Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh và giai đoạn CNTB độc quyền | Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp
Quy luật giá trị hoạt động mạnh mẽ trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh, nơi mà giá cả hàng hóa phản ánh sát giá trị của nó. Ngược lại, trong giai đoạn CNTB độc quyền, quy luật này bị thao túng và ảnh hưởng bởi các yếu tố độc quyền, dẫn đến sự biến đổi trong cách thức xác định giá trị và giá cả hàng hóa.
Môn: Kinh tế chính trị Mác- Lênin(MLN)
Trường: Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị
trong giai đoạn CNTB tự do cạnh tranh
và giai đoạn CNTB độc quyền
* Quy luật giá trị là gì?
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông
hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại
và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Yêu cầu chung của quy luật giá
trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí sức
lao động xã hội cần thiết.
Về nội dung quy luật giá trị: Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao
đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, người tiến hành sản xuất phải có sự hao phí sức lao
động cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí sức lao
động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế trong cạnh tranh. Lợi thế
cạnh tranh là những lợi thế giúp người sản xuất đó có thể có ưu thế hơn
so với những người sản xuất khác.
*Nội dung của quy luật giá trị
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa được thực hiện theo sự hao phí sức
lao động xã hội cần thiết, tức là cần phải tiết kiệm lao động nhằm: đối với
một hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, tức là giá cả thị trường
của hàng hóa, có như vậy, việc sản xuất ra hàng hóa mới đem lại lợi thế cạnh tranh cao.
Thứ hai: Trong trao đổi hàng hóa phải tuân theo nguyên tắc ngang
giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được chi phí chí người sản xuất (chi
phí hợp lý) và đảm bảo hoạt động sản xuất đó có lãi để tiếp tục tái sản xuất
Sự tác động, vận hành của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự
vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là tiền đề của giá cả, còn giá cả
là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Vì vậy nên phụ thuộc vào giá trị của hàng hóa.
Trên thị trường còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh,
cung – cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này
làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xoay
quanh trục giá trị của nó. Sự tác động, thay đổi này là cơ chế hoạt động
của hoạt động của quy luật giá trị.
*Tác dụng của quy luật giá trị
- Điều tiết trong hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và gia tăng năng suất
lao động, hạ giá thành sản phẩm
- Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành những kẻ giàu nghèo
*Vai trò của quy luật giá trị
Được các nhà kinh tế học đưa ra khái niệm từ rất lâu , ngày nay thì
quy luật giá trị vẫn giữ được vai trò quan trọng trong nền kinh tế-xã hội.
Quy luật này giúp cho doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức và nhà nước tự
động điều tiết được tư liệu sản xuất, phân bổ nguồn lực vào những
ngành nghề khác nhau để phát triển.
Quy luật giúp cho hoạt động dịch chuyển hàng hoá từ nơi có giá trị
thấp sang nơi được định giá cao hơn và giúp bình ổn thị trường, không
dẫn đến thị trường khan hiếm , đẩy mức giá cao bất hợp lý.
Trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt thì doanh nghiệp cần phải
luôn cải tiến nâng cao năng suất lao động và quản lý, giảm phần chi phí để gia tăng lợi nhuận.
Như vậy quy luật giá trị ảnh hưởng đến tất cả các khía cạnh trong đời
sống kinh tế, xã hội. Nếu như hiểu đúng thì cá nhân và doanh nghiệp sẽ
vận dụng tốt để phát triển tổ chức và bản thân, tạo ra được nhiều giá trị
cho cộng đồng. Đát chính là khía cạnh tích cực mà quy luật này đóng
góp đổi mới nền kinh tế quốc gia, giúp tạo ra được lợi thế cạnh tranh toàn cầu.
I. Thế nào là cạnh tranh tự do và độc quyền?
a. Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong
nền sản xuất hàng hoà nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong
sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hoá để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
b. Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, nắm trong
ty phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, có khả năng định ra giá
cả độc quyền nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
1. Biểu hiện của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh.
Trong điều kiện tự do cạnh tranh, giá trị hàng hoá trở thành giá cả sản
xuất. Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất. Khi giá trị hàng hoá chuyển
thành giá cả sản xuất và do chi phối của cơ chế cạnh tranh nên các cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp phân chia lợi nhuận theo nguyên tắc bình
quân hoá lợi nhuận vì vậy quy luật hoá trị biểu hiện thành quy luật giá cả
sản xuất ( giá sản xuất = CFSX + P ngang )
Điều đó được thể hiện rõ theo quy luật giá trị giá cả hàn hoá : trên thị
trường phải được quyết định bởi mức hao phí lao động xã hội trung bình
( thời gian lao động TB, sức lao động TB, trình độ thành thạo TB,…) ,
nhưng giá trị của hàng hoá lại được quyết định bởi mức hao phó lao
động cá biệt của doanh nghiệp. Như vậy để có thể cạnh tranh được các
doanh nghiệp bắt buộc phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình
dưới mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Và muốn làm được điều
này họ phải tiến hành cải tiến đổi mới công nghệ, phương thức sản
xuất. Chính vì vậy có thể thấy được quy luật giá trị kích thích sản xuất
và cạnh tranh, còn nếu DN nào không cạnh tranh được sẽ sớm lâm vào phá sản.
Trong nền sản xuất xã hội, nếu ở mặt hàng nào đó mà có cung vượt
quá cầu thì lúc này giá cả được đẩy cao hơn so với giá trị, do đó các
doanh nghiệp tập trung vào sản xuất mặt hàng đó và ngược lại. Vậy quy
luật giá trị đóng vai trò điều tiết hàng hoá trong cạnh tranh tự do.
Càng rõ rệt hơn biểu hiện của quy luật giá trị đó là trong việc sản xuất
sản phẩm của bạn phải có giá trị hơn của đối thủ thì khách hàng mới
tham gia mua và sử dụng. Người tiêu dùng chịu sự chi phối của quy
luật tối đa hoá lợi ích. Ai mang cho họ nhiều lợi ích hơn có giá trị hơn thì
mới bán được sản phẩm và tồn tại được.
2. Biểu hiện của Quy luật giá trị trong điều kiện Độc quyền
Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá ở
đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy
tác dụng của quy luật giá tri.
Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của
chủ nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan
hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản ,
mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc
nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làm
cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư
bản có những biểu hiện mới .
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt
giá cả độc quyền, giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao
khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa quy luật giá trị không còn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc
quyền vẫn không thoát ly và không còn phủ định cơ sở của nó là giá trị.
Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua
là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác.
Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số
giá cả vẫn bằng tổng số giá trị. Và trong nền kinh tế xuất hiện có chế
độc quyền nên các tổ chức độc quyền có thể để ra giá độc quyền để thu
P độc quyền cao vì vậy quy luật giá cả độc quyền :
( Giá cả độc quyền = Chi phí sản xuất + P ngang + P độc quyền = Giá
cả sản xuất + P độc quyền )
● Giá cả độc quyền : giá cả hàng hoá nói chung vượt qua giá cả sản
xuất và giá thị trường, dựa vào điều kiện độc quyền về kinh tế
( sản xuất, lưu thông, xuất nhập khẩu…) các tổ chức độc quyền tư
bản chủ nghĩa dùng các phương pháp khác nhau để giữ giá cao, độc quyền
● Giá cả độc quyền gồm 2 loại : giá cả độc quyền cao và giá cả độc quyền thấp
Giá cả độc quyền cao : dùng khi mua
Giá cả độc quyền thấp : dùng khi bán
II. Việt Nam đã vận dụng quy luật giá trị trong thực tiễn
Nền kinh tế nước ta đang từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá xã hội chủ
nghĩa. Quy luật giá trị gắn liền nền sản xuất hàng hoá đó còn hoạt động
trên một phạm vi khá rộng và trong một thời gian dài. Vai trò và phạm vi
hoạt động của nó biến đổi từng thời kì cùng với sự chuyển biến của
quan hệ sản xuất của lực lượng sản xuất với sự phát triển của phân
công lao động xã hội. Vì vậy trong khi xác nhận vai trò chủ đạo của quy
luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, chùn ta cần nhận thức đúng quy luật giá trị
tự giác vận dụng quy luật giá trị và những phạm trù kinh tế gắn liền
với quy luật đó như tiền tệ, giá cả , tín dụng , tài chính để kích thích sản
xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, thúc đẩy nền kinh tế nước ta tiến
nhanh trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo văn kiện đại hội
đảng IX “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa “. Với các đặc trưng của mô hình này như đã
nói ở trên , các quy luật kinh tế được phép phát huy tác dụng của nó
trong đó quy luật giá trị đóng vai trò là quy luật kinh tế căn bản chi phối
toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế. Như đã phân tích ở trên, quy luật
giá trị có vai trò lớn trong nền sản xuất hàng hoá. Chúng ta đã vận dụng quy luật giá trị vào:
1. Trong lĩnh vực sản xuất
Nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không chịu sự điều tiết của quy luật
giá trị mà chịu sự chi phối của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã
hội và quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, quy luật giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất.
Những vật phẩm tiêu dùng cần thiết để bù vào sức lao động đã hao phí
trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ dưới hình thức
hàng hoá và chịu sự tác động của quy luật giá trị . Trong những thành
phần kinh tế khác nhau, tác động của quy luật giá trị có những điểm
không giống nhau. Nhà nước ta đã chủ động vận dụng quy luật giá trị
vào lĩnh vực sản xuất. Vì thế các xí nghiệp của chúng ta không thể và
không được bỏ qua các quy luật giá trị . Một nguyên tắc căn bàn của
kinh tế thị trường là trao đổi ngang giá tức là thực hiện sự trao đổi hàng
hoá thông qua thị trường , sản phẩm phải trở thành hàng hoá. Nguyên
tắc này đòi hỏi tuân thủ quy luật giá trị , sản xuất và trao đổi hàng hoá
phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Cụ thể, xét ở
tầm vi mô: Mỗi các nhân khi sản xuất các sản phẩm đều cố gắng làm
cho thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động xã hộ . Xét ở
tầm vĩ mô : Mỗi doanh nghiệp đều cố gắng nâng cao năng suất lao
động, chất lượng sản phẩm, giảm thời gian lao động xã hội cần thiết. Do
vậy, nhà nước đưa ra các chính sách để khuyến khích nâng cao trình độ
chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp cần phải cố gắng cải tiến máy móc, mẫu
mã nâng cao tay nghề lao động. Nếu không, quy luật giá trị ở đây sẽ
thực hiện vai trò đào thải của nó loại bỏ những cái kém hiệu quả, kích
thích các cá nhân , ngành , doanh nghiệp phát huy tính hiệu quả . Tất
yếu điều đó dẫn tới sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trong đó đội
ngũ lao động có chuyên môn tay nghề ngày càng cao , công cụ lao động
luôn luôn được cải tiến . Và cùng với nó, sự xã hội hoá, chuyên môn hoá
lực lượng sản xuất cũng được phát triển. Đây là những vận dụng đúng
đắn của nhà nước ta. Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì trong sản xuất
giá trị cá biệt của từng xí nghiệp phải phù hợp hoặc thấp hơn giá trị xã
hội , do đó quy luật giá trị dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ
hoạch toán kinh tế trong sản xuất kinh doanh. Các cấp quản lí kinh tế
cũng như các ngành sản xuất , các đơn vị sản xuất ở cơ sở, khi đặt kế
hoạch hay thực hiện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan
hệ cung cầu, để định khối lượng, kết cấu hàng hoá…
a. Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế
Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường thì cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo
hộ trong hoạt động sản xuất nền kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự
hạch toán , không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu sản xuất mà
nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với
các sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định
tấn công vào đâu , bằng những ẩn phẩm gì. Mặt khác, cùng với xu
hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giao dịch trên sàn giao dịch
chứng khoán , thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA , WTO ; mỗi cá nhân,
mỗi doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể
đứng vững khi bão táp của quá trình hội nhập quốc tế ập đến . Sức cạnh
tranh được nâng cao ở đây là nói đến sức cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nước với doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp trong
nước với doanh nghiệp nước ngoài, giữa các cá nhân trong nước với cá
nhân trong nước, giữa các cá nhân trong nước với cá nhân nước ngoài
( cũng có thể cói đây là hệ quả tất yếu của sự phát triển của lực lượng sản xuất)
b. Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường Việt Nam
Cạnh tranh gay gắt sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền
kinh tế năng động lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình
một con đường đi mới trong lĩnh vực sản xuất , kinh doanh sao cho tạo
nên sự sản xuất hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô vàn khác nhau,
các con đường đó luôn tạo ra những lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn
nữa, cạnh tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm hàng hoá đa dạng về
mẫu mã , nhiều về số lượng, cao về chất lượng. Bởi vì sự đào thải của
quy luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, mang lại
nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Sự năng động còn thể hiện ở sự phát
triển nhiều thành phần kinh tế. Bởi vì việc phát triển nhiều thành phần
kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành phần kinh tế ,
phát huy nội lực; tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hoá thu lợi
nhuận ( lợi nhuận siêu ngạch, lợi nhuận độc quyền) hay nâng cao trình
độ sản xuất trong một ngành, một lĩnh vực nhất định
c. Thúc đẩu quá trình hội nhập quốc tế
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận . Sự đầu tư trong
nước và đầu tư ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác
là thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế . Mỗi nước đều có những ưu thế ,
lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát điểm của nền kinh tế
khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa. Do tốc độ
phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc
hậu ; do sự phân bố tài nguyên khác nhau nên nước này có điều kiện
sản xuất cái này nước kia sản xuất cái kia và tạo ra một lợi thế so sánh
trên thương trường. Điều này thúc đẩy sự chuyên môn hoá , hợp tác
hoá sản xuất để có chi phí sản xuất thấp và tuân theo sự điều tiết của
quy luật giá trị , chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả thấp , và do đó
thắng trên thương trường. Ngoài ra khi quy luật giá trị tác động như vậy
sẽ có tác dụng giáo dục những cán bộ lãnh đạo kinh tế tiến hành sản
xuất một cách hợp lí và khiến họ tôn trọng kỉ luật . Nhờ đó mà học hỏi
tính toán tiềm lực của sản xuất,tính toán chính xác, tính đến tình hình
thực hiện của sản xuất, biết tìm ra những lực lượng dự trữ tiềm tàng
giấu kính trong sản xuất. Tuy nhiên điều tai hại là các cán bộ lãng đạo ,
các nhà chuyên môn về công tác kế hoạch , trừ số ít đều hiểu không
thấy đáo tác dụng của quy luật giá trị, không nghiên cứu và không biết
chú ý đến tác dụng đó trong khi tính toán. Đó là nguyên nhân vì sao
chính sách nước ta còn hay mơ hồ
2. Trong lĩnh vực lưu thông
Phân phối và lưu thông trong xã hội chủ nghĩa có sự tác động khách
quan của quy luật giá trị. Việc vận dụng quy luật trong lưu thông, phân
phối được thể hiện ở những mặt sau a. Hình thành giá cả
Hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành
giá cả. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị , cho nên khi
xác định giá cả phải đảm bảo yêu cầu khách quan là lấy giá trị làm cơ
sở phản ánh đầy đủ những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất
hàng hoá . Giá cả phải bù đắp chi phi sản xuất hợp lí, tức là bù đắp giá
thành sản xuất , đồng thời phải bảo đảm một mức lãi thích đáng để tái
sản xuất mở rộng. Đó là nguyên tắc chung áp dụng phổ biến cho mọi
quan hệ trao đổi , quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau,
cũng như nhà nước với nông dân. Giá cả là một phạm trù phức tạp , sự
chênh lệch giữa giá cả và giá trị là một tất yếu khách quan của nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta đã vận dụng quy luật giá trị vào những
mục đích nhất định, đã phải tính đến những nhiệm vụ kinh tế, chính trị
trước mắt bà lâu dài, căn cứ vào nhiều quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa. b. Nguồn hàng lưu thông
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa việc cung cấp hàng hoá cho thị
trường được thực hiện một cách có kế hoạch. Đối với những mặt hàng
có quan hệ lớn đến quốc tế dân sinh, nếu cung cầu không cân đối thì
nhà nước dùng biện pháp đẩy mạnh sản xuất, tăng cường thu mua,
cung cấp theo định lượng, theo tiêu chuẩn mà không thay đổi giá cả.
Chính thông qua hệ thống giá cả quy luật có ảnh hưởng nhất định đến
việc sự lưu thông của một hàng hoá nào đó. Giá mua cao sẽ khơi thêm
nguồn hàng , giá bán hạ sẽ đẩy mạnh việc tiêu thụ và ngược lại. Do đó
mà nhà nước ta đã vận dụng vào việc định giá cả sát giá trị , xoay
quanh giá trị để kích thích cải tiến kỹ thuật, tăng cường quản lí. Không
những thế nhà nước ta còn chủ động tách giá cả khỏi giá trị đối với từng
loại hàng hoá trong từng thời kì nhất định, lợi dụng sự chênh lệch giữa
giá cả và giá trị để điều tiết một phần sản xuất và lưu thông, điều chỉnh
cung cầu và phân phốt giá cả được coi là một công cụ kinh tế quan
trọng để kế hoạch hoá sự tiêu dùng của xã hội. Ví dụ như là giá cả của
sản phẩm công nghiệp nặng lại đặt thấp hoen giá trị để khuyến khích sự
đầu tư phát triển, áp dụng kĩ thuật vào sản xuất. Tuy nhiên sự điều chỉnh
này ở nước ta không phải bao giờ cũng phát huy tác dụng tích cực,
nhiều khi những chính sách này lại làm cho giá cả bất ổn , tại điều kiện
cho hàng hoá nước ngoài tràn vào nước do giá cả hợp lí hơn. Kinh tế thị
trường tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá hàng hoá , theo đuổi hiệu
quả phân phối tối ưu của các nguồn. Ở nước ta phát triển kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa , phải chú ý sự chuyển đổi quan
niệm giá trị xã hội sao cho phù hợp với đạo đức dân tộc truyền thống và
hiện đại. Thể hiện rõ nhất ở nước ra hiện nay là nạn hàng giả, trốn thuế , buôn lậu… Kết luận
Quy luật giá trị có vai trò đặc biệt trong sự phát triển kinh tế thị
trường, nó là quy luật kinh tế căn bản chi phối sự vận động của nền kinh
tế thị trường. Sự tác động của quy luật giá trị một mặt thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế, mặt khác gây ra các hệ quả tiêu cực. Đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện
nay , quy luật giá trị đóng vai trò vô cùng quan trọng . Tuy nhiên có phát
huy được các mặt tiêu cực, đẩy lùi các mặt tiêu cực còn là một vấn đề
phụ thuộc vào nhiêu vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước và nhận thức của mỗi công dân
“ Ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hoá ở đó có sự hoạt động của
quy luật giá trị” Nền kinh tế của nước ta đang trong quá trình chuyển
biến sâu sắc từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường có sự quản lí của
nhà nước . Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng và nhà nước ta thể hiện
trong các chính sách và cơ chế quản lí kinh tế đã phát huy được những
động lực to lớn của nền kinh tế mới đối với sự phát triển của đất nước .
Đặc biệt sự đổi mới cả về nhận thức lí luận lẫn công tác điều hành thực
tiễn trên lĩnh vực áp dụng quy luật giá trị định hướng XHCN vào nền
kinh tế đã góp phần đáng kể vào những thành quả kinh tế chung. Thực
tiễn những năm qua chứng tỏ rằng quy luật giá trị với những biểu hiện
của nó như giá cả , tiền tệ, giá trị hàng hoá… là lĩnh vực tác động hết
sức nhanh nhạy và lớn lao tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước .
Đảng và nhà nước ta đã nhận thức đúng đắng về vấn đề này và thực
hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế tuân theo những nội dung của quy luật
giá trị nhằm hình thành và phát triển một nền kinh tế hành hoá XHCN đa
dạng hiệu quả và đã đạt những hiệu quả nhất định. Bên cạnh đó việc
xụp đổ của nền kinh tế Liên Xô và các nước Đông Âu cũng là một thực
tế cho thấy quan niệm về giá trị giá cả mà các nước đó đã từng áp dụng
có rất nhiều nhược điểm và do đó không thể là cơ sở lý luận cho chính
sách điều tiết nền kinh tế ở nước ra. Nhưng những lí thuyết giá trị của
kinh tế học phương tây mặc dù có những ưu điểm nhất định nhưng
cũng có nhiều khuyết điểm đặc biệt về quan điểm trong cơ sở khách
quan của giá cả. Cách duy nhất để có được cơ sở lí luận đúng đắn cho
chính sách phát triển kinh tế ở nước ta là dựa trên nguyên lí cơ bản của
lí luận giá trị , tiếp tục phát triển nó cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm
vụ mới , làm giàu nó bởi chính những thay đổi cho phù hợp với điều
kiện kinh tế của nước mình. Tóm lại quá trình phát triển kinh tế là một
quá trình lâu dài , đòi hỏi gắt gao việc áp dụng đúng đắn các quy luật
kinh tế , trong thời gian qua tuy đôi lúc sự vận dụng đó của nước ta còn
chưa quán triệt nhiều khi còn dập khuôn nhưng ta cũng đã đạt được
những tiến bộ nhất định mà nếu tiếp tục phát huy thì trong tương lai
không xa chúng ta sẽ có một nền kinh tế XHCN phát triển và thịnh vượng.
I. Giá trị thặng dư trong nền kinh tế tư bản 1. Khái niệm
– Theo những kết luận của C.Mác, giá trị thặng dư là gì được hiểu
như sau: Đây là giá trị do những người lao động làm thuê lao
động và sản sinh vượt quá giá trị sức lao động của mình và bị
nhà tư bản chiếm đoạt.
– Khi nhà tư bản thực hiện đầu tư các chi phí về nguyên vật liệu để sản
xuất thì mục đích của họ là nhằm chiếm đoạt được giá trị thặng dư là
số tiền thu được được tăng lên so với số tiền mà họ đã bỏ ra.
– Người lao động làm thuê trong quá trình lao động thực chất tạo
ra được rất nhiều những giá trị và nhiều hơn so với tiền công họ được trả. 2. Nguồn gốc
– Theo Mác, chế tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy luật tuyệt đối của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở đâu có sản xuất giá
trị thặng dư thì ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại, ở đâu có
chủ nghĩa tư bản thì ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Lênin gọi quy
luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
– Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích,
là động lực thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
nhân tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ
nghĩa tư bản đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc.
– Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản:
Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động
Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân.
– Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.
Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư,
các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được
quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỉ suất giá trị thặng dư cao hơn.
– Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất. Từ đó thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, nền sản xuất có tính
chất xã hội hoá ngày càng cao, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của
sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt. 3. Đặc điểm
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư: Mục đích của sản xuất tư bản là giá
trị thặng dư. Để có giá trị thặng dư, nhà tư bản phải mua được hàng
hóa sức lao động và sử dụng nó trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư.
Quá trình nhà tư bản tiêu dung hang hóa sức lao động và tư liệu sản
xuất để sản xuất giá trị thặng dư có 3 đặc điểm sau:
Một là, công nhân làm việc dưới sự kiểm sát của nhà tư bản
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản
Thứ ba, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa
quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng với việc tạo ra giá trị và hơn
nữa là giá trị thặng dư.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư
– Năng suất lao động của người làm thuê: Đây chính là số lượng sản
phẩm mà người làm thuê làm ra được trong một khoảng thời gian nhất định.
– Thời gian lao động: Đây là khoảng thời gian mà người làm thuê cần
tiêu tốn để có thể tạo ra một số lượng sản phẩm trong điều kiện sản
xuất bình thường. Điều kiện sản xuất bình thường tức là những điều
kiện cần có để người lao động có thể làm việc ở mức tối thiểu để tạo ra sản phẩm.
– Cường độ lao động: Đây là sự hao phí về trí lực và sức lực của
người làm thuê khi làm việc trong một khoảng thời gian nhất định để sản xuất ra sản phẩm.
– Những yếu tố khác:
+ Công nghệ sản xuất
+ Thiết bị, máy móc + Vốn đầu tư
+ Trình độ quản lý
5. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Cách thứ nhất, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Phương pháp giá trị thặng dư tuyệt dối được áp dụng ở giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản, thời kì này nền kinh tế sản xuất chủ yếu là sử
dụng lao động thủ công. Đó là sự gia tăng về mặt lượng của quá trình
sản xuất ra giá trị thặng dư.
– Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được dựa vào
việc kéo dài thời gian lao động tối đa nhiều hơn khoảng thời gian
cần thiết để lao động và tạo ra sản phẩm.
VD: Khi bạn thuê công nhân thu hoạch 50kg khoai lang, bạn trả cho họ
200 VND/ ngày. Tuy nhiên, nhân công chỉ mất có 4h để thu hoạch xong
50 kg khoai lang mà bạn thuê họ cả ngày ( 8h). Do vậy, bạn cho họ thu
hoạch tiếp thêm 4h nữa, vậy là bạn đã chiếm dụng 4 giờ lao động của
nhân công. Giá trị thặng dư lúc này được tạo ra.
– Phương thức: Kéo dài ngày lao động và giữ nguyên khoảng thời gian
lao động tất yếu, năng suất để làm tăng lên giá trị thặng dư.
– Đặc điểm: sản xuất còn thủ công, năng suất thấp.
– Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng
hóa nhưng nó tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài
thời gian người lao động làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp
người công nhân đòi hỏi phải có thời gian ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái
sản xuất ra sức lao động
– Mặt khác sức lao động là hàng hóa đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật
chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu
cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó dẫn đến
phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản rút ngắn
thời gian lao động trong ngày.
Như vậy về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động
tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Cách thứ hai, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
– Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút
ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở tăng năng suất lao động.
– Phương thức: Hạ thấp giá trị sức lao động để rút ngắn thời gian lao
động yếu, trong khi đó thời gian lao động cần thiết không thay đổi, từ đó
làm tăng giá trị thặng dư.
VD: Ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là
lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1 giờ thì thời gian
lao động tất yếu xuống còn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư
tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và m' tăng từ 100% lên 150%.
Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng được nâng
cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng
khoa học công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát
triển chưa từng có trong lịch sử loài người. Khác với cuộc cách mạng
khoa học là dẫn đến sự hình thành các nguyên lý công nghệ sản xuất
mới chứ không đơn thuần là công cụ sản xuất như cách mạng khoa
học. Do đó dẫn đến sự tang trưởng cao, đưa xã hội loài người bước
sang nền văn minh mới – nền văn minh trí tuệ.
Cách thứ ba, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch
– Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được
vượt trội hơn so với giá trị thặng dư bình thường của xã hội.
– Phương thức: Tập trung đẩy mạnh việc áp dụng khoa học, kỹ thuật
vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt. Từ đó, giá trị cá
biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội.
– Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là kì vọng của nhà tư bản và là
động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật hợp lý
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất xã hội tăng lên nhanh chóng.
– C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá
trị thặng dư tương đối do hai giá trị đều dựa trên cơ sở tăng năng suất
lao động. Trong xã hội hiện đại ngày nay, việc nhà tư bản kết hợp hai
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã tạo ra ngày càng nhiều giá
trị thặng dư cho nhà tư bản, bằng cách tăng cường kỹ thuật và quản lí
để bóc lột ngày càng nhiều sức lao động.
VD: Để làm 1 cái áo sơ mi thì thường các doanh nghiệp sẽ có nhiều
khâu do nhiều người đảm nhận như cổ áo do 1 người làm, tay áo do 1
người làm và vạt áo do 1 người làm, rồi ráp lại các bộ phận khác thì của
1 người khác. Vậy thì nhà tư bản sẽ đưa công nghệ mới vào đó, giờ đây
công nghệ mới sẽ chỉ cần 2 người để hoàn thiện chiếc áo mà không cần
đến 5 người như trước đây. Như vậy là họ đã tạo ra giá trị thặng dư siêu
ngạch cho doanh nghiệp của mình.
Máy móc hiện đại được áp dụng, lao động chân tay bị cắt giảm nhưng
không đi đôi với giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân.
II. Biểu hiện hoạt động của giá trị thặng dư 1.Lợi nhuận
a. Chi phí sản xuất
– Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giả trị của hàng hỏa,
bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và giá ra
của sức lao động đã được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa ấy.
– Chi phí sản xuất có vai trò quan trọng: bù đắp tư bản về giá trị
và hiện vật, đảm bảo điều kiện cho tái sản xuất trong kinh tế
thị trường; tạo cơ sở cho cạnh tranh, là căn cứ quan trọng
cho cạnh tranh về giá cả bán hàng giữa các nhà tư bản.
b. Bản chất lợi nhuận
– Lợi nhuận là phần thu nhập thặng dư tính bằng hiệu quả giữa
giá trị tổng doanh thu trừ đi tổng chi phí.
– Lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi mới.
c. Lợi nhuận thương nghiệp