












Preview text:
lOMoAR cPSD| 39651089
KHOANG MIỆNG I. TỔN THƯƠNG VIÊM LOÉT A. Viêm loét miệng aptơ (apthous ulcer)
Dịch tễ học: bệnh thường gặp trước 20 tuổi
Bệnh sinh: bệnh khởi phát do stress, sốt, dùng một loại thức ăn nào đó, bị kích hoạt bởi
bệnh viêm ruột. Nguyên nhân gây bệnh chưa được biết rõ. Bệnh tự giới hạn và lành sau 7-
10 ngày; có thể tái phát chỗ cũ hay nơi khác.
Hình thái tổn thương -
Đại thể: vết loét thường nhỏ đường kính < 5mm, nông, màu trắng xám, bờ rõ, xung
quanh có viền đỏ, thường ở nếp lợi – má, đầu và bờ lưỡi. -
Vi thể: niêm mạc miệng vùng tổn thương khởi đầu thâm nhập tế bào viêm đơn
nhân, sau đó là bạch cầu đa nhân trung tính khi có bội nhiễm. B. Nhiễm nấm
Dịch tễ học: Thường do nấm Candida albicans, loại nấm này có thể vẫn thường trú trong
khoang miệng (30-40% dân số) nhưng chỉ trở thành tác nhân gây bệnh ở những người vị
suy giảm miễn dịch do bệnh tiểu đường, thiếu máu, dùng kháng sinh hay corticoid kéo dài, ung thư.
Hình thái tổn thương
- Đại thể: tổn thương có dạng mảng trắng như váng sữa, dính, bờ rõ; khi bị cạo đi, để lộ
nền mô viêm đỏ bên dưới.
- Vi thể: mảng trắng chứa vô số thể nấm (sợi nấm, bào tử)
C. Nhiễm virus Herpes
Dịch tễ học: Viêm miệng do virus Herpes (hầu hết HSV típ 1) là bệnh rất thường gặp. Trên
¾ dân số tuổi trung niên có mang mầm bệnh trong miệng nhưng chỉ một số ít trường hợp
là có biểu hiện lâm sàng do virus tái hoạt hóa. Sốt , nhiễm lạnh, nắng, gió, nhiễm trùng hô
hấp, dị ứng…đều có thể tái hoạt hóa virus.
Hình thái tổn thương -
Đại thể: tổn thương là một hay nhiều bóng nước, kích thước <5mm, chứa dịch
trong. Tổn thương thường ở môi, quanh lỗ mũi, gây đau. Các bóng nước này có thể vỡ tạo
vết loét nông, lành sau vài tuần nhưng thường tái phát. lOMoAR cPSD| 39651089 -
Vi thể: tế bào biểu mô bị nhiễm virus phồng to, trong nhân chứa thể vùi ái toan. Đôi
khi các tế bào này gần nhau lợp thành tế bào khổng lồ nhiều nhân. Các tế bào này nằm ở
vách bóng nước hoặc trôi lơ lửng trong dịch bóng nước.
II. BẠCH SẢN (Leukoplakia)
Bạch sản là các mảng trắng ở niêm mạc miệng, giới hạn rõ, không cạo tróc được; tạo bởi
sự tăng sinh biểu mô phủ. Bạch sản được xem là tổn thương tiền ung thư vì có 5-6% trường
hợp sẽ chuyển thành ung thư.
Dịch tễ học: mảng này thường gặp ở người lớn tuổi, liên quan chặt chẽ với việc dùng thuốc
lá, uống rượu, dùng thức ăn kích thích, viêm mạn tính hoặc nhiễm HPV.
Hình thái tổn thương
- Đại thể: tổn thương có dạng một hoặc nhiều mảng trắng, gồ cao; bề mặt trơn láng hoặc
sần sùi; cứng; xuất hiện ở niêm mạc má, sàn miệng, bụng lưỡi.
Vi thể: có hiện tượng quá sản sừng, quá sản vảy của lớp biểu mô lát tầng niêm mạc miệng.
Biểu mô này có thể chuyển dạng thành loạn sản và sau đó là carcinoma tại chỗ.
III. UNG THƯ KHOANG MIỆNG VÀ LƯỠI
Loại ung thư thường gặp nhất của khoang miệng và lưỡi là carcinoma tế bào vảy.
Dịch tễ học: thường xảy ra sau 40 tuổi
Yếu tố nguy cơ của ung thư miệng: bạch sản; hút thuốc lá; thói quen ăn trầu; nghiện rượu; nhiễm HPV típ 16, 18.
Hình thái tổn thương:
- Đại thể: tổn thương chồi sùi, loét ở bề mặt, có thể bị bội nhiễm
- Vi thể: các đám tế bào vảy có nhân dị dạng, hạt nhân to, nhân chia bất thường, sắp xếp
thành ổ, xâm nhập mô đệm bên dưới.
Liên hệ lâm sàng: khởi phát không đau nên thường phát hiện muộn, nhất là khi tổn thương
nằm ở 1/3 sau lưỡi; làm giảm kết quả điều trị và khả năng sống sót của bệnh nhân. TUYẾN NƯỚC BỌT
Hai loại bệnh lý thường gặp nhất là viêm và u tuyến nước bọt. lOMoAR cPSD| 39651089
I. VIÊM TUYẾN NƯỚC BỌT
Viêm tuyến nước bọt có thể do virus, vi khuẩn, hay do nguyên nhân tự miễn; trong đó
nhiễm virus quai bị (paramyxovirus) là nguyên nhân thường gặp nhất. Bệnh quai bị ở trẻ
em có tổn thương giới hạn ở tuyến nước bọt; trái lại ở người trưởng thành thì có thể bị biến
chứng viêm tụy và viêm tinh hoàn (dẫn đến vô sinh về sau).
A. Viêm tuyến nước bọt do virus quai bị
Hình thái tổn thương: -
Đại thể: Paramyxovirus gây sưng đau to toàn bộ các tuyến chính, đặc biệt là tuyến mang tai. -
Vi thể: Paramyxovirus thường gây viêm mô kẽ lan tỏa, phù và thâm nhập tế bào
đơn nhân; đôi khi có các ổ hoại tử.
B. Viêm tuyến nước bọt do cơ chế tự miễn
Trong hội chứng Sjogren thì hầu như luôn tấn công hai bên. Tất cả các tuyến nước bọt
(chính phụ), tuyến lệ đều bị tổn thương, gây ra chứng khô miệng và khô mắt (viêm kết – giác mạc khô)
C. Viêm tuyến nước bọt do vi khuẩn
Thường xảy ra thứ phát sau tắc ống tuyến do sỏi. Vi khuẩn gây bệnh thường gặp nhất là
Staphylococcus aureus và Streptococcus viridians. Phản ứng viêm xảy ra trong mô kẽ, có
thể gây hoại tử hóa mủ, hình thành ổ áp xe. Vi thể: -
Vách gian tiểu thùy bị xơ hóa dày lên ngấm nhiều tế bào viêm mạn tính kèm xơ
dầyvách ống dẫn gian tiểu thùy; thậm chí mô xơ – viêm còn lan vào trong tiểu thùy, xen
lẫn giữa các cấu trúc tuyến nang. Mạch máu sung huyết lẫn với phù nề mô đệm khu trú. -
Các tuyến nang bị teo nhỏ hoặc thoái hóa. Một số ống trong tiểu thùy cũng teo nhỏ.
Cáctế bào viêm mạn và xơ hóa lan vào trong tiểu thùy lOMoAR cPSD| 39651089
Vách gian tiểu thùy xơ dầy (2), ngấm viêm trong
ống gian tiểu thùy (1) và tiểu thùy (3)
Vách gian tiểu thùy xơ dầy (2), ngấm viêm trong
ống gian tiểu thùy (1) và tiểu thùy (3), mô xơ lẫn
tế bào viêm mạn lan vào trong tiểu thùy (2)
II. U TUYẾN NƯỚC BỌT
Dịch tễ học: nói chung, u tuyến nước bọt tương đối ít gặp chiếm không quá 2% các loại u
ở người. Tỉ lệ nam nữ mặc bệnh như nhau; xảy ra ở tuyến dưới hàm trong đó có 40% ác
tính. Số ít còn lại xuất hiện ở tuyến nước bọt dưới lưỡi và các tuyến nước bọt phụ nhưng
quá nửa là u ác. Như vậy, tỉ lệ u ác tính của tuyến nước bọt tỉ lệ nghịch với kích thước tuyến.
Đại thể: thường thấy là một khối u ở trước tai, thường di động khi sờ nắn, kích thước từ 4-
6cm. Chỉ có thể chẩn đoán phân biệt là lành ác một cách chắc chắn bằng khảo sát mô bệnh
học. Hai loại u lành tuyến nước bọt là u tuyến đa hình tuyến nước bọt và u Warthin. Loại
u ác tính nguyên phát thường gặp nhất của tuyến nước bọt là carcinoma nhầy biểu bì.
A. U tuyến đa hình (pleomorphic adenoma, mixed tumor) Còn
gọi là u hỗn hợp, là u lành tính thường gặp ở tuyến mang tai.
Hình thái tổn thương: -
Đại thể: u lành, phát triển chậm, kích thước <6cm. Bờ tương đối rõ, có vỏ bao sợi, bề mặt nhẵn. lOMoAR cPSD| 39651089
Đại thể: u màu xám hồng, có vỏ rõ, có vùng biệt hóa sụn (đầu mũi tên) -
Vi thể: u được đặc trưng bởi sự đa dạng về thành phần cấu tạo. Thành phần biểu
mô gồm các tế bào nhỏ hình tròn hoặc hình thoi, sắp xếp thành cấu trúc ống, túi, dây, đám
đặc. Thành phần biểu mô hòa trộn với mô đệm dạng niêm, lỏng lẻo, đôi khi chứa các đảo
dạng sụn hoặc xương. Bằng chứng hóa mô miễn dịch cho thấy tất cả các loại tế bào khác
nhau này trong u đều xuất phát từ tế bào cơ biểu mô.
Vi thể: Mô tuyến nước bọt lành tính(bên Vi thể: thành phần biểu mô sắp xếp dạng trên) và
mô u tuyến nước bọt (phía dưới) cấu trúc tuyến và mô u có vùng biệt hóa ngăn cách nhau bởi vỏ xơ dầy sụn
Liên hệ lâm sàng: u phát triển chậm, không đau nên bệnh nhân thường để nhiều năm mới
đi khám. U thường xuất phát từ thùy nông tuyến mang tai, tạo ra một khối phồng ở góc
hàm sờ thấy dễ dàng. U có vỏ bao không hoàn toàn nên dễ tái phát nếu phẫu thuật cắt bỏ
không đủ rộng. Khoảng 2-3% các trường hợp tái phát hóa ác, gọi là carcinoma trên nền u
tuyến hỗn hợp (carcinoma ex mixed tumors) lOMoAR cPSD| 39651089 B. U Warthin
Là u lành, hầu như chỉ xuất hiện ở tuyến mang tai.
Hình thái tổn thương:
- Đại thể: thường là khối nhỏ, tròn hay bầu dục, có vỏ bao, mặt cắt trắng xám, thường có
các khe hoặc bọc nhỏ chứa dịch nhầy hoặc dịch thanh.
- Vi thể: có 2 hình ảnh đặc thù
Lớp biểu mô có 2 lớp tế bào ái toan lót trong các khoang bọc, phân nhánh
Mô lympho bên dưới biểu mô rất phát triển, đôi khi tạo thành nang lympho
C. Carcinoma nhầy biểu bì (mucoepidermoid carcinoma)
Là loại u ác nguyên phát tuyến nước bọt thường gặp nhất, thường xảy ra ở tuyến mang tai.
Hình thái tổn thương: -
Đại thể: u có kích thước từ 1-8cm, giới hạn rõ, chắc, di động kém, có thể gây đau
nếu có xâm nhiễm thần kinh. -
Vi thể: u không có vỏ bao, xâm nhập vào mô tuyến nước bọt xung quanh; mặt cắt
trắng xám, thường có vài nang nhỏ chứa nhầy. Cấu tạo của u gồm các tế bào vảy và tế bào
tiết nhầy, sắp xếp thành dải, bè hoặc bao quanh các nang nhỏ. Carcinoma nhầy biểu bì
được phân loại grade mô học thấp, vừa hay cao tùy theo tỉ lệ thành phần tế bào vảy trong
u, sự đa hình thái tế bào, tỉ lệ nhân chia và hoại tử; grade mô học càng cao thì u có độ ác
tính càng lớn, xâm nhập tại chỗ và cho di căn xa càng nhanh. THỰC QUẢN
Các tổn thương của thực quản khá đa dạng: viêm, u, giãn nở tĩnh mạch…nhưng lại có các
triệu chứng khá giống nhau: nuốt khó, nóng rát sau xương ức, nôn ra máu. Vì vậy, để chẩn
đoán chính xác các loại tổn thương thực quản, phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau
như nội soi sinh thiết, đo áp lực lòng thực quản. Sau đây là các loại bệnh lý thường gặp của thực quản.
I. XƯỚC THỰC QUẢN (lacerations)
Thường gặp ở người nghiện rượu, tình trạng nôn mửa quá mức sau uống rượu có thể gây
ra các vết xước dọc tại chỗ nối thực quản – dạ dày, còn gọi là vết xước Mallory – Weiss,
có chiều dài thay đổi từ vài mm đến vài cm. Vết xước có thể chỉ thay đổi từ vài mm đến lOMoAR cPSD| 39651089
vài cm. Về mặt vi thể, có hiện tượng xuất huyết tại bờ vết xước, thâm nhập tế bào viêm;
diễn tiến nói chung nhẹ nhàng, lượng máu nôn ra không nhiều, ít khi phải can thiệp ngoại
khoa; các vết xước sẽ lành và không để lại di chứng.
II. GIÃN NỞ TĨNH MẠCH THỰC QUẢN (Varices)
Là hậu quả của tình trạng tăng áp lực tĩnh mạch cửa do xơ gan (chủ yếu là xơ gan rượu);
máu từ tĩnh mạch cửa phải đi vòng theo các nhánh tĩnh mạch bàng hệ, nằm trong lớp niêm
mạc và dưới niêm mạc của đoạn thực quản để trở về tim, kết quả là các tĩnh mạch này sẽ
bị giãn nở dần do sự gia tăng áp lực máu trong lòng mạch.
Các tĩnh mạch giãn nở chạy ngoằn ngoèo, tập trung chủ yếu trong lớp dưới niêm mạc của
đoạn 1/3 dưới thực quản; lớp niêm mạc bị đẩy nhô vào lòng thực quản nên dễ bị viêm loét,
có thể làm vỡ tĩnh mạch thực quản gây nôn ra máu ồ ạt; đây cũng là nguyên nhân gây tử
vong thường gặp ở bệnh nhân xơ gan.
III. VIÊM THỰC QUẢN (esophagitis) Hình thái tổn thương
- Đại thể: thay đổi tùy loại viêm thực quản, thời gian và mức độ tác động của tác nhân gây
viêm. Đối với viêm thực quản do trào ngược; nếu viêm nhẹ, chỉ thấy niêm mạc thực quản
sung huyết hơi đỏ; trường hợp viêm nặng, niêm mạc có thể bị loét, hoại tử, xuất huyết,
hình thành mô hạt viêm và xơ hóa gây hẹp lòng thực quản.
- Vi thể: Trong trường hợp viêm thực quản trào ngược mức độ nhé, có 3 hiện tượng sau:
Thâm nhập các tế bào viêm trong lớp biểu mô như bạch cầu đa nhân ái toan, bạch cầu đa
nhân trung tính, lympho bào.
Quá sản lớp đáy của biểu mô (>20% chiều dày biểu mô)
Các nhú của mô đệm niêm mạc bị sung huyết, nhô cao đến 1/3 trên lớp biểu mô
Liên hệ lâm sàn: triệu chứng của viêm thực quản thay đổi tùy theo mức độ viêm, gồm có
ợ chua, cảm giác nóng rát sau xương ức, khó nuốt, nôn máu, đi ngoài phân đen. Viêm thực
quản trào ngược kéo dài có thể dẫn đến thực quản Barret cùng với nguy cơ ác tính hóa của nó.
IV. BARRET THỰC QUẢN
Là biến chứng của tình trạng trào ngược kéo dài của dịch vị lên thực quản. Trong thực
quản Barret, lớp biểu mô lát tầng không sừng hóa bình thường ở đoạn dưới thực quản được
chuyển thành biểu mô trụ tiết nhầy (kiểu dạ dày ruột), có lẽ để thích nghi tốt hơn với môi
trường acid gây nên bởi sự trào ngược dịch vị. lOMoAR cPSD| 39651089
Hình thái tổn thương -
Đại thể: biểu hiện của thực quản Barrett là một vùng niêm mạc có mầu đỏ mượt,
xuất hiện ở chỗ nối thực quản – dạ dày, chạy vòng hết chu vi lòng thực quản hoặc phân bố
thành nhiều đám rải rác; tương phản rõ rệt với mầu hồng nhạt của niêm mạc thực quản
bình thường ở phía trên và mầu hồng nâu của niêm mạc dạ dày bên dưới.
Đại thể: Vùng niêm mạc đỏ mượt của thực quản bị Barret (mũi tên) -
Vi thể: biểu mô lát tầng không sừng hóa của thực quản bị thay thế bởi biểu mô trụ
tiết nhầy (kiểu dạ dày – ruột); trong đó có thể tìm thấy những vùng loạn sản từ nhẹ đến
nặng, với hình ảnh nhân tăng sắc, xếp chồng chất lên nhau.
Vi thể: Biểu mô lát tầng của thực quản được Vi thể: Biểu mô lát tầng của thực quản thay
thế bởi biểu mô trụ kiểu dạ dày – ruột được thay thế bởi biểu mô trụ kiểu dạ dày – ruột và
kèm loạn sản mức độ nhẹ lOMoAR cPSD| 39651089
Liên hệ lâm sàng: người bình thường bị Barret thực quản có nguy cơ carcinoma tuyến thực
quản tăng 30-40 lần so với người bình thường, do lớp biểu mô trụ dị sản có thể bị loạn sản
rồi chuyển thành ung thư V. U THỰC QUẢN
U lành tương đối ít gặp, chỉ chiếm khoảng 5% các loại u thực quản. Hầu hết các u lành
này có nguồn gốc từ trung mô; trong đó u cơ trơn là loại thường gặp nhất. U ác thực quản
thường có diễn tiến âm thầm, khi phát hiện bệnh thường muộn không có khả năng phẫu
thuật, khả năng sống thêm 5 năm chỉ vào khoảng 5%. Carcinoma tế bào vảy thường gặp
nhất, chiếm 90% u ác thực quản; số còn lại carcinoma tuyến ở đoạn 1/3 dưới thực quản và
có khuynh hướng tăng lên; có lẽ nhờ vào phương tiện nội soi giúp phát hiện nhiều hơn các
trường hợp Barret, qua đó xác định được carcinoma tuyến tại đây là của thực quản hơn là
của dạ dày xâm nhập lên.
A. Carcinoma tế bào vảy thực quản
Dịch tễ học: một số yếu tố nguy cơ được ghi nhận:
- Bệnh lý thực quản: viêm thực quản kéo dài, hội chứng Plummer – Vison (màng thựcquản,
thiếu máu nhược sắc, viêm teo lưỡi).
- Uống rượu, hút thuốc lá, nhai trầu
- Chế độ ăn thiếu vitamin (A,C, riboflavin, thiamin, pyridoxine), thiếu yếu tố vi lượngkim
loại (kẽm, molybdenum), thức ăn bị nhiễm nấm hoặc có chứa nitrosamines.
- Một số cơ địa di truyền: chứng da dày sừng (tăng sừng lòng bàn tay và bàn chân) Hình thái tổn thương:
- Đại thể: vị trí ung thư 20% ở 1/3 trên, 50% ở 1/3 giữa và 30% ở 1/3 dưới thực quản.
Khởi đầu là 1 vùng dày lên của niêm mạc có màu trắng xám; sau khoảng thời gian từ vài
tháng tới vài năm, tổn thương phát triển thành các dạng sau (riêng biệt hoặc phối hợp):
- Dạng chồi sùi vào lòng ống (60%)
- Dạng loét (25%) do khối u bị hoại tử, ăn sâu xuống bên dưới; có thể làm thủng cây
phếquản, động mạch chủ, hoặc màng bao tim.
- Dạng thâm nhiễm lan tỏa (15%) làm dầy cứng thành thực quản và hẹp lòng ống. lOMoAR cPSD| 39651089
Đại thể: Khối u màu trắng xám, sùi vào lòng thực quản.
- Vi thể: hầu hết là carcinoma tế bào vảy có độ biệt hóa tốt hoặc vừa
Vi thể: Carcinoma tế bào vảy sừng hóa xâm nhập B. Carcinoma tuyến
Hầu như tất cả các trường hợp carcinoma tuyến thực quản đều xuất hiện trên nền thực quản
Barret, với tỉ lệ ngày càng tăng. Bệnh nhân thường trên 40 tuổi, tỉ lệ mắc bệnh ở nam cao hơn nữ.
Hình thái tổn thương -
Đại thể: thường xuất hiện trên nền thực quản Barret, ở 1/3 dưới thực quản và có thể
xâm lấn xuống tâm vị của dạ dày. Tổn thương ban đầu có dạng phẳng hoặc hơi gồ lên với
lớp niêm mạc bên trên còn nguyên vẹn, về sau phát triển thành khối lớn sần sùi hoặc xâm
nhiễm lan tỏa hoặc loét sau xuống bên dưới. lOMoAR cPSD| 39651089 -
Vi thể: đa số là carcinoma tuyến tiết nhầy giống carcinoma tuyến của ruột, độ biệt
hóa tốt, vừa hoặc kém; các tế bào tuyến ác tính dị dạng, nhân tăng sắc; tạo thành ống tuyến
hoặc các đám đặc tùy theo độ biệt hóa. Một số rất ít trường hợp có dạng ung thư tế bào nhẫn của dạ dày.
BỆNH HỌC TỤY I. DỊ TẬT BẨM SINH
Các dị tật bẩm sinh bất thường và những thay đổi bình thường cảu ống và tuyến tụy có thể
không phát hiện ra cho tới khi trưởng thành và sau đó có thể phát hiện thường là do ngẫu
nhiên với một số bệnh nhân không triệu chứng. Bao gồm tụy chia đôi, tụy hình vòng, mô
tụy lạc chỗ, sự thay đổi đường viên quanh tụy, nang tụy và những thay đổi của ống tụy. 1. Tụy chia đôi
Tụy chia đôi có cấu trúc giải phẫu của ống tụy có thể sẽ có một số thay đôi. Tụy chia đôi
là một thay đổi bẩm sinh thường gặp nhất, xấp xỉ 4-14% dân số dựa trên các xét nghiệm tử thi. 2. Viêm tụy
2.1.Viêm tụy cấp
Là tình trạng viêm đột ngột của tuyến tụy. Đi từ biểu hiện nhẹ nhàng đến nặng nề với đáp ứng viêm hệ
thống, rối loạn chức năng đa cơ quan và có thể gây ra tử vong.
Nguyên nhân: sỏi mật, uống rượu, giun chui đường mật – tụy, chấn thương, sốc, nhiễm trùng (do virus quai bị, coxsackie virus…)
Cận lâm sàng: men amylase tăng cao.
Đại thể: viêm tụy cấp có vùng chảy máu (mũi tên lớn) và vùng hoại tử mỡ (mũi tên nhỏ) lOMoAR cPSD| 39651089
Vi thể: mô tụy hoại tử túi tuyến (bên trái), xuất huyết và hoại tử mỡ (bên phải)
2.2 Viêm tụy mạn
Viêm tụy mạn tính đặc trưng bởi tế bào viêm mạn tính, xơ hóa và sự phá hủy của tụy ngoại tiết.Ở giai đoạn
muộn tụy nội tiết cũng mất. Sự khác biệt chính giữa viêm tụy cấp tính và viêm tụy mạn tính là sự suy giảm
chức năng tuyến tụy không thể hồi phục sau này.
A. Mô đệm tăng sinh xơ, một số nang tuyến và ống dẫn bị teo, mô đệm thâm nhập lympho bào và tương
bào. B. Ống dẫn giãn chứa dịch bắt màu hồng
III. UNG THƯ ĐẦU TỤY
1. U nang thanh dịch tụy
U nang thanh dịch tụy chiếm khoảng 25% trong tổng số các u nang của tụy. U gồm các nang nhỏ, lót lòng
nang là các tế bào hình khối đều nhau, có bào tương giầu glycogen. Lòng nang chứa chất lỏng trong suốt màu vàng rơm. 2. U nang nhầy
Thường gặp ở nữ giới và ở thân hoặc đuôi tụy. Biểu hiện là lâm sàng đau ít và là khối phát triển chậm. lOMoAR cPSD| 39651089
Đại thể: các nang thành dày, lòng chứa dịch nhầy và lót lòng các nang là tế bào biểu mô nhầy hình trụ giống
tế bào u nhầy buồng trứng. Dựa vào 3 đặc điểm: đặc điểm tế bào, cấu trúc tế bào biểu mô lót nang và có
hay không sự xâm nhập mà phân ra độ thấp, độ trung gian hoặc loạn sản. 1/3 các nang có liên quan tới ung
thư biểu mô tuyến xâm nhập.
3. U nhú nhầy nội ống
U nhú nhầy nội ống thường tăng sinh ở ống tụy chính hoặc ống nhánh chính. Vi thể: cấu trúc phức tạp, nhú
chia nhánh mỏng, tế bào hình trụ với hạt nhân nổi rõ, thường gặp loạn sản độ cao. Nếu liên quan tới xâm
nhập thì chuyển thành carcinoma.
4. Carcinoma tuyến tụy ngoại tiết (ung thư biểu mô tuyến ống)
Tỉ lệ tử vong khá cao do thường phát hiện trễ và tiên lượng xấu (sống sau 5 năm là <5%). Khoảng 60% ung
thư tụy xảy ra ở đầu tụy, 15% xảy ra ở thân và 5% gặp ở đuôi tụy.
Đại thể: khối u gây tắc ống tụy. Khối u cứng, màu xám trắng, hình dạng không xác định.
Vi thể: các tuyến dị dạng xâm nhập, xung quanh có phản ứng xơ hóa