Báo cáo về cơ hội của nền kinh tế Việt Nam - Kinh tế vĩ mô | Đại học Tôn Đức Thắng

Việt Nam là một trong những quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả trên thế giới, giúp kiểm soát được sự lây lan của dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Điều này đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phục hồi và tăng trưởng trong năm 2020 và 2021. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Báo cáo về cơ hội của nền kinh tế Việt Nam từ khi xảy ra đại dịch
Covid-19 từ năm 2018 đến nay
1. Cơ hội phục hồi và tăng trưởng kinh tế
Việt Nam là một trong những quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả trên thế
giới, giúp kiểm soát được sự lây lan của dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Điều
này đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phục hồi và tăng trưởng trong năm
2020 và 2021, trong khi nhiều quốc gia khác vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của đại
dịch. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia
có tốc độ tăng trưởng GDP dương trong năm 2020, đạt 2,9%. Trong năm 2021, tốc độ
tăng trưởng GDP của Việt Nam được dự báo là 8%, cao nhất trong khu vực Đông Á -
Thái Bình Dương. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của làn sóng dịch bệnh thứ 4 từ tháng
4/2021, tăng trưởng GDP dự kiến sẽ giảm xuống còn 6,3% vào năm 2023. Tuy nhiên,
nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ phục hồi lên mức 6,5% vào năm 2024 do lạm phát
trong nước có thể giảm dần từ năm 2024 trở đi.[ CITATION Tổn23 \l 1066 ]
Để duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần tiếp tục giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, duy trì cân bằng thanh toán quốc tế và tỷ giá
hối đoái. Ngoài ra, Việt Nam cần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNV), thông qua các chính sách hỗ trợ tài chính, thuế,
tiền lương và bảo hiểm xã hội. Việc triển khai gói kích thích kinh tế trị giá khoảng 2%
GDP vào cuối năm 2020 đã góp phần giảm thiểu thiệt hại cho các doanh nghiệp và
người lao động. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ còn gặp nhiều khó
khăn do sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết, thiếu minh
bạch trong quy trình và tiêu chí phân bổ nguồn lực, cũng như hạn chế trong khả năng
tiếp cận của các đối tượng hưởng lợi. Do đó, cần tăng cường hiệu quả và minh bạch
của các chính sách hỗ trợ, đồng thời mở rộng phạm vi và thời gian áp dụng cho các
doanh nghiệp và những người lao động chịu ảnh hưởng bởi làn sóng dịch bệnh mới
nhất.[ CITATION Tác21 \l 1066 ]
2. Cơ hội nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu
Đại dịch Covid-19 đã gây ra sự đứt gãy và biến động của chuỗi cung ứng toàn cầu,
buộc nhiều quốc gia và doanh nghiệp phải điều chỉnh lại chiến lược sản xuất và kinh
doanh. Điều này đã tạo ra cơ hội cho Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
muốn đa dạng hóa nguồn cung ứng và giảm phụ thuộc vào một số thị trường nhất
định. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2021 đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với
cùng kỳ năm 2020. Các ngành thu hút FDI chủ yếu là công nghiệp chế biến và sản
xuất, điện lực, bất động sản và khoa học - công nghệ. Các quốc gia và vùng lãnh thổ là
nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và
Hồng Kông.[ CITATION Cơh22 \l 1066 ]
Để tận dụng cơ hội thu hút FDI, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khuyến khích sự liên kết giữa các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện cho sự chuyển giao công nghệ và tri
thức. Ngoài ra, Việt Nam cần tập trung vào việc thu hút các dự án FDI có giá trị gia
tăng cao, có tính chiến lược, có liên quan đến các ngành mũi nhọn của quốc gia, như
công nghệ thông tin, điện tử, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường. Việc thu hút FDI
không chỉ giúp tăng cường năng lực sản xuất của Việt Nam mà còn góp phần mở rộng
thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong 9 tháng đầu
năm 2021 đạt 281,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 20203. Các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là máy móc, thiết bị, phụ tùng; điện thoại và linh
kiện; máy tính, sản phẩm điện tử; dệt may; giày dép; gỗ và sản phẩm gỗ. Các thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
ASEAN và EU.[ CITATION Cơh22 \l 1066 ]
Để nâng cao năng lực xuất khẩu, Việt Nam cần tăng cường năng lực cạnh tranh của
các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đảm bảo chất lượng, an toàn và tiêu chuẩn quốc tế.
Ngoài ra, Việt Nam cần tận dụng các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do mà Việt
Nam đã ký kết hoặc đang tham gia đàm phán, như CPTPP, EVFTA, RCEP, UKVFTA
và CFTA. Các hiệp định thương mại tự do không chỉ giúp mở rộng thị trường xuất
khẩu cho Việt Nam mà còn đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các cam kết về cải cách
thể chế, minh bạch hóa quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường và quyền lao động. Điều
này sẽ góp phần nâng cao uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Cơ hội tận dụng các hiệp định thương mại tự do mới ký kết
Một cơ hội khác cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 là tận
dụng các hiệp định thương mại tự do mới ký kết, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do với Liên
minh Châu Âu (EVFTA). Các hiệp định này đã mở ra những cơ hội mới cho nền kinh
tế Việt Nam để thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Theo Bộ Công Thương, CPTPP là một hiệp định thương mại tự do mới và tiên tiến,
bao gồm 11 quốc gia thành viên, với tổng GDP chiếm khoảng 13,5% GDP thế giới và
15,2% thương mại thế giới. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên hoàn
thành các thủ tục pháp lý để thực thi CPTPP từ ngày 14/1/2019. Theo Bộ Công
Thương, CPTPP đã mang lại những lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam, như: tăng
trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; thu hút đầu tư nước ngoài; cải thiện môi trường
kinh doanh; nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ; phát triển các ngành công
nghiệp có lợi thế cạnh tranh, như dệt may, da giày, gỗ, điện tử, nông sản.
Theo Bộ Công Thương, EVFTA là một hiệp định thương mại tự do toàn diện và sâu
rộng giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU), bao gồm 27 quốc gia thành viên,
với tổng GDP chiếm khoảng 15% GDP thế giới và 15,6% thương mại thế giới. Việt
Nam và EU đã ký kết EVFTA vào ngày 30/6/2019 và hiệp định này đã có hiệu lực từ
ngày 1/8/2020. Theo Bộ Công Thương, EVFTA đã mang lại những lợi ích cho nền
kinh tế Việt Nam, như: tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; thu hút đầu tư
nước ngoài; cải thiện môi trường kinh doanh; nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch
vụ; phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, như dệt may, da giày, gỗ,
điện tử, nông sản.
4. Cơ hội thúc đẩy sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo
Đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế - xã hội của Việt
Nam, buộc các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước phải thích ứng với tình
hình mới. Điều này đã tạo ra cơ hội cho sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong
nhiều lĩnh vực, như giáo dục, y tế, thương mại điện tử, thanh toán điện tử, du lịch trực
tuyến và nông nghiệp thông minh. Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, chỉ
số chuyển đổi số quốc gia của Việt Nam trong năm 2020 là 41/100 điểm, xếp thứ 6
trong khu vực ASEAN. Trong năm 2021, chỉ số này được dự báo là 45/100 điểm.
Ngoài ra, theo Báo cáo Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2021 của Học viện Quản lý Châu Á
(AIM), Việt Nam xếp thứ 44/131 quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII),
tăng 2 bậc so với năm 2020.
Để thúc đẩy sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần tiếp tục triển khai
các chính sách và biện pháp nhằm khơi dậy tiềm năng của các nhà đổi mới sáng tạo,
đặc biệt là các khởi nghiệp công nghệ (startup). Việc tạo ra một môi trường kinh
doanh thuận lợi, cạnh tranh và minh bạch, cung cấp các nguồn tài chính, hỗ trợ tư vấn
và đào tạo, khuyến khích hợp tác giữa các bên liên quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
là những yếu tố quan trọng để khuyến khích sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin,
nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng internet của người dân, đặc biệt là ở các vùng
sâu, vùng xa và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Việc phổ biến và ứng
dụng các công nghệ mới như 5G, IoT, AI, blockchain, big data và cloud computing sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng của các hoạt động kinh tế - xã hội của Việt
Nam.
5. Cơ hội phục hồi kinh tế trong năm 2022
Năm 2022 được coi là năm quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam trong việc phục hồi
sau đại dịch Covid-19. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ đã chuyển từ chính
sách “không COVID-19” sang chính sách “sống chung với COVID-19”, theo đó nền
kinh tế được mở cửa trở lại từ tháng 10/2021 trong khi vẫn tiếp tục thực hiện các biện
pháp phòng ngừa dịch tễ. Đây là một cơ hội lớn cho nền kinh tế Việt Nam để khôi
phục lại hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương mại - dịch vụ, du lịch - văn hóa, giáo
dục - đào tạo, an sinh - xã hội, tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế trong năm
2022.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mục tiêu tăng trưởng GDP của nền kinh tế Việt Nam
trong năm 2022 là 6,5%, cao hơn mức trung bình của khu vực Đông Nam Á. Để đạt
được mục tiêu này, Chính phủ đã đề ra một số giải pháp chủ yếu, bao gồm: tiếp tục
triển khai các gói hỗ trợ kinh tế - xã hội cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng
bởi dịch bệnh; tăng cường quản lý vĩ mô, kiểm soát lạm phát và cân bằng ngân sách;
thúc đẩy đầu tư công và cải thiện cơ sở hạ tầng; khuyến khích đổi mới sáng tạo và ứng
dụng công nghệ số; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; xây dựng một nền kinh
tế xanh, bền vững và hòa nhập quốc tế.
6. Cơ hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, xanh và sáng tạo
Một cơ hội nữa cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 là chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, xanh và sáng tạo. Đây là một xu hướng toàn
cầu và là một yêu cầu thiết yếu để phát triển kinh tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu và
suy thoái tài nguyên thiên nhiên. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng bền vững, xanh và sáng tạo bao gồm: ưu tiên các ngành công
nghiệp có giá trị gia tăng cao, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường, như
công nghệ thông tin, khoa học - công nghệ, năng lượng tái tạo và du lịch; tăng cường
đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ số trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội; giảm
thiểu khí thải nhà kính và nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo vệ và
phát triển các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, xanh
và sáng tạo sẽ mang lại những lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam, như: nâng cao năng
suất lao động và chất lượng tăng trưởng; tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia
tăng cao và cạnh tranh trên thị trường quốc tế; tiết kiệm chi phí năng lượng và nguyên
liệu; giảm thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường; góp phần thực hiện
các cam kết quốc tế về phát triển bền vững.
Kết luận
Đại dịch Covid-19 là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, nhưng cũng là
một cơ hội để phát triển bền vững, sáng tạo và tự chủ. Việt Nam đã và đang nỗ lực để
vượt qua khó khăn, khai thác và tận dụng các cơ hội từ đại dịch Covid-19, nhằm duy
trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu,
thúc đẩy sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần chú ý
đến những rủi ro và thách thức tiềm ẩn, như sự bùng phát lại của dịch bệnh, sự biến
động của thị trường quốc tế, sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ kinh tế, sự thiếu hụt
nguồn nhân lực chất lượng cao và sự thiếu hòa nhập của các doanh nghiệp trong nước.
Do đó, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách thể chế, đầu tư
vào giáo dục và khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo:
C h i ph c hồồi nềồn kinh tềế Vi t Nam trong năm 2022ơ . (2022, 01 04). Đ c truy l c t ươ u ư
baochinhphu.vn: https://baochinhphu.vn/co-hoi-phuc-hoi-nen-kinh-te-viet-nam-trong-nam-
2022-102306560.htm
Tác đ ng c a đ i d ch COVID-19 đềến kinh tềế - xã h i c a Vi t Nam . (2021, 08 01). Đ c truy l c t ươ u ư
tapchitaichinh.vn: https://tapchitaichinh.vn/tac-dong-cua-dai-dich-covid-19-den-kinh-te-xa-
hoi-cua-viet-nam.html
Theo sồế li u c a Ngân hàng Thềế Gi i . (2023, 04 14). Đ c truy l c t worldbank.org: ươ u ư
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
T ng Quan vềồ Vi t Nam . (2023, 04 14). Đ c truy l c t worldbank.org: ươ u ư
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
T ng Quan vềồ Vi t Nam . (2023, 04 14). Đ c truy l c t worldbank.org: ươ u ư
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview
| 1/5

Preview text:

Báo cáo về cơ hội của nền kinh tế Việt Nam từ khi xảy ra đại dịch
Covid-19 từ năm 2018 đến nay
1. Cơ hội phục hồi và tăng trưởng kinh tế
Việt Nam là một trong những quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả trên thế
giới, giúp kiểm soát được sự lây lan của dịch bệnh và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Điều
này đã tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam phục hồi và tăng trưởng trong năm
2020 và 2021, trong khi nhiều quốc gia khác vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của đại
dịch. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia
có tốc độ tăng trưởng GDP dương trong năm 2020, đạt 2,9%. Trong năm 2021, tốc độ
tăng trưởng GDP của Việt Nam được dự báo là 8%, cao nhất trong khu vực Đông Á -
Thái Bình Dương. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của làn sóng dịch bệnh thứ 4 từ tháng
4/2021, tăng trưởng GDP dự kiến sẽ giảm xuống còn 6,3% vào năm 2023. Tuy nhiên,
nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ phục hồi lên mức 6,5% vào năm 2024 do lạm phát
trong nước có thể giảm dần từ năm 2024 trở đi.[ CITATION Tổn23 \l 1066 ]
Để duy trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần tiếp tục giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, duy trì cân bằng thanh toán quốc tế và tỷ giá
hối đoái. Ngoài ra, Việt Nam cần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNV), thông qua các chính sách hỗ trợ tài chính, thuế,
tiền lương và bảo hiểm xã hội. Việc triển khai gói kích thích kinh tế trị giá khoảng 2%
GDP vào cuối năm 2020 đã góp phần giảm thiểu thiệt hại cho các doanh nghiệp và
người lao động. Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ còn gặp nhiều khó
khăn do sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết, thiếu minh
bạch trong quy trình và tiêu chí phân bổ nguồn lực, cũng như hạn chế trong khả năng
tiếp cận của các đối tượng hưởng lợi. Do đó, cần tăng cường hiệu quả và minh bạch
của các chính sách hỗ trợ, đồng thời mở rộng phạm vi và thời gian áp dụng cho các
doanh nghiệp và những người lao động chịu ảnh hưởng bởi làn sóng dịch bệnh mới
nhất.[ CITATION Tác21 \l 1066 ]
2. Cơ hội nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu
Đại dịch Covid-19 đã gây ra sự đứt gãy và biến động của chuỗi cung ứng toàn cầu,
buộc nhiều quốc gia và doanh nghiệp phải điều chỉnh lại chiến lược sản xuất và kinh
doanh. Điều này đã tạo ra cơ hội cho Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
muốn đa dạng hóa nguồn cung ứng và giảm phụ thuộc vào một số thị trường nhất
định. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2021 đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với
cùng kỳ năm 2020. Các ngành thu hút FDI chủ yếu là công nghiệp chế biến và sản
xuất, điện lực, bất động sản và khoa học - công nghệ. Các quốc gia và vùng lãnh thổ là
nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam là Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và
Hồng Kông.[ CITATION Cơh22 \l 1066 ]
Để tận dụng cơ hội thu hút FDI, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khuyến khích sự liên kết giữa các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện cho sự chuyển giao công nghệ và tri
thức. Ngoài ra, Việt Nam cần tập trung vào việc thu hút các dự án FDI có giá trị gia
tăng cao, có tính chiến lược, có liên quan đến các ngành mũi nhọn của quốc gia, như
công nghệ thông tin, điện tử, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường. Việc thu hút FDI
không chỉ giúp tăng cường năng lực sản xuất của Việt Nam mà còn góp phần mở rộng
thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam. Theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong 9 tháng đầu
năm 2021 đạt 281,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 20203. Các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là máy móc, thiết bị, phụ tùng; điện thoại và linh
kiện; máy tính, sản phẩm điện tử; dệt may; giày dép; gỗ và sản phẩm gỗ. Các thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,
ASEAN và EU.[ CITATION Cơh22 \l 1066 ]
Để nâng cao năng lực xuất khẩu, Việt Nam cần tăng cường năng lực cạnh tranh của
các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đảm bảo chất lượng, an toàn và tiêu chuẩn quốc tế.
Ngoài ra, Việt Nam cần tận dụng các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do mà Việt
Nam đã ký kết hoặc đang tham gia đàm phán, như CPTPP, EVFTA, RCEP, UKVFTA
và CFTA. Các hiệp định thương mại tự do không chỉ giúp mở rộng thị trường xuất
khẩu cho Việt Nam mà còn đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các cam kết về cải cách
thể chế, minh bạch hóa quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường và quyền lao động. Điều
này sẽ góp phần nâng cao uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Cơ hội tận dụng các hiệp định thương mại tự do mới ký kết
Một cơ hội khác cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 là tận
dụng các hiệp định thương mại tự do mới ký kết, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do với Liên
minh Châu Âu (EVFTA). Các hiệp định này đã mở ra những cơ hội mới cho nền kinh
tế Việt Nam để thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Theo Bộ Công Thương, CPTPP là một hiệp định thương mại tự do mới và tiên tiến,
bao gồm 11 quốc gia thành viên, với tổng GDP chiếm khoảng 13,5% GDP thế giới và
15,2% thương mại thế giới. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên hoàn
thành các thủ tục pháp lý để thực thi CPTPP từ ngày 14/1/2019. Theo Bộ Công
Thương, CPTPP đã mang lại những lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam, như: tăng
trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; thu hút đầu tư nước ngoài; cải thiện môi trường
kinh doanh; nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ; phát triển các ngành công
nghiệp có lợi thế cạnh tranh, như dệt may, da giày, gỗ, điện tử, nông sản.
Theo Bộ Công Thương, EVFTA là một hiệp định thương mại tự do toàn diện và sâu
rộng giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EU), bao gồm 27 quốc gia thành viên,
với tổng GDP chiếm khoảng 15% GDP thế giới và 15,6% thương mại thế giới. Việt
Nam và EU đã ký kết EVFTA vào ngày 30/6/2019 và hiệp định này đã có hiệu lực từ
ngày 1/8/2020. Theo Bộ Công Thương, EVFTA đã mang lại những lợi ích cho nền
kinh tế Việt Nam, như: tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ; thu hút đầu tư
nước ngoài; cải thiện môi trường kinh doanh; nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch
vụ; phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, như dệt may, da giày, gỗ, điện tử, nông sản.
4. Cơ hội thúc đẩy sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo
Đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế - xã hội của Việt
Nam, buộc các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước phải thích ứng với tình
hình mới. Điều này đã tạo ra cơ hội cho sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo trong
nhiều lĩnh vực, như giáo dục, y tế, thương mại điện tử, thanh toán điện tử, du lịch trực
tuyến và nông nghiệp thông minh. Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, chỉ
số chuyển đổi số quốc gia của Việt Nam trong năm 2020 là 41/100 điểm, xếp thứ 6
trong khu vực ASEAN. Trong năm 2021, chỉ số này được dự báo là 45/100 điểm.
Ngoài ra, theo Báo cáo Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2021 của Học viện Quản lý Châu Á
(AIM), Việt Nam xếp thứ 44/131 quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII),
tăng 2 bậc so với năm 2020.
Để thúc đẩy sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần tiếp tục triển khai
các chính sách và biện pháp nhằm khơi dậy tiềm năng của các nhà đổi mới sáng tạo,
đặc biệt là các khởi nghiệp công nghệ (startup). Việc tạo ra một môi trường kinh
doanh thuận lợi, cạnh tranh và minh bạch, cung cấp các nguồn tài chính, hỗ trợ tư vấn
và đào tạo, khuyến khích hợp tác giữa các bên liên quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
là những yếu tố quan trọng để khuyến khích sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin,
nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng internet của người dân, đặc biệt là ở các vùng
sâu, vùng xa và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Việc phổ biến và ứng
dụng các công nghệ mới như 5G, IoT, AI, blockchain, big data và cloud computing sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng của các hoạt động kinh tế - xã hội của Việt Nam.
5. Cơ hội phục hồi kinh tế trong năm 2022
Năm 2022 được coi là năm quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam trong việc phục hồi
sau đại dịch Covid-19. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Chính phủ đã chuyển từ chính
sách “không COVID-19” sang chính sách “sống chung với COVID-19”, theo đó nền
kinh tế được mở cửa trở lại từ tháng 10/2021 trong khi vẫn tiếp tục thực hiện các biện
pháp phòng ngừa dịch tễ. Đây là một cơ hội lớn cho nền kinh tế Việt Nam để khôi
phục lại hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương mại - dịch vụ, du lịch - văn hóa, giáo
dục - đào tạo, an sinh - xã hội, tạo ra động lực cho tăng trưởng kinh tế trong năm 2022.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mục tiêu tăng trưởng GDP của nền kinh tế Việt Nam
trong năm 2022 là 6,5%, cao hơn mức trung bình của khu vực Đông Nam Á. Để đạt
được mục tiêu này, Chính phủ đã đề ra một số giải pháp chủ yếu, bao gồm: tiếp tục
triển khai các gói hỗ trợ kinh tế - xã hội cho người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng
bởi dịch bệnh; tăng cường quản lý vĩ mô, kiểm soát lạm phát và cân bằng ngân sách;
thúc đẩy đầu tư công và cải thiện cơ sở hạ tầng; khuyến khích đổi mới sáng tạo và ứng
dụng công nghệ số; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; xây dựng một nền kinh
tế xanh, bền vững và hòa nhập quốc tế.
6. Cơ hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, xanh và sáng tạo
Một cơ hội nữa cho nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 là chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, xanh và sáng tạo. Đây là một xu hướng toàn
cầu và là một yêu cầu thiết yếu để phát triển kinh tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu và
suy thoái tài nguyên thiên nhiên. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng bền vững, xanh và sáng tạo bao gồm: ưu tiên các ngành công
nghiệp có giá trị gia tăng cao, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường, như
công nghệ thông tin, khoa học - công nghệ, năng lượng tái tạo và du lịch; tăng cường
đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ số trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội; giảm
thiểu khí thải nhà kính và nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo vệ và
phát triển các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, xanh
và sáng tạo sẽ mang lại những lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam, như: nâng cao năng
suất lao động và chất lượng tăng trưởng; tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia
tăng cao và cạnh tranh trên thị trường quốc tế; tiết kiệm chi phí năng lượng và nguyên
liệu; giảm thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường; góp phần thực hiện
các cam kết quốc tế về phát triển bền vững. Kết luận
Đại dịch Covid-19 là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam, nhưng cũng là
một cơ hội để phát triển bền vững, sáng tạo và tự chủ. Việt Nam đã và đang nỗ lực để
vượt qua khó khăn, khai thác và tận dụng các cơ hội từ đại dịch Covid-19, nhằm duy
trì và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu,
thúc đẩy sự chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần chú ý
đến những rủi ro và thách thức tiềm ẩn, như sự bùng phát lại của dịch bệnh, sự biến
động của thị trường quốc tế, sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ kinh tế, sự thiếu hụt
nguồn nhân lực chất lượng cao và sự thiếu hòa nhập của các doanh nghiệp trong nước.
Do đó, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, cải cách thể chế, đầu tư
vào giáo dục và khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tài liệu tham khảo: C h i ph
ơ ộ c hồồi nềồn kinh tềế ụ
Việ t Nam trong năm 2022. (2022, 01 04). Đươc truy lu c tư
baochinhphu.vn: https://baochinhphu.vn/co-hoi-phuc-hoi-nen-kinh-te-viet-nam-trong-nam- 2022-102306560.htm Tác đ ng c ộ a đủ i d ch CO ạ ị
VID-19 đềến kinh tềế - xã hộ i củ a Việ t Nam. (2021, 08 01). Đươc truy lu c tư
tapchitaichinh.vn: https://tapchitaichinh.vn/tac-dong-cua-dai-dich-covid-19-den-kinh-te-xa- hoi-cua-viet-nam.html Theo sồế li u c ệ a Ngân hàng ủ
Thềế Giớ i. (2023, 04 14). Đươc truy lu c tư worldbank.org:
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview T ng Quan vềồ ổ
Việ t Nam. (2023, 04 14). Đươc truy lu c tư worldbank.org:
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview T ng Quan vềồ ổ
Việ t Nam. (2023, 04 14). Đươc truy lu c tư worldbank.org:
https://www.worldbank.org/vi/country/vietnam/overview