng khái niệm, cũng
như cần phải giải thích rõ khả năng của một cái hiện hữu xác định với tư cách khuôn
mẫu và khả năng chỉ ra con đường tiếp cận thật sự với nó"(6). Theo ông, con người ở
đây không phải chỉ là sự tồn tại giản đơn, mà còn là chủ thể hỏi về mục đích tồn tại của
mình, thậm chí còn muốn làm sáng tỏ cái thực tồn đang hỏi đó là gì? Chính
M.Heidegger đã trả lời: "Cái thực tồn này là bản thân chúng ta, trong số nhiều khả
năng tồn tại khác thì chúng ta còn có một khả năng bắt buộc chúng ta tìm kiếm một cái
được biểu thị như là Dasein, tồn tại - hiện hữu - ở đây"(7). Với ý nghĩa này, có thể thấy
mọi sự vật dù có khác nhau đến đâu đi chăng nữa thì chúng cũng đều là những khách
thể (objecta) được đem lại trước cho Tôi và con người là cái hiện hữu: đối với nó thì
các sự vật thể hiện như những cái hiện diện và nó tồn tại là sự hiện sinh. Theo ông, tính
chất của sự hiện sinh không phải là sự hiện diện đơn giản mà trái lại, Dasein là tồn tại
trong khả năng, là cái có thể tồn tại, cho nên Dasein ở đây không phải là khả năng lôgíc
thuần tuý và càng không phải là những điều ngẫu nhiên, kinh nghiệm. Dasein ở đây
chính là việc con người có khả năng hiện thực hoá và có thể quyết định vận mệnh của
bản thân mình mà không phải một Ai - cái Tôi khác có quyền quyết định bản thân Tôi.
Như vậy, Dasein ở đây có hai mặt. Thứ nhất, trên phương diện chủ thể, Dasein là chính
con người, vì con người hiện hữu như một hiện diện. Thứ hai, xét về phương diện đối
tượng, Dasein là thế giới mà con người đã nhờ tri giác để khai minh và làm cho nó xuất
hiện. Đến đây, chúng ta đã phần nào hiểu được ý nghĩa chữ Dasein và mối tương quan
hiện hữu giữa con người và cái thế giới mà sự giao tiếp đã cho phép con người làm
xuất hiện môi trường sinh hoạt của mình. 2.
Con người với tư cách Tồn tại - trong - Thế giới (In - der - Welt - sein).
M.Heidegger đã gọi sự hiện ra của tồn tại là "chân lý" - cái ông định nghĩa là sự hiển
lộ chứ không phải là sự chính xác. Sự phơi bày của tồn tại ấy với các thuộc tính được lOMoAR cPSD| 58493804
bộc lộ và thông qua sự bộc lộ ấy đã được M.Heidegger sử dụng để định nghĩa về sự
tồn tại của con người. Ông đã gọi con người là Dasein (tồn tại người) và con người
thực sự là một In - der - Welt - sein và đó cũng chính là bản chất con người. Việc làm
rõ In - der - Welt - sein cũng chính là làm sáng tỏ Dasein (từ sein trong mệnh đề In -
der - Welt - sein của tiếng Đức cũng là một động từ trong danh từ Dasein ở bên trên).
Ở đây, con người chỉ là sự tồn tại trong thế giới và thế giới ở đây không phải là sự
chứa đựng con người một cách đơn thuần. Để làm rõ hơn, M.Heidegger đã giải thích
rằng, con người không sống trong không gian và cũng không sinh hoạt trong không
gian mà chính đời sống sinh hoạt của Dasein đã phát sinh ra không gian và thời gian.
Nó phát sinh ra không gian, bởi những ý niệm căn bản nhất của không gian, như
trước - sau, trong - ngoài, v.v. đều xuất phát từ con người và nếu không có con người
là trung tâm với những ý niệm thì tất cả những khái niệm không gian và thời gian đều
mơ hồ, nếu không muốn nói là vô nghĩa. Tóm lại, theo M.Heidegger, dù là không
gian sinh hoạt hay không gian trừu tượng của hình học thì cũng đều xuất phát từ con
người, lệ thuộc vào cái nhìn của con người. Tuy nhiên, thời gian mới là cái nói lên sự
lệ thuộc về sinh hoạt của con người với từ existieren (ek - sister). Để nói lên sự hiện
hữu của con người, ông đã định nghĩa như sau: "Hiện hữu là tự vượt qua mình để đạt
tới cái khả hữu của mình. Tự vượt mình là bỏ cái mình hiện nay để đi tới một hiện
hữu đang ẩn hiện trước mắt mình. Cái hiện hữu ẩn hiện trước mắt con người - đó là
khả hữu (sein - koennen, pouvoir - être)"(8). Đây chính là chỗ phát sinh dự phóng
(project), tức là khả năng phóng mình về phía trước của con người và đó là cái bản
chất sắp thành của Tôi. Tóm lại, xét trong In - der - Welt - sein thì hiện hữu là dự
phóng, còn dự phóng là thời gian tính và đó là ba cơ cấu hiện hữu của con người. 3.
Tồn tại dẫn tới cái chết, sự hiện sinh không đích thực và hiện sinh đích thực.
Theo M.Heidegger, trong quá trình sinh tồn và phát triển của mình, con người với
những môi trường sống khác nhau tất yếu sẽ nhận ra vị trí của mình trong bối cảnh
sống đó và vì vậy, con người sẽ chống lại bối cảnh ấy nhờ thiết kế sinh tồn của mình.
Nhưng, vì con người cần phải biểu thị sự quan tâm của mình về mặt bản thể, tức là về
mặt hiện hữu và tính thực tại của cái hiện hữu, nên nó không vượt qua được khuôn
khổ của sự hiện sinh không đích thực(9). Con người, bằng những hành vi của mình, đã
tạo lập cho mình những mối quan hệ xã hội trong môi trường sống của mình và điều
này, vô hình trung, đã ràng buộc con người ở cấp độ sự kiện. Chính quá trình này đã
thâm nhập vào đời sống lao động và ngôn ngữ của con người và làm cho thứ ngôn
ngữ ấy không còn đúng với bản chất con người nữa, trở nên vô vị, trở thành lời nói
trống rỗng của sự hiện sinh hư ảo cùng với tiền đề của nó: "Điều đó là như vậy vì
người ta nói như vậy"(10). Ngoài sự vô vị của lời nói trống rỗng thì hành vi thiếu lành lOMoAR cPSD| 58493804
mạnh, lời nói úp mở cũng là biểu hiện của của hiện sinh không lành mạnh. Điều này
được biểu hiện ở tính hư ảo với những mệnh đề đại loại, như "người ta nói như vậy",
"người ta làm như thế",… Tất cả những câu nói tương tự như vậy đều là dấu hiệu
đáng chú ý của hiện sinh không đích thực. Con người trong hiện sinh không đích thực
không phải là một cái Tôi có ý nghĩa hay nói cách khác, nó không phải là một con
người cụ thể bằng xương, bằng thịt mà thường là con người đại chúng, con người
không rõ ràng (con người đại chúng ở Ortecga y Gasset).
Khi làm rõ hiện sinh là gì, M.Heidegger đã cho thấy hiện sinh không đích thực
là một bộ phận cấu thành khả năng sinh tồn của con người, mà cơ sở của nó là những
tàn dư hay sự xuống cấp độ vật của tồn tại người. Cũng chính trong hiện sinh không
đích thực ấy, con người với sự thức tỉnh của lương tâm, sự mách bảo của trái tim đã
kêu gọi chúng ta hiện sinh đích thực và đi tìm lại những giá trị của hiện sinh đích thực
để nhờ đó, xa rời những gì vô nghĩa, vô ích và làm cho tâm hồn ngày càng trong sáng
hơn, tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn.
Như vậy, theo M.Heidegger, tồn tại trong khả năng có thể chính là sự hiện sinh.
Sự hiện sinh này là cơ sở cho những siêu vượt hoá của con người. Vì vậy, con người
có thể làm được nhiều việc khác nhau, dẫu đó là việc có ích hay không có ích. Song,
có một điều mà con người không bao giờ chạy trốn được là phải chết. Cái chết này,
theo M.Heidegger, là sự hiện sinh lớn nhất. Do đó, khi con người đang sống, tức cái
Tôi đang tồn tại, thì đó cũng có nghĩa là cái chết đang hiện diện trên tư cách của một
khả năng và nó có thể biến tất cả khả năng khác của con người trở thành vô nghĩa khi đi tới cái chết. 4.
Nhìn thẳng vào thực tại để đối mặt với nỗi sợ hãi và thời gian.
Khi luận giải vấn đề này, M.Heidegger đã chỉ rõ, Dasein là tồn tại của con người
và con người như là một In - der - Welt - sein, chỉ con người mới có bản chất đó thôi,
nên cũng chỉ con người mới được coi là một tồn tại mà bản chất là mở ra để đón chào
ý nghĩa của sự vật và chính là thông qua Dasein ấy, vạn vật mới được nhận thức và gọi
tên. Nhưng, theo ông, Dasein ấy không phải là một sự vĩnh cửu và cái chết chính là
một điều mà Dasein phải đối mặt, cái chết hiện ra trước mắt để làm rõ quan hệ của
Dasein với những quan hệ khác. Cái chết là khả năng không thể khắc phục được của
con người; nó là tối hậu của hiện sinh, nó thủ tiêu hiện sinh và tồn tại một cách vô điều
kiện đối với mỗi cá thể - Dasein. Cái chết hiện diện ở chừng mực nào thì đó cũng là cái
chết của con người trong chính chừng mực đó. lOMoAR cPSD| 58493804
"Tồn tại dẫn tới cái chết" là điều vô cùng sợ hãi với bất cứ ai; nó khiến con người
phải đối mặt với hư vô (Nichts) và mọi thứ đều trở nên vô nghĩa, vớ vẩn đối với Dasein,
đối với sự hiện sinh. Chính sự đau khổ báo hiệu cảm giác về mối hiểm hoạ đang gia
tăng mạnh mẽ, đang chống lại sự hiện sinh là nguyên nhân dẫn đến nỗi sợ hãi của
Dasein. Do đó, "sống để dẫn tới cái chết", nắm bắt trước cái chết, cảm nhận thấy nỗi
sợ hãi đó ở chính mình và dám nhìn thẳng vào sự thật đó, vào sự hư vô của bản thân,
vào sự không tồn tại của tất cả không phải là một điều dễ dàng gì với nhiều người và
người nào làm được điều đó tức là đã có sự hiện sinh đích thực. Cũng do vậy, con
người, với tiếng nói của lương tâm, cần phải chấp nhận tính hữu hạn của mỗi Dasein.
Ngược lại, với những ai luôn thể hiện sự sợ hãi trước cái chết, không dám nhìn thẳng
vào sự thật, vào cái hữu hạn của Dasein thì đó là kẻ hèn nhát, là sự hiện sinh tầm thường
và người đó tất sẽ bị chìm đắm trong bóng tối của cái das Man vô nhân cách. Sự sợ hãi
này được xem như là tồn tại không đích thực, tầm thường, thậm chí giống như vật. Tại
thời điểm mà Dasein phải đối mặt với bản thân mình trong việc thừa nhận tính không
thể khắc phục được của khả năng chết thì sự hiện sinh tầm thường được thể hiện ra
bằng việc tìm kiếm mưu mẹo để biến nỗi sợ hãi thành nỗi lo trước sự kiện không thể
đảo ngược được và tính không ngay thẳng, nỗi khiếp sợ, sự yếu đuối được thể hiện trong Dasein.
Khi nói về vấn đề thời gian, M.Heidegger đã viết: "Thời gian là sự cảm thụ thuần
tuý về mình. Chính thời gian tạo thành cái đích để tung mình về phía trước và do vậy,
thời gian làm nên kết cấu căn bản của chủ thể tính"(11). Thời gian ở đây, theo ông, là
thời gian tính (Temporalitaet) và được coi là một kết cấu của Dasein; còn Dasein là cái
tạo nên thời gian, vì thời gian chỉ là sự hiện hữu của con người, tức là thời gian chỉ có
ý nghĩa khi có sự hiện diện của con người và chính con người tạo nên thời gian khi
luôn “tự ném mình về phía trước”. Như vậy, quan niệm về thời gian bao giờ cũng phải
giả định về sự cùng tồn tại của thời điểm đã qua và thời điểm hiện tại, hoặc của quá
khứ và tương lai, và chúng chỉ cùng tồn tại trong bản chất của con người là "tự ném
mình về phía trước", tức là khi con người đang sống trong hiện tại nhưng đã ném mình
về tương lai, ném mình cả về phía sau mình.
M.Heidegger đã gọi khả năng này của con người là thời gian tính và nó chính là
bản chất con người, khi bản chất này là hiện hữu và chỉ hiện hữu như vậy do thời gian
tính của mình, tức là con người hiện diện với cái hiện thời, với cái đang có, với tương
lai. Và, hiện tại chỉ là hiện tại, khi nó có quan hệ với cả quá khứ lẫn tương lai. Vì vậy,
M.Heidegger cho rằng,"chúng ta chỉ là cái mà chúng ta đã là", "ta vẫn mang đứa trẻ và
cậu thiếu niên ở trong ta"(12). lOMoAR cPSD| 58493804
Như vậy, từ sự phân tích này của M.Heidegger về thời gian, chúng ta thấy 1)
Với ông, thời gian là không đích thực và mang tính tương hợp. 2)
Sự hiện sinh đích thực đã chỉ ra những nhỏ mọn, ích kỷ của mọi dự định
của con người. Và, con người sống được là nhờ tiếp nhận những tri thức mà nhân loại
đã tích lũy được, song cái chết lại vạch ra tính hư vô của hiện sinh người. 3)
Dasein luôn có tính lịch sử và tìm hiểu nó sẽ thấy cội nguồn của "tồn tại -
ở - đây" trong lịch sử và từ đó, lịch sử và tồn tại là thống nhất về mặt cấu trúc(13). 5.
Vấn đề siêu hình học phương Tây trong “Tồn tại và thời gian”.
Bằng việc xác định bản chất của tồn tại là gì khi chỉ rõ ý nghĩa của tồn tại người
Dasein, M.Heidegger đã vạch ra tính hư vô của sự hiện sinh để từ đó, phê phán siêu
hình học trước đó, kể từ Aristotle đến Hegel và Nietzsche trong Nhập môn siêu hình
học(1956). Ông cho rằng, những nhà triết học trước đó, bắt đầu từ
Platôn, đã làm cho sự phân tích hiện sinh không đi theo đúng hướng của nó và không
thể thực hiện được vì đã biến siêu hình học thành vật lý học. Do vậy, theo ông, cần phải
đưa vấn đề của triết học về đúng với ý nghĩa của nó. Đó là: Tồn tại khi tự bộc lộ mình
không cần phải thông qua hiện hữu, thậm chí cả khi đó là Dasein có địa vị đặc quyền,
mà chỉ cần theo sự chủ động của bản thân tồn tại.
2.2 Triết học hiện sinh Karl Theodor Jaspers
Karl Theodor Jaspers (23/2/1883 – 26/2/1969) là nhà triết học, nhà phân tâm học,
thầy thuốc chữa bệnh tâm thần người Đức, người có ảnh hưởng lớn tới thần học, phân tâm
học và triết học hiện đại. Cùng với Heidegger, Jaspers đã sáng lập chủ nghĩa hiện sinh
Đức nổi tiếng trong thế kỷ XX.
Jaspers tốt nghiệm trường y năm 1909 và bắt đầu làm việc tại một bệnh viện tâm thần ở
Heidelberg. Năm 1913, ông giành được một vị trí tạm thời tại Đại học Heidelberg với tư cách
giảng viên tâm lý học. Về sau, ông trở thành giảng viên chính thức và không bao giờ quay lại với
công việc điều trị lâm sàng nữa. Năm 1923, ông cho xuất bản cuốn Triết học - tác phẩm được các
nhà nghiên cứu đánh giá là quan trọng bậc nhất của ông và là nòng cốt cho triết học hiện sinh.
Ở tuổi 40, Jaspers chuyển từ tâm lý học sang triết học, mở rộng những đề tài mà ông đã
từng nghiên cứu trong các công trình y học trước đó. Jaspers đã trở thành triết gia lừng danh tại
Đức và cả châu Âu. Năm 1948, ông nhận chức giáo sư triết học tại Đại học Basel ở Thuỵ Sĩ và
với những đóng góp của mình, Jaspers lại nổi bật trong giới triết học cho tới khi qua đời năm
1969 tại đây. nhà hiện sinh người Đức đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm có giá trị, như Triết
học gồm 3 tập (1932); Ý tưởng đại học (1946); Câu hỏi về tội lỗi của nước Đức (1946); Đức tin lOMoAR cPSD| 58493804
triết học (1948); Nguồn gốc và mục tiêu của lịch sử (1949); Tương lai nhân loại (1961); Đức tin
triết học đối với sự mặc khải (1962), v.v..
Cho tới nay, những nhà nghiên cứu triết học trên thế giới đều thống nhất về vai trò
to lớn của Jaspers đối với triết học thế giới nói chung, với triết học hiện sinh nói riêng. Và,
rõ ràng là, một phần, Jaspers có sự tiếp nhận nguồn cội hiện sinh trong triết học của
Nietzsche, Kierkegaard và phần khác nữa, ông dành cho chủ đề về tự do cá nhân một dung
lượng lớn trong các công trình của mình. Tác phẩm Triết học gồm 3 tập (1932) là tác phẩm
quan trọng nhất, chứa đựng hầu như trọn vẹn chủ đề hiện sinh của Jaspers. Ở đây, ông đã
trình bày những hiểu biết, đánh giá của mình về lịch sử triết học và đưa ra quan niệm về
vũ trụ hiện sinh trên một số phương diện sau đây:
1) Về tình huống giới hạn.
Trước đó, trong tác phẩm Tâm lý học của thế giới quan (1919), lần đầu tiên Jaspers
đã nói đến khái niệm "tình huống giới hạn" như một khái niệm then chốt để hiểu được triết học hiện sinh.
Theo Jaspers, chỉ trong “các tình huống giới hạn”, như cái chết, tội lỗi, cuộc đấu
tranh, sự ngẫu nhiên,… người ta mới có thể cảm nhận được mình là ai. Trong những tình
huống đó, những định hướng và giá trị của ai đó sẽ được bộc lộ và do vậy, cần phải nhìn
thẳng vào những “tình huống giới hạn” ấy với đôi mắt mở to. Thêm nữa, những “tình
huống giới hạn” còn có thể làm sâu sắc ý nghĩa của thực thể siêu việt (Thượng đế). Do
vậy, chúng là những kích thích quan trọng nhất của triết học, là cái có thể giải tỏa sự căng
thẳng và cho phép chúng ta thực sự cảm nhận được tính chủ quan của mình, khích lệ sự tự phản tư của mình.
2) Cái Tôi kinh nghiệm, cái Tôi ý thức và cái Tôi hiện sinh.
Trong tác phẩm Triết học gồm 3 tập, khi nhìn vào toàn thể vũ trụ, Jaspers đã chỉ ra
ý nghĩa của tất cả hiện hữu để hướng lên một cách mạnh mẽ, từ lĩnh vực những sự vật vật
chất lầm lỳ, qua hiện sinh tinh thần của con người đến miền siêu việt của Thiên Chúa mà
ông gọi là Tồn tại tự nó (An-sich-Sein).
Theo Jaspers, không phải bất cứ con người nào, bất cứ ai cũng có thể vươn tới cấp
hiện sinh nhân vị. Từ cấp sự vật đến cấp hiện sinh, con người luôn cần đến một bước nhảy,
một sự vượt bỏ, bởi theo ông, con người tuy được sinh ra làm người, nhưng do chưa thực
sự vươn tới mức hiện sinh, nên họ vẫn sống chỉ như cây cỏ, cầm thú, sống vô ý thức, vô
trách nhiệm, sống nô lệ cho dư luận… và do vậy, họ chỉ như những đơn vị người chứ chưa
phải là những đơn vị tự do, và luôn bị giới hạn trong những ràng buộc của cuộc sống. Để lOMoAR cPSD| 58493804
trở thành nhân vị tự do và đạt được tự do, theo ông, con người phải ý thức sâu xa về trách
nhiệm làm người của mình và phải nắm lấy ý nghĩa nhân sinh của cuộc đời mình và phải
tự quyết về cuộc đời mình. Với quan niệm này, ông phản đối việc sử dụng phương pháp
thực nghiệm trong nghiên cứu con người, đặc biệt là hiện sinh người và đề nghị thay thế
phương pháp này bằng phương pháp “soi vào hiện sinh”. Với Jaspers, con người luôn có
giới hạn và mong muốn hướng tới hiện sinh, siêu việt và do vậy, nó phải trải qua các bước
nhảy để đi từ lĩnh vực vật chất tới lĩnh vực tinh thần của hiện sinh. Trong lĩnh vực hiện
sinh, con người cũng cần đến nhiều bước tiến, mặc dù những bước tiến này không được
gọi là những bước nhảy thực thụ (vì nó không đưa tới một lĩnh vực khác hẳn), nhưng
chúng cũng luôn thúc đẩy con người tiến lên. Con người luôn phải vượt lên chính mình
và trong đà đi lên không ngừng này, tới một lúc nào đó, nó sẽ cảm thấy “bị chặn lại” bởi
những tình trạng giới hạn và khi đó, nó buộc phải thực hiện những bước nhảy và bước
nhảy cuối cùng có tên gọi là “niềm tin triết học”. Theo Jaspers, tính có giới hạn của con
người thể hiện tính có cấp độ của Tồn tại; và ông chia nó thành ba cấp độ khác nhau theo
mức độ “bị giằng xé” của hiện sinh người - đó là: sự vật, nhân vị và siêu việt.
Từ đó, khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý tính trong việc làm “sáng tỏ sự hiện
sinh”, Jaspers cho rằng, có phương pháp tư duy không (có ý nghĩa) phổ biến nhưng lại
phát hiện được cái cấu thành chỗ dựa và chuẩn tắc của cuộc sống. Nó không đem lại tri
thức về những sự vật xa lạ, mà chỉ ra một cách hoàn toàn rõ ràng cái Tôi thực sự thấu hiểu,
cái Tôi mong muốn và những cái gì tôi thực sự tin. Khi tôi tư duy như vậy, tôi tự tạo ra tôi
và làm cho tự ý thức của tôi trở nên trong sáng. Như vậy, có thể nói, cách lập luận này của
Jaspers có chứa đựng tinh thần của triết học Descartes. Và hơn nữa, trong tư tưởng của
ông còn thể hiện sự gắn bó giữa hiện sinh và siêu việt: sự tồn tại của chúng luôn có sự
tương hỗ lẫn nhau và nếu không còn siêu việt thì hiện sinh ấy là hiện sinh không đáng tin
cậy. Nhà nghiên cứu Wahl đã nhận xét, với Jaspers, “hiện sinh không phải chỉ là nhân vị,
tự ý thức về mình và có tương quan với chính mình; do nhân vị này còn phải giữ mối
tương quan với siêu việt với tư cách bản nguyên của mình, nên hiện sinh còn là chính mối
tương quan đó với siêu việt mà nếu không có nó, không có hiện sinh trung thực".
Triết học có vai trò quan trọng là làm sáng tỏ sự hiện sinh, đưa ý thức đến với bản
thân mình và sự giao tiếp với các hiện sinh khác. Với quan niệm này, Jaspers đã buộc tội
sinh học, tâm lý học, xã hội học khi nghiên cứu con người đã bỏ qua sự hiện sinh. Theo
ông, sự hiện sinh trong tính đơn nhất và không lặp lại của mình không thể trở thành đối
tượng của những tranh luận vô bổ, chung chung, mà bao giờ cũng là sự hiện sinh của tôi,
của riêng tôi chứ không phải là của một ai khác và do vậy, không thể đồng nhất hiện sinh
của tôi với của ai khác trong cuộc đời này và sự hiện sinh đích thực không thể đạt được
bằng con đường khoa học. Rằng, với tư cách cái có nhân cách, sự hiện sinh không có điểm
nào chung với sự vô nhân cách: Tôi tồn tại vì tôi không tự cho phép mình trở thành đối lOMoAR cPSD| 58493804
tượng, thành khách thể; tôi thấu hiểu mình, tôi tồn tại trong quá trình hiện thực hoá những
khả năng của mình và do vậy, tôi là con người tồn tại trong khả năng; tôi đồng nhất với
bối cảnh, tôi không thể là một cái gì đó, nếu tôi đã là một cái gì đó, tôi trùng hợp với thực
tại và sứ mệnh của mình.
3) Hiện sinh và tự do.
Theo Jaspers, hiện sinh khác so với sinh tồn và chủ nghĩa sinh tồn; rằng, hiện sinh
là việc con người vươn lên trên mức sống của sinh vật, vì nó là cuộc sống tinh thần; hiện
sinh là nghĩa của đời sống, người ta chỉ vươn tới hiện sinh khi người ta đã ý thức được
mình sống để làm gì, sống để thể hiện cái định mệnh cao quý và độc đáo của mình chứ
không phải sống để mà sống.
Với Jaspers, hiện sinh bắt đầu xuất hiện khi con người ý thức sâu xa rằng mình là
một chủ thể, tức là chủ động tạo lấy nhân cách và bản lĩnh của mình. ở đây, khoa học thực
nghiệm hoàn toàn bất lực, vì hiện sinh là một thực tại tinh thần nên không một máy móc,
một công thức nào có thể diễn tả được. Jaspers gọi đây là hiện sinh khả hữu (existence
possible) để nói lên vai trò chủ động trong việc xây dựng nhân cách và định mệnh của tôi:
Tôi chỉ là cái Tôi do chính tôi tạo nên và tôi chỉ tạo nên cái Tôi trung thực mà thôi, đó là
cái Tôi đang trở thành con người trung thực mà bạn và tôi vẫn đang mang sẵn trong người.
Trên phương diện hiện sinh, con người tự nhận mình là một chủ thể tự do, đồng thời cũng
ghi nhận sự tự do ấy của chủ thể khác.
Tự do là hành động xuất phát tự trong tâm khảm của ta. Tự do là do tự ta đã quyết
định như thế và ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự quyết định này. Đây thực sự là nghĩa
sâu xa của hiện sinh và cũng là đặc tính của hiện sinh. Con người chỉ tự do thực sự khi và
chỉ khi nó ý thức sâu xa về tính chất giới hạn của tự do hiện sinh: Tự do của hiện sinh
trước hết là một tự do có giới hạn và bị quy định, bị giới hạn. Bởi lẽ, chính thân xác cũng
bị quy định bởi sức khỏe, bởi sức chịu đựng; bị giới hạn bởi khả năng suy nghĩ, bởi hoàn
cảnh... Vì thế, Jaspers khẳng định: "Tự do của con người không thể có khi thiếu ý thức về
sự kiện bị giới hạn của hiện sinh". Quan niệm này cho thấy, với Jaspers thì ý nghĩa của tự
do hiện sinh nằm trong chính sự thất bại của tự do. Jaspers đã sử dụng phương pháp soi
vào hiện sinh để lý giải tự do và để thấy tự do là một hành động đầy ý thức chứ không
phải là hành vi tùy tiện của con người. Và, ông quả quyết “tự do là nguồn mạch”, tự do
đồng nghĩa với tự chọn.
Như vậy, có thể nói, tự do hiện sinh của Jaspers khác với tự do sinh tồn, tự do bừa
bãi, khác với tự do tiêu cực của những kẻ yếu hèn. Tự do hiện sinh là trách nhiệm và lo âu
của con người tự giác và dám tự quyết. Nhân vị tự do là ý thức về quyền tự do của mình,
đồng thời cũng ý thức sâu xa về trách nhiệm làm người của mình. Nhưng, rốt cuộc, tự do lOMoAR cPSD| 58493804
theo quan điểm của Jaspers vẫn chỉ là tự do theo chân Chúa. Chính ông đã lập luận: Con
người không tự sáng tạo nên mình và do vậy, tự do của con người là một tặng phẩm do
Chúa ban cho, tự do của con người không phải là sự tuyệt đối, mà là một khả năng hữu
hạn, một tự do hữu hạn vì chính con người là hữu hạn. "Hữu hạn tính của con người không
khép kín lại như nơi con vật".
4) Siêu việt - định hướng cơ bản của con người.
Coi sự siêu việt là đích hướng của hiện sinh, triết học hiện sinh của Jaspers đã hướng
tới siêu việt như hướng về đích tối hậu của nó. Đây là phần đặc sắc và khó hiểu nhất của
triết học Jaspers. Và, trong triết học Jaspers, hiện sinh và siêu việt luôn có mối liên hệ mật
thiết với nhau tới mức, nếu không nắm được mối liên hệ này thì hiện sinh không còn đáng
được coi là hiện sinh trung thực nữa. Trong mối tương quan đó, Jaspers đã trình bày quan
điểm về thế giới và quan niệm về hiện sinh.
Triết học Jaspers là sự kết hợp tinh tế và sâu sắc triết học Kierkegaard với triết học
Nietzsche, cộng với một tinh thần năng động của truyền thống và hiện đại, khác với đường
lối tiêu cực của Sartre. Trong triết học Jaspers, người ta nhận thấy tinh thần hiện sinh khá
sâu sắc, khi ông tha thiết với tất cả mọi hình thái hiện sinh của con người trong không gian
và thời gian. Và, khi chống lại những luận điểm về con người của Plato, Comte, Hegel,
Nietzsche…, ông cho rằng, những quan niệm này nhất định sẽ đưa con người tới chỗ tự
tôn mình làm Thượng đế và do vậy, sẽ đưa con người tới những cái điên rồ, vô lý.
Với quan niệm này, Jaspers đi tìm cái siêu việt qua chủ nghĩa vô thần và tôn giáo.
Theo ông, cái vô thần và tôn giáo có thể tìm thấy bằng phương pháp “soi vào” để nhận ra
hiện sinh trung thực qua những hình thức sinh hoạt được mệnh danh là tự do. Coi đây
cũng là phương pháp để nhận định đâu là siêu việt đích thực, ông đã chỉ ra những khiếm
khuyết của Nietzsche trong quan niệm về con người khi đặt con người ngang hàng với Thượng đế.
Theo Jaspers, con người là hữu hạn, con người không tự sáng tạo nên mình và do
vậy, tự do của con người là một tặng phẩm do Thượng đế ban tặng. Tự do của con người
là không tuyệt đối; nó chỉ là một tự do hữu hạn, vì bản tính con người là hữu hạn.
Với phương pháp “soi vào hiện sinh”, Jaspers đã vạch rõ, vô thần là con đường cùng
(impasse), là giới hạn của hư vô, là lời cảnh cáo, mách bảo chúng ta là không thể đo lường
vô thần để đạt tới siêu việt.
Jaspers còn sử dụng phương pháp “soi vào hiện sinh” để dõi theo sinh hoạt của con
người tôn giáo và ông đã nhận ra ở đó những ưu điểm lớn, nhưng cũng cảnh báo những lOMoAR cPSD| 58493804
nguy hiểm mà các hình thức tôn giáo có thể mang lại cho hiện sinh. Ông phê phán tôn
giáo và khước từ tôn giáo vì hai lẽ: Đức tin tôn giáo thường là sự an nghỉ và đức tin tôn
giáo có thể sinh ra mê tín. Theo ông, sự khiếp nhược và lười biếng đã sinh ra tôn giáo. Do
vậy, khi “soi vào hiện sinh”, ông cho rằng, ít ra là ở điểm này, tôn giáo không đưa tới siêu
việt, mà chỉ đưa tới những thần tượng, tức những siêu việt giả hiệu mà thôi. Tuy nhiên,
ông cũng chỉ rõ vai trò của tôn giáo và không khước từ tôn giáo như đã khước từ vô thần:
"Tôn giáo đã thực hiện tất cả những gì là lợi ích và vững bền trong lịch sử nhân loại".
Theo Jaspers, “niềm tin triết học” là một hình thức tín ngưỡng. "Niềm tin triết học
là niềm tin của con người vào những khả năng của mình. Niềm tin này nói lên tự do tính
của con người". Quan niệm này cho thấy, với Jaspers thì niềm tin triết học không phải là
tri thức, mà là vô thức, tức là một niềm tin; nó không có mục đích thay thế đức tin tôn
giáo, mà chỉ có ý nghĩa củng cố cho đức tin đó tự vượt lên chính mình.
Jaspers không đưa ra một định nghĩa cụ thể về siêu việt. Ông mới chỉ cho chúng ta
thấy mối tương quan giữa con người và siêu việt. Theo ông, con người không có khả năng
bắt gặp siêu việt thể một cách rõ ràng và phân minh. Siêu việt chỉ là đối tượng của hiện
sinh, nghĩa là kinh nghiệm sống, chứ không phải là đối tượng của tri thức. Do vậy, siêu
việt thể vừa là khả nghiệm, vừa bất khả nghiệm; con người chỉ có thể bắt gặp Thượng đế
trong sinh hoạt tinh thần, chứ không không thể bắt gặp Ngài trong những luận lý khách
quan. Hơn nữa, con người cũng bất khả ngôn về vấn đề này, vì Thượng đế "vượt quá bình
diện khả nghiệm". Và, với tư cách vừa là khả nghiệm, vừa là bất khả nghiệm, siêu việt
chính là đối tượng của hiện sinh, tức là kinh nghiệm sống, chứ không phải là đối tượng của tri thức.
Với ông, hiện sinh tương quan với siêu việt trong sự thành kính, tin tưởng và nếu
mất đi tương quan này thì hiện sinh cũng mất đi tính trung thực và không còn tính vươn
lên nữa. Điều này cho thấy, quan niệm của Jaspers về bao dung thể mới chỉ là một ý tưởng
căn bản và đó cũng là một trong những ý tưởng khó hiểu nhất của ông.
Từ những điều trình bày trên, có thể nói, triết học Jaspers là kết quả của những tư
tưởng, những suy ngẫm chân thành và sâu sắc về con người. Trong triết học của ông, người
ta thấy những suy tư trong việc đi tìm định mệnh con người, thấy sự cố gắng của ông trong
việc giúp cho con người thoát ra khỏi cảnh sa lầy tự mãn và do vậy, những suy tư, cố gắng
này của ông đã có ảnh hưởng tích cực tới nền triết học hiện đại.
Điều đáng ghi nhận nhất trong triết học về con người của Jaspers là sự thức tỉnh con
người, buộc con người phải tự ý thức về trách nhiệm làm người của mình và phải sống
sao cho xứng đáng với sự hiện sinh ấy.