“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra” | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra” | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45469857
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
Tư tưởng Hồ Chí Minh
ĐỀ TÀI: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”
Nhóm Thực Hiện: Nhóm 4
Lớp Học Phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh (122)_40
Giảng Viên: Nguyễn Thùy Linh Hà Nội-2022 lOMoAR cPSD| 45469857 Thành viên nhóm STT Họ và tên MSV 1 Nguyễn Hoàng Anh 11204377 2 Nguyễn Thế Chiến 11200642 3 Hoàng Phúc Đạt 11200736 4 Đặng Thị Hằng 11201288 5 Mai Thị Hồng 11201632 6 Trần Ngọc Minh 11202591 7 Dương Phương Thảo 11203626 8 Hoàng Thị Hiền Thảo 11203637 9 Nguyễn Thị Hồng Vy 11208519
I. Cơ sở của luận điểm ...................................................................................................... 3
1. Cơ sở lí luận ............................................................................................................... 3
a) Triết học Mác – Lênin ................................................................................................. 3
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại ......................................................................................... 3
c) Giá trị truyền thống “Lấy dân làm gốc” của dân tộc Việt và “Dân là gốc nước” dưới
thời Lý-Trần .................................................................................................................... 4
2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................... 4
a) Thế giới ....................................................................................................................... 4
b) Việt Nam ...................................................................................................................... 5
II. Nội dung của luận điểm .............................................................................................. 5
1. Bản chất giai cấp của nhà nước ............................................................................... 5
2. Phân tích câu nói: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra” ......................... 7
a, Bao nhiêu lợi ích đều vì dân ........................................................................................ 7
b, Bao nhiêu quyền hạn đều ở dân .................................................................................. 8
c. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra ..................................... 10
d. Nghĩa vụ của nhân dân .............................................................................................. 11 1 lOMoAR cPSD| 45469857
III. Ý nghĩa về luận điểm “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều
của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra” của Hồ Chí
Minh ................................................................................................................................ 12
IV. Liên hệ thực tiễn thực hiện dân chủ tại Việt Nam hiện nay ................................ 13
1. Thành tựu đã đạt được: ........................................................................................... 13
2. Những điểm còn hạn chế của dân chủ của Việt Nam hiện nay ............................ 14
3. Đề xuất các giải pháp .............................................................................................. 15 LỜI MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay, nhân dân luôn là ưu tiên và đối tượng hướng đến hàng đầu của Đảng
và nhà nước. Chăm lo cho dân, lắng nghe ý kiến của dân đều là những nhiệm vụ quan
trọng của chính quyền Việt Nam. Bác Hồ từng có câu: "Trung với Đảng, hiếu với dân",
từ đó, ta thấy đc sự quan trọng của nhân dân đối với đất nước. Cũng cách đây tròn 70
năm, vào ngày 15 tháng 10 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ kính yêu của nhân
dân ta đã viết bài báo “Dân vận” để giúp cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân hiểu rõ hơn
về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác dân vận. Đó cũng là năm mà toàn quân, toàn dân
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính phủ do Người đứng đầu, đã kết thúc thắng lợi
quãng đường 4 năm đầu tiên đầy khó khăn, gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Tư tưởng chủ đạo, “hồn cốt” của bài báo đã
toát lên nội dung chủ yếu then chốt về dân vận và công tác dân vận chính là vai trò, vị
thế của dân “dân là chủ dân làm chủ” một trong những câu văn góp phần làm rõ tư
tưởng ấy của người là “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân bao nhiêu quyền hạn đều của dân…
Chính quyền từ xa đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”. Câu nói này cũng là một
câu nói khẳng định sự ưu tiên, tầm quan trọng của nhân dân đối với một đất nước nói
chung và đối với Việt Nam nói riêng lOMoAR cPSD| 45469857
I. Cơ sở của luận điểm 1. Cơ sở lí luận
a) Triết học Mác – Lênin
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân
chủ chỉ được thực hiện đầy đủ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội mà thực chất là sự
tham gia ngày càng rộng rãi và bình đẳng, thiết thực của nhân dân vào công việc quản lý
của nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với công
bằng xã hội, chống áp bức bất công, được thực hiện trong thực tế trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và được thể chế hóa bằng pháp luật cũng như được
pháp luật bảo đảm. Lênin cũng đã nhiều lần khẳng định, dân chủ XHCN tức là quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực của mình để quản lý công việc nhà nước.
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại
Bên cạnh chủ nghĩa Mác – Lênin thì tinh hoa văn hóa nhân loại cũng góp phần rất quan
trọng trong việc hình thành câu nói của Người.
Xuất thân từ gia đình khoa bảng, từ nhỏ đã được tiếp cận với những tư tưởng Nho
giáo, song với tư duy độc lập, biện chứng và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã không sao chép,
tiếp thu giáo điều mà có sự bổ sung, phát triển. Các khái niệm, mệnh đề được Người sử
dụng đều mang những nội dung và tính chất mới - đó là tính cách mạng và sáng tạo. Về
quan hệ giữa dân với nước, Nho giáo từng coi “Dân là gốc nước” (Dân vi bang bản)
nhưng nó mới dừng lại ở quan niệm “dân bản” mà chưa phải là “dân chủ”, chưa hình
dung đến một xã hội mà ở đó dân là người làm chủ xã tắc. “Dân chủ” trong tư tưởng Hồ
Chí Minh không đồng nhất với quan niệm “dân bản” của Nho giáo mà là một sự “cách
mạng hóa”, ở đó vừa chứa đựng những giá trị trong lịch sử tư tưởng truyền thống
phương Đông, vừa mang hơi thở của thực tiễn đất nước trong bối cảnh thời đại mới.
Ngoài ra, tư tưởng của Bác về nhà nước dân chủ còn được ảnh hưởng sâu sắc từ lòng từ
bi, vị tha, yêu thương con người, đề cao quyền bình đẳng của con người của Phật giáo.
Gần một phần ba thế kỷ bôn ba nước ngoài, chủ yếu là ở Pháp, Nga và một số nước châu
âu, Người đã tiếp thu nền văn hóa châu âu thế kỷ XVIII-XIX, trong đó có nhiều tư tưởng
tiến bộ. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đánh giá cao những thành tựu to lớn mà cách mạng tư
sản đem lại cho nhân loại trên con đường của tự do dân chủ và văn hóa. Người quan tâm
tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp,
Mỹ… Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền
trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh
phúc của các dân tộc trong thời đại ngày nay. Cụ thể, Bản tuyên ngôn Độc lập của Mỹ có 3 lOMoAR cPSD| 45469857
khẳng định: “...các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được quyền lực chính
đảng trên cơ sở sự đồng ý của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền
nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính
quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như
tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an
toàn và hạnh phúc của họ." Còn Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791
của Pháp cùng nhấn mạnh: "Tất cả các công dân đều có quyền đóng góp, trực tiếp hay
qua đại diện của họ, để tạo ra luật pháp..."
c) Giá trị truyền thống “Lấy dân làm gốc” của dân tộc Việt và “Dân là gốc nước” dưới thời Lý-Trần
Ngoài ra, cơ sở lý luận hình thành nên tư tưởng của Bác về Nhà nước dân chủ là
truyền thống yêu nước gắn liền với yêu dân đã có từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
Qua truyền thuyết Âu Cơ-Lạc Long Quân và Thánh Gióng được dân gian thừa nhận làm
cội nguồn của mình vì nó có ý nghĩa thực tế vừa là một chất keo gắn kết cộng đồng
người Việt với nhau vừa là vai trò và sức mạnh của dân trong công cuộc chống thiên tai,
địch họa để tồn tại, phát triển rất gần gũi với tư tưởng “Dân là gốc nước” của Nho giáo.
Còn truyền thuyết Trọng Thủy-Mỵ Châu lại là một ví dụ phản diện nói lên rằng mất dân
là mất tất cả, An Dương Vương cậy mình có nỏ thần, có vũ khí tốt, quân đội tốt,... không
biết dựa vào dân nên đã mất nước. Hay trong văn học dân gian sức mạnh của dân còn
được đánh giá qua câu nói “Quan nhất thời, Dân vạn đại”, câu ca dao “...Bao giờ dân nổi
can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa”,.... Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng của Nho giáo
lên hệ thống giáo dục và chính trị thời Lý-Trần dẫn đến nhiều tư tưởng được coi trọng,
trong đó có tư tưởng dân bản sâu sắc “Dân là gốc nước”. Trong thời nhà Lý như: “Chiếu
dời đô” của Lý Công Uẩn thể hiện “dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ, ngập lụt, muôn vật
rất mực phong phú tốt tươi”; “Văn lệ bố” khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt viết “Trời
sinh ra dân chúng vua hiền tất hòa mục, đạo làm chủ cốt ở nuôi dân”. Còn thời Trần, vua
Trần Nhân Tông cảm thông với nỗi khổ của dân đã phải thốt lên “Hết thảy sinh dân đều
là đồng bào của ta. Nỡ lòng nào để cho bến bề khốn cùng”, hay Trần Quốc Tuấn đã nói
“...Khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”, ông đã
đi đến một quan niệm rất tiến bộ “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức
giặc tất bị bắt”, “Hịch tướng sĩ” của ông cũng chính là lời kêu gọi “Trên dưới đồng lòng”
để thực hiện “Lòng dân không chia” ấy.
2. Cơ sở thực tiễn a) Thế giới
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu
vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc. Sang đầu thế
kỷ XX, những mâu thuẫn ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc lập và quyền tự chủ
cho các dân tộc thuộc địa trở thành mong muốn chung của giai cấp vô sản quốc tế; tình lOMoAR cPSD| 45469857
hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển. Cách mạng
Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, nhiều nhà
nước xã hội chủ nghĩa ra đời như Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, Cộng
hòa Nhân dân Mông Cổ. Sự sụp đổ, thất bại của các nhà nước kiểu cũ đã hình thành kinh
nghiệm và tư tưởng về nhà nước dân chủ của Hồ Chí Minh
Nhà nước phong kiến: trong bộ máy nhà nước phong kiến, vua hay hoàng đế là
người nằm hết mọi quyền lực, quan lại các cấp đều là tôi tớ của vua, dân chúng trong
nước đều là thần dân của vua. Nhân dân bị bóc lột, bị đối xử tàn tệ, đời sống cực khổ,
khởi nghĩa nổ ra khắp nơi. Nhà nước này quá tàn bạo, không thể không tiêu diệt
Nhà nước dân chủ tư sản: trong hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã
có dịp tiếp xúc với nhà nước dân chủ tư sản. Kiểu nhà nước này có nhiều ưu điểm như
nền kinh tế phát triển hay cuộc cách mạng khoa học diễn ra mạnh mẽ, tuy nhiên nó vẫn
có 1 số nhược điểm đó là tồn tại nhiều mâu thuẫn sâu sắc: mâu thuẫn giữa tư sản và
công nhân, mâu thuẫn giữa các nước tư bản, mâu thuẫn giữa hai cực giàu nghèo. b) Việt Nam
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với
thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt
Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ
thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân
Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí
cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
II. Nội dung của luận điểm
1. Bản chất giai cấp của nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ, hiểu theo
nghĩa là nhà nước phi giai cấp. Nhà nước ở đâu và bao giờ cũng mang bản chất của một
giai cấp quyết định. Nhà nước Việt Nam mới - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
một nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước Việt Nam được thể hiện trên ba phương diện:
Một là, Đảng Cộng Sản Việt Nam giữ vị trí và vai trò cầm quyền
Nhà nước do nhân dân là người chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh
nòng cốt của nhân dân là liên minh công-nông-trí, do giai cấp công nhân mà đội tiên 5 lOMoAR cPSD| 45469857
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng cầm quyền bằng các phương thức:
- Bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, kế hoạch
- Bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong bộ máy, cơ quan nhà nước
- Bằng công tác kiểm tra
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ
nghĩa trong sự phát triển của đất nước.
Đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu cách
mạng nhất quán của Hồ Chí Minh
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ
Nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát huy cao độ dân chủ, đồng thời cũng nhấn
mạnh phải phát huy cao độ tập trung, nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để
tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân
Trong nhà nước Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân
dân và tính dân tộc. Được thể hiện cụ thể như sau:
Một là, nhà nước ở Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của
nhiều thế hệ người Việt Nam, của toàn thể dân tộc
Từ giữa thế kỉ XIX, khi đất nước bị ngoại xâm, các tầng lớp nhân dân Việt Nam , hết
thế hệ này đến thế hệ khác đã không quản hy sinh, xương máu chiến đấu cho độc lập, tự
do của Tổ Quốc. Chính vì thế mà Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trở thành lực lượng
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng dân tộc, với chiến lược đại đoàn kết đúng đắn, sức mạnh
của toàn dân tộc đã được tập hợp và phát huy cao độ, chiến thắng ngoại xâm , giành lại
độc lập, tự do và lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà nước Việt Nam mới, do vậy, không phải của riêng giai
cấp, tầng lớp nào, mà là thuộc về nhân dân
Hai là, Nhà nước Việt Nam khi ra đời đã xác định rõ và luôn kiên trì, nhất quán mục tiêu
vì quyền lợi của nhân dân, lấy quyền lợi của nhân dân làm nền tảng.
Nhà nước Việt Nam mới là người đại diện, bảo vệ, đấu tranh không chỉ cho lợi ích
của giai cấp công nhân, mà còn của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. lOMoAR cPSD| 45469857
Ba là, nhà nước mới ở Việt Nam đã đảm đương nhiệm vụ mà toàn thể dân tộc giao phó
là tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ
Quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển toàn bộ của thế giới.
Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng sản là con
đường và cũng là sự nghiệp của chính Nhà nước
2. Phân tích câu nói: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”.
a, Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác.
Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh
thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền
lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù
nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn luôn tâm niệm: phải
làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho
dân được học hành. Cả cuộc đời Người "chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi
Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân". Hồ Chí Minh viết: "khi tôi phải ẩn nấp nơi núi
non, hay ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm cùng kiệt - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ
quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tui gánh việc Chính phủ, tui e
sợ đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó".
Một Nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến
công chức bình thường đều phải làm công bộc, là đầy tớ cho nhân dân chứ không phải
"làm quan cách mạng" để "đè đầu cưỡi cổ nhân dân" như dưới thời đế quốc thực dân.
Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy
thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân. Hồ Chí
Minh nói: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải
gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tui phải gắng sức làm, cũng như một
người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui,
thì tôi rất vui lòng lui... Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh,
nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn
trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi".
Nhà nước vì dân, theo Hồ Chí Minh, là nhà nước phục vụ cho nhân dân, đem lại
lợi ích cho nhân dân. Điều này được người giải thích rõ trên các phương diện: 7 lOMoAR cPSD| 45469857
Thứ nhất: nhà nước phục vụ nhân dân, nghĩa là nhà nước đó được tổ chức và hoạt động
theo một mục tiêu duy nhất không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Đúng
với phương châm “Việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân
phải hết sức tránh”. Cải thiện đời sống và nâng cao đời sống cho nhân dân là cơ sở hàng
đầu, đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước.
Thứ hai: nhà nước dân chủ nhân dân là phải lo cho dân về mọi mặt, nhất là những nhu
cầu bức xúc, làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành, có điều kiện khám
chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe. Nhà nước chăm lo cho dân không phải là làm thay dân
mà nhà nước phải hướng dẫn dân làm 3 việc:
- Hướng dẫn dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất nâng cao đời sống. Sản xuất giống
như nước, đời sống giống như thuyền, nước lên thì thuyền lên.
- Hướng dẫn dân tiết kiệm, sản xuất mà không tiết kiệm thì giống như gió vào nhà trống
- Hướng dẫn dân phân phối cho công bằng, cho mọi người được hưởng những phúc
lợi chính đáng của mình (không sợ hàng hóa thiếu chỉ sợ phân phối không công
bằng, không sợ cùng kiệt chỉ sợ lòng dân không yên), phân phối vừa là kinh tế vừa là chính trị.
Thứ ba: Đối với cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước: Trong Nhà nước Vì dân, cán bộ
vừa là đầy tớ, công bộc, nhưng đồng thời vừa là người lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi
tưởng chừng mâu thuẫn nhưng đó là phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước vì dân.
Là đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ, đặc biệt là phải tránh quan liêu, tham nhũng. Là người lãnh
đạo phải có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân
dân, trọng dụng hiền tài, gồm cả đức lẫn tài, phải vừa hiện lại vừa minh
b, Bao nhiêu quyền hạn đều ở dân
Theo quan điểm của Bác, Nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất cả mọi
quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước của dân tức
là “dân là chủ”. Nguyên lý “dân là chủ” khẳng định địa vị tối cao của mọi quyền lực là nhân dân
Thứ nhất, là nhà nước do nhân dân lao động làm chủ: (chủ sở hữu nhà nước là nhân dân)
Ngay từ 1941, khi mới về nước, thành lập thí điểm Mặt trận Việt Nam độc lập
Đồng minh Hội, Bác Hồ đã có chủ trương: “Chính quyền cách mạng của nước dân chủ
mới, không phải thuộc quyền riêng của giai cấp nào mà là của chung, của toàn thể dân
tộc, chỉ trừ bọn tay sai của đế quốc Pháp Nhật và những bọn phản quốc…, còn ai là lOMoAR cPSD| 45469857
người dân sống trên dải đất Việt Nam, hết thảy đều được một phần tham gia giữ chính
quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”.
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà
nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí
Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp
năm 1959. Quan điểm trên của Người được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Chẳng
hạn, Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những
việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Hiến pháp 1959 điều
4 ghi: trong nước VN toàn bộ quyền lực đều thuộc về nhân dân lao động, người cầm
quyền trong bộ máy nhà nước (công chức) chỉ là người được uỷ quyền của dân để gánh
vác công việc chung của đất nước, họ là đầy tớ, công bộc của dân vì thế họ phải gần dân,
hiểu dân, thương dân, tin dân, phải biết sử dụng sức mạnh của dân, biết đòi hỏi dân, phải
có 6 tư cách: óc nghĩ, mắt thấy, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Từ chủ tịch nước
đến người công dân đều bình đẳng, như những người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt
trận. (khi không còn đủ sức lực thì rút khỏi cương vị, không màng danh lợi).
Thứ hai, dân là chủ nước:
Nước ta là quốc gia dân chủ, mọi quyền hạn đều là của dân, hiểu theo cách đơn
giản thì nhân dân là chủ thể cầm quyền, những chủ thể khác như cơ quan nhà nước, cán
bộ, công chức chỉ là những người được nhân dân ủy quyền, trao quyền để gánh vác, giải
quyết những công việc chung của đất nước. Hay còn có cách gọi khác, đó chính là cán
bộ, công chức là “đầy tớ”, “công bộc” của dân.
Nhà nước dân chủ nhân dân do nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng thông qua
tổng tuyển cử bỏ phiếu. Trong cuộc tổng tuyển cử, cứ là người muốn lo việc nước thì
đều có quyền được đứng ra ứng cử, cứ hễ là công dân thì đều được thực hiện quyền đi
bầu cử của mình. Do đó, cuộc tổng tuyển cử toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra
Chính phủ. Từ đó có thể thấy những những nắm giữ các chức vụ quan trọng trong bộ
máy nhà nước đều được lựa chọn dựa trên sự quyết định của toàn thể nhân dân, chính là
việc quyết định theo nguyên tắc đa số. Do đó, việc bầu cử Quốc hội và Chính phủ chính
là biểu hiện của việc nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp.
Dân là chủ nước thông qua chế độ bãi miễn những đại biểu, những cơ quan nhà
nước kể cả chính phủ nếu không còn đủ tín nhiệm, nếu đi ngược lại lợi ích của dân.
Dân là chủ nước thông qua chế độ kiểm tra, phê bình, giám sát hoạt động của các
đại biểu, các cơ quan nhà nước do mình cử ra. Đây là việc khó khăn đòi hỏi dân phải có
năng lực, chủ thể quyền lực (dân) phải có trình độ cao, việc kiểm tra giám sát phải có cơ 9 lOMoAR cPSD| 45469857
chế. Vì cơ chế thường do người cầm quyền đưa ra, và thường bảo vệ lợi ích của họ. Chỉ
thực hiện tốt quyền kiểm tra, phê bình, giám sát thì người dân mới thể hiện rõ tư cách cầm quyền của mình.
Nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có
quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn
và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ thay mặt bên
cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của
nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có
nghĩa là xác định vị thế của dân, còn dân làm chủ có nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ
của dân. Trong nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi quyền dân
chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của
dân, để cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã
hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế
nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị
thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, "cậy thế" với dân,
"quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân". Một nhà nước như thế là một nhà
nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng
có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì Nhà nước đó là nhà nước
của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước.
c. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra
Ý này một lần nữa khẳng định về quyền làm chủ của nhân dân trong việc lập ra bộ
máy nhà nước. Nhà nước do dân là nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của
mình. Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Vì thế, Bác Hồ yêu cầu: Tất
cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Nếu chính phủ làm hại dân, không đáp
ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân sẽ bãi miễn nó.
Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân; vấn đề cốt tử là
làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của
nhân dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế,
phương thức, cơ chế thực hiện.
Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền và các tổ chức xã hội do chính lOMoAR cPSD| 45469857
họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là
người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó.
Nhân dân có quyền tham gia bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, thông qua Quốc hội
để bầu ra Chính phủ, nhân cũng có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân nếu những người đó không xứng đáng.
Như vậy, quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở việc nhân dân tham gia vào bầu
đại diện thay mình điều hành chính quyền các cấp, tổ chức các đoàn thể các cấp tham
gia xây dựng chính quyền, tham gia các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, tham gia
các hoạt động quản lý nhà nước.
Ý nghĩa sâu xa toát lên từ luận điểm nêu trên của Người là ở chỗ, Đảng cũng ở
trong xã hội, ở trong dân, chỉ vì dân mà tồn tại, mà hoạt động, mà tranh đấu cho quyền
lợi của dân. Đảng không thể ở bên ngoài xã hội, không thể đứng trên dân, không thể xa
dân. Sức dân, lực lượng đoàn kết của dân là cơ sở xã hội bền chặt nhất của Đảng, quan
hệ máu thịt giữa Đảng với dân làm cho Đảng bền vững. Đảng cũng do dân tổ chức nên
là vì vậy. Và có thuận lòng dân, hợp ý dân thì Đảng mới có uy tín trong dân, mới được
dân ủng hộ. Có thuận lòng dân thì dân vận mới vào được lòng dân, thành niềm tin và
hành động của dân, làm cho trách nhiệm của dân, công việc của dân trong xây dựng đất
nước, kiến thiết kinh tế và văn hóa đem lại kết quả để dân thụ hưởng. Tóm lại, Nhân dân
là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức ra,
được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân. Họ là người lắng nghe, thấu
hiểu được lòng dân, giải quyết những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của dân. Do đó,
quyền bầu cử chính là quyền cao cả của mỗi công dân, đó cũng là nghĩa vụ, trách nhiệm
công dân trong việc góp phần xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Như vậy, có thể xác định quyền bầu cử của công dân chính là việc lựa chọn người
đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước, quyền này thể hiện ở việc giới thiệu
người ứng cử và bỏ phiếu bầu cử để lựa chọn người đại diện cho mình tại Quốc hội và HĐND các cấp.
d. Nghĩa vụ của nhân dân
Mở rộng luận điểm của Hồ Chí Minh, bên cạnh những quyền lợi to lớn do Đảng
và Nhà nước trao, nhân dân cũng cần phải nhận thức nghĩa vụ của mình. Theo quan
điểm của Hồ Chí Minh, “nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn
bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. Nhân dân làm chủ thì phải tuân theo
pháp luật của Nhà nước, giữ gìn trật tự chung đóng góp (nộp thuế) đúng kỳ, đúng số để
xây dựng lợi ích chung, hăng hái tham gia công việc chung, trung thành với Tổ quốc,
tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân,bảo vệ an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; giữ gìn bí mật nhà nước; tham gia lao động công ích theo quy định của pháp luật
bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc, chấp hành các quy tắc sinh hoạt công cộng 11 lOMoAR cPSD| 45469857
III. Ý nghĩa về luận điểm “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân
cử ra” của Hồ Chí Minh
Thông qua luận điểm này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của nhân dân đối với
vận mệnh của đất nước:
Nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chế độ dân chủ, thể chế chính trị và thể chế nhà
nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Khẳng định vai trò, địa vị của nhân dân trong chế độ chính trị dân chủ:
Nội dung cơ bản và cốt lõi nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là: Nhân dân
là chủ thể của quyền lực chính trị - xã hội, thể chế chính trị dân chủ phải bảo đảm quyền
lực thực sự thuộc về nhân dân, nhân dân là người có quyền quyết định vận mệnh của
quốc gia - dân tộc; nhân dân phải có trách nhiệm và nghĩa vụ xây dựng, củng cố và thực
hành quyền lực của mình thông qua hệ thống chính trị và thể chế chính trị dân chủ, xây
dựng và củng cố bộ máy quản lý nhà nước nhằm hướng tới phục vụ lợi ích của mình.
Giải quyết, giải thích mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân trên tinh thần dân chủ:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ
mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhân dân cần Nhà nước để lãnh đạo và tổ chức lực
lượng xây dựng, phát triển đất nước. Mặt khác, Nhà nước phải dựa vào mọi nguồn lực
của nhân dân để phục vụ nhân dân. Trong tư tưởng của Người, nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước phát huy dân chủ
đến cao độ mới động viên được tất cả các lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến
lên. Đồng thời, phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảm bảo bởi lợi ích và gắn liền với nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm:
Dân chủ gắn liền với pháp luật, kỷ luật, kỷ cương xã hội. Theo đó, dân chủ hóa đồng
thời là pháp chế hóa xã hội, càng mở rộng và phát huy dân chủ bao nhiêu càng phải củng
cố hiệu lực của tập trung, sức mạnh của pháp luật, kỷ luật bấy nhiêu. Những nhân tố này
chế ước, chi phối lẫn nhau, đảm bảo cho dân chủ phát triển một cách lành mạnh, không
bị biến dạng, lệch lạc thành những phản dân chủ với những biểu hiện như vi phạm dân
chủ, dân chủ hình thức hay thói tự do vô chính phủ, coi thường pháp luật kỷ cương. Nó
cũng đồng thời đảm bảo cho chế độ (hay nguyên tắc) tập trung dân chủ trong Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị của hệ thống chính trị có sức mạnh của tổ chức và hoạt
động, không bị biến dạng thành tập trung quan liêu, tính cát cứ cục bộ, phường hội. 9
Khẳng định tư tưởng quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên pháp luật và thực hiện
pháp luật công bằng với nền hành chính và tư pháp liêm chính, đạo đức, phụng sự Tổ
quốc, phục vụ Nhân dân: lOMoAR cPSD| 45469857
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị dân chủ, công bằng, nhân đạo được thể hiện
thông qua phương châm hành động của Nhà nước và của các cơ quan, tổ chức, cán bộ,
đảng viên. Bác nhắc nhở: “Việc gì cũng phải công bình chính trực, không nên vì tư ân,
tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”.
Là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền
và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương thức hoạt
động của nhà nước ở Việt Nam hiện nay:
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Do vậy,
trong thực hiện cần tiếp tục quán triệt và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
IV. Liên hệ thực tiễn thực hiện dân chủ tại Việt Nam hiện nay
1. Thành tựu đã đạt được:
Về phát huy dân chủ trong Đảng
Trong đại hội đảng các cấp, trong các hội nghị của Đảng, mỗi đảng viên đều có
quyền thảo luận, bàn bạc, tham gia các công việc của Đảng, phê bình, chất vấn các cán
bộ, đảng viên khác, được trình bày hết ý kiến của mình, có quyền bảo lưu ý kiến hoặc đề
xuất ý kiến lên các cơ quan cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Các
nghị quyết, quyết định của tổ chức đảng được thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số.
Việc bầu cử trong Đảng đều được tiến hành dân chủ theo nguyên tắc bỏ phiếu kín, không
gò ép, áp đặt... Đặc biệt, trong các nhiệm kỳ gần đây, việc thực hành dân chủ trong Đảng
tiếp tục được bổ sung bằng những quy chế, quy định chặt chẽ hơn, như quy định Bộ
Chính trị báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành
Trung ương, ban thường vụ báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp
cấp ủy, cấp ủy báo cáo trước tổ chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình; quy định thời gian
tiến hành tự phê bình và phê bình, tổ chức quần chúng phê bình và bỏ phiếu tín nhiệm
cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao nhất đến tổ chức cơ sở.
Việc phát huy dân chủ trong các tổ chức nhà nước có nhiều chuyển biến, tiến bộ.
Quốc hội có những đổi mới quan trọng, từ bầu cử đại biểu Quốc hội đến hoàn thiện về
cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, làm tốt hơn chức năng lập pháp, công tác
giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội hoạt động ngày
càng dân chủ, hiệu quả. Để nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật, Quốc hội đã có
nhiều hình thức để lấy ý kiến góp ý, như tổ chức hội thảo, tọa đàm, phát phiếu...
Phát huy dân chủ của Chính phủ tiếp tục có những đổi mới trong hoạch định chính
sách, quản lý vĩ mô, chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện. Ý thức, trách nhiệm thể chế 13 lOMoAR cPSD| 45469857
hóa, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành các văn bản pháp luật được
đề cao. Đặc biệt, chính quyền các cấp đã có nhiều tiến bộ trong tổ chức tiếp dân, đối
thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Phát huy dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội cũng có nhiều tiến bộ rõ rệt,
thể chế thực thi các quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ thể hóa.
Nhiều văn bản tạo cơ sở pháp lý phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân
được Quốc hội thông qua, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, Luật
Thanh niên, Luật Trưng cầu ý dân... Những bảo đảm dân chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi
ích, trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội được luật hóa cụ thể hơn và từng bước thực
hiện có kết quả; nhiều chủ trương, biện pháp đã phát huy vai trò tích cực, chủ động của
nhân dân, đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa xã hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh số 34/PT/UBTVQH, ngày 20-4-2007, “Về thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn”, Nghị định số 04/NĐ/CP, ngày 24-1-2013, “Về thực hiện dân chủ trong hoạt
động cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”, Nghị định số 60/NĐ-
CP, ngày 19-6-2013, “Quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ luật Lao động về thực
hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc” đã góp phần tích cực vào quá trình phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
=> Có thể khẳng định, việc thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền ở Việt Nam là phù hợp với điều kiện ở nước ta nên đã đưa tới những thành công tốt đẹp.
2. Những điểm còn hạn chế của dân chủ của Việt Nam hiện nay
Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều
hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở các cấp cơ sở.
Nhiều chủ trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được thể chế hóa, nên
chủ trương thì đúng và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ trong xã hội chưa tốt,
quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí quyền
làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành
dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất
đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực, trên
thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước. Việc nhân dân giám sát chính
quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực tế, việc giám sát này còn rất mờ nhạt. Tình
trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm cho yêu cầu quản lý các quá trình kinh tế -
xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và hiệu quả cao.
Trong nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”. lOMoAR cPSD| 45469857
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có nhiều đổi mới, Nhà
nước đã cố gắng xây dựng, ban hành pháp luật và đưa pháp luật trở thành công cụ quan
trọng trong quản lý đất nước, thực hành dân chủ trong xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ
thống pháp luật Việt Nam chưa đồng bộ, không thống nhất, hay thay đổi gây khó khăn
cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội.
3. Đề xuất các giải pháp
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết
của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ.
Chỉ khi nào người dân biết sử dụng và phát huy các quyền dân chủ thì các lợi ích của
Nhà nước, cộng đồng, các quyền và lợi ích của mỗi người dân mới được bảo đảm. Đây
cũng là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả của thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cán
bộ, công chức, đảng viên là lực lượng tham gia trực tiếp vào quá trình thực thi dân chủ
tại cơ sở, do vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên, công chức, cấp ủy và chính quyền có ý nghĩa to lớn, góp phần quyết định
thực thi dân chủ ở cơ sở.
Phải phát huy vai trò của tổ chức Đảng cơ sở, các tổ chức đoàn thể quần chúng trong
việc thực hiện dân chủ.
Tổ chức Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể cần phối hợp chặt chẽ,
thường xuyên trong việc tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên phải
không ngừng phấn đấu, rèn luyện và phải là những tấm gương về thực hiện dân chủ.
Mỗi tổ chức đảng phải giáo dục cho đảng viên ý thức rõ trách nhiệm chính trị và nghĩa
vụ đạo đức của mình, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến phê bình. Nếu trong Đảng thực
hành được dân chủ, đoàn kết và đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư thì tình hình sẽ chuyển biến tốt đẹp. Mỗi cán bộ đảng viên và đội ngũ công chức, viên
chức phải gương mẫu trong đạo đức, lối sống, đề cao kỷ luật và trách nhiệm, tôn trọng
và tận tụy phục vụ nhân dân.
Tăng cường dân chủ phải đi đôi với siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính và đấu tranh
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Thực hiện dân chủ nhưng luôn phải gắn với bảo đảm tăng cường kỷ luật, kỷ cương
hành chính, cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các
quyết định của cấp trên. Mỗi cá nhân phải thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ trong
việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Mỗi cơ quan, đơn vị phải xây dựng được chương
trình, kế hoạch công tác cụ thể trên cơ sở nhiệm vụ được giao; đánh giá đúng chất lượng,
trình độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Kiên quyết xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm, gây nhũng nhiễu, phiền hà trong giải quyết công việc của 15 lOMoAR cPSD| 45469857
người dân và doanh nghiệp, xử lý nghiêm việc chậm trễ trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng. Đảng phải là tấm gương về dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mình
Cần tiếp tục nghiên cứu về lý luận và thực tiễn để làm rõ trong điều kiện một Đảng
Cộng sản duy nhất cầm quyền vẫn phát huy được dân chủ thực sự, vẫn giữ vững được sự
lãnh đạo của Đảng, Đảng trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên không rơi vào suy
thoái, xa rời quần chúng. Phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, “dựa vào dân để sửa
chính sách”, “sửa cán bộ” như Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Mọi chủ trương, chính sách của
Đảng phải được thảo luận trong Đảng và đưa ra toàn dân thảo luận rộng rãi trước khi Đảng quyết định.
Đích cuối cùng của thực hiện dân chủ cơ sở là góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã
hội, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân.
Thực hiện Quy chế dân chủ không phải vì bản thân quy chế đó hay vì sự ổn định
xã hội nhất thời, mà đích cuối cùng là bảo đảm cho nhân dân có cuộc sống ấm no hơn,
tiến bộ hơn. Do vậy, để đạt được mục đích đó cần hướng vào: Tạo điều kiện thuận lợi và
giúp các nhà đầu tư, doanh nghiệp triển khai các dự án tại địa phương; xây dựng và mở
rộng nhiều mô hình xây dựng nông thôn mới thiết thực, hiệu quả; đẩy mạnh xã hội hóa
và nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường; thực hiện có hiệu quả các
giải pháp bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, an ninh - trật tự. KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định rằng, xây dựng chính quyền vì dân, do dân không nằm ngoài
mong muốn của Hồ Chí Minh là làm cho người dân được tự do, có đời sống vật chất đầy
đủ, đời sống tinh thần phong phú. Mục tiêu đó của Người phản ánh nguyện vọng của
nhân dân và được Đảng ta thể hiện trong đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội
vì con người. Là lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, hơn ai hết,
Hồ Chí Minh đã cảm nhận một cách rõ ràng, sâu sắc về vai trò của quần chúng nhân dân
công cuộc xây dựng đất nước. lOMoAR cPSD| 45469857
Tài liệu tham khảo
https://vksndtc.gov.vn/thong-tin/hoc-tap-va-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-phong-cach-ho-
chiminh/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-phap-quyen-cua-da-d13-t7999.html
https://daihoi.lamdong.dcs.vn/tin-tuc-su-kien/type/detail/id/6880/task/1862
http://isos.gov.vn/cds/thuc-trang-ve-thuc-hien-dan-chu-co-so-o-co-quan-hanh-chinhnha-
nuoc-va-don-vi-su-nghiep-cong-lap-cua-nuoc-ta-hien-nay-qua-so-42866.html
http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/dan-chu-va-thuc-trang-thuc-hien-dan-chu- nhungnam-qua.html
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ho-
chiminh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-va-phap-
luatnen-tang-ly-luan-cho-xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-3784 17