Bộ luật Hammurabi - Lịch sử văn minh thế giới | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Lưỡng Hà sớm bước vào xã hội văn minh, có nền văn minh vô cùng rực rỡ và có sức ảnh hưởng trên toàn thế giới. Trong đó, nền luật pháp xuất hiện sớm ở Lưỡng Hà
Môn: Lịch sử văn minh thế giới (FC.007.02)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới AI CẬP Bộ luật Hammurabi 1. Cơ sở hình thành
Lưỡng Hà sớm bước vào xã hội văn minh, có nền văn minh vô cùng rực rỡ và có sức
ảnh hưởng trên toàn thế giới. Trong đó, nền luật pháp xuất hiện sớm ở Lưỡng Hà, bởi: Cơ sở kinh tế
- Lưỡng Hà là miền đất giữa hai sông Tigrơ và Ơphrat
- =>Địa hình bằng phẳng, đất phù sa màu mỡ
- => Chăn nuôi, nông nghiệp rất phát triển
- => Nội thương phát triển( thực phẩm, lông thú, gỗ, gạch, ngói,..)
- Do địa hình không có biên giới tự nhiên chia cắt, nằm ở vị trí tâm điểm kết nối
của Địa Trung Hải và Tây Á. Mặt khác, do điều kiện đồng bằng nên thiếu các
kim loại và các tài nguyên thiên nhiên khác. Nông nghiệp có nhiều yếu tố thuận
lợi để phát triển đặc biệt là vùng đồng bằng bằng phẳng, ít bị ngăn cách, nguồn
cung cấp nước tưới đều đặn từ hệ thống sông Tigris - Euphrates. Nhờ có điều
kiện tự nhiên thuận lợi nên ngay khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ thì
nông nghiệp vẫn có điều kiện phát triển, sớm bước vào xã hội văn minh
- Sự dư thừa về sản lượng nông nghiệp, chăn nuôi và đất sét
=> Ngoại thương cũng rất phát triển
Có thể thấy, Lưỡng Hà có hoạt động nội thương và ngoại thương sớm phát triển để trao đổi buôn bán
=> Dễ có tranh chấp, xung đột trong quá trình buôn bán
=> Cần quy định để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ dân sự, buôn bán
=>Kinh tế phát triển là nền tảng đòi hỏi đất nước phải có luật pháp để cai trị Cơ sở chính trị
- Nhà nước cổ Babylon tiếp tục tồn tại và xây dựng hình thái nhà nước quân chủ
chuyên chế trung ương lập quyền
- Thực hiện quyền cai trị , vua Hammurabi và Tòa án cấp cao đã lập ra bộ luật Hammurabi
- Bộ luật thể hiện tư tưởng chính trị của Nhà vua: thông qua luật pháp để hạn
chế, xoa dịu mâu thuẫn xã hội ở Babylon, củng cố và phát triển kinh tế xã hội
- Mục tiêu tối cao :" công bằng, chính nghĩa" Cơ sở xã hội
- Bối cảnh xã hội chiếm hữu nô lệ: =>Bộ luật Hammurabi:
+ phản ánh các quan hệ thống trị đương thời
+ là công cụ hữu hiệu để bảo vệ các quan hệ đó
+) Ba giai cấp: giai cấp quý tộc, giai cấp bình dân và nô lệ about:blank 1/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
+) Về cơ bản, hai giai cấp đối kháng: chủ nô >< nô lệ
=> Sự phân hóa giai cấp lớn, mâu thuẫn trong sự phân tầng, bất bình đẳng của giai
cấp. Sự bất bình đẳng này một biểu hiện đặc trưng của xã hội cổ xưa ( bảo vệ quyền
lợi của giai cấp hữu sản, tầng lớp thống trị)
=> Pháp luật được coi là một trong những biện pháp cần thiết và chủ yếu duy trì trật
tự thống trị, đem đến sự đảm bảo về lợi ích
Yếu tố tiền lệ pháp:
Xã hội Lưỡng Hà cũng đã phát triển từ thế kỷ trước. Thực chất, bộ luật Hammurabi có
sự kế thừa từ hai bộ luật đã có từ trước đó là Sumer và Eshunna. Trong đó, bộ luật
Sumer có nội dung được biết đến giải quyết quan hệ hôn nhân gia đình là chính. Bộ
luật Eshnunna có 61 điều, đề cập đến thương nghiệp khá nhiều, gần như Bộ luật Hammurabi.
=> Bộ luật Hammurabi được tập hợp lại và phát triển hơn từ hai bộ luật trên. Đây
chính là bộ luật cổ thành văn hoàn chỉnh nhất. 2. Tính chất bộ luật
2.1.Sơ lược về bộ luật
VUA HAMMURABI(1792-1750 TCN)
- Xây dựng vương triều Babilon thành quốc gia hùng mạnh. Lần lượt chinh phục
được các vùng đất thuộc các quốc gia khác của người A mô rit đồng tộc ở Lưỡng Hà.
- Liên minh với Laxa, Hammurabi đã chiếm được một số nơi.
- Liên minh với Meri, Hammurabi đã đánh thắng quốc gia Esmuna và huy động
đại quân thôn tính Laxa (1762 TCN), Meri.
=> Thế là cả một vùng rộng lớn của khu vực Lưỡng Hà được thống nhất lại. 2.1 LUẬT HAMMURABI
- Bộ luật thành văn hoàn chỉnh và áp dụng thống nhất cho toàn khu vực Lưỡng Hà.
- Luật được tạo ra vào khoảng thập niên 1760 TCN ở Babylon cổ đại.
- Mục đích được thể hiện ở đầu bộ luật.
- Gồm 282 điều khoản: dân sự, hình sự, thừa kế, gia đình, nô lệ, lính canh, ruộng đất...
- Giúp bảo vệ quyền lợi của giai cấp hữu sản, công cụ để duy trì, củng cố bộ máy
nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.
2.2.a. Tính chất pháp lý cao
- Bộ luật có sự chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất của xã hội phương Đông cổ đại
- Đề cập đến nhiều phương diện của đời sống kinh tế, xã hội
- Mỗi điều khoản đều đi kèm với trách nhiệm của 1 hoặc các cá nhân Ví dụ:
Điều 21: Nếu dân tự do xâm phạm chỗ ở của người khác thì bị xử tử và chôn ngay ở about:blank 2/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới chỗ đã xâm phạm.
Điều 46: Nếu chủ ruộng không thu tiền thuế ruộng, mà sẽ căn cứ theo thu hoạch để
thu tô 1⁄2 hay 1/3 thì thu hoạch của ruộng đất sẽ do nông dân và chủ ruộng căn cứ theo
tỉ lệ đã định để chia nhau. 2.2.b.Tính toàn diện
- Cấu trúc bộ luật khá hoàn chỉnh, được chia làm ba phần rõ rệt với phần mở
đầu, nội dung và phần kết.
- Nội dung của bộ luật đề cập đến mọi phương diện của đời sống kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội
- Cách hành văn sáng sủa, dễ hiểu
- Các điều luật được xây dựng theo phương pháp liên hoàn, móc xích nhau, thể
hiện tính chặt chẽ và khả năng bao quát lớn
- Tuy không phân chia thành các ngành luật nhưng bộ luật cũng được chia thành
nhóm các điều khoản có nội dung khác nhau bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội VD: Kinh tế:
+ Điều 55: Nếu dân tự do mở cống của mình, không cẩn thận làm ngập ruộng của người bên cạnh, thì
người này phải căn cứ theo khu vực bên cạnh để đền thóc.
+ Điều 121: Dân tự do gửi thóc ở nhà dân tự do, thì mỗi năm cứ mỗi guru thóc phải nộp 5 ca thuế kho. Hôn nhân và gia đình
+ Điều 128: Nếu dân tự do cưới vợ mà không làm giấy tờ thì người phụ nữ đó không phải là vợ của y.
+ Điều 148: Quy định người chồng không được bỏ vợ khi biết người vợ mắc bệnh phong hủi
Kế thừa tài sản: Người đàn ông cũng có thể bỏ con/tước quyền thừa kế nhưng phải
chứng minh được trước tòa đứa trẻ có hành vi không phải phép. 2.2.c.Tính phổ biến
- Các nhà cầm quyền khi ấy thực hiện các biện pháp để xã hội hóa bộ luật, ai
cũng phải biết và ai cũng hiểu pháp luật và thực thi theo bộ luật
- Ở phần kết của bộ luật, vua Hammurabi đã tự hào rằng bất kỳ ai tham gia vào
cuộc tranh chấp đều có thể đọc luật của ngài để “... biết được phải-trái, đúng-
sai, và thâm tâm ngài sẽ rất vui sướng...”
- "Từ nay cho đến ngàn vạn đời sau, các vua trong nước phải tuân theo những lời
chính nghĩa của trẫm đã khắc trên cột đá của trẫm, không được thay đổi việc
xét xử tư pháp do trẫm đã quyết định và việc thẩm tra tư pháp do trẫm đã xác
lập, không được phá hoại những chế độ do trẫm đặt ra."
2.2.d. Tính chất thần thánh about:blank 3/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
- Có một thực tế là người cổ đại bất lực trước tự nhiên, bất lực trước việc giải
thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Họ tin rằng đấng tối cao đã sáng tạo
muôn loài, sáng tạo nên nhà nước và luật pháp nên họ chấp nhận điều đó, và tin
rằng thần thánh mới là người công minh nhất, thần thánh mới là người cho họ
biết thế nào nào là đúng, thế nào là sai, thế nào là công bằng hay không công bằng.
- Bộ luật chịu sự chi phối của tôn giáo trong khi định tội, những vấn đề khó giải
quyết được thì sẽ để thần linh xét xử ( như thả xuống nước siết, nếu như sống
sót thì coi như là vô tội )
=> Sự kết hợp giữa thần quyền, vương quyền và pháp quyền khiến bộ luật trở nên "linh thiêng hóa"
2.2.e.Tính phân biệt giai cấp
- Bộ luật Hammurabi mang sự bất bình đẳng trong phân biệt giai cấp, nhiều điều
luật bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và các tầng lớp hữu sản. Trong cùng
một tội, hai tầng lớp khác nhau sẽ bị xử khác nhau.
Ví dụ: Trong điều 198 của bộ luật, nếu tầng lớp cao sở hữu ruộng đất làm hỏng mắt
hoặc làm gãy xương của thường dân thì tầng cao hơn chỉ phải nộp phạt một mina bạc
2.2.f.Tính nhân văn, tiến bộ
- Có những điều luật để bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ, phụ nữ được bảo vệ
nhiều hơn so với các bộ luật khác lúc bấy giờ. Ngoài ra, việc một xã hội có sự
phân chia giai cấp rõ rệt như thời bấy giờ thì quy định và trách nhiệm của thẩm
phán thực sự là một bước tiến bộ lớn
Ví dụ: Điều 142, nếu người vợ có thể chứng minh sự vũ phu của người chồng thì cô
ấy có thể lấy của hồi môn và trở về nhà của mình. 2.2.g. Tính nguyên thủy
Bộ luật còn có nhiều hình phạt khắc nghiệt, dã man mà chưa mang tính giáo dục,
không cho con người cơ hội hoàn lương, xử phạt mức cao nhất để làm gương, đây
cũng chính là tính phổ biến nhất ở các bộ luật cổ.
Ví dụ: Điều 229. Nếu một người thợ xây làm một ngôi nhà bị sập khiến chủ nhà
thương vong, người thợ xây đó sẽ bị xử tử. about:blank 4/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới ẤN ĐỘ
Chương 1: Đặc điểm nổi bật của nền văn minh phương Đông và nền văn minh Ấn Độ
1.1. Đặc điểm nổi bật của nền văn minh phương Đông
1.1.1. Văn minh phương Đông - văn minh sông nước
Các nền văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa có một đặc điểm
chung là đều hình thành trên lưu vực của các con sông lớn như: sông Nile (Ai Cập);
sông Tigris và sông Euphrates(Lưỡng Hà); sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange)
(Ấn Độ), sông Hoàng Hà và sông Trường Giang (Trung Hoa).
Ngoài ra, nền văn minh sông Hồng của Việt Nam ở thời cổ đại cũng được hình
thành trên lưu vực sông Hồng và sông Mã
Như vậy, những trung tâm văn minh lớn của phương Đông cổ đại, mặc dù thời
gian xuất hiện có khác nhau nhưng cùng có chung đặc điểm vô cùng quan trọng, đó là
hình thành trên lưu vực các con sông lớn.
Có thể nói, các con sông đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ, chi phối đến nhiều
lĩnh vực trong đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn
giáo...ở các nền văn minh Phương Đông. Có lẽ vì thế, nên có ý kiến cho rằng Văn
minh Phương Đông là văn minh sông nước.
1.1.2. Văn minh phương Đông - văn minh nông nghiệp
Các nền văn minh Phương Đông cổ đại đều hình thành trên các đồng bằng phù
sa, đất đai màu mỡ, mềm, mịn, tơi xốp nên cư dân Phương Đông có thể tiến hành canh
tác sớm, dù chỉ bằng những công cụ lao động thô sơ nhất. Nghề nông xuất hiện và
nhanh chóng trở thành ngành kinh tế chủ đạo, tạo ra những tiền đề cho sự xuất hiện
nhà nước, sớm bước vào xã hội văn minh. Các nền văn minh Phương Đông gắn liền
với nền kinh tế thủy nông, nên cũng có ý kiến cho rằng, văn minh Phương Đông là văn minh nông nghiệp.
1.1.3. Văn minh phương Đông cổ đại mang tính chất khép kín
Ở buổi đầu, hầu hết các nền văn minh Phương Đông đều tồn tại một cách biệt
lập, khép kín (ngoại trừ nền văn minh Lưỡng Hà). Đặc điểm này được quy định bởi vị
trí địa lý và địa hình tự nhiên, tiêu biểu là Ai cập và Ấn Độ. Ở Ai Cập, phía bắc và gần
hết phía đông được bao bọc bởi Địa Trung Hải và Hồng Hải, phía nam là cao nguyên
Nubi với những núi đá lởm chởm, phía tây là sa
mạc Libi khô cằn khó vượt qua. Còn ở Ấn Độ, phía bắc chắn bởi dãy Himalaya, phía
tây, phía nam và phía đông là biển cả mênh mông.
Sự biệt lập và khép kín đã dẫn đến nhiều hệ quả khác nhau. Một mặt, nó làm
cho các quốc gia này tạo ra và giữ được những sắc thái riêng biệt; chế độ chính trị ổn
định; tính cố kết cộng đồng, tương thân tương ái... Mặt khác, nó cũng làm cho cư dân
Phương Đông thời cổ đại ít có cơ hội giao lưu tiếp xúc với bên ngoài; chế độ chuyên
chế tồn tại một cách lâu dài, dai dẳng; tín ngưỡng và tôn giáo phát triển mạnh, ảnh about:blank 5/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
hưởng, chi phối nhiều mặt trong đời sống xã hội…
1.1.4. Văn minh phương Đông cổ đại - văn minh đồ đồng
Về khoáng sản: ở hầu hết các nền văn minh Phương Đông cổ đại, các mỏ
khoáng sản (lộ thiên) rất ít. Do vậy, công cụ lao động, vũ khí còn thô sơ lạc hậu, chủ
yếu được làm từ gỗ, đá, tiến bộ nhất là bằng đồng (việc chế tạo ra công cụ đồ sắt khá muộn và chưa phổ biến)
1.1.5. Văn minh phương Đông chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng - Tôn giáo
Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đến những nền văn minh
như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Ả Rập, Trung Hoa, và cũng không thể không nhắc
đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hindu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông.
Trong số các loại tín ngưỡng ở phương Đông, phổ biến nhất là tín ngưỡng sùng
bái tự nhiên, ngoài ra còn một loại tín ngưỡng nữa cũng khá phổ biến là tín ngưỡng phồn thực.
Có thể nhận thấy rằng, không chỉ riêng thời kì cổ đại, mà mãi đến sau này thậm
chí cho đến ngày nay, tôn giáo luôn có vai trò nhất định đối với xã hội phương Đông.
1.1.6. Phương Đông xuất hiện sự giao thoa giữa các nền văn minh lớn
Ngay từ rất sớm, các quốc gia cổ đại phương Đông đã có sự giao lưu với nhau
trên nhiều lĩnh vực như kinh tế- văn hóa.
VD: Phật giáo xuất phát ở Ấn Độ những vẫn có mặt ở Trung Quốc.
=> Nền văn minh phương Đông đã gây ấn tượng và ảnh hưởng sâu sắc đến các quốc
gia trên thế giới qua các đặc tính nổi bật: Có rất nhiều ý kiến cho rằng, văn minh
phương Đông là nền văn minh sông nước, nền văn minh nông nghiệp. Ngoài ra, nền
văn minh này còn mang tính chất khép kín, được gọi là nền văn minh đồ đồng. Đặc
biệt, văn minh phương Đông còn chịu ảnh hưởng bởi các tín ngưỡng - tôn giáo, xuất
hiện sự giao thoa của các nền văn minh lớn trên thế giới.
1.2. Đặc điểm nổi bật của nền văn minh Ấn Độ
Văn minh Ấn Độ ra đời và phát triển trước tiên ở đồng bằng Ấn – Hằng, lưu vực
hai sông lớn, là nền văn minh nông nghiệp truyền thống, rất đa dạng tùy theo địa
phương, nguồn gốc, tộc người và tôn giáo nhưng vẫn toát lên những nét riêng của
người Ấn không lẫn với các quốc gia khác xung quanh. Bản sắc Ấn Độ, văn minh Ấn
Độ là một trong những nền văn minh phát triển sớm nhất ở châu Á, có sự phát triển,
ảnh hưởng đến tôn giáo, triết học, khoa học kỹ thuật thế giới và nhất là Đông Nam Á.
Trong cuốn “Lịch sử văn minh Ấn Độ” Will Durant đã cho rằng Ấn Độ chính là nơi
khởi phát của nền văn minh cổ. Ấn Độ là một trong những nền văn minh cổ nhất thế
giới. Các cuộc phát kiến đã phát hiện ra các chứng tích của buổi đầu văn minh bị chôn
vùi dưới đất và trên bờ sông phía Tây Indus, nhiều di tích của một nền văn minh cổ
hơn bất kỳ nền văn minh mà nhân loại đã từng biết đến và được tìm thấy. Ấn Độ là
một nền văn minh độc đáo của nhân loại. Ấn Độ được biết đến là cái nôi của tôn giáo
lớn trên thế giới như Ấn Độ giáo, Phật giáo, đạo Jain, đạo Sikh... Hầu hết, tôn giáo giữ
vai trò trung tâm, có tầm ảnh hưởng rộng khắp và chi phối mọi mặt đời sống từ văn about:blank 6/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
hóa, chính trị, đời sống của con người nơi đây.
Chương 2: Lý giải việc Ấn Độ muốn đưa nền văn minh ra bên ngoài và việc
văn minh phương Đông lại tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ
2.1. Lý giải việc Ấn Độ muốn đưa nền văn minh ra bên ngoài
2.1.1. Ấn Độ có ý thức về vai trò của các nước lớn từ rất sớm
Lịch sử trên thế giới đã cho thấy, giữa các nước lớn luôn có sự tương tác và họ có vai
trò chi phối và quyết định đến sự phát triển của tình hình chính trị và trật tự của thế
giới. Trong mối quan hệ nước nhỏ và nước lớn thì nước lớn giữ vai trò làm chủ và ảnh
hưởng chi phối, thông qua những đòn bẩy đa dạng các nước lớn có khả năng ràng
buộc, tác động đến việc định hình chính sách và hành vi khiến các nước nhỏ phải quan
tâm đến ý kiến và theo lợi ích của họ. Trong mối quan hệ lợi ích, các nước lớn thường
bỏ qua hoặc xem nhẹ lợi ích của các nước nhỏ, và khi có xung đột, mâu thuẫn các
nước lớn chi phối, buộc nước nhỏ theo chính sách, mong muốn của mình bất chấp luật pháp quốc tế.
Trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước lớn, nước lớn sử dụng các tiềm lực
tự nhiên, công cụ và nguồn lực đa dạng của mình để khai thác, lôi kéo các nước nhỏ
về phía mình bằng việc lợi dụng mâu thuẫn của các nước nhỏ đối với nước lớn đối thủ
để từ đó thông qua chính sách chia rẽ, lôi kéo, ràng buộc các nước nhỏ về phe mình.
Ấn Độ có thể đã nhận thấy các nước nhỏ như một “lá bài” để các nước lớn đem ra trao
đổi, mua bán đổi lấy lợi ích và quyền lợi cho mình.
2.1.2. Chủ động đưa văn hóa, văn minh của đất nước ra bên ngoài
Đối với khu vực phương Đông nói chung và Đông Nam Á nói riêng, ngay từ
khi bắt đầu từ đầu Công Nguyên, từ cái nền chung là cơ tầng văn hóa bản địa, thì
những cư dân ở đây đã bắt đầu gặp làn sóng văn hóa Ấn Độ đến các khu vực này theo
chân các thương gia và những nhà truyền đạo một cách hòa bình. Quá trình tiếp nhận
văn hóa Ấn Độ của khu vực Đông Nam Á bằng nhiều con người khác nhau, chủ yếu
do người Ấn Độ chủ động truyền bá ra bên ngoài.
Trước hết, có lẽ ở một số thương nhân Ấn Độ đã đến khu vực này và hoạt động
làm cho nền kinh tế và việc trao đổi sản phẩm ở các khu vực này phát triển, đồng thời
văn hóa Ấn Độ cũng theo đó mà truyền vào.
Thứ hai, một số nhà truyền đạo cũng theo các thuyền buồm đến Đông Nam Á,
đồng thời một số thương nhân ở Việt Nam cũng sang Ấn Độ để giao lưu nhờ đó tiếp
thu được nền văn hóa Ấn Độ.
Ngoài ra, nhiều bộ tộc ở Đông Nam Á còn tiếp nhận cách thức tổ chức xã hội và
chính quyền của Ấn Độ để thành lập nên các quốc gia riêng, tuy nhiên để tổ chức một
nhà nước vương quyền theo Ấn Độ thì không thể tách tôn giáo. Qua đó, khi tạo dựng
một quốc gia thì các cư dân Đông Nam Á đã tiếp nhận cả chữ viết.
2.2. Lý giải việc văn minh phương Đông tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ
Nền văn minh phương Đông tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ vì:
Đầu tiên, giữa Ấn Độ và phương Đông đặc biệt là Đông Nam Á có nhiều điểm tương
đồng với nhau tạo điều kiện tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ about:blank 7/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
- Về vị trí địa lý: Đông Nam Á nằm giữa trục giao lưu Đông - Tây và Nam– Bắc, từ
rất sớm đã trở thành con đường giao thương trên biển nối thông thế giới Đông – Tây,
giữa Trung Hoa với Ấn Độ, Ấn Độ và thế giới phương Tây và trở thành ngã tư của các
nền văn minh. Nổi lên trong đó là mối quan hệ giao thương, buôn bán với những
thuyền buôn đến từ Ấn Độ. Chính từ con đường giao lưu, buôn bán này đã là tiền đề,
cơ sở để các cư dân Đông Nam Á tiếp thu, học hỏi ở nền văn hóa lớn của thế giới cổ đại lúc bấy giờ.
- Giao thông đường thủy: Khu vực Đông Nam Á nói chung và đặc biệt là bán đảo
Đông Dương và các đảo trong vùng, đều chịu ảnh hưởng của gió mùa. Những luồng
gió theo mùa và định hướng đã tạo điều kiện cho con người có thể vượt biển bằng các
phương tiện thô sơ, thuyền buồm, tạo điều kiện cho hoạt động hàng hải, trao đổi.
- Tộc người: Những tộc người ở Đông Ấn có quan hệ mật thiết với một số tộc người
Đông Nam Á tiền sử đã tạo nên sự gần gũi trong phong tục, tập quán giữa hai khu
vực. Chính bởi có nhiều những nét tương đồng mà các nhà du thám, những nhà buôn,
những nhà truyền giáo và cả những đội quân xâm lược thực dân của phương Tây đều
coi Đông Nam Á là vùng Đông Ấn hay ngoại Ấn Độ và trong suốt một thời gian dài
các nhà khoa học đã gọi các quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á là các quốc gia "Ấn Độ hóa".
- Trên nền chung của nông nghiệp lúa nước đã tạo nên sự gần gũi trong phong tục, tập
quán, yêu cầu hợp quần đề xử lý nước mà trồng lúa, trị thủy – thủy lợi. Đối với Ấn
Độ, ngay từ thời kỳ này đã có sự giao lưu với khu vực Đông Nam Á. Những điểm
tương đồng về khí hậu, gần gũi về địa lý tộc người, là cơ sở ban đầu cho điều đó.
- Hoạt động kinh tế: Cư dân phương Đông bao gồm cả Ấn Độ họ có chung một nền
tảng văn hóa, lấy sản xuất nông nghiệp làm phương thức hoạt động kinh tế chính.
Ngoài ra, lý giải về điều này có thể nhận định rằng, nền văn minh nào phát triển và
rực rỡ hơn sẽ được các quốc gia trên thế giới tiếp nhận. Tiêu biểu như đối với Ấn Độ
một quốc gia có nền văn minh vô cùng phát triển và rực rỡ ở tất cả các mặt như chữ
viết, văn học, tôn giáo, nghệ thuật đồng thời cùng với sự chủ động đưa nền văn minh
của mình ra bên ngoài thì Ấn Độ đã nhận được sự tiếp thu mạnh mẽ của văn minh
phương đông, các quốc gia khu vực. Phương Đông và đặc biệt là Đông Nam Á chịu
ảnh hưởng sâu sắc và tiếp nhận nền văn minh Ấn Độ nhưng không vì thế mà biến các
vùng này thành khu vực “Ấn Độ hóa” mà nó đã “ lựa chọn những gì thích hợp trong
thế giới Đraviđa, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình, chứ không phải tiếp thu
tất cả những gì xa lạ với họ”. Điều này được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, ví dụ như,
trong sự khác biệt giữa sử thi Ramayana của Ấn Độ với Riêmkê của Campuchia với Rama Khiên của Thái Lan. Phần 2: Nội dung
Chương 1: Ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ đối với sự phát triển của
văn minh phương Đông 1.1. Chữ viết
Ấn Độ là nơi xuất hiện chữ viết sớm nhất trên thế giới. Chữ viết đầu tiên của Ấn
Độ xuất hiện từ thời văn hóa Harappa, được tìm thấy trên các con dấu cổ, là một loại about:blank 8/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần. Chức năng của các con dấu là đóng trên hàng
hóa để phân loại hàng hóa. Đến khoảng thế kỷ thứ V TCN, xuất hiện loại chữ
Kharosthi, phỏng theo chữ viết vùng Lưỡng Hà. Sau đó xuất hiện chữ Brahmi. Trên
cơ sở chữ Brahmi, họ đặt ra chữ Đêvanagari có cách viết đơn giản và thuận tiện hơn.
Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Sanskrit (tiếng Phạn) hiện nay vẫn được dùng tại Ấn
Độ và Nepal. Đây cũng là cơ sở cho nhiều loại chữ viết tại phương Đông. Từ thế kỷ I
đến thế kỷ X, Các quốc gia cổ đại Đông Nam Á chưa có chữ viết nên họ đã vay mượn
trực tiếp chữ viết của Ấn Độ và dựa trên những mẫu chữ đó để sáng tạo ra chữ viết riêng của mình. 1.2. Văn học
Khi Hindu giáo, Hồi giáo và Phật giáo du nhập phổ biến ở các quốc gia phương Đông
cổ đại chưa có chữ viết nên chữ viết Ấn Độ không những là ngôn ngữ trong truyền
giáo mà còn đóng vai trò ngôn ngữ văn học ở các quốc gia này. Ví dụ như văn học thế
kỷ VII – XIII ở Malaysia – Indonesia đã lấy Sanskrit làm ngôn ngữ thơ ca. Bên cạnh
đó, Ấn Độ là nước có nền văn học rất phát triển, gồm có 2 thành tựu rực rỡ nhất là: Vê
đa và Sử thi. Ở quần đảo Indonesia, Malaysia văn học cổ đại Ấn Độ đã du nhập vào
đây từ rất sớm, các tác phẩm sử thi Ramayana, Mahabharata rất thịnh hành và ngày
càng lan rộng khắp quân đảo suốt thời kỳ cổ trung đại thông qua loại hình rối bóng Wayang.
Nếu như sử thi Mahabharata vĩ đại với dung lượng vô cùng đồ sộ đến với văn
học các nước phương Đông bằng những trích đoạn, hoặc từng phần, thì sử thi
Ramayana với dung lượng ngắn hơn lại phổ biến rất rộng rãi. Ramayana mô tả một
cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng
tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Tiêu biểu là Riêmkê ở Campuchia,
Ramayana là một bộ sử thi thần linh hóa các nhân vật nhưng ở Riêmkê các nhân vật
có nguồn gốc thần linh lại gần gũi với cuộc sống bình thường bởi sự: ghen tuông, mù
quáng, cố chấp… và có một kết cục bi thảm để răn đe những người xem, người đọc.
Tác phẩm thứ hai là Riêmkhiêm ở Thái Lan. Kinh đô của Thái Lan mang tên là
Ayutthaya, nghĩa là “kinh đô của Rama”, trong suốt bốn thế kỷ (XIV – XVIII). Các vị
vua Thái Lan thời kỳ Rattanakosin (từ năm 1782 đến nay) trở đi đều lấy hiệu là Rama.
Truyện thơ Riêmkhiem vẫn giữ đầy đủ khung sườn của Ramayana, lưu lại hệ thống
nhân vật và các mắt xích quan trọng như: cuộc lưu đày vào rừng, giết quỷ cứu người
đẹp, thử lửa… Tuy nhiên, tác phẩm đã có những thay đổi cơ bản như cốt truyện dần
có sự chuyển hoá về ý thức tôn giáo, các tư tưởng Bà la môn dần thay thế bằng tư
tưởng Phật giáo và sử dụng các thể thơ dân tộc và sáng tác gắn liền với biểu diễn.
Ở Myanmar, Lào cũng chịu ảnh hưởng của văn học Ấn Độ, song tiểu khu vực
này tiếp nhận muộn hơn và nhiều khi tiếp nhận thông qua một quốc gia khác, chẳng
hạn như văn học Lào chịu ảnh hưởng Ấn Độ thường được thông qua Thái Lan hoặc Khmer.
Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tập ngụ ngôn “Năm phương pháp” chứa đựng rất
nhiều tư tưởng và được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á- Âu. Từ nền văn
minh Ấn Độ, văn minh các nước phương Đông có thêm luồng gió mới mang đến about:blank 9/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
phong cách sử thi, anh hùng qua hình thức truyền miệng. Những tác phẩm văn học cổ
đại Ấn Độ khi vào các nước phương Đông đã được tái sinh mang đậm những bản sắc
riêng của mỗi vùng miền. 1.3. Nghệ thuật
Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển vô cùng rực rỡ. Nghệ thuật
Ấn Độ cổ đại hầu hết đều một tôn giáo nhất định. Có thể chia ra làm 3 dòng nghệ
thuật chính là: Hinđu giáo, Phật giáo và Hồi giáo. Những công trình kiến trúc tiêu biểu
của Ấn Độ, cụ thể là những kiến trúc về tôn giáo đều có những mô típ nhất định như:
● Kiến trúc Hindu: nhiều tầng đỉnh tháp nhọn, bên ngoài được trang trí bằng các
phù điêu với nhiều hình dạng khác nhau. (gồm có các cụm đền tháp Khajuraho)
● Kiến trúc Phật giáo: có hình dạng tháp, mái vòm tròn, chiếc bát úp. (trụ đá
Asoka, chùa hang Ajanta, chùa hang Enlôra, chùa Tanjo)
● Kiến trúc Hồi giáo: mái tròn, cửa vòm, có hình tháp nhọn, sân rộng
(tháp Mina, lăng Taj Mahal).
Các nước phương Đông đã tiếp thu một cách đầy sáng tạo các cốt cách đề tài,
các phong cách nghệ thuật Ấn Độ và nhào luyện cùng với vốn văn hóa của mình rồi
tạo nên những công trình kiến trúc đồ sộ như: tháp Chàm, thánh địa Mỹ Sơn ở Việt
Nam, Ăngcovat và Ăngcothom ở Campuchia, Thạt Luổng ở Lào....
Điêu khắc: Nghệ thuật tạo hình của Ấn Độ chủ yếu khắc họa các nội dung tôn
giáo, song vẫn thể hiện tính hiện thực rõ nét. Các bức tượng Phật, tượng thần của đạo
Hinđu nhiều mắt, nhiều đầu, nhiều tay đã trở thành vật được tôn thờ không chỉ ở Ấn
Độ mà còn của rất nhiều nước phương Đông hiện nay như: Myanmar, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Indonesia và cả ở Việt Nam. 1.4. Khoa học tự nhiên
Khoa học tự nhiên của Ấn Độ đạt được rất nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh
vực. Những thành tựu đó không chỉ ảnh hưởng đến văn minh phương Đông mà
ảnh hưởng trên toàn thế giới và ngày nay vẫn đang được sử dụng rộng rãi.
Về Thiên văn: người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12
tháng, mỗi tháng có 30 ngày, mỗi ngày có 30 giờ. ( Như vậy năm bình thường có 360
ngày ). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận. Ngoài ra, họ đã biết trái
đất, mặt trăng có hình cầu, phân biệt được một số hành tinh và sự vận hành của chúng.
Sau đó, người Trung Quốc còn chế tạo ra được loại máy quan sát bầu trời nên đã
phát hiện ra được các ngôi sao mới và thiết lập hành tinh biểu sớm nhất thế giới.
Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số
mà ngày nay ta sử dụng, phát minh lớn nhất của họ là tìm ra số 0. Tuy nhiên người ta
thường nhầm lẫn và quen gọi là chữ số Arập bởi người ta tìm thấy chúng đầu tiên ở
các tài liệu Arập. Thực tế, các con số đó được khắc trên phiến đá của Asoka từ thế kỉ
III TCN. Ngoài ra, người Ấn Độ cũng đã biết tính diện tích 1 số hình, biết về quan hệ
giữa 3 cạnh trong một tam giác, tính được Pi= 3,1416. Đây là đóng góp vô cùng to lớn
cho sự phát triển của toán học, ngày nay những kiến thức này vẫn đang được áp dụng
và phát triển rộng rãi ở các nước trên thế giới, trong đó có Thái Lan, Lào, Campuchia...
Về vật lý: Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử và biết được sự tồn about:blank 10/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
tại của lực hút trái đất. Điều đó là tiền đề cho sự phát triển của vật lý hiện đại, giúp các
nhà khoa học nghiên cứu thêm được nhiều kiến thức mà hầu hết các quốc gia phương
Đông được tiếp thu và sử dụng hiện nay, điển hình là Việt Nam.
Y học: Ấn Độ cổ đại đã biết dùng tới phẫu thuật, họ để lại hai quyển sách là “Y
học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu”. Những kiến thức đó đã được ngành y học
hiện nay vận dụng, phát triển cao hơn, hiện đại hơn để chữa bệnh cho con người tại
phương Đông cũng như khắp thế giới.
Như vậy, những thành tựu về khoa học tự nhiên vô cùng rực rỡ và đa dạng trong
nhiều lĩnh vực của Ấn Độ đã bước đầu đặt nền móng cho nhiều phát minh về khoa học
tự nhiên trên thế giới sau này mà chúng ta vẫn đang được sử dụng.
=>Tất cả những thành tựu vô cùng rực rỡ của văn minh Ấn Độ về triết học- tôn giáo-
văn hóa- nghệ thuật- khoa học tự nhiên đã ảnh hưởng không nhỏ vào sự phát triển của
nền văn minh phương Đông nói riêng và nền văn minh nhân loại nói chung. Phương
Đông đã trở thành một khu vực văn hóa, chính trị - xã hội thống nhất với nhiều nét
đặc trưng do ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ. Chính những ảnh hưởng đó đã là một sợi
dây vô hình, nhưng đầy sức mạnh, liên kết các nhà nước, các quốc gia cổ đại ở
phương Đông vào một quỹ đạo văn hóa chung, hay một thế giới văn hóa đồng nhất về
tôn giáo, chữ viết, tư tưởng, văn học và nghệ thuật,... Tuy cùng chịu ảnh hưởng chung
của Ấn Độ, nhưng mỗi quốc gia cổ đại phương Đông lại tạo ra cho mình một nền văn
hóa, một mẫu hình tổ chức chính trị - xã hội riêng rất đặc trưng của mình. 1.5. Tôn giáo
1.5.1. Ảnh hưởng của đạo Bà la môn đến Việt Nam
Sự ảnh hưởng của đạo Bà la môn đến Việt Nam được thể hiện ở văn hóa Chăm ở
nhiều khía cạnh khác nhau nhưng điển hình ở 3 khía cạnh: kiến trúc, điêu khắc, sức mạnh bản địa hóa.
Kiến trúc: Những đền, tháp Chăm đều có đặc điểm chung là 1 cụm kiến trúc bao gồm
một tháp trung tâm hình vuông, mái thon nhọn “tượng trưng cho ngọn núi Mêru - Ấn
Độ, trung tâm vũ trụ nơi ngự trị của thánh thần”. Xung quanh tháp chính là những
tháp nhỏ nằm theo vị trí 4 hướng tượng trưng cho các lục địa và ngoài cùng là hào
rãnh là biểu tượng của đại dương. Sơ đồ kiến trúc đó được xây dựng theo kiến trúc của Ấn Độ.
Tháp còn có một đặc điểm chung là xây bằng gạch, có 4 mặt hình vuông đối
xứng nhau. Mặt trước hướng về phía đông có cửa ra vào còn 3 mặt còn lại ở 3 hướng
(Tây, Nam, Bắc) có 3 cửa giả. Tháp Chăm thường có 3 tầng được cấu trúc như nhau,
mỗi tầng càng lên cao càng thu nhỏ dần và kết thúc bằng một Linga bằng đá trên nóc
tháp. Như vậy kĩ thuật xây tháp của người Chăm ảnh hưởng sâu sắc của văn minh Ấn Độ.
Điêu khắc: Cùng với kiến trúc, điêu khắc Chămpa cũng thể hiện được vẻ đa dạng, độc
đáo. Những đề tài điêu khắc Chăm là những tượng thờ Siva, Vishnu, Brahma. Ngoài
những vị thần trên, vật thờ ở tháp Chăm phổ biến vẫn là cặp Linga- Yoni. Những cảnh
chạm khắc, trang trí ở các bệ thờ, điêu khắc Chăm phần lớn ảnh hưởng của văn hóa
Ấn Độ. Như bệ thờ Trà Kiệu chạm khắc 4 cảnh quanh đài thờ kể chuyện trường ca about:blank 11/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
Ramayana (chủ đề lễ cưới công chúa Sita). Bệ thờ Mỹ Sơn E1 diễn tả cảnh sinh hoạt
lễ nghi tôn giáo của đạo sĩ Ấn và những cảnh trầm tư, giảng đạo múa hát, luyện thuốc
chữa bệnh. Điêu khắc Chăm đã thể hiện nhiều đề tài phong phú, đa dạng, một số tác
phẩm trở thành kiệt tác như tượng Vũ nữ Trà Kiệu (Apsara) được đánh giá là đỉnh cao
của nghệ thuật tạc tượng Chămpa và của cả miền Đông Nam Á”.
Nghệ thuật: điêu khắc kiến trúc của Chăm tuy có những nét ảnh hưởng văn hóa Ấn
Độ nhưng họ không tiếp thu, sao chép một cách nguyên vẹn mà luôn cải biên, sáng
tạo trên cơ sở văn hóa bản địa. Kiến trúc Chăm cũng như vậy, luôn dựa vào motip của
người Ấn độ giáo để biến hóa thành cái của riêng mình, Ví dụ như tháp Chăm chỉ xây
bằng gạch chứ không xây bằng đá như tháp Ấn Độ. Điều đó đã thể hiện được tính bản
địa- một cá tính riêng của người Chăm.
Quan niệm về Đấng tạo hoá, Bàlamôn giáo coi Brahma là vị thần sáng tạo tối
cao, toàn trí toàn năng, là nguyên lý cấu tạo và chi phối vũ trụ. Trong khi đó, người
Chăm Bàlamôn lại cho rằng Đấng tạo hoá là “Mẹ xứ sở” Pô Inư Nưgar.
1.5.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với Việt Nam
Từ xa xưa, các nhà Ấn Độ đã đến Việt Nam bằng con đường biển vào đầu Công
nguyên và thành lập trung tâm Phật giáo lớn nhất thời bấy giờ là Luy Lâu (nay thuộc
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Ngôn ngữ: trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong văn học ta thấy có nhiều từ ngữ
chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật giáo. Các từ ngữ như từ bi, giác ngộ, sám hối được
người dân Việt quen dùng. Đó chính là sự ảnh hưởng, lan rộng, ăn sâu vào tiềm thức
của người Việt về Phật giáo.
Phong tục tập quán: Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều phong tục tập quán của
Phật giáo. Như tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sinh hay bố thí, tập tục cúng rằm, lễ
chùa,...Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất
phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ảnh hưởng của Phật giáo qua nghi thức ma
chay, cưới hỏi, đây cũng là sinh hoạt thường ngày trong cuộc sống của người Việt.
Kiến trúc: Khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, con người đã đem theo các kiểu kiến
trúc chùa tháp, lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc Ấn Độ. Tuy nhiên theo
thời gian, tinh thần khai phóng của Phật giáo phối hợp với lối tư duy tổng hợp của dân
tộc Việt đã tạo ra một mô hình kiến trúc rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp
ở Việt Nam thường được xây dựng với lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa thường ẩn sau
lũy tre, gốc đa hay một cảnh trí thiên nhiên đẹp, thanh vắng.
Về điêu khắc: Tại các viện bảo tàng lớn ở Việt Nam có nhiều cốt tượng, phù điêu của
Phật giáo được trưng bày. Đó là niềm tự hào của Việt Nam và cũng là dấu vết chứng
minh sự ảnh hưởng của Phật giáo. Tiêu biểu như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, chùa Hạ,...
1.5.3. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với Trung Quốc
Về mặt triết học, truyền thống triết học Trung Quốc chú trọng luân lý thực tiễn,
thường thường đối với việc trị quốc an bang nghiên cứu thảo luận mối quan hệ giữa
người và thiên nhiên, xã hội, thiếu đi phần sâu sắc truy tìm căn nguyên bổn thể vũ trụ,
nguồn gốc sanh mệnh, chỗ quay về sau khi chết v.v… Phật giáo truyền vào Trung about:blank 12/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
Quốc, một mặt làm giàu phương thức tư duy và kho tàng triết học Trung Quốc ; mặt
khác thông qua các tư tưởng như thể dụng tương tức, thời gian không gian vô hạn, tâm
tánh nhiễm tịnh, kiến tánh thành Phật... đã làm rộng lĩnh vực nghiên cứu của nền triết
học Trung Quốc, làm lớn chiều sâu tư duy của triết học Trung Quốc, và đẩy mạnh sự
phát triển lớn lao của triết học Trung Quốc.
Về phương diện văn học, các bản Hán dịch truyện ký về cuộc đời Ðức Phật Thích
Ca, truyện bổn sanh, ngụ ngôn và các kinh điển đại thừa như “Duy Ma”, “Pháp Hoa”,
“Hoa Nghiêm”, “Lăng Nghiêm” với tình tiết phong phú, hình tượng sinh động có giá
trị văn học rất cao. Các thể loại ngụ ngôn, tiểu thuyết, truyện của kinh Phật đã có tác
dụng quan trọng trong việc đẩy mạnh sự phát triển của các loại hình tiểu thuyết, bình
thoại, hý kịch, khúc điệu đời sau ; các hoạt động hoằng pháp dùng thông tục ngôn ngữ
tuyên giảng Phật pháp, cũng trực tiếp ảnh hưởng đến sự ra đời của văn học thuyết
xướng như biến văn, bảo quyển, đàn từ, cổ từ ; điển tịch phong phú. Tư tưởng sâu sắc
của Phật giáo lại cung cấp số lượng lớn nội dung tư tưởng và tình tiết cốt truyện cho
việc sáng tác tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Các tác phẩm trường thiên cổ đại nổi
tiếng như “Tây du ký”, “Hồng lâu mộng”, “Phong thần diễn nghĩa”, “Kim bình mai”,
“Tam quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử”, “Nho lâm ngoại sử”... là những tác phẩm tiêu biểu
ảnh hưởng nhiều phương diện của Phật giáo. Thanh minh học Ấn Ðộ theo Phật giáo
truyền vào Trung Quốc, ảnh hưởng đến sự sáng tạo 4 thanh của âm vận học và luật
thơ, từ đó đẩy mạnh sự khai sáng thể loại mới từ đời Ðường trở về sau. Đồng thời tư
tưởng Phật giáo phong phú, nhất là tư tưởng Bát nhã duyên khởi tánh không và tư
tưởng thiền tông không trệ vào một vật nào, cũng tăng thêm những nội dung mới, ý
cảnh mới cho thi ca Trung Quốc.
Về phương diện dân tộc, theo sự lưu truyền của Phật giáo tại Trung Quốc, một vài
ngày lễ truyền thống của Phật giáo dần dần trở thành ngày lễ của dân gian, như mùng
8 tháng chạp âm lịch, vốn là ngày kỷ niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo, sau
thời kỳ Nam Bắc triều, kết hợp với ngày lễ tháng chạp vốn có mặt lâu đời tại Trung
Quốc, đó là nguồn gốc của ngày lễ mùng tám tháng chạp ăn cháo. Hơn nữa, để kỷ
niệm Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, ngày 15 tháng 4 dương lịch, dân tộc
Tây Tạng đều cử hành “lễ Tát Ca Đạt Ngõa”.
Về phương diện nghệ thuật, từ thời Hán Ngụy, do tiếp thu sự ảnh hưởng mạnh mẽ
của Phật giáo, các lĩnh vực nghệ thuật của Trung Quốc như kiến trúc, điêu khắc, hội
họa, âm nhạc... đều tăng thêm hình thức và nội dung mới, trong kho tàng nghệ thuật
dân tộc tăng thêm rất nhiều trân bảo quý hiếm vô giá. Chùa Bạch Mã là ngôi chùa
Phật khởi nguyên tại Trung Quốc, trải qua lịch sử diễn biến, chùa Phật Trung Quốc
cách kiến trúc chủ yếu đã hình thành 2 loại là tháp và chùa thạch quật. Ðặc điểm của
tháp là tự viện và tháp kết hợp hài hòa với nhau, hoặc là xây tháp trong chùa, hoặc là
xây tháp ngoài chùa, phần đông các tự viện phân bố khắp các miền Trung Quốc đều
thuộc về loại này. Chùa lấy Ðại hùng bảo điện làm chủ thể, phần đông xây bằng gỗ,
gỗ và nghệ thuật kiến trúc vốn có liên kết với nhau, hình thành nên phong cách mới,
từ đó ngành kiến trúc phô bày sắc thái đặc thù mới lạ ; tháp kết hợp nghệ thuật kiến
trúc và nghệ thuật điêu khắc thành một thể, hình thức đa dạng, cách tạo hình mỹ quan. about:blank 13/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
Thạch quật tự được đào dựa theo thế núi, bên trong điêu khắc hình tượng Phật, vẽ bích
họa, nổi tiếng là các thạch quật Ðôn Hoàng, thạch quật Vân Phong, thạch quật Long Môn...
1.5.4. Ảnh hưởng của đạo Hinđu với Đông Nam Á
Đạo Hinđu hình thành ở Ấn Độ khoảng 800 năm trước công nguyên rồi du
nhập vào các quốc gia phương Đông, điển hình là Đông Nam Á từ những thế kỷ đầu
công nguyên theo 2 con đường: đường thủy và đường bộ. Sự ảnh hưởng của Hindu
giáo đến các quốc gia Đông Nam Á qua các mặt:
Kiến trúc, điêu khắc: Theo Pắcmăngiơ, kiểu kiến trúc Hindu được chia làm hai loại
là kiểu đền thờ ở Nam Ấn (tháp có cấu trúc hình vuông hay hình chữ nhật, được xây
dựng từ đá nguyên khối) và kiểu đền thờ Hindu ở Bắc Ấn (gồm cả tháp chính và tháp
phụ, các tháp đều có hình múi khế). Ở Đông Nam Á có sự xuất hiện của cả 2 kiểu kiến
trúc trên nhưng nhiều hơn cả là kiểu kiến trúc có cấu trúc hình vuông hay hình chữ
nhật. Công trình kiến trúc Hindu tiêu biểu ở Đông Nam Á tiêu biểu là tháp Chàm ở
Việt Nam, Ăng Co Vát ở Campuchia.
Chính trị: Dấu ấn của Ấn Độ giáo trong chính trị thể hiện ở chỗ tăng cường tính thần
quyền của vua: đồng nhất vua-thần. Các vị vua lên khi lên ngôi sẽ được giáo sĩ
Balamon chúc tụng niệm, đồng nhất vua với thần. Ở Myanmar, vua được đồng nhất
với Thagymin-Indra. Ở Campuchia, vua-Shiva (sau đó là Vishnu, Lokesvar). Những
người dân theo đạo Hindu ở Đông Nam Á coi vua là
trung tâm và các nơi xung quanh phải thần phục, tôn sung vua.
Xã hội: Hindu giáo từ khi du nhập vào một số quốc gia Đông Nam Á đã thúc đẩy quá
trình phân hoá xã hội, được những tầng lớp trên tiếp nhận để phục vụ cho việc thiết
lập và củng cố vương quyền.
Văn hoá, tín ngưỡng: lễ hội của những cư dân Đông Nam Á cũng chịu ảnh hưởng
nhiều từ đạo Hindu. Có thể kể đến như lễ hội Diwali (lễ hội ánh sáng), một lễ hội quan
trọng của Hindu giáo được tổ chức từ ngày 14-16 tháng Thadingyut ở Myanmar. Về
hình thức tín ngưỡng, vì tin vào thuyết luân hồi của Ấn Độ giáo nên mỗi gia đình cư
dân Hindu giáo thường có chỗ thờ cúng tổ tiên và thần linh ở cạnh nhà. Ở đền Hindu,
cư dân Đông Nam Á thờ 3 vị thần chính là Brahma - thần sáng tạo, Vishnu - thần bảo
vệ, Shiva - thần hủy diệt cùng với những thần tự nhiên khác
=>Tuy được truyền bá sớm vào Đông Nam Á nhưng đạo Hindu không có phạm vi
truyền bá rộng khắp Đông Nam Á như đạo Phật mà chỉ ở một số quốc gia cổ đại như: Chăm pa, Phù Nam, Indonesia. 1.6. Về triết học
Có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của văn minh phương Đông. Điều đó
được thể hiện rất rõ trong kinh Veda, Upanishad. Kinh Vêđa là các bài ca và các bài
cầu nguyện phản ánh bối cảnh xã hội Ấn Độ thời kỳ tan rã của chế độ công xã thị tộc,
hình thành một xã hội có giai cấp và nhà nước; cuộc sống của nhân dân Ấn Độ tại thời
điểm đó; chế độ đẳng cấp, việc hành quân hay một số mặt của đời sống xã hội.
Người dân Việt Nam thường quan niệm “gieo nhân nào gặp quả nấy”, sự sinh
“nghiệp” từ những việc làm hàng ngày của bản thân. Sự sinh “nghiệp” và chìm vào bể about:blank 14/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
khổ của sự cắn rứt lương tâm, sự lên án của dư luận. Con người Việt Nam thường chỉ
nhau rằng những bể khổ không những chịu ở kiếp hiện tại mà theo sự Luân hồi sẽ phải
chịu ở những kiếp sau cho đến khi đã tu dưỡng và “trả nghiệp”. Cũng giống như con
đường đi đến giải thoát được thể hiện trong kinh Veda, đặc biệt trong triết lý
Upanishad, con người nếu không muốn phải chịu sự luân hồi, muốn thoát khỏi vòng
quay “bánh xe luân hồi” thì phải sống sao cho tròn chữ “đạo”, phát huy những bản
tính tốt đẹp. Như vậy, sự tác động của những giáo lý, triết học trong kinh Veda đã làm
tác động đến suy nghĩ, lối sống của con người, của người dân Việt Nam.
Chương 2: Vai trò của nền văn minh Ấn Độ đối với sự phát triển của văn minh phương Đông
Ấn Độ là một đất nước có lịch sử từ lâu đời, là một trong những nền văn minh
lớn của nhân loại. Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Nam Á vậy nên văn minh Ấn Độ
không những ảnh hưởng trực tiếp mà còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của văn minh phương Đông.
Văn minh Ấn Độ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phân hóa xã
hội, hình thành những nhà nước cổ đại đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhờ quá trình giao
lưu, buôn bán mà thương nhân các quốc gia Đông Nam Á có điều kiện được sang Ấn
Độ để học hỏi, tiếp thu những thành tựu của đất nước này cho dân tộc mình; đồng thời
thương nhân Ấn Độ cũng sang Đông Nam Á để truyền đạo và lập nghiệp. Quá trình
đó tạo cơ hội để các quốc gia Đông Nam Á tiếp nhận cách thức tổ chức và xây dựng
bộ máy nhà nước. Chính vì vậy mà ở giai đoạn này các nhà nước được hình thành ở
Đông Nam Á đều mang tính chất vương quyền của Ấn Độ.
Bên cạnh đó, những yếu tố văn hóa của Ấn Độ cũng để lại những dấu ấn với các
quốc gia phương Đông. Đầu tiên phải nói đến chữ viết, chữ Sanskrit của Ấn Độ đã tạo
cơ sở để các nước Đông Nam Á sáng tạo ra chữ viết riêng cho quốc gia của mình.
Trong văn học, những thành tựu rực rỡ của kinh Vêđa và những tác phẩm sử thi nổi
tiếng đậm đà bản sắc dân gian như: Ramayana, Mahabharata,.. cũng tạo âm hưởng sâu
sắc đối với các nước phương Đông đặc biệt là các quốc gia Đông Nam Á. Các quốc
gia Đông Nam Á khi tiếp thu những tác phẩm đó có sự sáng tạo mang phong cách, nét
văn hóa riêng của dân tộc mình. Có thể nói, những thành tựu của văn minh Ấn Độ góp
phần vào quá trình làm phong phú thêm, độc đáo thêm những nét văn hóa của các
quốc gia Đông Nam Á. Ngoài ra, những thành tựu trong các lĩnh vực văn học, nghệ
thuật, thiên văn, y học,... của Ấn Độ còn tác động tới Trung Quốc, một số tác phẩm về
sử học, y học của Trung Quốc có sự học hỏi, vận dụng và tiếp thu từ Ấn Độ. Như vậy,
có thể nói văn minh Ấn Độ có vai trò không nhỏ trong quá trình hình thành những nét
riêng về văn hóa của các quốc gia phương Đông, đặc biệt là Đông Nam Á và Trung Quốc.
Văn minh Ấn Độ, đặc biệt là tôn giáo có vai trò lớn đối với sự phát triển của tôn
giáo ở các nước phương Đông. Nhắc đến Ấn Độ, chúng ta thường biết đây là một
trong những cái nôi của một số tôn giáo lớn: Hindu giáo, Phật giáo,... Những tôn giáo
này đều có tác động trực tiếp đến các quốc gia phương Đông. Những thành tựu của
tôn giáo Ấn Độ có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành tôn giáo ở Trung about:blank 15/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
Quốc, các nước Đông Nam Á,... Cụ thể là ở Trung Quốc, Phật Giáo được du nhập từ
thời nhà Tần (221 - 226 TCN) và nó trở thành một hệ tư tưởng của quốc gia này.
Nhiều bản kinh Phật của Ấn Độ khi truyền bá sang Trung Quốc được quốc gia này
tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Còn ở Đông Nam Á, đạo Hindu và đạo Phật
được các quốc gia này tiếp nhận và xem đây là những hệ tư tưởng trong quá trình xác
lập và xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước, Những nét đặc sắc trong tôn giáo Ấn
Độ được các quốc gia này tiếp thu và trên cơ sở đó hình thành những nét đặc sắc riêng
trong đời sống tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc mình.
Không những vậy, Ấn Độ còn được biết đến là đất nước có nền nghệ thuật phát
triển rực rỡ, với nhiều thành tựu trong kiến trúc, điêu khắc. Các công trình kiến trúc,
điêu khắc của Ấn Độ với những nét độc đáo trong kiến trúc Phật giáo, Hindu giáo…
được các quốc gia phương Đông học hỏi, áp dụng. Điều đó được thể hiện rất rõ khi
phần lớn các công trình kiến trúc, điêu khắc ở nhiều nước Đông Nam Á mang đậm
dấu ấn Ấn Độ. Văn minh Ấn Độ qua đây có góp vai trò của mình trong việc làm giàu
thêm những nét văn hóa vừa độc đáo, vừa đậm đà bản sắc dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á.
Văn minh Ấn Độ giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của văn
minh phương Đông; là một trong những nền văn minh tạo nên cơ sở hình thành,
những đặc trưng, những dấu ấn của văn minh phương Đông. Đồng thời, góp phần tạo
nên ảnh hưởng sâu rộng của văn minh phương Đông đối với thế giới Phần 3: Kết luận
Sự hình thành và phát triển của văn minh phương Đông gắn liền với việc tiếp thu
ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ. Những ảnh hưởng này khá toàn diện và sâu sắc
cả về triết học, tôn giáo, chữ viết, văn học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên.
- Về chữ viết: Sớm đc hình thành, thường dùng lưu trữ thông tin, văn học và lưu
chuyển hàng hóa. Là cơ sở hình thành nên chữ viết Ấn Độ hiện nay và nhiều nước phương Đông.
- Khoa học tự nhiên: Thiên văn, Toán học, Vật lý, Y học
- Tôn giáo: Các tôn giáo lớn ở Ấn Độ qua việc truyền đạo và các thương nhân dần lan ra ngoài biên giới. Đạo
Hinđu trở thành quốc giáo của Campuchi, Thái Lan... Đạo
Phật phát triển mạnh ở các nước như Việt Nam, Trung Quốc...
- Nghệ thuật: : Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo. dãy chùa hang Ajanta ở miền trung
Ấn Độ, cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, tháp Mina, lăng Taj Mahan.
- Văn học: Được truyền bá đồng thời cùng các văn minh trên từ đó mà mang đến
phong cách sử thi, anh hùng cho văn học phương Đông. Từ
nền văn minh Ấn Độ văn
minh các nước phương Đông có thêm luồng gió mới tạo nên sự đa dạng trong văn hóa mỗi nước
Theo G.Coedes nhận định rằng: “ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ chủ yếu
là sự bành trướng của một nền văn hóa có tổ chức, dựa trên quan điểm Ấn về vương
quyền, tiêu biểu bằng Ấn Độ giáo, thần thoại Purana, pháp giới Phacmaxastra và lấy
tiếng Phạn làm phương tiện biểu đạt”. Điều đó đã góp một phần lớn, có vai trò vô about:blank 16/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
cùng quan trọng trong sự phát triển của nền văn minh phương Đông.
Kiến trúc và điêu khắc thời kỳ Phục Hưng (Tuần 8) I. Bối cảnh: 1. Bán đảo Ý
- Trung tâm của văn hóa La Mã xưa kia, có qua lại với Đế chế Đông La Mã
Byzantine - nơi lưu trữ nhiều tư liệu Hy Lạp cổ.
- Dọc bán đảo ý là các thị quốc ven biển giàu có với nền công thương phát triển,
có điều kiện giao lưu văn hóa.
- Các thị quốc này ít chịu sự kìm kẹp của chế độ phong kiến mà có thể chế chính
trị riêng, được lãnh đạo bởi nhóm quý tộc nổi lên từ thương nghiệp.
- Đặc biệt, đối với kiến trúc - điêu khắc, Ý sở hữu nguồn vật liệu đá dồi dào, chất
lượng từ các rặng núi chạy dọc và bao quanh nó.
→ Nhờ các yếu tố trên, Ý là cái nôi của phong trào Phục hưng và sở hữu lượng lớn
các công trình được coi là tiêu biểu nhất, đại diện cho nghệ thuật Phục hưng.
2. Nhìn rộng ra toàn bộ Phong trào Phục Hưng:
- Tới thế kỉ XIV, với sự phát triển kinh tế công thương ở các thành thị, quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa dần dần hình thành và ngày càng lớn mạnh. Tầng lớp
thượng lưu giàu có ngày càng có nhiều quyền lực và tầm ảnh hưởng.
Họ có kiến thức để sử dụng các nguồn tài liệu, họ chống lại sự trói buộc của
các thế lực khác như Giáo hội, Phong kiến, họ đề cao cá nhân, họ phô trương
sự giàu sang bằng cách cho xây những công trình được trang hoàng cầu kì, họ
sẵn sàng tài trợ cho các nghệ sĩ…
→ Giai cấấp tưư sản mớưi nổổi là trưng tấm của Phong trào.
- Để thoát khỏi những quan điểm lỗi thời của Giáo hội và Phong kiến, các học
giả đã nhìn về và mong muốn học tập, tái hiện tri thức Hy Lạp, La Mã cổ đại.
→ Từ đó xuất hiện các yếu tố Hy Lạp, La Mã cổ trong kiến trúc, xuất hiện các
tác phẩm khắc họa thần thoại, điển tích phi Cơ đốc giáo.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa ảnh hưởng của Cơ đốc giáo bị loại bỏ
hoàn toàn khi mà bản thân các Giáo hoàng, Hồng Y cũng xuất thân từ các gia
tộc giàu mới và tài trợ nhiều dự án lớn.
- Dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng cổ Hy Lạp, chủ nghĩa nhân văn ra đời và trở
thành tư tưởng chủ đạo của phong trào.
Chủ nghĩa nhân văn đề cao vị thế của con người, cái tôi cá nhân, lên án giới
tăng lữ, đề cao tinh thần dân tộc cũng như các thành tựu khoa học - kĩ thuật.
→ Có thể thấy, tác phẩm thời bấy giờ ưu tiên khắc họa hình ảnh con người chân about:blank 17/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
thực, các công trình kiến trúc làm được điều không tưởng nhờ áp dụng khoa học - kĩ thuật II. Đặc điểm:
1. Các nhân tố ảnh hưởng:
a) Ảnh hưởng từ thành tựu khoa học - Toán học:
+ Hành trình đi tìm tỷ lệ vàng vào thời kỳ Phục Hưng, khi mà các nghệ sĩ
khao khát vươn đến sự hoàn hảo trong hội họa, điêu khắc, và kiến trúc,
càng được chú ý. Vitruvius cũng đưa ra các tỉ lệ và tương quan giữa các
phần của cơ thể, như: Chiều dài bàn chân bằng 1/6 chiều dài của phần
thân. Chiều dài cẳng tay là 1/4. Chiều ngang của ngực là 1/4… Vitruvius
cũng viết rằng, một công trình kiến trúc muốn đẹp thì phải có tỉ lệ và sự đối xứng.
+ Người Hy Lạp cổ đại coi toán học là nền tảng của vẻ đẹp và sự hài hòa,
nên nhiều nghệ sĩ thời Phục hưng đã kết hợp khái niệm này vào các tác
phẩm của họ. Các tòa nhà thời Phục hưng chủ yếu dựa vào việc sử dụng
hình học và toán học trong thiết kế. Loại tòa nhà thời Phục hưng dựa
trên các đường cong, vòm, tam giác, hình tròn và hình vuông, là các yếu
tố chính của hình học, các tòa nhà như nhà thờ, lâu đài và nhiều hơn nữa
dựa trên các yếu tố cơ bản đó và phát triển nó thành vòm, mái vòm , các
phân đoạn hình chữ nhật bên trong và bên ngoài các tòa nhà như nhiều
sơ đồ tầng có thể mô tả nó. Điều này vừa tạo nên sự khỏe khoắn vừa
mang đến sự tinh tế cho các không gian kiến trúc khác nhau.
+ Kiến trúc Phục hưng đẩy mạnh việc dùng số học và hình học để xác
định tỷ lệ của công trình. Các kiến trúc sư Phục hưng tiếp tục phát triển
những tỷ lệ toán học chuẩn mực trong thời cổ đại mà Pythagore đã tìm
ra trước đây như: 1:1, 1:2, 2:3, 3:4, đây là những tỷ lệ cơ sở để kiến tạo vẻ đẹp cho không gian. - Y học:
+ Trong nỗ lực đạt được chủ nghĩa tự nhiên của vẻ đẹp cổ điển, nhiều
nghệ sĩ thời Phục hưng đã nghiên cứu về giải phẫu để tăng kiến thức của
họ về hình dạng con người. Một số nghệ sĩ, như Leonardo da Vinci,
thậm chí đã đi đến mức độ mổ xẻ tử thi để khám phá các cấu trúc nằm bên dưới lớp da.
b) Ảnh hưởng từ văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại
- Vào thời Hy Lạp cổ đại, các nghệ sĩ điêu khắc đã gạt bỏ nguyên tắc xây dựng
nhân vật tĩnh mà thay vào đó, tập trung làm toát lên sức mạnh tư tưởng của tác
phẩm. Điêu khắc Phục Hưng học hỏi từ đó và kết hợp thêm các yếu tố của La about:blank 18/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
Mã cổ đại để nâng phong cách này lên một tầm cao mới.
- Với kiến trúc, phong cách kiến trúc được bắt nguồn từ việc tẩy chay kiến trúc
Gothic và khôi phục lại sự tinh tế của các di sản kiến trúc La Mã. Các kiến trúc
này tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc cổ điển và chuẩn mực. Các kiến trúc sư
cố gắng tạo ra những chi tiết và mô típ mới mà vẫn phù hợp với tính chất cổ đại.
c) Ảnh hưởng bởi chủ nghĩa nhân văn:
- Đối với điêu khắc, chủ nghĩa nhân văn đã dẫn đến sự đề cao vẻ đẹp phồn thực
và chân thực của con người, giải phóng lối suy nghĩ, một lối nhìn, thoát khỏi
những tư tưởng kìm kẹp của quan niệm phong kiến trước đó, cụ thể là quan
niệm hình tượng khỏa thân.
- Đối với kiến trúc, trước Phục Hưng, kiến trúc bị chi phối bởi ngưỡng tin đạo
Cơ đốc giáo và hầu hết các công trình được thiết kế phục vụ mục đích đưa con
người gần hơn với Chúa. Do đó, sự xuất hiện của chủ nghĩa nhân văn cùng với
quan niệm tôn vinh tài năng và trí tuệ con người đã đưa đến một nhân sinh
quan mới cùng với những tư duy sáng tạo mới cho giới điêu khắc bấy giờ. Các
tòa nhà được xây dựng theo phong cách độc đáo hơn, kết hợp giữa kiến trúc La
Mã và Hy Lạp cổ đại, những kiến thức toán học và dựa trên tỉ lệ con người.
Việc đề cao vị trí của con người cũng dẫn đến sự đầu tư về kiến trúc cho mục
đích cá nhân thay vì chỉ đóng góp cho việc xây dựng các nhà thờ.
2. Kiến trúc Phục Hưng a) Đặc điểm
Phong cách kiến trúc Phục hưng nhấn mạnh vào tính đối xứng, tỷ lệ hình học và sự
hài hòa của các cấu trúc như đã được thể hiện trong kiến trúc cổ điển và đặc biệt là
kiến trúc La Mã cổ đại. Kiến trúc Phục hưng nhấn mạnh vẻ đẹp của con người và đẩy
mạnh việc dùng số học và hình học để xác định tỷ lệ của công trình.Các đặc điểm nổi
bật của kiến trúc phục hưng là:
- Mặt tiền được bố trí đối xứng với trục thẳng đứng của công trình. Mỗi một
công trình đều có một trục thẳng trung tâm và mặt tiền sẽ được bố trí đối xứng
với trục thẳng đó. Tùy vào thiết kế nhà thờ, các công trình dân dụng, nhà ở mà
mặt tiền sẽ được xây dựng theo các quy chuẩn khác nhau
- Các thức cột La Mã được sử dụng: Tuscan, Doric, Ionic, Corinthian và
Composite. Cột và trụ trở thành một hệ thống tích hợp vừa có khả năng chống
đỡ cho các công trình vừa tạo tính thẩm mỹ, hài hòa.
- Các công trình kiến trúc Phục hưng đều sở hữu mái vòm độc đáo và riêng biệt.
Những thiết kế mái vòm kỳ công tạo cảm giác không gian bên trong được mở
rộng thêm chính là mục đích của kiến trúc này. Đa phần các mái vòm đều được
chạm khắc tinh xảo với các họa tiết đậm ý nghĩa. about:blank 19/49 21:32 5/8/24
Lsvmtg - Lịch sử văn minh thế giới
- Các cung gãy Gothic được thay bằng các vòm và cung tròn, elip, bán cầu.
- Bức tường bên ngoài thường được xây bằng gạch, tô trát, ốp đá thành khối
thẳng. Để không gian được trang trọng hơn, bề mặt bên trong được trang trí với các bức bích họa.
- Mái nhà được tương thích với trần nhà bằng phẳng hoặc có phân ô. Không còn
bỏ ngỏ như trong kiến trúc thời Trung Cổ. Thường được sơn phết hoặc trang trí
công phu. Các chi tiết trang trí được chạm khắc với độ chính xác tuyệt vời. Chi
tiết lan can và nội thất được khảm đá, trang trí lộng lẫy. Những bức tượng có
thể được đặt trong các hốc tường hoặc đặt trên các bệ cột. Việc này chưa được
hoàn toàn trong giai đoạn kiến trúc thời Trung cổ.
- Đặc trưng của kiến trúc thời kỳ Phục Hưng chính là mang đậm nét tôn giáo.
Tiêu biểu là đạo Thiên chúa ảnh hưởng sâu sắc nhất. Tôn vinh Đức chúa trời. b) Các giai đoạn
- Tiền kỳ Phục Hưng(1400-1500):
+ Là thời kỳ mà các khái niệm và nguyên tắc bắt đầu hình thành. Các
nghiên cứu về thời cổ đại đã dẫn đến việc áp dụng các cấu trúc và chi
tiết trang trí La Mã. Không gian, một yếu tố của kiến trúc, được tổ chức
lại theo tỷ lệ logic và hình học, chứ không phải được tạo ra bởi trực giác
như trong các tòa nhà thời Trung Cổ.
+ Tiêu biểu là nhà thờ Santa Maria, quần thể thánh đường này là công
trình kết hợp nhiều phong cách kiến trúc: Gothic, Roman và Phục Hưng.
Nhưng dường như bất cứ ai hoặc bất cứ khi nào nói về nhà thờ chánh tòa
Florence, mái vòm khổng lồ trên nóc Vương cung Thánh đường mới là
tâm điểm. Mái vòm do Filippo Brunelleschi thiết kế theo phong cách
Phục Hưng. Gần 600 trăm năm nay, vẫn chưa có mái vòm bằng gạch nào
có thể vượt qua được công trình này. Mái vòm này thực chất là hai mái
vòm xây lồng vào nhau, ngăn cách bởi khoảng trống vừa một người đi,
thu hẹp dần khi lên cao. Thiết kế này giúp giảm 45% trọng lượng của
mái vòm nếu so sánh với một mái vòm hình bán cầu tương tự. Mái vòm
bên trong bằng sa thạch và cẩm thạch, mái vòm bên ngoài bằng gạch,
vữa. Trọng lượng mái vòm khoảng 37.000 tấn, trong đó có 4 triệu viên gạch nung.
- Thịnh kỳ Phục Hưng(1500-1525):
+ Vào thời kỳ đỉnh cao của phong cách thiết kế Phục Hưng, các khái niệm
cổ điển được phát triển thuần thục hơn. Các công trình được trang trí tỉ
mỉ, cầu kỳ hơn trước. Người mở đường cho việc áp dụng kiến trúc cổ
điển vào các tòa nhà đương thời là kiến trúc sư Bramante.
+ Đền Tempietto do ông thiết kế là một trong những công trình tiêu biểu
thời kì này. Ngôi đền nổi bật bởi nét quyến rũ riêng biệt của kiến trúc about:blank 20/49