lOMoARcPSD| 39651089
Ký sinh trùng 3
Câu 1: Trình bày phân loại khoa học và đặc điểm hình thể của KST sốt rét
- Phân loại khoa học :
sinh trùng sốt rét thuộc giới Alveolata, ngành Apicomplexa, lớp
Aconoidasida, bộ Haemosporida, họ Plasmodiidae, giống Plasmodium.
Giống Plasmodium gồm hơn 200 loài, được tdựa trên tiêu bản lam
máu của các động vật xương sống nhiễm phải, sau đó dựa thêm vào
hình thái và vật chủ → chia thành 14 nhóm phụ.
Hiện nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ghi nhận ít nhất 5 loài
Plasmodium gây bệnh ở người:
o P. Falciparum o P. Vivax o P. Malariae
o P. Ovale
o P. knowlesi (từ linh trưởng lây sang người)
- Đặc điểm hình thể:
KSTSR sinh hồng cầu làm thay đổi tính thấm của màng hồng cầu,
chức năng chuyển hoá của hồng cầu rối loạn do hemoglobin bị phá huỷ, do các
độc tố của KSTSR tạo ra đáp ng miễn dịch của vật chủ tác động lên hồng
cầu. Kết quả chuyển hoá glucose làm cho nồng độ acid lactic trong hồng cầu tăng
lên, phải tăng cường chuyển hoá để điều chỉnh độ pH.
Những hồng cầu nhiễm loài P. vivax và P. ovale bị biến dạng, kích thước
to lên có thể gấp 1,5 - 4 lần hồng cầu bình thường, một đặc điểm nữa là P. vivax
ưa ký sinh những hồng cầu non hay hồng cầu lưới. Đối với P. vivax, trên tiêu
bản nhuộm Giemsa, hồng cầu nhạt màu, xuất hiện nhiều hạt màu đỏ tím (hạt
Schuffner). Những hồng cầu nhiễm P. falciparum P. malariae trên kính hiển
vi thường thấy hình dạng kích thước không thay đổi. Hồng cầu nhiễm P.
falciparum thẫm màu, thể thấy những hạt hoặc vết lốm đốm màu tím, nhiều
khi thể đếm được (hạt Maurer). Hồng cầu nhiễm P. malariae những hạt
nhỏ, mịn (hạt Zieman).
Thể tư dưỡng non ( thể nhẫn) o Hình dạng: hình nhẫn o Không bào: rõ,
là vùng sáng ở giữa vòng o Kích thước: chiếm khoảng 1/6-1/2 hồng cầu
o Một số Plasmodium thể có nhiều thể nhẫn trong một hồng cầu (P.
falciparum).
Thể dưỡng già o Hình dạng: không còn hình nhẫn mà trở nên bất định
o Nhân: to, rõ hơn, thường lệch một bên
o Bào tương: tăng lên, đôi khi hạt sắc tố bắt đầu xuất hiện Thể phân
liệt
o Hình dạng: tròn hoặc bầu dục, chiếm gần hết hồng cầu
o Gồm nhiều nhân
lOMoARcPSD| 39651089
o thể thấy khối sắc tố đen trung m o Số ợng mảnh trùng
khác nhau theo loài:
+ P. falciparum: 824 mảnh trùng
+ P. vivax: khoảng 1424
+ P. malariae: khoảng 6–12
+ P. ovale: khoảng 816
Thể gian bào
o Là giai đoạn hữu tính, có thể phân biệt:
+ Đực: nhân to, sáng, sắc tố phân tán
+ Cái: nhân nhỏ, đậm màu, sắc tố tập trung o
Hình dạng:
+ P. Falciparum: Giao bào hình lưỡi liềm ( quả chuối), rất đặc
trưng
+ Các loài khác: hình tròn hoặc bầu dục, chiếm gần hết HC Câu
2: Trình bày đặc điểm dinh dưỡng của ký sinh trùng sốt rét
Về dinh dưỡng chuyển hóa, trong hồng cầu, KSTSR chiếm chất dinh dưỡng bằng
cách thẩm thấu, m bào hoặc thực bào. Các chất cần thiết cho KSTSR quá trình
chuyển hoá các chất gồm: Chuyển hoá carbohydrate, trong đó glucose rất cần cho sự
sống phát triển của KSTSR, chúng không hoặc ít khả năng dự trữ carbohydrate.
KSTSR sử dụng các men hexokinase, lactat dehydrogenase, glycose phosphatisomerase
để chuyển hoá glucose thành acid lactic. Chuyển hoá lipid, trong hồng cầu, KSTSR
không khả năng tổng hợp acid béo, nhưng thể tạo ra glyceride
phosphoglyceride từ acid béo, nitrogen base alcol. KSTSR chiếm nhiều loại lipid
đặc biệt cholesterol, sphingomyelin, lysolecithin, acid béo ngay màng hồng cầu
trong qtrình trao đổi chất giữa huyết tương hồng cầu. KSTSR hợp nhất 2 acid béo
oleic và cisvaccenic, làm thay đổi tính thẩm màng hồng cầu làm cho màng hồng cầu dễ
bị vỡ. Chuyển hoá protid, khả năng tự tổng hợp các acid amin của KSTSR rất hạn chế,
chỉ tạo ra được các acid aspartic, glutamic, alanin. Nguồn acid amin tự do trong huyết
tương không đủ cung cấp cho KSTSR, vậy, chúng dùng men proteolytic phân hu
hemoglobin (Hb) để lấy các acid amin, khoảng một nửa acid amin những chất còn
lại khác được tổng hợp protein giải phóng các sắc tố haemozoin (có màu nâu sẫm).
Khi hồng cầu bị phá vỡ, những hạt sắc tố vào máu, tới đọng các mô và phủ tạng, dưới
lớp da và niêm mạc m cho da và niêm mạc của bệnh nhân sốt rét bị sạm đen.
Khi sinh hồng cầu, các KSTSR sử dụng một lượng lớn oxy gấp 50 - 70 lần
hồng cầu bình thường. KSTSR hấp chủ yếu bằng sử dụng glucose oxy -
hemoglobin. Khả năng sử dụng oxy của KST sốt rét bị ức chế bởi carbonmonoxit, xyanit
và thuốc chống sốt rét. Đời sống của KST sốt rét trong thể vật chủ hạn định.
không điều trị, những thể vô tính của KST trong hồng cầu sẽ chết sau một thời gian
lOMoARcPSD| 39651089
Tuổi thọ của P. falciparum khoảng từ 6 - 20 tháng; P. vivax tồn tại trong thể
người từ 1,5 - 2 năm, trường hợp 4 m; P. ovale tồn tại trong cơ thể người 2 - 3
năm, trường hợp 4 năm. Loài P. malariae đời sống dài nhất (từ 4 - 5 năm,
trường hợp 10 - 52 năm) và loài P. knowlesi hiện vẫn chưa xác định tuổi thọ của chúng
trong cơ thể người
Câu 3: Trình bày chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét giai đoạn ở muỗi
KSTSR muốn phát triển trong cơ thể muỗi cần có những điều kiện: (1) Muỗi truyền
bệnh thuộc giống Anopheles; (2) Muỗi phải sống đủ lâu để các nang trứng của KSTSR
đủ thời gian phát triển thành thoa trùng; (3) Nhiệt độ ngoài trời thích hợp với từng
loại KSTSR (ví dụ: P. falciparum, P. malariae cần nhiệt độ tối thiểu lớn hơn 160C; P.
vivax cần nhiệt độ tối thiểu lớn hơn 14,50C).
Thời gian KSTSR phát triển trong thể muỗi khoảng 1 - 2 tuần tuỳ loài KSTSR.
Muỗi cái Anopheles spp. đốt bệnh nhân sốt rét hoặc người mang KSTSR không triệu
chứng. Nhiều thể của KSTSR trong máu khả năng bị muỗi hút vào dạ dày muỗi,
nhưng chỉ thể giao bào phát triển trong thể muỗi. Giao bào cái thu gọn nhân
nguyên sinh chất, biến thành giao tử cái; giao bào đực co gọn lại phân chia nhân
thành 4 - 8 nhân con, mỗi nhân chuyển dạng cấu trúc giống hình sợi dài khoảng 20
- 25 µm, nguyên sinh chất tiếp tục được phân chia, bám vào nhân thành roi, những thể
roi này tách khỏi tế bào gốc và di chuyển tự do, được gọi là giao tử đực. Những giao tử
đực bơi trong dạ y muỗi tìm đến giao tử cái, chui vào giao tử cái, tạo thành hợp tử
(ookinete). Hợp tử hình cầu y không di động trong vòng 18 - 24 giờ đầu, sau đó
chuyển dạng kéo dài radi động dưới dạng hình sâu chiều dài 18 - 24 µm được gọi
là noãn di động. Thể này chui qua thành dạ dày muỗi, cuộn tròn lại dưới lớp thanh mạc
thành ngoài dạ y, sau đó chuyển dạng thành hình cầu nhỏ lớp màng chun được gọi
noãn bào, đường kính từ 6 - 8 µm. Noãn bào tăng dần kích thước xuất hiện trên
dạ y như các thể hình cầu, kích thước khoảng 40 - 80 µm có nhiều hạt sắc tố.
Sự phân bố, kích thước và màu sắc các hạt sắc tố là khác nhau cho từng loài
KSTSR
Bào tương của noãn bào phân chia thành nhiều thùy liên kết với nhau, tại đó xuất
hiện các trung tâm mầm với các thể hình kim, nhân phân chia tạo thành các thể hình
thoa có kích thước chiều dài khoảng 10 - 15 µm, có nhân ở trung tâm gọi là thoa trùng.
Số lượng thoa trùng có thể ≥ 1.000, thoa trùng có kích thước từ 10 - 15 × 1,0 µm. Thoa
trùng di động và phá vỡ màng noãn bào, thâm nhập vào xoang cơ thể muỗi. Thoa trùng
đi khắp cơ thể muỗi nhưng đa số tập trung vào tuyến nước bọt.
Thoa trùng có thể tồn tại trong cơ thể muỗi từ 1,5 - 2 tháng. Nếu muỗi có chứa thoa
trùng KSTSR đốt người, thoa trùng sẽ theo nước bọt xâm nhập vào người để tiếp tục
phát triển.
Câu 4: So sánh chu kỳ của P. falciparum và P. vivax giai đoạn ở người
- Giống nhau:
lOMoARcPSD| 39651089
Đường lấy truyền: Do muỗi cái Anopheles hút máu người truyền thoa
trùng
Các thể KSTSR: Đều có các thể tư dương, phân liệt, giao bào
Giai đoạn trong gan ( tiền hồng cầu): Đều có giai đoạn phát triểu đầu tiên
trong gan
Giai đoạn trong hồng cầu: Đều có giai đoạn vô tính trong máu
Chu kỳ hồng cầu: Đều có chu kỳ hồng cầu kéo dài khoảng 48 giờ → y
sốt từng cơn
Sinh giao bào: Đều nh thành giao bào thể được muỗi hút để tiếp
tục chu k - Khác nhau:
Tiêu chí
Plasmodium falciparum
Plasmodium vivax
Thể ngủ trong gan
Không có → không gây tái phát
tồn tại lâu trong gan, y
tái phát sau vài tuần - vài năm
Loại hồng cầu bị
sinh
Mọi loại hồng cầu số lượng
KST rất cao
Chủ yếu sinh hồng cầu non
→ số lượng KST thấp hơn
Mức độ nhiễm
sinh
Rất cao dễ y thiếu máu
nặng, tắc mao mạch
Thường nhẹ hơn, ít gây thiếu
máu nặng
Biến chứng lâm sàng
Dễ gây sốt rét ác tính (hôn mê,
suy thận, suy gan, phù phổi…)
Rất hiếm gây sốt rét ác tính
Hình thái giao bào
Hình lưỡi liềm đặc trưng, xuất
hiện muộn hơn
Hình tròn hoặc bầu dục, xuất
hiện sớm hơn
Hình thái thể nhẫn
trong máu
Nhiều thể nhẫn/hồng cầu, thể
nhẫn mảnh, có thể có 2 nhân
Thể nhẫn to, rõ, thường chỉ một
KSTSR/hồng cầu
Tái phát bệnh
Không tái phát (chỉ tái nhiễm nếu
bị muỗi đốt lại)
thể tái phát nhiều lần do thể
ngủ trong gan
Sốt lâm sàng
Thường sốt liên tục, không theo
chu kỳ rõ ràng
Sốt cách nhật (mỗi 48 giờ), chu
kỳ rõ
Câu 5: So sánh chu kỳ của P. falciparum và P. vivax giai đoạn ở muỗi
- Giống nhau:
Loài muỗi truyền bệnh: Cùng được truyền qua muỗi cái Anopheles
Giao bào từ người và muỗi : Khi muỗi hút máu người có giao bào → giao
bào vào dạ dày muỗi
Thụ tinh trong dạ dày muỗi: Giao bào cái và giao bào đực kết hợp → tạo
hợp tử
Hình thành noãn di động: Hợp tử phát triểu thành noãn di động → xuyên
qua thành dạ dày muỗi
Phát triểu thành noãn bào: Noãn di động thành noãn bào phân chia
nhiều lần
Phóng thích thoa trùng: Noãn bào vỡ → giải phóng thoa trùng, thâm nhập
vào xoang cơ thể muỗi, tập trung chủ yếu ở tuyến nước bọt.
lOMoARcPSD| 39651089
Thời gian hoàn thành chu kỳ: Trung nh 1-2 tuần y nhiệt độ môi trường
Thoa trùng vào người khi muỗi đốt: Khi muỗi nhiễm đốt người → truyền
thoa trùng qua nước bọt - Khác nhau:
Tiêu chí
Plasmodium falciparum
Plasmodium vivax
Tốc độ phát triển trong muỗi
Nhanh hơn, hoàn tất chu kỳ
trong 9-12 ngày
Thường mất 10-14 ngày để
hoàn tất chu k
Khả năng thích nghi với
muỗi
Thích nghi tốt hơn với nhiều
loài Anopheles Châu Phi
Đông Nam Á
Chủ yếu thích nghi với
Anopheles vùng ôn đới
nhiệt đới
Tỷ lệ phát triển thành thoa
trùng
Cao, hiệu quả dễ y lây lan
dịch lớn
Thấp hơn→ ít bùng phát
mạnh như P. falciparum
Yêu cầu về nhiệt độ
Nhiệt độ tối thiểu lớn hơn 16
o
C
Nhiệt độ tối thiểu lớn hơn
14,5
o
C
Tái nhiễm qua muỗi
Không ảnh hưởng bởi thể ngủ
trong muôi ( do không tồn tại
thể ngủ)
Không ảnh hưởng bởi thể
ngủ trong muỗi ( do thể ngủ
nằm ở gan người)
Thời gian tồn tại thoa trùng
trong tuyến nước bọt
Tồn tại lâu, khả năng truyền
bệnh kéo dài.
Ngắn hơn
Câu 6: Phân tích đặc tính nhiễm bệnh của Plasmodium falciparum
P. falciparum loài tính y bệnh nặng cao nhất trong các loài KSTSR, dễ
chuyển thành SRAT tử vong nếu không được chẩn đoán sớm điều trị kịp thời.
Chu kỳ tính của P. falciparum chỉ giai đoạn tiền hồng cầu tại gan không
thể ngủ. Những thể nhẫn non có mặt máu ngoại vi thường nhỏ, kích thước bằng 1/6
đường kính hồng cầu. Trong một số thể nhẫn thể 2 nhân, thường nhiều thể
nhẫn trong một hồng cầu (hiện tượng đa sinh), đây là một đặc điểm để phân biệt loài
KSTSR. Những thể nhẫn lớn dần và chiếm từ 1/4 - 1/2 đường kính hồng cầu, bào tương
xuất hiện các hạt sắc tố, lúc này dễ chẩn đoán nhầm với loài P. Malariae
Khi người bị nhiễm P. falciparum, thời gian ủ bệnh ngắn từ 8 - 16 ngày, trung bình
12 ngày; sau đó, cơn sốt thường kịch phát, khi hai cơn sốt xảy ra liên tiếp, khoảng
cách giữa hai cơn sốt ngắn, thường trong 24 giờ có một cơn sốt nên trên lâm sàng được
gọi là sốt hàng ngày. Trong nhiễm cấp tính, P. falciparum thường có mật độ KSTSR rất
cao, đặc biệt người chưa có miễn dịch. Nếu có mặt của thể dưỡng già hoặc thể phân
liệt trong máu ngoại vi, cần phải điều trị nhanh và tích cực nhằm ngăn ngừa SRAT. Các
thể dưỡng già thường biến mất khỏi tuần hoàn ngoại vi sau 24 giờ lưu lại vi
quản của cơ quan nội tạng như não, tim, thận, lách, ruột,... và tiếp tục phát triển tại đó.
Sự phân bố của KSTSR trong các mô của cơ thể là khác nhau, nên dẫn đến những biểu
hiện m sàng đa dạng của bệnh y. Trong sốt rét do P. falciparum, KST khả
năng m nhập vào tất cả các loại hồng cầu từ non (hồng cầu lưới) đến hồng cầu già.
Các hồng cầu nhiễm KST vẫn giữ nguyên hình dạng và kích thước trong mọi giai đoạn
phát triển, ngay cả thể ỡng muộn xuất hiện các hạt Maurer trong hồng cầu
lOMoARcPSD| 39651089
hoặc thể phân liệt thể lên đến 32 nhân (mảnh trùng) trong 1 hồng cầu. Mặc dù, chu
kỳ vô tính hồng cầu là 48 giờ, nhưng sự phân chia phát triển các thể phân liệt hồng
cầu P. falciparum không xảy ra cùng lúc chúng nhiều dòng, thường 2 - 3 dòng
(clone), nên chu kỳ cơn sốt ở bệnh nhân thường là 24 giờ hoặc ngắn hơn nhưng mật độ
KSTSR tăng cao rất nhanh trong thời gian ngắn và dễ gây SRAT.
Câu 7: Trình y đặc điểm hình thể chung của tiết túc
- Hình thể bên ngoài:
Bao phủ toàn cơ thể tiết túc là một lớp vỏ kytin cứng, nhưng không liên tục mà gián
đoạn theo từng phần của cơ thể. Lớp vỏ kytin có tính chất đàn hồi, do đó tiết túc có thể
lớn lên trong lóp vỏ cứng. Tuy nhiên, do mức độ đàn hồi hạn chế, nên khi phát triển
đến độ trưởng thành nào đó sẽ xảy ra hiện tượng lột xác.
Thể trưởng thành, đa số tiết túc thể chia làm 3 phần: Đầu, ngực bụng (trừ
lớp nhện).
Đầu: Gồm đầy đủ các bộ phận như mắt, pan (xúc biện), ăng ten (râu) bộ
phận miệng. Đối với lớp nhện, phần đầu chỉ mang những bộ phận giúp cho
việc bám và lấy thức ăn của tiết túc nên được gọi là đầu giả
Ngực: Gồm 3 phần là ngực trước, ngực giữa, ngực sau và thường có 3 đốt.
Ngực thường mạng những bộ phận vận động như chân, cánh (nếu có).
Bụng: Bụng chứa c quan nội tạng, thường gồm quan tiêu hóa, bài
tiết, sinh dục,... Bụng gồm nhiều đốt một số đốt cuối cùng trở thành bộ
phận sinh dục ngoài
Ngoài ra, trên thân của tiết túc thể lông vảy. Vảy thể sắp xếp thành từng
đám tạo nên những đường vảy, những đám màu hoặc băng màu.
- Hình thể bên trong:
Giác quan: Giác quan của tiết túc gồm mắt, pan, ăng ten bộ phận Haller:
+ Mắt có thể là mắt đơn hoặc mắt kép. Mắt p cấu tạo bởi nhiều đơn vị mắt.
+ Pan làm nhiệm vụ tìm vật chủ, tìm vị trí hút máu và giữ thăng bằng cho cơ
thể khi đậu.
+ Ăng ten thường làm nhiệm vụ định hướng,...
Cơ quan tiêu hóa: Ống tiêu hóa của tiết túc chia làm 3 phần:
+ Ruột trước: Gồm miệng, hầu, thực quản, diều, tiền phòng.
+ Ruột giữa là dạ dày.
+ Ruột sau: Gồm ruột non, ruột già, trực tràng và hậu môn.
Cơ quan tuần hoàn: Là hệ mạch hở.
Cơ quan thần kinh: Gồm những sợi thần kinh, hạch thần kinh.
quan hấp: Là một hệ thống ống khí quản phân nhánh dạng xoắn như
lò xo (trừ loại thở bằng mang).
Cơ quan bài tiết: Tương đối hoàn chỉnh, có ống bài tiết ra ngoài.
lOMoARcPSD| 39651089
Cơ quan sinh dục: Tiết túc có con đực và con cái riêng biệt với cơ quan sinh
dục đực và cơ quan sinh dục cái khác nhau. Cơ quan sinh dục đực gồm 2 tinh
hoàn, túi tinh, tuyến phụ, ống phóng tinh và cơ quan giao hợp. Cơ quan sinh
dục cái gồm 2 buồng trứng nối ống dẫn trứng đến âm đạo. Con cái thường
túi chứa tinh, sau khi giao hợp với con đực, tinh trùng được chứa trong túi
này để thụ tinh được nhiều lần.
Câu 8: Trình y đặc điểm hình thể, sinh thái, phương thức, truyền bệnh vai trò trong
y học của Trombidiidae
Trombidiidae thuộc lớp nhện, hai lỗ thở ở phía trước thân 4 họ phụ, trong
đó họ phụ Trombiculidae với giống Trombicula thể truyền bệnh cho người với
tên thường gọi là mò.
- Hình thể: Con trưởng thành dài 1 - 2 mm, màu đỏ sáng hoặc đỏ nâu, eo thắt
ngang thân, 8 chân thân mình nhiều lông hơn dạng ấu trùng. Ấu trùng
mò có đặc điểm khác hẳn con trưởng thành. Ấu trùng nhỏ, kích thước khoảng
200 µm, có 6 chân, thân mình có nhiều lông và thường có màu đỏ da cam
- Sinh thái: Chu kỳ của mò gồm 4 giai đoạn: Trứng, ấu trùng, thanh trùng con
trưởng thành. Với điều kiện thích hợp, mò thường sống được khoảng một năm
Sau khi nở từ trứng, ấu trùng lên cỏ hoặc những bụi y thấp, đám
mục, để đợi vật chủ (người hoặc động vật). Ấu trùng thường đốt người vùng
thắt lưng, nách bộ phận sinh dục. Ấu trùng bám chặt vào da của vật chủ để
hút máu, sau đó chúng rơi xuống chui vào đất phát triển thành thanh trùng,
rồi thành con trưởng thành, sống tự do trong đất, cây cỏ. vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới, các bụi tre là nơi mò rất ưa thích.
- Phương thức truyền bệnh: Mò truyền bệnh do đốt vật chủ. Trong một đợt,
thể ăn nhiều lần, trên nhiều vật chủ. Mầm bệnh qua mò có thể truyền lại cho thế
hệ sau của mò.
Những loài mò chủ yếu liên quan đến y học gồm: Trombicula akamushi,
Trombicula pallidum, Trombicula deliensis Trombicula autumnalis
- Vai trò trong y học:
Truyền bệnh: Mò có thể truyền một số bệnh do Rickettsia và virus cho
người nhưng chỉ có một bệnh quan trọng nhất là bệnh sốt mò (sốt phát
ban bụi rậm).
Gây bệnh: Gây tổn thương viêm da, ngứa, loét tại vị trí mò đốt.
Câu 9: Trình bày đặc điểm hình thể, sinh học và dịch tễ học của ghẻ Sarcoptes scabiei
Sarcoptidae thuộc lớp nhện, không có ống thở mà thở qua da. Trong nhiều loài của
Sarcoptidae chỉ có Sarcoptes scabiei gây bệnh ghẻ ở người
- Hình thể: S. scabiei trưởng thành hình bầu dục, màu xám, miệng rất ngắn,
lưng gồ, 8 chân, không có mắt. Hai đôi chân trước nằm hẳn về phía trước của
thân, hai đôi chân sau nằm về phía sau. Tận cùng của một số đôi chân mang
lOMoARcPSD| 39651089
ống hút. Con cái kích thước khoảng 330 µm, các ống hút trên đôi chân thứ
nhất thứ hai. Con đực kích thước nhỏ hơn, khoảng 220 µm, các ống hút
trên đôi chân thứ nhất, thứ hai và thứ tư.
- Đặc điểm sinh học: Toàn bộ đời sống của ghcái trên trong da của
người.
Để dinh dưỡng và đẻ trứng, cái ghẻ đã thụ tinh và đào những đường hầm
ngoằn ngoèo trong mặt da. Mỗi ngày ghẻ cái đào được 1 - 3 mm, sống suốt
đời trong đường hầm, đẻ mỗi ngày 3 - 5 trứng. Sau 3 - 4 ngày, trứng nở thành ấu
trùng. Ấu trùng chui ra khỏi đường hầm để vào một lỗ chân lông sẽ lột xác
vài lần để thành nhộng, rồi thành con trưởng thành. Ấu trùng ghẻ chỉ có 6 chân.
Thời gian phát triển từ trứng đến con trưởng thành ít nhất 2 tuần. Ghẻ
cái có thể sống trên cơ thể người được 1 - 2 tháng, rời khỏi cơ thể vật chủ nó chỉ
sống thêm được vài ngày. Ghẻ đực đời sống ngắn sau khi giao hợp, ghẻ
đực sẽ chết.
Ghẻ cái thường ký sinh ở chỗ da mỏng và nếp gấp như kẽ ngón tay, cạnh
của bàn chân, bàn tay, mặt trước cổ tay, khuỷu tay, nếp gấp gối, đôi khi thấy cả
dương vật vú. Các vùng cổ, lưng mặt thường không thấy cái ghẻ
sinh. Đặc biệt, ở trẻ nhỏ có thể thấy ghẻ ở mặt và các vùng khác.
- Dịch tễ học:
Đường lây: S. scabiei thường được lây truyền từ người sang người do tiếp
xúc trực tiếp, hoặc thể qua đường quần áo. Sự lan truyền thường xảy
ra trong gia đình và tập thể.
Phân bố: Bệnh ghẻ hầu hết mọi nơi trên thế giới, đặc biệt các
nước đang phát triển. Mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp hội đều thể mắc
bệnh, nhưng thường gặp nhiều hơn trẻ em. Dịch ghẻ cũng thường chỉ
xảy ra những nơi môi trường sống chật chội, chen chúc, thiếu vsinh
(trại tị nạn, trại giam, trong chiến tranh, tập thể thiếu vệ sinh,...).
Câu 10: Trình bày đặc điểm sinh thái của chấy rận Anoplura ( chấy rận )
Chấy, rận chỉ thể phát triển được môi trường m, gắn liền với da người chúng
sống bằng hút máu chết trong khoảng vài ngày nếu không được tiếp xúc với thể
người. Khi nhiệt độ của vật chủ tăng (sốt) hay giảm (lúc sắp chết), chấy rận sẽ rời bỏ
vật chủ, đi tìm vật chủ mới.
Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chấy, rận là nghèo n, chiến tranh,
thiên tai và vệ sinh thân thể kém.
- Chấy: Chấy là loài phổ biến nhất ở người, nó chỉ sống ở tóc và thường thấy trẻ
em. Con cái sau khi giao hợp 1 - 2 ngày sẽ đẻ trứng, mỗi ngày đẻ 6 - 8 trứng,
suốt đời sống có thể đẻ 200 - 300 trứng. Trứng dính chặt vào gốc tóc,
đặc biệt ở sau đầu và sau tai. Sau khoảng 6 - 7 ngày trứng nở thành ấu trùng,
ấu trùng lột xác ba lần trong khoảng 8 - 12 ngày và thành con trưởng thành. Con
lOMoARcPSD| 39651089
trưởng thành sống được khoảng 30 - 40 ngày. Tất cả các giai đoạn, chấy đực
chấy cái đều hút máu
Chấy lây truyền qua con đường tiếp c gần gũi giữa người với người như
ngủ chung giường. Chấy còn có thể lây lan bằng cách dùng chung lược mà trong
lược có tóc mang trứng hoặc chấy bám vào.
Rận: Rận sinh sản nhanh nhiều hơn chấy, thường sống m vào quần
áo, đặc biệt là những chỗ tiếp xúc trực tiếp với cơ thể như trong quần áo lót, cạp
quần, nách, vòng thắt lưng, cổ vai. Trứng rận thường dính vào c nếp quần
áo.
Rận y truyền qua con đường tiếp xúc gần gũi giữa người với người,
vậy thường gặp ở những nơi ở quá chật chội, đông đúc lại thiếu vệ sinh như các
trại tị nạn, nhà tù, nhà trọ, nhà trẻ, mẫu giáo, lớp học kém vệ sinh hoặc các
chiến hào trong chiến tranh. Rận còn thể lây truyền bằng sự tiếp xúc trực tiếp
giữa những hành khách trên những phương tiện giao thông, chợ búa.
Việc dùng chung chăn màn, quần áo, hoặc ngồi vào những ghế đệm
rận cũng có thể bị nhiễm.
- Rận bẹn: Rận bẹn màu m trắng qtrình phát triển giống với chấy
rận nói chung. Tuổi thọ của rận bẹn nói chung không quá một tháng. Phần lớn
rận bẹn sống ở lông của vùng mu và đẻ trứng vào gốc của lông mu. Cũng có thể
thấy ở các vùng lông khác của cơ thể như lông ngực, lông nách, có khi cả ở trên
lông mày và râu.
Rận bẹn y truyền chủ yếu qua đường tình dục, hiếm khi qua giường
chiếu hay những vật dụng khác
Câu 11: Trình bày chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét ở giai đoạn người
- Giai đoạn ở gan:
Khi muỗi đốt người, thoa trùng xâm nhập vào hệ tuần hoàn, lưu hành
trong khoảng 30 phút, phần lớn thoa trùng bị thực bào, số còn lại thì một phần
lọt được vào tế bào nhu mô gan. Trong tế bào gan, thoa trùng cuộn tròn lại, bào
tương nhân lớn lên rồi sinh sản theo hình thức sinh sản tính. Sau 40 - 48
giờ xuất hiện những KST nhỏ đường kính khoảng 3 µm, 1 nhân nhỏ1
diềm bào tương, sau đó hình thành nhiều KST gọi là thể phân liệt gan (mô).
Giai đoạn này kéo dài khoảng từ 6 - 16 ngày tuỳ thuộc loài KSTSR.
Những thể phân liệt gan kích thước 30 - 70 µm đẩy nhân tế bào gan về
một phía m tế bào gan to ra. Sau khoảng 6 - 16 ngày tính từ khi nhiễm, vỏ
bọc tế bào chứa thể phân liệt vỡ ra, giải phóng hàng ngàn mảnh phân liệt gan ra
xung quanh rồi tung vào máu. Không phản ứng viêm xuất hiện các tế
bào gan y xung quanh. Phần lớn thể phân liệt này m chiếm hồng cầu có mặt
trong các xoang của gan, một số khác bị thực bào.
P. vivax và P. ovale gây sốt rét tái phát vì chúng có những loại thoa trùng
khác nhau về cấu trúc của gen: (1) Loại thoa trùng phát triển nhanh: Phát triển
lOMoARcPSD| 39651089
ngay sau khi xâm nhập vào tế bào gan nên thời gian bệnh ngắn; (2) Loại
thoa trùng phát triển chậm: Sau khi m nhập vào tế bào gan, chủng y không
phát triển ngay hoặc phát triển chậm, sau nhiều tháng hoặc nhiều năm mới tạo ra
được các phân liệt tế bào gan, nên còn được gọi thể ngủ. Thể ngủ nằm yên
trong tế bào gan dưới dạng đơn nhân, đường kính 4 - 5 µm trong thời gian dài,
đến một thời điểm nhất định thì những thể ngủ này phát triển trải qua giai
đoạn phân liệt ngoại hồng cầu gây nên cơn sốt rét tái phát trên m sàng. Th
phát triển chậm không thuần nhất, mà gồm nhiều kiểu hình nên có những độ dài
khác nhau của giai đoạn ngủ.
P. falciparum, P. knowlesi P. malariae cũng những loại thoa trùng
có cấu trúc gen khác nhau, nhưng thời kỳ tiềm tàng không dài, thoa trùng không
tạo thành thể ngủ phát triển trực tiếp thành các thể phân liệt gan. Trong một
số trường hợp hạn hữu, khi nhiễm P. malariae do chu kỳ phát triển tính của
KSTSR tiềm tàng trong hồng cầu được hoạt hoá cũng y nên hiện tượng tái
phát.
- Giai đoạn trong hồng cầu:
Sự xâm nhập vào hồng cầu của những thể phân liệt chỉ xảy ra khi trên bề
mặt hồng cầu có những thụ thể tương ứng. Quá trình này gồm 5 giai đoạn:
(1) Nhận diện bám dính, hình thành điểm tiếp giáp, (2) Tạo nên màng không
bào liên tiếp màng hồng cầu, (3) Xâm nhập vào không bào qua điểm tiếp nối
chuyển động và (4) Hồng cầu hàn kín sau khi thể phân liệt lọt vào để phát triển
thành tư dưỡng.
Những thể tư dưỡng trẻ rất nhỏ và tròn, có không bào, bào tương và nhân,
thường được gọi là thể nhẫn. Khi KSTSR lớn lên hình dạng không đều, có nhiều
ribosom sắc tố, dần xuất hiện thêm lưới nội ơng các túi phình tạo ra từ
màng không bào. Thể dưỡng trưởng thành tiếp tục quá trình phân chia vô tính
trong hồng cầu, nhân phân chia thành nhiều nhân con, phân chia bào tương để
tạo thành những thể phân liệt. Khi thể phân liệt trong hồng cầu vỡ ra, giải phóng
các mảnh trùng, các mảnh trùng xâm nhập các hồng cầu khác và tiếp tục chu k
trong hồng cầu. Quá trình y cứ lặp đi lặp lại trong suốt quá trình nhiễm bệnh
dẫn đến sự ng cao của KSTSR trong máu cho đến khi đáp ứng miễn dịch
của vật chủ hoặc bị thuốc sốt rét tấn công
Chu ktrong hồng cầu kéo dài 48 giờ đối với P. vivax P. falciparum;
72 giờ đối với P. malariae 50 giờ đối với P. ovale; 24 givới P. knowlesi.
Một số mảnh trùng phát triển thành thể hữu tính (giao bào đực và giao bào cái),
khi xâm nhập vào hồng cầu mới, các thể này phát triển nhưng nhân không phân
chia, nằm trong hồng cầu cho đến khi được muỗi cái Anopheles hút vào dạ y
thì sẽ tiếp tục phát triển trong muỗi
Câu 12: Trình bày nguyên tắc và các biện pháp phòng chống sốt rét
- Nguyên tắc:
lOMoARcPSD| 39651089
Hoạt động PCSR gồm nhiều khâu song hành với nhau:
Giám sát sốt rét, tăng cường phát hiện, chẩn đoán quản các trường
hợp mắc bệnh
Thực hành chẩn đoán và điều trị đúng với Hướng dẫn của WHO và Bộ
Y tế.
Phòng chống muỗi truyền bệnh cho cả cộng đồng và cá nhân. - Đảm bảo
chất lượng các dịch vụ y tế trong PCSR.
Xử các vụ dịch sốt rét truyền thông giáo dục sức khỏe truyn
thông nguy cơ thay đổi hành vi trong PCSR.
- Các biện pháp phòng chống sốt rét
Các biện pháp bảo vệ nhân o Biện pháp vật lý: Nằm màn, lưới chắn
muỗi, bẫy vợt, mặc quần áo dài,... tránh muỗi đốt.
o Biện pháp sinh học: Nuôi cá ăn bọ gậy, chế phẩm sinh học diệt bọ
gậy,...
o Các biện pháp hoá học: Phun hchất, tẩm màn hoá chất (màn tẩm
hoá chất tồn lưu lâu), tẩm rèm, chăn,... kem muỗi, hương muỗi,...
Các chỉ định sử dụng thuốc điều trị bệnh sốt rét o Điều trị người bệnh
sốt rét: Bao gồm người bệnh được xác định mắc sốt rét và các trường hợp
nghi sốt rét có biểu hiện đe đọa
SRAT.
o Điều trị mở rộng: Chỉ áp dụng các vùng đang dịch. Trung
tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh quyết định chọn đối tượng phạm
vi điều trị mở rộng
o Cấp thuốc tự điều trị: Chủ trương hiện nay hạn chế cấp thuốc
tự điều trị tiến tới không cấp thuốc cho các vùng không nguy
nữa. Cấp thuốc tự điều trị trong các trường hợp sau: + Cấp
thuốc tự điều trị chỉ áp dụng cho những huyện thuộc vùng sốt rét
lưu hành tại miền Trung - y Nguyên, Đông Nam Bộ không
có bằng chứng về sốt rét kháng thuốc.
+ Người từ vùng không có sốt rét vào vùng sốt rét lưu hành trên 1
tuần.
+ Người sống trong vùng sốt rét lưu hành có ngủ rừng, ngủ rẫy
hoặc qua lại vùng biên giới.
+ Cán bộ y tế từ tuyến trở lên mới được cấp thuốc tự điều trị,
hướng dẫn cho họ biết cách sử dụng thuốc theo dõi sau khi trở
về.
+ Thuốc được cấp để tự điều trị dihydroartemisinin-piperaquin
phosphate
Phòng chống vector
lOMoARcPSD| 39651089
Thực hiện ngủ màn thường xuyên, phát màn tẩm hoá chất tồn lưu
dài, tẩm màn 1 - 2 lần/năm ở thời điểm trước mùa truyền bệnh cho tất cả
các hộ gia đình trong vùng SRLH
Đảm bảo phun tồn lưu hoá chất diệt muỗi cho tất cả các hộ gia đình
(bao gồm phun trong nhà, nhà rẫy) vùng SRLH nặng 1 lần/năm, thời
điểm trước mùa truyền bệnh, vùng SRLH tỷ lệ ngủ màn của người
dân dưới 80%. Trường hợp tình hình sốt rét diễn biến phức tạp thể
phun bổ sung theo hướng dẫn xử lý ổ bệnh. Quy trình kỹ thuật phun hoá
chất tẩm màn theo hướng dẫn của Viện Sốt rét - sinh trùng - Côn
trùng Trung ương.
Đối với một số nhóm dân di biến động, đi rừng, ngủ rẫy cần khuyến
cáo sử dụng màn, võng màn tẩm hoá chất diệt muỗi, hương xua, kem xua
đối với người đi rừng, ngủ rẫy; mũ trùm tẩm hoá chất đối với người làm
cao su.
Vệ sinh môi trường, sử dụng vợt điện diệt côn trùng, bình xịt diệt
muỗi, bẫy đèn và các biện pháp dân gian để xua và diệt muỗi.
Đánh giá loại trừ bệnh sốt rét o Đạt loại trừ sốt rét: Đạt tiêu chí và
đạt 100% các điều kiện đảm bảo.
o Không đạt loại trừ sốt rét: Không đạt tiêu chí hoặc không đạt 1
trong các điều kiện đảm bảo.
Đánh giá đạt loại trừ bệnh sốt rét o Huyện/quận đạt LTSR: Khi 100%
số xã/phường đạt tiêu chí. o Tnh đạt LTSR: Khi 100% số
huyện/quận đạt tiêu chí.
Câu 13: Phân tích sự liên quan giữa sinh thái của tiết túc đến dịch thọc những bệnh
do tiết túc truyền
- Đặc điểm về loại tiết túc:
Bệnh do tiết túc truyền chỉ thể phát sinh nếu mặt tiết túc truyền
bệnh. Những bệnh do tiết túc truyền nếu phát sinh không mặt tiết túc
truyền bệnh, sẽ chcoi như một bệnh nhiễm từ nơi khác tới. Những vùng sốt
rét u nh những vùng có nhiều muỗi khả năng truyền sốt rét. Những
vùng đã thanh toán được bệnh sốt rét những vùng khống chế tốt muỗi truyền
sốt rét bằng các biện pháp diệt muỗi trong nhiều năm liên tục, ng với điều trị
diệt ký sinh trùng sốt rét.
- Đặc điểm về mật độ tiết túc
Sự mặt của mt loại tiết túc có khả năng truyền bệnh không quyết định
được khả năng gây dịch nếu mật độ không đảm bảo mức cần thiết để truyền bệnh.
Người ta thấy rằng, tuy thường xuyên vẫn có bọ chét Xenopsylla cheopis chuột
nhưng không phải dễ dàng phát sinh bệnh dịch hạch, vì hoặc số chuột hoặc số bọ
chét quá ít nên người khó bị tấn công bởi bọ chét.
lOMoARcPSD| 39651089
Mật độ tiết túc càng cao, khả năng nguy cơ nhiễm bệnh càng nhiều. Mật
độ tiết túc thay đổi theo mùa sinh thái, hoạt động của tiết túc phụ thuộc vào
khí hậu
- Đặc điểm về khuếch tán của tiết túc
Tính chất phân bố của vùng dịch bệnh phụ thuộc vào yếu tố khuếch tán
của tiết túc. Nếu tiết túc khuếch tán rộng thì bệnh sẽ lan rộng. Tiết túc thể
khuếch tán bằng cách chủ động (tự vận động hay di chuyển), hoặc khuếch tán
bằng cách thụ động dựa vào những yếu tố thiên nhiên (gió, lũ, nước chảy,...),
hoặc những phương tiện giao thông.
Đối với những tiết túc sống sinh lâu dài trên vật chủ như chấy, rận,
ghẻ,... thì điều kiện khuếch tán của tiết túc khó quyết định tính chất phân bố của
bệnh và dịch nếu không khống chế được sự giao lưu của con người.
- Đặc điểm ăn của tiết túc
Đặc điểm ăn của tiết túc bao gồm chất thức ăn, phương thức ăn, sinh thái
sau khi ăn,... đều có liên quan rệt đến dịch thọc những bệnh do tiết túc truyền
Tiết túc hút máu, nếu chỉ hút máu người thì bệnh chỉ thể lan truyền
giữa người với người. Nếu tiết túc hút cả máu người và máu súc vật thì bệnh có
thể từ súc vật sang người, hoặc ngược lại.
Do phương thức ăn, khnăng truyền bệnh của tiết túc cũng thay đổi. Ruồi
khi ăn có bài tiết, cọ sát chân cánh nên dễ gieo rắc nhiều mầm bệnh. Các loại ve,
khi hút máu ham đốt và bám chặt trên vật chủ nên cũng dễ truyền bệnh.
Sau khi hút máu no, muỗi thường đậu nghỉ, nên dễ tiếp xúc với hóa chất
diệt chúng nếu những hóa chất này được phun trên các mặt tường, vách của nhà
ở. Thời gian tiêu máu của tiết túc dài hay ngắn tùy theo loại tiết túc chủ.
Những loài tiết túc tiêu máu nhanh thường nguy hiểm vì luôn phải tìm mồi mới.
- Đặc điểm tuổi thọ của tiết túc
Tuổi thọ của tiết túc khác nhau tùy theo loài và có liên quan mật thiết đến
dịch tễ học các bệnh do tiết túc truyền. Những tiết túc tuổi thọ dài thường
nguy hiểm, vì sẽ tạo được nhiều thế hệ sẽ đủ thời gian để ký sinh trùng hoàn
thành giai đoạn chu kỳ trong tiết túc.
Căn cứ vào tuổi thọ của tiết túc, có thể xác định được tuổi nguy hiểm tùy
theo từng loài. Tiết túc đạt tuổi nguy hiểm khi đã sống đủ thời gian để mầm bệnh
phát triển tới giai đoạn có thể gây bệnh cho người.
Câu 14: Trình bày đặc điểm hình thể, sinh thái và vai trò trong y học của bọ chét
Siphonaptera
- Đặc điểm hình thể
Bọ chét trưởng thành có màu vàng hoặc hơi hung, phần đầu dính liền với
phần ngực. Đầu mắt đơn, ăng ten. Phần dưới đầu của một số giống lược
gồm những lông nhọn cứng xếp thành hình lược. Ngực gồm ba đốt, mỗi đốt
mang một đôi chân. Đôi chân thứ ba rất phát triển, khỏe và dài dùng để nhảy.
lOMoARcPSD| 39651089
Trên đốt ngực 1 mặt lưng đôi khi có mang lược. Bụng gồm có 10 đốt, đốt thứ 8,
9 dính với nhau mang bộ phận sinh dục với rãnh sinh dục con đực túi
chứa tinh con cái. Đốt thứ 10 chứa hậu môn. Trứng hình bầu dục hoặc tròn,
màu vàng nhạt. Ấu trùng hình sâu bướm, nhỏ và dài. Nhộng nằm trong kén.
- Sinh thái:
Chu kỳ của bọ chét gồm 4 giai đoạn: Trứng, ấu trùng, nhộng con trưởng
thành. Cả con đực con cái đều hút máu. Sau khi giao hợp, con cái đẻ trứng
trong đất cát, các kẽ nứt ở sàn, tường hoặc trên lông của vật chủ. Sau khoảng 2 -
10 ngày, trứng nthành ấu trùng. Sau khoảng 8 - 10 ngày, ấu trùng chuyển thành
nhộng. Sau khoảng một tuần dài nhất một năm, nhộng trở thành bọ chét
trưởng thành. Quá trình phát triển của bọ chét cần độ ẩm cao.
Bọ chét tránh ánh sáng hầu hết dễ thấy trong các đám lông hoặc lông
của động vật, hoặc giường ngủ, quần áo của người. Bọ chét khả năng
nhảy rất xa, đường kính phát tán chủ động khoảng 300 m. Chúng thường phát
triển nhiều từ tháng 10 đến tháng 4 thời gian độ ẩm thích hợp. Khả năng
sinh tồn của bọ chét rất cao, chúng có thể dự trữ thức ăn bằng cách tiêu hóa máu
chậm lại để sống được khoảng vài tháng. Nếu vật chủ bị chết, bọ chét sẽ nhanh
chóng đi tìm vật chủ khác
Tuổi thọ của bọ chét trưởng thành thay đổi tùy theo loài, yếu tố khậu
yếu tố sinh, nhưng trung bình 10 tháng. Bọ chét thường sinh chó,
mèo, chuột và sang người - Vai trò y học:
Truyền bệnh dịch hạch: Bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis
độc lực cao gây ra. Đầu tiên, dịch hạch xảy ra ở các loài động vật hoang dại như
chuột và một số loài gặm nhấm khác. Khi động vật gặm nhấm bị chết do nhiễm
vi khuẩn dịch hạch, bọ chét sẽ rời vật chủ, sau đó thể tấn công và truyền bệnh
cho người. Vai trò chủ yếu trong việc truyền bệnh dịch hạch bọ chét
Xenopsylla cheopis từ chuột sang người. (Xenopsylla cheopis sinh chuột
Rattus rattus). Sau đó bệnh có thể truyền nối tiếp từ người sang người bởi bọ chét
Pulex irritans
Dịch hạch bệnh có ổ dịch thiên nhiên nên cho đến nay vẫn còn rất nguy
hiểm vì nó xảy ra rộng rãi ở các quần thể gặm nhấm.
Truyền bệnh sốt phát ban: Bệnh sốt phát ban do bọ chét truyền gây ra bởi
Rickettsia mooseri (R. typhi) và xảy ra rải rác ở các đàn chuột (còn gọi là
sốt phát ban chuột), qua trung gian truyền bệnh chủ yếu X. cheopis.
Người bị y nhiễm từ phân khô và xác bọ chét do môi trường bị ô nhiễm.
Truyền c bệnh sán: Bọ chét Ctenocephalus canis Pulex irritans
thể truyền các loại sán Dipylidium caninum, Hymenolepis fraterna
Hymenolepis diminuta của chuột. Người nhiễm các loại n y do
nuốt phải bọ chét có chứa ấu trùng sán.
Bọ chét gây viêm loét áp xe da: Bệnh do bọ chét cái Tunga penetrans
sau khi thụ tinh, sống gắn chặt vào trong da, thường là da chân, gây kích
lOMoARcPSD| 39651089
thích, viêm loét áp xe. Bệnh thường gặp xứ nóng như châu Mỹ, châu
Phi và cả Ấn Độ, Trung Quốc.
Câu 15: Trình bày đặc điểm sinh thái của muỗi Culicidae
- Chu kỳ: Chu kỳ của muỗi trải qua 04 giai đoạn: Trứng, ấu trùng (bọ gậy), thanh
trùng (quăng) và con trưởng thành.
Muỗi cái thường chỉ giao phối một lần nhưng đẻ trứng suốt đời theo từng đợt.
Sau 2 - 3 ngày trong điều kiện thích hợp, trứng sẽ nở thành ấu trùng (bọ gậy). Bọ
gậy sống trong các môi trường nước khác nhau y theo loài. Bọ gậy của muỗi
Toxorhynchites do kích thước rất lớn nên thể ăn bọ gậy của những loài
muỗi khác có kích thước nhỏ hơn.
Bọ gậy Anophelinae nằm song song với mặt nước.
Bọ gậy Culicinae nằm nghiêng so với mặt nước.
Đặc biệt, bọ gậy của muỗi Mansonia thường cắm ống thở vào thực vật thủy
sinh (rễ bèo). Ở điều kiện thuận lợi, khoảng 8 - 12 ngày bọ gậy trở thành quăng.
Thời gian từ quăng trở thành muỗi trưởng thành rất nhanh, chỉ khoảng một ngày.
- Sinh thái: Muỗi sống phổ biến khắp mọi i, nhưng nhiều nhất vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Muỗi có thể có quanh m, nhưng có những mùa phát
triển nhiều. Những vùng, những mùa có khí hậu nóng, ẩm thuận lợi cho sự phát
triển của muỗi sự phát sinh bệnh. Dựa vào mối quan hệ đối với người, muỗi
được chia làm 3 nhóm:
Nhóm muỗi thuần dưỡng: Thích sống gần người, đại đa số thời gian sống
ở trong nhà.
Nhóm muỗi bán thuần dưỡng: Thường sống bên ngoài nhà, nhưng vào
trong nhà để hút máu người.
Nhóm muỗi hoang dại: Chỉ sống ngoài nhà. Những loài muỗi ưa vào nhà
thường hút máu người và gia súc, những muỗi ưa ngoài nhà thì thể hút
nhiều loại máu khác nhau.
Chỉ muỗi cái mới hút máu, còn muỗi đực hút dịch thực vật. Tập tính lựa
chọn loại máu có liên quan đến dịch tễ học những bệnh do muỗi truyền. Những
muỗi ưa hút máu người thì vai trò rất quan trọng trong việc truyền bệnh từ
người này sang người khác. Những muỗi không ưa hút máu người thì ít quan
trọng trong việc truyền bệnh từ người này sang người khác nhưng lại khả năng
truyền những bệnh của súc vật sang người và ngược lại
Phạm vi hoạt động của muỗi phụ thuộc vào khả năng bay xa của nó khác
nhau y theo loài. Nói chung, muỗi chỉ khuếch tán trong phạm vi 1 - 3 km. Muỗi
hoạt động theo những giờ cao điểm khác nhau đtìm mồi hoặc m đực, cái.
Ngoài giờ hoạt động, muỗi đậu nghỉ những nơi điều kiện vi khậu, ánh
sáng thích hợp với từng loài muỗi
Khi gặp điều kiện khí hậu không thích hợp, nhất gặp nhiệt độ lạnh, muỗi
có thể vượt đông. Khi khí hậu chuyển sang m, muỗi hoạt động trở lại. Muỗi có
lOMoARcPSD| 39651089
thể sống được nhiều tháng với nhiệt độ rất lạnh. Có những loài muỗi sống được
dài ngày nhiệt độ 400C. Khi gặp điều kiện khô, muỗi cũng hình thức vượt
khô, tìm đến những nơi đẩm cao hơn đậu nghỉ, chkhi mưa, đủ độ
ẩm cần thiết mới hoạt động trở lại.
Tuổi thọ của muỗi phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, mồi ăn và loài muỗi. Nói
chung, muỗi thể sống được 8 - 9 tháng với những điều kiện thuận lợi về vi khí
hậu và thức ăn.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 39651089 Ký sinh trùng 3
Câu 1: Trình bày phân loại khoa học và đặc điểm hình thể của KST sốt rét - Phân loại khoa học :
• Ký sinh trùng sốt rét thuộc giới Alveolata, ngành Apicomplexa, lớp
Aconoidasida, bộ Haemosporida, họ Plasmodiidae, giống Plasmodium.
• Giống Plasmodium gồm hơn 200 loài, được mô tả dựa trên tiêu bản lam
máu của các động vật có xương sống nhiễm phải, sau đó dựa thêm vào
hình thái và vật chủ → chia thành 14 nhóm phụ.
• Hiện nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ghi nhận có ít nhất 5 loài
Plasmodium gây bệnh ở người:
o P. Falciparum o P. Vivax o P. Malariae o P. Ovale
o P. knowlesi (từ linh trưởng lây sang người) - Đặc điểm hình thể:
KSTSR ký sinh ở hồng cầu làm thay đổi tính thấm của màng hồng cầu,
chức năng chuyển hoá của hồng cầu rối loạn do hemoglobin bị phá huỷ, do các
độc tố của KSTSR tạo ra và đáp ứng miễn dịch của vật chủ tác động lên hồng
cầu. Kết quả chuyển hoá glucose làm cho nồng độ acid lactic trong hồng cầu tăng
lên, phải tăng cường chuyển hoá để điều chỉnh độ pH.
Những hồng cầu nhiễm loài P. vivax và P. ovale bị biến dạng, kích thước
to lên có thể gấp 1,5 - 4 lần hồng cầu bình thường, một đặc điểm nữa là P. vivax
ưa ký sinh ở những hồng cầu non hay hồng cầu lưới. Đối với P. vivax, trên tiêu
bản nhuộm Giemsa, hồng cầu nhạt màu, xuất hiện nhiều hạt màu đỏ tím (hạt
Schuffner). Những hồng cầu nhiễm P. falciparum và P. malariae trên kính hiển
vi thường thấy hình dạng kích thước không thay đổi. Hồng cầu nhiễm P.
falciparum thẫm màu, có thể thấy những hạt hoặc vết lốm đốm màu tím, nhiều
khi có thể đếm được (hạt Maurer). Hồng cầu nhiễm P. malariae có những hạt nhỏ, mịn (hạt Zieman).
• Thể tư dưỡng non ( thể nhẫn) o Hình dạng: hình nhẫn o Không bào: rõ,
là vùng sáng ở giữa vòng o Kích thước: chiếm khoảng 1/6-1/2 hồng cầu
o Một số Plasmodium có thể có nhiều thể nhẫn trong một hồng cầu (P. falciparum).
• Thể tư dưỡng già o Hình dạng: không còn hình nhẫn mà trở nên bất định
o Nhân: to, rõ hơn, thường lệch một bên
o Bào tương: tăng lên, đôi khi hạt sắc tố bắt đầu xuất hiện Thể phân liệt
o Hình dạng: tròn hoặc bầu dục, chiếm gần hết hồng cầu o Gồm nhiều nhân lOMoAR cPSD| 39651089
o Có thể thấy khối sắc tố đen ở trung tâm o Số lượng mảnh trùng khác nhau theo loài:
+ P. falciparum: 8–24 mảnh trùng + P. vivax: khoảng 14–24
+ P. malariae: khoảng 6–12 + P. ovale: khoảng 8–16 • Thể gian bào
o Là giai đoạn hữu tính, có thể phân biệt:
+ Đực: nhân to, sáng, sắc tố phân tán
+ Cái: nhân nhỏ, đậm màu, sắc tố tập trung o Hình dạng:
+ P. Falciparum: Giao bào hình lưỡi liềm ( quả chuối), rất đặc trưng
+ Các loài khác: hình tròn hoặc bầu dục, chiếm gần hết HC Câu
2: Trình bày đặc điểm dinh dưỡng của ký sinh trùng sốt rét
Về dinh dưỡng và chuyển hóa, trong hồng cầu, KSTSR chiếm chất dinh dưỡng bằng
cách thẩm thấu, ẩm bào hoặc thực bào. Các chất cần thiết cho KSTSR và quá trình
chuyển hoá các chất gồm: Chuyển hoá carbohydrate, trong đó glucose rất cần cho sự
sống và phát triển của KSTSR, chúng không có hoặc ít có khả năng dự trữ carbohydrate.
KSTSR sử dụng các men hexokinase, lactat dehydrogenase, glycose phosphatisomerase
để chuyển hoá glucose thành acid lactic. Chuyển hoá lipid, trong hồng cầu, KSTSR
không có khả năng tổng hợp acid béo, nhưng có thể tạo ra glyceride và
phosphoglyceride từ acid béo, nitrogen base và alcol. KSTSR chiếm nhiều loại lipid
đặc biệt là cholesterol, sphingomyelin, lysolecithin, acid béo ngay ở màng hồng cầu
trong quá trình trao đổi chất giữa huyết tương và hồng cầu. KSTSR hợp nhất 2 acid béo
oleic và cisvaccenic, làm thay đổi tính thẩm màng hồng cầu làm cho màng hồng cầu dễ
bị vỡ. Chuyển hoá protid, khả năng tự tổng hợp các acid amin của KSTSR rất hạn chế,
chỉ tạo ra được các acid aspartic, glutamic, alanin. Nguồn acid amin tự do trong huyết
tương không đủ cung cấp cho KSTSR, vì vậy, chúng dùng men proteolytic phân huỷ
hemoglobin (Hb) để lấy các acid amin, khoảng một nửa acid amin và những chất còn
lại khác được tổng hợp protein và giải phóng các sắc tố haemozoin (có màu nâu sẫm).
Khi hồng cầu bị phá vỡ, những hạt sắc tố vào máu, tới đọng ở các mô và phủ tạng, dưới
lớp da và niêm mạc làm cho da và niêm mạc của bệnh nhân sốt rét bị sạm đen.
Khi ký sinh ở hồng cầu, các KSTSR sử dụng một lượng lớn oxy gấp 50 - 70 lần
hồng cầu bình thường. KSTSR hô hấp chủ yếu bằng sử dụng glucose và oxy -
hemoglobin. Khả năng sử dụng oxy của KST sốt rét bị ức chế bởi carbonmonoxit, xyanit
và thuốc chống sốt rét. Đời sống của KST sốt rét trong cơ thể vật chủ có hạn định. Dù
không điều trị, những thể vô tính của KST trong hồng cầu sẽ chết sau một thời gian lOMoAR cPSD| 39651089
Tuổi thọ của P. falciparum khoảng từ 6 - 20 tháng; P. vivax tồn tại trong cơ thể
người từ 1,5 - 2 năm, có trường hợp 4 năm; P. ovale tồn tại trong cơ thể người 2 - 3
năm, có trường hợp 4 năm. Loài P. malariae có đời sống dài nhất (từ 4 - 5 năm, có
trường hợp 10 - 52 năm) và loài P. knowlesi hiện vẫn chưa xác định tuổi thọ của chúng trong cơ thể người
Câu 3: Trình bày chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét giai đoạn ở muỗi
KSTSR muốn phát triển trong cơ thể muỗi cần có những điều kiện: (1) Muỗi truyền
bệnh thuộc giống Anopheles; (2) Muỗi phải sống đủ lâu để các nang trứng của KSTSR
có đủ thời gian phát triển thành thoa trùng; (3) Nhiệt độ ngoài trời thích hợp với từng
loại KSTSR (ví dụ: P. falciparum, P. malariae cần nhiệt độ tối thiểu lớn hơn 160C; P.
vivax cần nhiệt độ tối thiểu lớn hơn 14,50C).
Thời gian KSTSR phát triển trong cơ thể muỗi khoảng 1 - 2 tuần tuỳ loài KSTSR.
Muỗi cái Anopheles spp. đốt bệnh nhân sốt rét hoặc người mang KSTSR không triệu
chứng. Nhiều thể của KSTSR trong máu có khả năng bị muỗi hút vào dạ dày muỗi,
nhưng chỉ có thể giao bào phát triển trong cơ thể muỗi. Giao bào cái thu gọn nhân và
nguyên sinh chất, biến thành giao tử cái; giao bào đực co gọn lại và phân chia nhân
thành 4 - 8 nhân con, mỗi nhân chuyển dạng có cấu trúc giống hình sợi dài khoảng 20
- 25 µm, nguyên sinh chất tiếp tục được phân chia, bám vào nhân thành roi, những thể
roi này tách khỏi tế bào gốc và di chuyển tự do, được gọi là giao tử đực. Những giao tử
đực bơi trong dạ dày muỗi tìm đến giao tử cái, chui vào giao tử cái, tạo thành hợp tử
(ookinete). Hợp tử hình cầu này không di động trong vòng 18 - 24 giờ đầu, sau đó
chuyển dạng kéo dài ra và di động dưới dạng hình sâu có chiều dài 18 - 24 µm được gọi
là noãn di động. Thể này chui qua thành dạ dày muỗi, cuộn tròn lại dưới lớp thanh mạc
thành ngoài dạ dày, sau đó chuyển dạng thành hình cầu nhỏ có lớp màng chun được gọi
là noãn bào, đường kính từ 6 - 8 µm. Noãn bào tăng dần kích thước và xuất hiện trên
dạ dày như các thể hình cầu, có kích thước khoảng 40 - 80 µm và có nhiều hạt sắc tố.
Sự phân bố, kích thước và màu sắc các hạt sắc tố là khác nhau cho từng loài KSTSR
Bào tương của noãn bào phân chia thành nhiều thùy liên kết với nhau, tại đó xuất
hiện các trung tâm mầm với các thể hình kim, nhân phân chia tạo thành các thể hình
thoa có kích thước chiều dài khoảng 10 - 15 µm, có nhân ở trung tâm gọi là thoa trùng.
Số lượng thoa trùng có thể ≥ 1.000, thoa trùng có kích thước từ 10 - 15 × 1,0 µm. Thoa
trùng di động và phá vỡ màng noãn bào, thâm nhập vào xoang cơ thể muỗi. Thoa trùng
đi khắp cơ thể muỗi nhưng đa số tập trung vào tuyến nước bọt.
Thoa trùng có thể tồn tại trong cơ thể muỗi từ 1,5 - 2 tháng. Nếu muỗi có chứa thoa
trùng KSTSR đốt người, thoa trùng sẽ theo nước bọt xâm nhập vào người để tiếp tục phát triển.
Câu 4: So sánh chu kỳ của P. falciparum và P. vivax giai đoạn ở người - Giống nhau: lOMoAR cPSD| 39651089
• Đường lấy truyền: Do muỗi cái Anopheles hút máu người truyền thoa trùng
• Các thể KSTSR: Đều có các thể tư dương, phân liệt, giao bào
• Giai đoạn trong gan ( tiền hồng cầu): Đều có giai đoạn phát triểu đầu tiên trong gan
• Giai đoạn trong hồng cầu: Đều có giai đoạn vô tính trong máu
• Chu kỳ hồng cầu: Đều có chu kỳ hồng cầu kéo dài khoảng 48 giờ → gây sốt từng cơn
• Sinh giao bào: Đều hình thành giao bào → có thể được muỗi hút để tiếp tục chu kỳ - Khác nhau: Tiêu chí Plasmodium falciparum Plasmodium vivax
Có → tồn tại lâu trong gan, gây Thể ngủ trong gan
Không có → không gây tái phát
tái phát sau vài tuần - vài năm
Loại hồng cầu bị ký Mọi loại hồng cầu → số lượng Chủ yếu ký sinh hồng cầu non sinh KST rất cao
→ số lượng KST thấp hơn
Mức độ nhiễm ký Rất cao → dễ gây thiếu máu Thường nhẹ hơn, ít gây thiếu sinh nặng, tắc mao mạch máu nặng
Dễ gây sốt rét ác tính (hôn mê, Biến chứng lâm sàng
Rất hiếm gây sốt rét ác tính
suy thận, suy gan, phù phổi…)
Hình lưỡi liềm đặc trưng, xuất Hình tròn hoặc bầu dục, xuất Hình thái giao bào hiện muộn hơn hiện sớm hơn
Hình thái thể nhẫn Nhiều thể nhẫn/hồng cầu, thể Thể nhẫn to, rõ, thường chỉ một trong máu
nhẫn mảnh, có thể có 2 nhân KSTSR/hồng cầu
Không tái phát (chỉ tái nhiễm nếu Có thể tái phát nhiều lần do thể Tái phát bệnh bị muỗi đốt lại) ngủ trong gan
Thường sốt liên tục, không theo Sốt cách nhật (mỗi 48 giờ), chu Sốt lâm sàng chu kỳ rõ ràng kỳ rõ
Câu 5: So sánh chu kỳ của P. falciparum và P. vivax giai đoạn ở muỗi - Giống nhau:
• Loài muỗi truyền bệnh: Cùng được truyền qua muỗi cái Anopheles
• Giao bào từ người và muỗi : Khi muỗi hút máu người có giao bào → giao bào vào dạ dày muỗi
• Thụ tinh trong dạ dày muỗi: Giao bào cái và giao bào đực kết hợp → tạo hợp tử
• Hình thành noãn di động: Hợp tử phát triểu thành noãn di động → xuyên qua thành dạ dày muỗi
• Phát triểu thành noãn bào: Noãn di động thành noãn bào → phân chia nhiều lần
• Phóng thích thoa trùng: Noãn bào vỡ → giải phóng thoa trùng, thâm nhập
vào xoang cơ thể muỗi, tập trung chủ yếu ở tuyến nước bọt. lOMoAR cPSD| 39651089
• Thời gian hoàn thành chu kỳ: Trung bình 1-2 tuần tùy nhiệt độ môi trường
• Thoa trùng vào người khi muỗi đốt: Khi muỗi nhiễm đốt người → truyền
thoa trùng qua nước bọt - Khác nhau: Tiêu chí Plasmodium falciparum Plasmodium vivax
Tốc độ phát triển trong muỗi Nhanh hơn, hoàn tất chu kỳ Thường mất 10-14 ngày để trong 9-12 ngày hoàn tất chu kỳ
Khả năng thích nghi với Thích nghi tốt hơn với nhiều Chủ yếu thích nghi với muỗi
loài Anopheles Châu Phi và Anopheles vùng ôn đới và Đông Nam Á nhiệt đới
Tỷ lệ phát triển thành thoa Cao, hiệu quả → dễ gây lây lan Thấp hơn→ ít bùng phát trùng dịch lớn mạnh như P. falciparum Yêu cầu về nhiệt độ
Nhiệt độ tối thiểu lớn hơn 16oC Nhiệt độ tối thiểu lớn hơn 14,5oC Tái nhiễm qua muỗi
Không ảnh hưởng bởi thể ngủ Không ảnh hưởng bởi thể
trong muôi ( do không tồn tại ngủ trong muỗi ( do thể ngủ thể ngủ) nằm ở gan người)
Thời gian tồn tại thoa trùng Tồn tại lâu, khả năng truyền Ngắn hơn trong tuyến nước bọt bệnh kéo dài.
Câu 6: Phân tích đặc tính nhiễm bệnh của Plasmodium falciparum
P. falciparum là loài có tính gây bệnh nặng cao nhất trong các loài KSTSR, dễ
chuyển thành SRAT và tử vong nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.
Chu kỳ vô tính của P. falciparum chỉ có giai đoạn tiền hồng cầu tại gan mà không có
thể ngủ. Những thể nhẫn non có mặt ở máu ngoại vi thường nhỏ, kích thước bằng 1/6
đường kính hồng cầu. Trong một số thể nhẫn có thể có 2 nhân, thường có nhiều thể
nhẫn trong một hồng cầu (hiện tượng đa ký sinh), đây là một đặc điểm để phân biệt loài
KSTSR. Những thể nhẫn lớn dần và chiếm từ 1/4 - 1/2 đường kính hồng cầu, bào tương
xuất hiện các hạt sắc tố, lúc này dễ chẩn đoán nhầm với loài P. Malariae
Khi người bị nhiễm P. falciparum, thời gian ủ bệnh ngắn từ 8 - 16 ngày, trung bình
12 ngày; sau đó, cơn sốt thường kịch phát, có khi hai cơn sốt xảy ra liên tiếp, khoảng
cách giữa hai cơn sốt ngắn, thường trong 24 giờ có một cơn sốt nên trên lâm sàng được
gọi là sốt hàng ngày. Trong nhiễm cấp tính, P. falciparum thường có mật độ KSTSR rất
cao, đặc biệt ở người chưa có miễn dịch. Nếu có mặt của thể tư dưỡng già hoặc thể phân
liệt trong máu ngoại vi, cần phải điều trị nhanh và tích cực nhằm ngăn ngừa SRAT. Các
thể tư dưỡng già thường biến mất khỏi tuần hoàn ngoại vi sau 24 giờ và lưu lại ở vi
quản của cơ quan nội tạng như não, tim, thận, lách, ruột,... và tiếp tục phát triển tại đó.
Sự phân bố của KSTSR trong các mô của cơ thể là khác nhau, nên dẫn đến những biểu
hiện lâm sàng đa dạng của bệnh lý này. Trong sốt rét do P. falciparum, KST có khả
năng xâm nhập vào tất cả các loại hồng cầu từ non (hồng cầu lưới) đến hồng cầu già.
Các hồng cầu nhiễm KST vẫn giữ nguyên hình dạng và kích thước trong mọi giai đoạn
phát triển, ngay cả ở thể tư dưỡng muộn có xuất hiện các hạt Maurer trong hồng cầu lOMoAR cPSD| 39651089
hoặc thể phân liệt có thể lên đến 32 nhân (mảnh trùng) trong 1 hồng cầu. Mặc dù, chu
kỳ vô tính hồng cầu là 48 giờ, nhưng sự phân chia và phát triển các thể phân liệt hồng
cầu P. falciparum không xảy ra cùng lúc và chúng có nhiều dòng, thường 2 - 3 dòng
(clone), nên chu kỳ cơn sốt ở bệnh nhân thường là 24 giờ hoặc ngắn hơn nhưng mật độ
KSTSR tăng cao rất nhanh trong thời gian ngắn và dễ gây SRAT.
Câu 7: Trình bày đặc điểm hình thể chung của tiết túc - Hình thể bên ngoài:
Bao phủ toàn cơ thể tiết túc là một lớp vỏ kytin cứng, nhưng không liên tục mà gián
đoạn theo từng phần của cơ thể. Lớp vỏ kytin có tính chất đàn hồi, do đó tiết túc có thể
lớn lên trong lóp vỏ cứng. Tuy nhiên, do mức độ đàn hồi hạn chế, nên khi phát triển
đến độ trưởng thành nào đó sẽ xảy ra hiện tượng lột xác.
Thể trưởng thành, đa số tiết túc có cơ thể chia làm 3 phần: Đầu, ngực và bụng (trừ lớp nhện).
• Đầu: Gồm đầy đủ các bộ phận như mắt, pan (xúc biện), ăng ten (râu) và bộ
phận miệng. Đối với lớp nhện, phần đầu chỉ mang những bộ phận giúp cho
việc bám và lấy thức ăn của tiết túc nên được gọi là đầu giả
• Ngực: Gồm 3 phần là ngực trước, ngực giữa, ngực sau và thường có 3 đốt.
Ngực thường mạng những bộ phận vận động như chân, cánh (nếu có).
• Bụng: Bụng chứa các cơ quan nội tạng, thường gồm cơ quan tiêu hóa, bài
tiết, sinh dục,... Bụng gồm nhiều đốt và một số đốt cuối cùng trở thành bộ phận sinh dục ngoài
Ngoài ra, trên thân của tiết túc có thể có lông và vảy. Vảy có thể sắp xếp thành từng
đám tạo nên những đường vảy, những đám màu hoặc băng màu. - Hình thể bên trong:
• Giác quan: Giác quan của tiết túc gồm mắt, pan, ăng ten và bộ phận Haller:
+ Mắt có thể là mắt đơn hoặc mắt kép. Mắt kép cấu tạo bởi nhiều đơn vị mắt.
+ Pan làm nhiệm vụ tìm vật chủ, tìm vị trí hút máu và giữ thăng bằng cho cơ thể khi đậu.
+ Ăng ten thường làm nhiệm vụ định hướng,...
• Cơ quan tiêu hóa: Ống tiêu hóa của tiết túc chia làm 3 phần:
+ Ruột trước: Gồm miệng, hầu, thực quản, diều, tiền phòng.
+ Ruột giữa là dạ dày.
+ Ruột sau: Gồm ruột non, ruột già, trực tràng và hậu môn.
• Cơ quan tuần hoàn: Là hệ mạch hở.
• Cơ quan thần kinh: Gồm những sợi thần kinh, hạch thần kinh.
• Cơ quan hô hấp: Là một hệ thống ống khí quản phân nhánh có dạng xoắn như
lò xo (trừ loại thở bằng mang).
• Cơ quan bài tiết: Tương đối hoàn chỉnh, có ống bài tiết ra ngoài. lOMoAR cPSD| 39651089
• Cơ quan sinh dục: Tiết túc có con đực và con cái riêng biệt với cơ quan sinh
dục đực và cơ quan sinh dục cái khác nhau. Cơ quan sinh dục đực gồm 2 tinh
hoàn, túi tinh, tuyến phụ, ống phóng tinh và cơ quan giao hợp. Cơ quan sinh
dục cái gồm 2 buồng trứng nối ống dẫn trứng đến âm đạo. Con cái thường có
túi chứa tinh, sau khi giao hợp với con đực, tinh trùng được chứa trong túi
này để thụ tinh được nhiều lần.
Câu 8: Trình bày đặc điểm hình thể, sinh thái, phương thức, truyền bệnh và vai trò trong y học của Trombidiidae
Trombidiidae thuộc lớp nhện, có hai lỗ thở ở phía trước thân và có 4 họ phụ, trong
đó có họ phụ Trombiculidae với giống Trombicula có thể truyền bệnh cho người với tên thường gọi là mò.
- Hình thể: Con trưởng thành dài 1 - 2 mm, màu đỏ sáng hoặc đỏ nâu, có eo thắt
ngang thân, có 8 chân và thân mình có nhiều lông hơn dạng ấu trùng. Ấu trùng
mò có đặc điểm khác hẳn con trưởng thành. Ấu trùng nhỏ, kích thước khoảng
200 µm, có 6 chân, thân mình có nhiều lông và thường có màu đỏ da cam
- Sinh thái: Chu kỳ của mò gồm 4 giai đoạn: Trứng, ấu trùng, thanh trùng và con
trưởng thành. Với điều kiện thích hợp, mò thường sống được khoảng một năm
Sau khi nở từ trứng, ấu trùng bò lên cỏ hoặc những bụi cây thấp, đám lá
mục, để đợi vật chủ (người hoặc động vật). Ấu trùng thường đốt người ở vùng
thắt lưng, nách và bộ phận sinh dục. Ấu trùng bám chặt vào da của vật chủ để
hút máu, sau đó chúng rơi xuống và chui vào đất phát triển thành thanh trùng,
rồi thành con trưởng thành, sống tự do trong đất, cây cỏ. Ở vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới, các bụi tre là nơi mò rất ưa thích.
- Phương thức truyền bệnh: Mò truyền bệnh do đốt vật chủ. Trong một đợt, mò có
thể ăn nhiều lần, trên nhiều vật chủ. Mầm bệnh qua mò có thể truyền lại cho thế hệ sau của mò.
Những loài mò chủ yếu liên quan đến y học gồm: Trombicula akamushi,
Trombicula pallidum, Trombicula deliensis và Trombicula autumnalis - Vai trò trong y học:
• Truyền bệnh: Mò có thể truyền một số bệnh do Rickettsia và virus cho
người nhưng chỉ có một bệnh quan trọng nhất là bệnh sốt mò (sốt phát ban bụi rậm).
• Gây bệnh: Gây tổn thương viêm da, ngứa, loét tại vị trí mò đốt.
Câu 9: Trình bày đặc điểm hình thể, sinh học và dịch tễ học của ghẻ Sarcoptes scabiei
Sarcoptidae thuộc lớp nhện, không có ống thở mà thở qua da. Trong nhiều loài của
Sarcoptidae chỉ có Sarcoptes scabiei gây bệnh ghẻ ở người
- Hình thể: S. scabiei trưởng thành có hình bầu dục, màu xám, miệng rất ngắn,
lưng gồ, có 8 chân, không có mắt. Hai đôi chân trước nằm hẳn về phía trước của
thân, hai đôi chân sau nằm về phía sau. Tận cùng của một số đôi chân có mang lOMoAR cPSD| 39651089
ống hút. Con cái kích thước khoảng 330 µm, có các ống hút trên đôi chân thứ
nhất và thứ hai. Con đực kích thước nhỏ hơn, khoảng 220 µm, có các ống hút
trên đôi chân thứ nhất, thứ hai và thứ tư.
- Đặc điểm sinh học: Toàn bộ đời sống của ghẻ cái là ở trên và ở trong da của người.
Để dinh dưỡng và đẻ trứng, cái ghẻ đã thụ tinh và đào những đường hầm
ngoằn ngoèo trong mặt da. Mỗi ngày ghẻ cái đào được 1 - 3 mm, nó sống suốt
đời trong đường hầm, đẻ mỗi ngày 3 - 5 trứng. Sau 3 - 4 ngày, trứng nở thành ấu
trùng. Ấu trùng chui ra khỏi đường hầm để vào một lỗ chân lông và sẽ lột xác
vài lần để thành nhộng, rồi thành con trưởng thành. Ấu trùng ghẻ chỉ có 6 chân.
Thời gian phát triển từ trứng đến con trưởng thành ít nhất là 2 tuần. Ghẻ
cái có thể sống trên cơ thể người được 1 - 2 tháng, rời khỏi cơ thể vật chủ nó chỉ
sống thêm được vài ngày. Ghẻ đực có đời sống ngắn và sau khi giao hợp, ghẻ đực sẽ chết.
Ghẻ cái thường ký sinh ở chỗ da mỏng và nếp gấp như kẽ ngón tay, cạnh
của bàn chân, bàn tay, mặt trước cổ tay, khuỷu tay, nếp gấp gối, đôi khi thấy cả
ở dương vật và ở vú. Các vùng cổ, lưng và mặt thường không thấy cái ghẻ ký
sinh. Đặc biệt, ở trẻ nhỏ có thể thấy ghẻ ở mặt và các vùng khác. - Dịch tễ học:
• Đường lây: S. scabiei thường được lây truyền từ người sang người do tiếp
xúc trực tiếp, hoặc có thể qua đường quần áo. Sự lan truyền thường xảy
ra trong gia đình và tập thể.
• Phân bố: Bệnh ghẻ có ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là ở các
nước đang phát triển. Mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội đều có thể mắc
bệnh, nhưng thường gặp nhiều hơn ở trẻ em. Dịch ghẻ cũng thường chỉ
xảy ra ở những nơi môi trường sống chật chội, chen chúc, thiếu vệ sinh
(trại tị nạn, trại giam, trong chiến tranh, tập thể thiếu vệ sinh,...).
Câu 10: Trình bày đặc điểm sinh thái của chấy rận Anoplura ( chấy rận )
Chấy, rận chỉ có thể phát triển được ở môi trường ấm, gắn liền với da người vì chúng
sống bằng hút máu và chết trong khoảng vài ngày nếu không được tiếp xúc với cơ thể
người. Khi nhiệt độ của vật chủ tăng (sốt) hay giảm (lúc sắp chết), chấy rận sẽ rời bỏ
vật chủ, đi tìm vật chủ mới.
Những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của chấy, rận là nghèo nàn, chiến tranh,
thiên tai và vệ sinh thân thể kém.
- Chấy: Chấy là loài phổ biến nhất ở người, nó chỉ sống ở tóc và thường thấy ở trẻ
em. Con cái sau khi giao hợp 1 - 2 ngày sẽ đẻ trứng, mỗi ngày đẻ 6 - 8 trứng,
suốt đời sống có thể đẻ 200 - 300 trứng. Trứng dính chặt vào gốc tóc,
đặc biệt là ở sau đầu và sau tai. Sau khoảng 6 - 7 ngày trứng nở thành ấu trùng,
ấu trùng lột xác ba lần trong khoảng 8 - 12 ngày và thành con trưởng thành. Con lOMoAR cPSD| 39651089
trưởng thành sống được khoảng 30 - 40 ngày. Tất cả các giai đoạn, chấy đực và chấy cái đều hút máu
Chấy lây truyền qua con đường tiếp xúc gần gũi giữa người với người như
ngủ chung giường. Chấy còn có thể lây lan bằng cách dùng chung lược mà trong
lược có tóc mang trứng hoặc chấy bám vào.
Rận: Rận sinh sản nhanh và nhiều hơn chấy, thường sống bám vào quần
áo, đặc biệt là những chỗ tiếp xúc trực tiếp với cơ thể như trong quần áo lót, cạp
quần, nách, vòng thắt lưng, cổ và vai. Trứng rận thường dính vào các nếp quần áo.
Rận lây truyền qua con đường tiếp xúc gần gũi giữa người với người, vì
vậy thường gặp ở những nơi ở quá chật chội, đông đúc lại thiếu vệ sinh như các
trại tị nạn, nhà tù, nhà trọ, nhà trẻ, mẫu giáo, lớp học kém vệ sinh hoặc ở các
chiến hào trong chiến tranh. Rận còn có thể lây truyền bằng sự tiếp xúc trực tiếp
giữa những hành khách trên những phương tiện giao thông, chợ búa.
Việc dùng chung chăn màn, quần áo, hoặc ngồi vào những ghế đệm có
rận cũng có thể bị nhiễm.
- Rận bẹn: Rận bẹn có màu xám trắng và có quá trình phát triển giống với chấy
rận nói chung. Tuổi thọ của rận bẹn nói chung không quá một tháng. Phần lớn
rận bẹn sống ở lông của vùng mu và đẻ trứng vào gốc của lông mu. Cũng có thể
thấy ở các vùng lông khác của cơ thể như lông ngực, lông nách, có khi cả ở trên lông mày và râu.
Rận bẹn lây truyền chủ yếu qua đường tình dục, hiếm khi qua giường
chiếu hay những vật dụng khác
Câu 11: Trình bày chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét ở giai đoạn người - Giai đoạn ở gan:
Khi muỗi đốt người, thoa trùng xâm nhập vào hệ tuần hoàn, lưu hành
trong khoảng 30 phút, phần lớn thoa trùng bị thực bào, số còn lại thì một phần
lọt được vào tế bào nhu mô gan. Trong tế bào gan, thoa trùng cuộn tròn lại, bào
tương và nhân lớn lên rồi sinh sản theo hình thức sinh sản vô tính. Sau 40 - 48
giờ xuất hiện những KST nhỏ có đường kính khoảng 3 µm, có 1 nhân nhỏ và 1
diềm bào tương, sau đó hình thành nhiều KST gọi là thể phân liệt gan (mô).
Giai đoạn này kéo dài khoảng từ 6 - 16 ngày tuỳ thuộc loài KSTSR.
Những thể phân liệt gan có kích thước 30 - 70 µm đẩy nhân tế bào gan về
một phía và làm tế bào gan to ra. Sau khoảng 6 - 16 ngày tính từ khi nhiễm, vỏ
bọc tế bào chứa thể phân liệt vỡ ra, giải phóng hàng ngàn mảnh phân liệt gan ra
mô xung quanh rồi tung vào máu. Không có phản ứng viêm xuất hiện ở các tế
bào gan vây xung quanh. Phần lớn thể phân liệt này xâm chiếm hồng cầu có mặt
trong các xoang của gan, một số khác bị thực bào.
P. vivax và P. ovale gây sốt rét tái phát vì chúng có những loại thoa trùng
khác nhau về cấu trúc của gen: (1) Loại thoa trùng phát triển nhanh: Phát triển lOMoAR cPSD| 39651089
ngay sau khi xâm nhập vào tế bào gan nên có thời gian ủ bệnh ngắn; (2) Loại
thoa trùng phát triển chậm: Sau khi xâm nhập vào tế bào gan, chủng này không
phát triển ngay hoặc phát triển chậm, sau nhiều tháng hoặc nhiều năm mới tạo ra
được các phân liệt ở tế bào gan, nên còn được gọi là thể ngủ. Thể ngủ nằm yên
trong tế bào gan dưới dạng đơn nhân, đường kính 4 - 5 µm trong thời gian dài,
đến một thời điểm nhất định thì những thể ngủ này phát triển và trải qua giai
đoạn phân liệt ngoại hồng cầu gây nên cơn sốt rét tái phát trên lâm sàng. Thể
phát triển chậm không thuần nhất, mà gồm nhiều kiểu hình nên có những độ dài
khác nhau của giai đoạn ngủ.
P. falciparum, P. knowlesi và P. malariae cũng có những loại thoa trùng
có cấu trúc gen khác nhau, nhưng thời kỳ tiềm tàng không dài, thoa trùng không
tạo thành thể ngủ mà phát triển trực tiếp thành các thể phân liệt gan. Trong một
số trường hợp hạn hữu, khi nhiễm P. malariae do chu kỳ phát triển vô tính của
KSTSR tiềm tàng trong hồng cầu được hoạt hoá cũng gây nên hiện tượng tái phát.
- Giai đoạn trong hồng cầu:
Sự xâm nhập vào hồng cầu của những thể phân liệt chỉ xảy ra khi trên bề
mặt hồng cầu có những thụ thể tương ứng. Quá trình này gồm 5 giai đoạn:
(1) Nhận diện và bám dính, hình thành điểm tiếp giáp, (2) Tạo nên màng không
bào liên tiếp màng hồng cầu, (3) Xâm nhập vào không bào qua điểm tiếp nối
chuyển động và (4) Hồng cầu hàn kín sau khi thể phân liệt lọt vào để phát triển thành tư dưỡng.
Những thể tư dưỡng trẻ rất nhỏ và tròn, có không bào, bào tương và nhân,
thường được gọi là thể nhẫn. Khi KSTSR lớn lên hình dạng không đều, có nhiều
ribosom và sắc tố, dần xuất hiện thêm lưới nội tương và các túi phình tạo ra từ
màng không bào. Thể tư dưỡng trưởng thành tiếp tục quá trình phân chia vô tính
trong hồng cầu, nhân phân chia thành nhiều nhân con, phân chia bào tương để
tạo thành những thể phân liệt. Khi thể phân liệt trong hồng cầu vỡ ra, giải phóng
các mảnh trùng, các mảnh trùng xâm nhập các hồng cầu khác và tiếp tục chu kỳ
trong hồng cầu. Quá trình này cứ lặp đi lặp lại trong suốt quá trình nhiễm bệnh
dẫn đến sự tăng cao của KSTSR trong máu cho đến khi có đáp ứng miễn dịch
của vật chủ hoặc bị thuốc sốt rét tấn công
Chu kỳ trong hồng cầu kéo dài 48 giờ đối với P. vivax và P. falciparum;
72 giờ đối với P. malariae và 50 giờ đối với P. ovale; 24 giờ với P. knowlesi.
Một số mảnh trùng phát triển thành thể hữu tính (giao bào đực và giao bào cái),
khi xâm nhập vào hồng cầu mới, các thể này phát triển nhưng nhân không phân
chia, nằm trong hồng cầu cho đến khi được muỗi cái Anopheles hút vào dạ dày
thì sẽ tiếp tục phát triển trong muỗi
Câu 12: Trình bày nguyên tắc và các biện pháp phòng chống sốt rét - Nguyên tắc: lOMoAR cPSD| 39651089
Hoạt động PCSR gồm nhiều khâu song hành với nhau:
• Giám sát sốt rét, tăng cường phát hiện, chẩn đoán và quản lý các trường hợp mắc bệnh
• Thực hành chẩn đoán và điều trị đúng với Hướng dẫn của WHO và Bộ Y tế.
• Phòng chống muỗi truyền bệnh cho cả cộng đồng và cá nhân. - Đảm bảo
chất lượng các dịch vụ y tế trong PCSR.
• Xử lý các vụ dịch sốt rét và truyền thông giáo dục sức khỏe và truyền
thông nguy cơ thay đổi hành vi trong PCSR.
- Các biện pháp phòng chống sốt rét
• Các biện pháp bảo vệ cá nhân o Biện pháp vật lý: Nằm màn, lưới chắn
muỗi, bẫy vợt, mặc quần áo dài,... tránh muỗi đốt.
o Biện pháp sinh học: Nuôi cá ăn bọ gậy, chế phẩm sinh học diệt bọ gậy,...
o Các biện pháp hoá học: Phun hoá chất, tẩm màn hoá chất (màn tẩm
hoá chất tồn lưu lâu), tẩm rèm, chăn,... kem muỗi, hương muỗi,...
• Các chỉ định sử dụng thuốc điều trị bệnh sốt rét o Điều trị người bệnh
sốt rét: Bao gồm người bệnh được xác định mắc sốt rét và các trường hợp
nghi sốt rét có biểu hiện đe đọa SRAT.
o Điều trị mở rộng: Chỉ áp dụng ở các vùng đang có dịch. Trung
tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh quyết định chọn đối tượng và phạm vi điều trị mở rộng
o Cấp thuốc tự điều trị: Chủ trương hiện nay là hạn chế cấp thuốc
tự điều trị tiến tới không cấp thuốc cho các vùng không có nguy
cơ nữa. Cấp thuốc tự điều trị trong các trường hợp sau: + Cấp
thuốc tự điều trị chỉ áp dụng cho những huyện thuộc vùng sốt rét
lưu hành tại miền Trung - Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và không
có bằng chứng về sốt rét kháng thuốc.
+ Người từ vùng không có sốt rét vào vùng sốt rét lưu hành trên 1 tuần.
+ Người sống trong vùng sốt rét lưu hành có ngủ rừng, ngủ rẫy
hoặc qua lại vùng biên giới.
+ Cán bộ y tế từ tuyến xã trở lên mới được cấp thuốc tự điều trị,
hướng dẫn cho họ biết cách sử dụng thuốc và theo dõi sau khi trở về.
+ Thuốc được cấp để tự điều trị là dihydroartemisinin-piperaquin phosphate • Phòng chống vector lOMoAR cPSD| 39651089
Thực hiện ngủ màn thường xuyên, phát màn tẩm hoá chất tồn lưu
dài, tẩm màn 1 - 2 lần/năm ở thời điểm trước mùa truyền bệnh cho tất cả
các hộ gia đình trong vùng SRLH
Đảm bảo phun tồn lưu hoá chất diệt muỗi cho tất cả các hộ gia đình
(bao gồm phun trong nhà, nhà rẫy) vùng SRLH nặng 1 lần/năm, ở thời
điểm trước mùa truyền bệnh, ở vùng SRLH mà tỷ lệ ngủ màn của người
dân dưới 80%. Trường hợp tình hình sốt rét diễn biến phức tạp có thể
phun bổ sung theo hướng dẫn xử lý ổ bệnh. Quy trình kỹ thuật phun hoá
chất và tẩm màn theo hướng dẫn của Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.
Đối với một số nhóm dân di biến động, đi rừng, ngủ rẫy cần khuyến
cáo sử dụng màn, võng màn tẩm hoá chất diệt muỗi, hương xua, kem xua
đối với người đi rừng, ngủ rẫy; mũ trùm tẩm hoá chất đối với người làm cao su.
Vệ sinh môi trường, sử dụng vợt điện diệt côn trùng, bình xịt diệt
muỗi, bẫy đèn và các biện pháp dân gian để xua và diệt muỗi.
• Đánh giá loại trừ bệnh sốt rét o Đạt loại trừ sốt rét: Đạt tiêu chí và
đạt 100% các điều kiện đảm bảo.
o Không đạt loại trừ sốt rét: Không đạt tiêu chí hoặc không đạt 1
trong các điều kiện đảm bảo.
• Đánh giá đạt loại trừ bệnh sốt rét o Huyện/quận đạt LTSR: Khi 100%
số xã/phường đạt tiêu chí. o Tỉnh đạt LTSR: Khi 100% số
huyện/quận đạt tiêu chí.
Câu 13: Phân tích sự liên quan giữa sinh thái của tiết túc đến dịch tễ học những bệnh do tiết túc truyền
- Đặc điểm về loại tiết túc:
Bệnh do tiết túc truyền chỉ có thể phát sinh nếu có mặt tiết túc truyền
bệnh. Những bệnh do tiết túc truyền nếu có phát sinh mà không có mặt tiết túc
truyền bệnh, sẽ chỉ coi như là một bệnh nhiễm từ nơi khác tới. Những vùng sốt
rét lưu hành là những vùng có nhiều muỗi có khả năng truyền sốt rét. Những
vùng đã thanh toán được bệnh sốt rét là những vùng khống chế tốt muỗi truyền
sốt rét bằng các biện pháp diệt muỗi trong nhiều năm liên tục, cùng với điều trị
diệt ký sinh trùng sốt rét.
- Đặc điểm về mật độ tiết túc
Sự có mặt của một loại tiết túc có khả năng truyền bệnh không quyết định
được khả năng gây dịch nếu mật độ không đảm bảo mức cần thiết để truyền bệnh.
Người ta thấy rằng, tuy thường xuyên vẫn có bọ chét Xenopsylla cheopis ở chuột
nhưng không phải dễ dàng phát sinh bệnh dịch hạch, vì hoặc số chuột hoặc số bọ
chét quá ít nên người khó bị tấn công bởi bọ chét. lOMoAR cPSD| 39651089
Mật độ tiết túc càng cao, khả năng nguy cơ nhiễm bệnh càng nhiều. Mật
độ tiết túc thay đổi theo mùa vì sinh thái, hoạt động của tiết túc phụ thuộc vào khí hậu
- Đặc điểm về khuếch tán của tiết túc
Tính chất phân bố của vùng dịch bệnh phụ thuộc vào yếu tố khuếch tán
của tiết túc. Nếu tiết túc khuếch tán rộng thì bệnh sẽ lan rộng. Tiết túc có thể
khuếch tán bằng cách chủ động (tự vận động hay di chuyển), hoặc khuếch tán
bằng cách thụ động dựa vào những yếu tố thiên nhiên (gió, lũ, nước chảy,...),
hoặc những phương tiện giao thông.
Đối với những tiết túc sống ký sinh lâu dài trên vật chủ như chấy, rận,
ghẻ,... thì điều kiện khuếch tán của tiết túc khó quyết định tính chất phân bố của
bệnh và dịch nếu không khống chế được sự giao lưu của con người.
- Đặc điểm ăn của tiết túc
Đặc điểm ăn của tiết túc bao gồm chất thức ăn, phương thức ăn, sinh thái
sau khi ăn,... đều có liên quan rõ rệt đến dịch tễ học những bệnh do tiết túc truyền
Tiết túc hút máu, nếu chỉ hút máu người thì bệnh chỉ có thể lan truyền
giữa người với người. Nếu tiết túc hút cả máu người và máu súc vật thì bệnh có
thể từ súc vật sang người, hoặc ngược lại.
Do phương thức ăn, khả năng truyền bệnh của tiết túc cũng thay đổi. Ruồi
khi ăn có bài tiết, cọ sát chân cánh nên dễ gieo rắc nhiều mầm bệnh. Các loại ve,
khi hút máu ham đốt và bám chặt trên vật chủ nên cũng dễ truyền bệnh.
Sau khi hút máu no, muỗi thường đậu nghỉ, nên dễ tiếp xúc với hóa chất
diệt chúng nếu những hóa chất này được phun trên các mặt tường, vách của nhà
ở. Thời gian tiêu máu của tiết túc dài hay ngắn tùy theo loại tiết túc và ký chủ.
Những loài tiết túc tiêu máu nhanh thường nguy hiểm vì luôn phải tìm mồi mới.
- Đặc điểm tuổi thọ của tiết túc
Tuổi thọ của tiết túc khác nhau tùy theo loài và có liên quan mật thiết đến
dịch tễ học các bệnh do tiết túc truyền. Những tiết túc có tuổi thọ dài thường
nguy hiểm, vì sẽ tạo được nhiều thế hệ và sẽ đủ thời gian để ký sinh trùng hoàn
thành giai đoạn chu kỳ trong tiết túc.
Căn cứ vào tuổi thọ của tiết túc, có thể xác định được tuổi nguy hiểm tùy
theo từng loài. Tiết túc đạt tuổi nguy hiểm khi đã sống đủ thời gian để mầm bệnh
phát triển tới giai đoạn có thể gây bệnh cho người.
Câu 14: Trình bày đặc điểm hình thể, sinh thái và vai trò trong y học của bọ chét Siphonaptera - Đặc điểm hình thể
Bọ chét trưởng thành có màu vàng hoặc hơi hung, phần đầu dính liền với
phần ngực. Đầu có mắt đơn, ăng ten. Phần dưới đầu của một số giống có lược
gồm những lông nhọn và cứng xếp thành hình lược. Ngực gồm ba đốt, mỗi đốt
mang một đôi chân. Đôi chân thứ ba rất phát triển, khỏe và dài dùng để nhảy. lOMoAR cPSD| 39651089
Trên đốt ngực 1 mặt lưng đôi khi có mang lược. Bụng gồm có 10 đốt, đốt thứ 8,
9 dính với nhau và mang bộ phận sinh dục với rãnh sinh dục ở con đực và túi
chứa tinh ở con cái. Đốt thứ 10 chứa hậu môn. Trứng hình bầu dục hoặc tròn,
màu vàng nhạt. Ấu trùng hình sâu bướm, nhỏ và dài. Nhộng nằm trong kén. - Sinh thái:
Chu kỳ của bọ chét gồm 4 giai đoạn: Trứng, ấu trùng, nhộng và con trưởng
thành. Cả con đực và con cái đều hút máu. Sau khi giao hợp, con cái đẻ trứng
trong đất cát, các kẽ nứt ở sàn, tường hoặc trên lông của vật chủ. Sau khoảng 2 -
10 ngày, trứng nở thành ấu trùng. Sau khoảng 8 - 10 ngày, ấu trùng chuyển thành
nhộng. Sau khoảng một tuần và dài nhất là một năm, nhộng trở thành bọ chét
trưởng thành. Quá trình phát triển của bọ chét cần độ ẩm cao.
Bọ chét tránh ánh sáng và hầu hết dễ thấy trong các đám lông tơ hoặc lông
vũ của động vật, hoặc ở giường ngủ, quần áo của người. Bọ chét có khả năng
nhảy rất xa, đường kính phát tán chủ động khoảng 300 m. Chúng thường phát
triển nhiều từ tháng 10 đến tháng 4 là thời gian có độ ẩm thích hợp. Khả năng
sinh tồn của bọ chét rất cao, chúng có thể dự trữ thức ăn bằng cách tiêu hóa máu
chậm lại để sống được khoảng vài tháng. Nếu vật chủ bị chết, bọ chét sẽ nhanh
chóng đi tìm vật chủ khác
Tuổi thọ của bọ chét trưởng thành thay đổi tùy theo loài, yếu tố khí hậu
và yếu tố ký sinh, nhưng trung bình là 10 tháng. Bọ chét thường ký sinh ở chó,
mèo, chuột và sang người - Vai trò y học:
Truyền bệnh dịch hạch: Bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis có
độc lực cao gây ra. Đầu tiên, dịch hạch xảy ra ở các loài động vật hoang dại như
chuột và một số loài gặm nhấm khác. Khi động vật gặm nhấm bị chết do nhiễm
vi khuẩn dịch hạch, bọ chét sẽ rời vật chủ, sau đó có thể tấn công và truyền bệnh
cho người. Vai trò chủ yếu trong việc truyền bệnh dịch hạch là bọ chét
Xenopsylla cheopis từ chuột sang người. (Xenopsylla cheopis ký sinh ở chuột
Rattus rattus). Sau đó bệnh có thể truyền nối tiếp từ người sang người bởi bọ chét Pulex irritans
Dịch hạch là bệnh có ổ dịch thiên nhiên nên cho đến nay vẫn còn rất nguy
hiểm vì nó xảy ra rộng rãi ở các quần thể gặm nhấm.
• Truyền bệnh sốt phát ban: Bệnh sốt phát ban do bọ chét truyền gây ra bởi
Rickettsia mooseri (R. typhi) và xảy ra rải rác ở các đàn chuột (còn gọi là
sốt phát ban chuột), qua trung gian truyền bệnh chủ yếu là X. cheopis.
Người bị lây nhiễm từ phân khô và xác bọ chét do môi trường bị ô nhiễm.
• Truyền các bệnh sán: Bọ chét Ctenocephalus canis và Pulex irritans có
thể truyền các loại sán Dipylidium caninum, Hymenolepis fraterna và
Hymenolepis diminuta của chuột. Người nhiễm các loại sán này là do
nuốt phải bọ chét có chứa ấu trùng sán.
• Bọ chét gây viêm loét và áp xe da: Bệnh do bọ chét cái Tunga penetrans
sau khi thụ tinh, sống gắn chặt vào trong da, thường là da chân, gây kích lOMoAR cPSD| 39651089
thích, viêm loét và áp xe. Bệnh thường gặp ở xứ nóng như châu Mỹ, châu
Phi và cả Ấn Độ, Trung Quốc.
Câu 15: Trình bày đặc điểm sinh thái của muỗi Culicidae
- Chu kỳ: Chu kỳ của muỗi trải qua 04 giai đoạn: Trứng, ấu trùng (bọ gậy), thanh
trùng (quăng) và con trưởng thành.
Muỗi cái thường chỉ giao phối một lần nhưng đẻ trứng suốt đời theo từng đợt.
Sau 2 - 3 ngày trong điều kiện thích hợp, trứng sẽ nở thành ấu trùng (bọ gậy). Bọ
gậy sống trong các môi trường nước khác nhau tùy theo loài. Bọ gậy của muỗi
Toxorhynchites do có kích thước rất lớn nên có thể ăn bọ gậy của những loài
muỗi khác có kích thước nhỏ hơn.
• Bọ gậy Anophelinae nằm song song với mặt nước.
• Bọ gậy Culicinae nằm nghiêng so với mặt nước.
Đặc biệt, bọ gậy của muỗi Mansonia thường cắm ống thở vào thực vật thủy
sinh (rễ bèo). Ở điều kiện thuận lợi, khoảng 8 - 12 ngày bọ gậy trở thành quăng.
Thời gian từ quăng trở thành muỗi trưởng thành rất nhanh, chỉ khoảng một ngày.
- Sinh thái: Muỗi sống phổ biến ở khắp mọi nơi, nhưng có nhiều nhất là ở vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới. Muỗi có thể có quanh năm, nhưng có những mùa phát
triển nhiều. Những vùng, những mùa có khí hậu nóng, ẩm thuận lợi cho sự phát
triển của muỗi và sự phát sinh bệnh. Dựa vào mối quan hệ đối với người, muỗi được chia làm 3 nhóm:
• Nhóm muỗi thuần dưỡng: Thích sống gần người, đại đa số thời gian sống ở trong nhà.
• Nhóm muỗi bán thuần dưỡng: Thường sống bên ngoài nhà, nhưng vào
trong nhà để hút máu người.
• Nhóm muỗi hoang dại: Chỉ sống ngoài nhà. Những loài muỗi ưa vào nhà
thường hút máu người và gia súc, những muỗi ưa ngoài nhà thì có thể hút
nhiều loại máu khác nhau.
Chỉ có muỗi cái mới hút máu, còn muỗi đực hút dịch thực vật. Tập tính lựa
chọn loại máu có liên quan đến dịch tễ học những bệnh do muỗi truyền. Những
muỗi ưa hút máu người thì có vai trò rất quan trọng trong việc truyền bệnh từ
người này sang người khác. Những muỗi không ưa hút máu người thì ít quan
trọng trong việc truyền bệnh từ người này sang người khác nhưng lại có khả năng
truyền những bệnh của súc vật sang người và ngược lại
Phạm vi hoạt động của muỗi phụ thuộc vào khả năng bay xa của nó và khác
nhau tùy theo loài. Nói chung, muỗi chỉ khuếch tán trong phạm vi 1 - 3 km. Muỗi
hoạt động theo những giờ cao điểm khác nhau để tìm mồi hoặc tìm đực, cái.
Ngoài giờ hoạt động, muỗi đậu nghỉ ở những nơi có điều kiện vi khí hậu, ánh
sáng thích hợp với từng loài muỗi
Khi gặp điều kiện khí hậu không thích hợp, nhất là gặp nhiệt độ lạnh, muỗi
có thể vượt đông. Khi khí hậu chuyển sang ấm, muỗi hoạt động trở lại. Muỗi có lOMoAR cPSD| 39651089
thể sống được nhiều tháng với nhiệt độ rất lạnh. Có những loài muỗi sống được
dài ngày ở nhiệt độ 400C. Khi gặp điều kiện khô, muỗi cũng có hình thức vượt
khô, tìm đến những nơi có độ ẩm cao hơn và đậu nghỉ, chờ khi có mưa, đủ độ
ẩm cần thiết mới hoạt động trở lại.
Tuổi thọ của muỗi phụ thuộc vào điều kiện khí hậu, mồi ăn và loài muỗi. Nói
chung, muỗi có thể sống được 8 - 9 tháng với những điều kiện thuận lợi về vi khí hậu và thức ăn.