lOMoARcPSD| 48599919
1
VJE Tp chí Giáo dc, S đặc bit tháng 6/2018, tr 115-
118
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Lê Thị Thanh Trà - Phạm Thị Thanh
Thủy Trường Đại học thuật Y tế Hải
Dương
Ngày nhận bài: 10/06/2018; ngày sửa chữa: 16/06/2018 ; ngày duyệt đăng : 25/06/2018.
Abstract: The development of the market economy in our country has created new
resources for the economic development. However, it also raises new demands for the
diversity of education and training of population classes in the society. The subsidized
policies on education have been backwards to requirements of economic development in
current period. Therefore, State management of education in the socialist-oriented market
economy is an urgent requirement with aim to create a new look for the development of the
education system in Vietnam and gradually establish a market-oriented education in human
resource development.
Keywords: Education, market economy, State management, socialist-oriented market economy.
1. Mở đầu
GD-ĐT được Đảng Nnước ta hết sức quan
tâm, coi đó là chìa khóa để thực hiện sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Nghị quyết 29/NQ-TW Ban Chấp
hành Trung ương khoá XI về Đổi mới căn bản, toàn
diện GD-ĐT đã nhấn mạnh: “Chủ động phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển GD-ĐT” [1]. Trong những năm qua, sự lãnh đạo,
chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, sự quan tâm của
cả hội, nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, nquản
(QL), nhà khoa học, sự nghiệp GD-ĐT, khoa học
công nghệ nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng về quy mô, chất lượng giáo dục các cấp; công
tác QL; đội ngũ nhà giáo; công tác nghiên cứu, ứng
dụng khoa học công nghệ; tiềm lực khoa học và công
nghệ; thị trường các dịch vụ khoa học công nghệ;
hợp tác quốc tế… Tuy nhiên, bên cạnh đó chất lượng
GD-ĐT còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót yếu
kém, nhất đào tạo đại học dạy nghề chưa đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.
Bài viết nghiên cứu đề xuất một số giải pháp
quản Nhà nước về giáo dục trong nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa nước ta hiện
nay. 2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Quản lí nhà nước về giáo dục
2.1.1.Quan niệm về giáo dục
Giáo dục hoạt động nhằm tác động một cách có
hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một
đối tượng nào đó, làm cho đối ợng ấy dần dần
được những phẩm chất năng lực như yêu cầu đề ra.
Giáo dục là quá trình đào tạo con người có mục đích,
nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống
hội, tham
Email:
lOMoARcPSD| 48599919
2
VJE Tp chí Giáo dc, S đặc bit tháng 6/2018, tr
115118
gia lao động sản xuất được thể hiện bằng cách tổ
chức truyền thụ, lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử
xã hội của loài người. Như vậy, giáo dục là một hiện
tượng hội đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục
nảy sinh cùng với hội loài người, trở thành chức
năng “sinh hoạt” không thể thiếu được và không bao
giờ mất đi mọi giai đoạn phát triển của hội.
2.1.2.Quan niệm về quản lí
QL sự tác động ý thức của chủ thể QL lên đối
tượng QL nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các
quá trình hội hành vi của nhân hướng đến
mục đích hoạt động chung phù hợp với quy luật
khách quan
2.1.3.Quan niệm về quản lí nhà nước
Quản nhà nước (QLNN) sự tác động tổ chức
mang tính quyền lực - pháp của các quan nhà
nước, người thẩm quyền, hoặc các tổ chức khi được
Nhà nước trao quyền tới ý thức, hành vi, xử sự của
nhân, tổ chức, cơ quan, tới các quá trình xã hội hướng
chúng vận động, phát triển nhằm đạt được mục tiêu
nhất định của QLNN và hội. Mục tiêu của QLNN
phải phù hợp với mục tiêu phát triển của hội. Đây
chính là ý nghĩa, giá trị của QLNN.
2.1.4.Quan niệm quản lí nhà nước về giáo dục
QLNN về giáo dục sự tác động tổ chức
điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước, trên sở pháp
luật đối với các hoạt động giáo dục, do các cơ quan
nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước uỷ quyền
nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT; duy trì trật tự, kỉ
cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục của nhân dân;
thực hiện mục tiêu GD-ĐT của Nhà nước đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước. Hay, QLNN về giáo
dục là việc Nhà nước thực hiện
Email:
quyền lực công để điều hành, điều chỉnh tất cả các
hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn hội nhằm
thực hiện mục tiêu giáo dục quốc gia. Nếu xem QLNN
như là một hệ thống, thì QLNN về giáo dục là một hệ
thống bao gồm các thể chế, chế QL giáo dục; tổ
chức, bộ máy QL giáo dục và đội ngũ cán bộ và công
chức QL giáo dục các cấp. Ba bộ phận này có mối liên
hệ và tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, chúng có
thể thúc đẩy hoặc kìm m lẫn nhau trong quá trình
vận hành, tác nghiệp. 2.1.5.Quan niệm về kinh tế thị
trường
Kinh tế thị trường (KTTT) là nền kinh tế mà trong
đó người mua người bán tác động với nhau theo
quy luật cung - cầu, giá trị để xác định giá cả số
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. KTTT là nền
kinh tế hàng hoá phát triển trình độ cao, là một hình
thức tổ chức sản xuất hội hiệu qunhất phù hợp
với trình độ phát triển của xã hội hiện nay.
2.1.6.Quan niệm về giáo dục trong nền kinh tế thị
trường Kinh tế và giáo dục có mối quan hệ gắn bó
hữu cơ, tác động qua lại với nhau, trong đó sự phát
triển giáo dục ph
thuộc vào sự phát triển chế vận hành của nền
kinh tế và chế độ chính trị - hội nói chung. Việt
Nam đã trải qua hơn 30 năm thực hiện chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền KTTT định hướng hội chủ nghĩa. Hiện
nay, vẫn nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục
trong nền KTTT, cụ thể:
- Đối lập giáo dục với KTTT, không chấp nhận
chế thị trường trong giáo dục: Quan điểm y xuất
phát từ quan niệm coi giáo dục lĩnh vực cao quý,
bất vụ lợi, là trách nhiệm của Nhà nước và hội; là
dịch vụ công, phúc lợi chung, thể hiện sự công bằng
hội bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Do đó, không
thể coi giáo dục hàng hóa, “trường học không thể
cái chợ, nơi buôn bán, trao đổi” (tức là, không
thể thị trường trong giáo dục). Tuy nhiên, quan
điểm y không hoàn toàn phủ nhận sự liên quan giữa
giáo dục với thị trường và cho rằng: vận dụng cơ chế
thị trường vào QL giáo dục, đào tạo là cần thiết.
- Coi giáo dục một thứ hàng hóa, dịch vụ:
Chủ trương “giáo dục không thể quay lưng với cơ chế
thị trường”, cần thị trường hóa, “thương mại hóa”
giáo dục. Theo quan điểmy, cần sử dụng chế thị
trường trong giáo dục để phục vụ sự phát triển kinh
tế, đáp ứng nhu cầu thị trường, thích nghi với th
lOMoARcPSD| 48599919
3
trường thông qua việc thực hiện chức năng phát triển
nguồn nhân lực, góp phần hình thành thị trường lao
động...
- Một mặt, thừa nhận vị trí đặc biệt, chức năng
cao quý của giáo dục; mặt khác, cũng coi giáo dục là
hàng hóa, nhưng là hàng hóa đặc biệt: Cần vận dụng
cơ chế thị trường trong giáo dục đại học với mục đích
hạn chế
lOMoARcPSD| 48599919
4
mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của nó. Tuy nhiên,
những người theo quan điểm này cho rằng, cơ chế thị
trường chỉ tốt trong ngắn hạn, về lâu dài phải có tầm
nhìn thông minh, sáng suốt.
Cả 3 quan điểm trên đều điểm chung là: trong
điều kiện phát triển KTTT định hướng hội chủ
nghĩa hội nhập kinh tế quốc tế, muốn hay
không, chúng ta cũng phải chấp nhận chế thị
trường, vận dụng khôn ngoan để tồn tại phát triển,
kể cả trong lĩnh vực giáo dục. 2.2. Nội dung quản lí
nhà nước về giáo dục
Trong QLNN cũng như QL hành chính Nhà nước
về giáo dục thì khách thể QL nền giáo dục quốc
gia, được cụ thể hóa thông qua hệ thống giáo dục
quốc dân. Đối tượng QL là mọi yếu tố cấu thành nên
hệ thống giáo dục quốc dân, gồm: nhà trường, nhà
giáo, người học, chương trình giáo dục, tài chính giáo
dục, nhân sự giáo dục, môi trường giáo dục… Mục
tiêu QL những sự khác biệt đáng kể từ nước này
sang nước khác, giai đoạn này sang giai đoạn khác,
nhưng về bản nhằm bảo đảm trật tự, kỉ cương
trong tổ chức, hoạt động phát triển giáo dục đáp
ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
Nội dung QLNN về giáo dục Việt Nam được quy
định cụ thể trong Chương VII, Mục 1, Điều 99 của
Luật Giáo dục ( sửa đổi bổ sung năm 2009) [2; tr
105-106]. Hiện nay, khi hệ thống giáo dục đã khác
trước rất nhiều, phức hợp hơn với sự tham gia của
nhiều chủ thể, thì làm thế nào để QLNN về giáo dục
đạt được các kết quả mong muốn về quy mô, chất
lượng, hiệu quả và công bằng xã hội trong phát triển
giáo dục một câu hỏi mở. Bản thân QL giáo dục
cũng trở thành một hệ thống lớn, gồm các hệ thống
con QLNN trong từng phân hệ của hệ thống giáo
dục quốc dân như: QLNN về giáo dục mầm non, giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên…
2. 3.Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quản lí
nhà nước về giáo dục trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
2.3. 1.Đổi mới quảnnhà nước về giáo
dục theo yêu cầu của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, giáo dục trở
thành độc quyền của Nhà nước; nhà trường chỉ là nơi
chấp hành mọi kế hoạch chỉ tiêu, pháp lệnh
Nhà nước giao, không cần quan tâm nhiều đến “đầu
ra”. Chúng ta không phủ nhận những thành tựu của
giáo dục do chế tập trung bao cấp tạo ra, song cũng
cần thấy rằng, chế QL đó đã làm cho hệ thống giáo
dục thiếu tính cạnh tranh, kém năng động, sáng tạo,
trở thành “mảnh đất” cho căn bệnh thành tích và chủ
nghĩa hình thức tồn tại. Ngược lại, trong nền KTTT
với tính cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi nguồn nhân lực
đa dạng, chất lượng cao, yêu cầu đổi mới giáo dục,
đổi mới cơ chế QL
lOMoARcPSD| 48599919
5
phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời mới đang
đặt ra hết sức gay gắt. Trong bối cảnh đó, rất cần vai
trò QL của Nhà nước trong giáo dục để phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt trái và những tác động tiêu cực
của KTTT. Vì vậy, những vấn đề cần quan tâm hiện
nay trong QLNN về giáo dục là:
- Làm quan điểm, chính sách
nguyên tắc, xây dựng khung pháp lí và thể
chế đồng bộ, tạo môi trường pháp lí tâm
hội thuận lợi để thể vận dụng
chế thị trường trong giáo dục đại học hiệu
quả nhất, phù hợp với định hướng hội
chủ nghĩa.
- Trên sở phân biệt QLNN về
giáo dục QL của sgiáo dục, xác
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của các quan QLNN về
giáo dục của các trường, thực hiện
mạnh mẽ sự phân cấp QL giáo dục, phát
huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của
các trường.
-Xây dựng đồng bộ kịp thời ban hành các văn
bản pháp về giáo dục trong điều kiện phát triển
KTTT, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, QL chặt chẽ các loại hình đào tạo,
chấn chỉnh tình trạng thu chi không minh
bạch những biểu hiện tiêu cực, vụ lợi,
cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi
nhuận, hoặc xu hướng “thương mại hóa”
trong giáo dục...
2.3.2. Đổi mới phương thức đào tạo, thực hiện đào
tạo theo nhu cầu hội, gắn nhà trường với doanh
nghiệp, gắn giáo dục với nghiên cứu khoa học
Giáo dục Việt Nam đang đứng trước “bài toán” về
chất lượng “đầu ra” chưa đáp ứng được nhu cầu của
thị trường lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế đang cần lực lượng lớn lao động
trình độ thuật cao, nhưng đào tạo chưa đáp ứng
được, trong khi nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học,
cao đẳng ra trường lại không việc làm. Chúng ta
đang thừa lao động phổ thông chưa qua đào tạo,
nhưng lại thiếu lao động thuật lành nghề, thiếu
chuyên gia các nhà QL, cán bộ khoa học - công
nghệ có trình độ cao.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới
tình trạng trên chương trình đào tạo trong các
trường đại học và dạy nghề còn nặng về thuyết, nhẹ
về thực hành; chưa thực sự gắn với điều kiện và nhu
cầu thực tiễn của doanh nghiệp, thị trường và xã hội.
chế thị trường đòi hỏi đào tạo phải theo nhu cầu
hội, phải sự tham gia, liên kết chặt chẽ giữa Nhà
nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp để cùng hỗ trợ
lẫn nhau trong quá trình đào tạo, sử dụng nguồn nhân
lực. Do đó, cần đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí đào
tạo, thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng trong giáo
dục. Nhà nước sẽ thực hiện cấp kinh phí đào tạo theo
cơ chế đấu thầu, đặt hàng trong đào tạo, thay vì phân
bổ kinh phí cho các trường theo
lOMoARcPSD| 48599919
6
dự toán hằng năm. Việc phân bổ ngân sách Nnước
cho các trường cần gắn với nhu cầu đối tượng được
đào tạo, nên đánh giá hiệu quả đào tạo qua chỉ số sinh
viên có việc làm. Điều này đòi hỏi các trường đại học
phải gắn giảng dạy với nghiên cứu khoa học, nghiên
cứu thực tiễn; đồng thời tích cực đổi mới chương
trình đào tạo, phương pháp dạy học, tăng cường
năng lực đội ngũ giảng viên, đổi mới phương thức
QL đào tạo theo hướng hiện đại, hiệu quả, nhằm
đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng, đòi hỏi
ngày càng cao của xã hội.
Doanh nghiệp cần chủ động đặt hàng với các
sở đào tạo, tham gia xây dựng chương trình đào tạo
hỗ trtrực tiếp quá trình đào tạo, thực hiện
hình trường trong doanh nghiệp. Cần chế, chính
sách khuyến khích các chuyên gia trình độ cao
đang làm việc tại các doanh nghiệp tham gia đào tạo
sinh viên. Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ”, là cầu nối
giữa nhà trường và doanh nghiệp, cung cấp thông tin
dự báo nhu cầu nhân lực, hỗ trợ kinh phí, ban hành
chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà
trường thực hiện đào tạo theo nhu cầu hội. Cần
thành lập Ban chỉ đạo quốc gia phụ trách vấn đề này.
2.3.3.Quản lí nhà nước đảm bảo sự thống nhất giữa
phát triển giáo dục và kinh tế
Về cơ sở lí luận, phát triển giáo dục phải đi trước
một bước phát triển kinh tế. Ngày nay các nước trên
thế giới muốn phát triển kinh tế phải trên cơ sở phát
triển khoa học thuật công nghệ, phải dựa vào
nguồn nhân lực có trình độ cao về tri thức cũng như
kĩ năng và tay nghề. Cụ thể là:
- Đa dạng hoá cách làm giáo dục thông qua
đa dạng hoá loại hình giáo dục: Giáo dục chính quy,
không chính quy phi chính quy với nhiều thang
bậc, loại hình dài hạn và ngắn hạn với những cơ cấu
linh hoạt, mềm dẻo, liên thông vnội dung, ngành
nghề, về không gian (vùng, miền) và thời gian.
-Giáo dục thích ứng với nhu cầu hội: “Nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”
thích ứng với nhu cầu hội. Đào tạo nhân lực với
nhiều hình thức căn cứ vào nhu cầu hội, lấy hiệu
quả xã hội của giáo dục làm nền tảng. Tối ưu hoá tri
thức của học sinh, sinh viên, mở rộng diện kiến thức,
tăng cường nhiều năng lực thích ứng với những biến
động mới của nền KTTT, tạo điều kiện tốt cho học
sinh, sinh viên được tiếp xúc nhiều và thường xuyên
với hội, thực sự hiểu biết hội tăng cường
năng lực xử các vấn đề thực tế đang diễn ra hàng
ngày.
- Đa dạng hoá cấu ngành nghề đáp ứng
nhu cầu kinh tế Trung ương địa phương trong hợp
tác quốc tế với xu thế toàn cầu hoá.
- Giao quyền tự chủ, đảm bảo quyền tự chủ
trách nhiệm hội cho các sở giáo dục, nhất
các trường
lOMoARcPSD| 48599919
7
V
Tp chí Giáo dc, S đặc bit tháng 6/2018, tr 115
đại học để có thể thích ứng nhanh được với KTTT. QL [10]Đặng Quốc Bảo (2010). Những vấn đềbản của
trường học phải dựa trên cơ sở tổ chức, sử dụng một hoạt động quản lí và sự vận dụng vào quản lí cách khoa
học nhân lực, vật lực tài lực của nhà nhà trường. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội trường giúp nhà trường
phát triển ổn định, bền vững, đạt hiệu quả cao nhằm thực hiện được mục đích giáo dục theo cơ chế thị trường
trong xu thế toàn cầu hoá.
3. Kết luận
QL giáo dục trong nền KTTT là tạo động lực cho
giáo dục phát triển nhanh, mạnh, phát triển liên tục,
phù hợp và hài hoà với sự phát triển của nền KTTT.
QL giáo dục coi trọng sự dân chủ, bình đẳng, cạnh
tranh, xã hội hoá với những chính sách thông thoáng
giúp các sở giáo dục chủ động, sáng tạo tự xây
dựng thương hiệu của mình trong nước cũng như
trên thế giới. Hiệu quả là mục tiêu quan trọng số một
của QL giáo dục. Nnước cần đường lối, chính
sách hợp lí, kịp thời và phù hợp để giáo dục thực sự
“quốc sách hàng đầu” và là động lực phát triển KT-
XH.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết
số 29- NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
[2] Quốc hội (2010). Luật Giáo dục. NXB Lao động
Xã hội.
[3] Bộ GD-ĐT (2017). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên chính
hạng II. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Ngọc Hải (2005). Giáo dục Việt Nam tác
động của WTO. Tạp chí Khoa học Giáo dục,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 2, tr 3-7.
[5] Vũ Ngọc Hải - Đặng Bá Lãm - Trần Khánh Đức
(2007). Giáo dục Việt Nam đổi mớiphát triển
hiện đại hóa. NXB Giáo dục.
[6] Nguyễn Song Bình - Trần Thị Thu (2006).
Quản chất lượng toàn diện - con đường cải tiến
và thành công. NXB Khoa học và Kĩ thuật.
[7] Phạm Thành Nghị (2000). Quản chất lượng
giáo dục đại học. NXB Đại học Quốc gia Nội.
[8] Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc
(2005). Những xu thế quản hiện đại vận
dụng vào quản giáo dục. NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
[9] Nguyễn Như An (2017). Đổi mới quản hoạt
động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung
học sở trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Khoa
học Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt
Nam, số 145, tr 20-24.
lOMoARcPSD| 48599919
8
V
Tp chí Giáo dc, S đặc bit tháng 6/2018, tr 115
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO...
(Tiếp theo trang 83)
c dự án liên kết trong ngoài nước đang được
chú trọng phát triển dựa trên chiến lược phát triển
nguồn nhân lực của đất nước từ nay đến năm 2020,
tầm nhìn 2030; đồng thời, chiến lược phát triển giáo
dục, phát triển ĐTN cũng đã được ban hành. Với
những dự án này thì phát triển quan hệ hợp tác với
các trường cao đẳng, đại học trong hoạt động NCKH
của đội ngũ GV Trường CĐN Cần Thơ là yếu tố rất
cần thiết.
3 . Kết luận
Trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện GD-
ĐT, phát triển giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi chất
lượng công tác đào tạo nói chung, ĐTN nói riêng
phải có những bước tiến triển mới, phù hợp với yêu
cầu sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao của thị trường lao động của
các nhà tuyển dụng, sử dụng nhân lực. Bên cạnh đó,
sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kĩ thuật và
công nghệ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra nên rất cần có nguồn nhân lực tay nghề cao,
đặc biệt các ngành nghề thuật. Đội ngũ GV
Trường CĐN Cần Thơ đóng vai trò quyết định sự
thành công, đảm bảo chất lượng trong quá trình đào
tạo của Trường. Vì vậy, nâng cao hoạt động NCKH
của đội ngũ GV Trường CĐN Cần Thơ một tất
yếu cần phải chú trọng, quan tâm, phát triển, phù hợp
với yêu cầu của tình hình mới hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 630
/QĐ-TTg ngày 29/05/2012 Phê duyệt Chiến
lược phát triển dạy nghề thời kì 2011-2020.
[2] Quốc hội (2014). Luật số 74/2014/QH13 ngày
27 /11/2014 về Luật Giáo dục nghề nghiệp.
[3] Cao Đàm (2013). Phương pháp luận nghiên
cứu khoa học. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Lê Thị Thơ (2016). Bồi dưỡng năng lực nghiên
cứu khoa học - công nghệ cho giảng viên cao
đẳng nghề vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Luận án tiến luận Lịch sử giáo dục, Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[5] Lê Thị Thơ (2014). sở khoa học về năng lực
nghiên cứu khoa học - công nghệ của giảng viên
cao đẳng nghề. Tạp chí Giáo dục, số 327, tr
24-26 ; 23.
[6] Phạm Duy Bảy (2013). Những yếu tố cơ bản
để phát triển đội ngũ giảng viên trường cao
đẳng nghề. Tạp chí Giáo dục, số 313, tr 1-2;
46.
[7] Đậu Chính Nghĩa (2012). Thực trạng
biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu
khoa học của giảng viên Trường Cao đẳng
nghề du lịch Thương mại Nghệ An. Tạp chí
Giáo dục, số 293, tr 60-61 ; 59.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 48599919
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 115- 118
MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Lê Thị Thanh Trà - Phạm Thị Thanh
Thủy Trường Đại học Kĩ thuật Y tế Hải Dương
Ngày nhận bài: 10/06/2018; ngày sửa chữa: 16/06/2018 ; ngày duyệt đăng : 25/06/2018.
Abstract: The development of the market economy in our country has created new
resources for the economic development. However, it also raises new demands for the
diversity of education and training of population classes in the society. The subsidized
policies on education have been backwards to requirements of economic development in
current period. Therefore, State management of education in the socialist-oriented market
economy is an urgent requirement with aim to create a new look for the development of the
education system in Vietnam and gradually establish a market-oriented education in human resource development.
Keywords: Education, market economy, State management, socialist-oriented market economy. 1. Mở đầu
Giáo dục là quá trình đào tạo con người có mục đích,
GD-ĐT được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã
tâm, coi đó là chìa khóa để thực hiện sự nghiệp CNH, hội, tham
HĐH đất nước. Nghị quyết 29/NQ-TW Ban Chấp
hành Trung ương khoá XI về Đổi mới căn bản, toàn
diện GD-ĐT
đã nhấn mạnh: “Chủ động phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển GD-ĐT”
[1]. Trong những năm qua, sự lãnh đạo,
chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, sự quan tâm của
cả xã hội, nỗ lực của đội ngũ nhà giáo, nhà quản lí
(QL), nhà khoa học, sự nghiệp GD-ĐT, khoa học và
công nghệ nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng về quy mô, chất lượng giáo dục các cấp; công
tác QL; đội ngũ nhà giáo; công tác nghiên cứu, ứng
dụng khoa học công nghệ; tiềm lực khoa học và công
nghệ; thị trường và các dịch vụ khoa học công nghệ;
hợp tác quốc tế… Tuy nhiên, bên cạnh đó chất lượng
GD-ĐT còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót và yếu
kém, nhất là đào tạo đại học và dạy nghề chưa đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH.
Bài viết nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp
quản lí Nhà nước về giáo dục trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. 2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Quản lí nhà nước về giáo dục
2.1.1.Quan niệm về giáo dục
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có
hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một
đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có Email:
được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. 1 lOMoAR cPSD| 48599919
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr Email: 115118
quyền lực công để điều hành, điều chỉnh tất cả các
gia lao động sản xuất và được thể hiện bằng cách tổ hoạt động giáo dục trong phạm vi toàn xã hội nhằm
chức truyền thụ, lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử thực hiện mục tiêu giáo dục quốc gia. Nếu xem QLNN
xã hội của loài người. Như vậy, giáo dục là một hiện như là một hệ thống, thì QLNN về giáo dục là một hệ
tượng xã hội đặc trưng của xã hội loài người. Giáo dục thống bao gồm các thể chế, cơ chế QL giáo dục; tổ
nảy sinh cùng với xã hội loài người, trở thành chức chức, bộ máy QL giáo dục và đội ngũ cán bộ và công
năng “sinh hoạt” không thể thiếu được và không bao chức QL giáo dục các cấp. Ba bộ phận này có mối liên
giờ mất đi ở mọi giai đoạn phát triển của xã hội. hệ và tác động qua lại với nhau rất chặt chẽ, chúng có
2.1.2.Quan niệm về quản lí
thể thúc đẩy hoặc kìm hãm lẫn nhau trong quá trình
QL là sự tác động có ý thức của chủ thể QL lên đối vận hành, tác nghiệp. 2.1.5.Quan niệm về kinh tế thị
tượng QL nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các trường
quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến
Kinh tế thị trường (KTTT) là nền kinh tế mà trong
mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật đó người mua và người bán tác động với nhau theo khách quan
quy luật cung - cầu, giá trị để xác định giá cả và số
2.1.3.Quan niệm về quản lí nhà nước
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. KTTT là nền
Quản lí nhà nước (QLNN) là sự tác động tổ chức kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là một hình
mang tính quyền lực - pháp lí của các cơ quan nhà thức tổ chức sản xuất xã hội hiệu quả nhất phù hợp
nước, người có thẩm quyền, hoặc các tổ chức khi được với trình độ phát triển của xã hội hiện nay.
Nhà nước trao quyền tới ý thức, hành vi, xử sự của cá
2.1.6.Quan niệm về giáo dục trong nền kinh tế thị
nhân, tổ chức, cơ quan, tới các quá trình xã hội hướng
trường Kinh tế và giáo dục có mối quan hệ gắn bó
chúng vận động, phát triển nhằm đạt được mục tiêu
hữu cơ, tác động qua lại với nhau, trong đó sự phát
nhất định của QLNN và xã hội. Mục tiêu của QLNN triển giáo dục phụ
phải phù hợp với mục tiêu phát triển của xã hội. Đây thuộc vào sự phát triển và cơ chế vận hành của nền
chính là ý nghĩa, giá trị của QLNN.
kinh tế và chế độ chính trị - xã hội nói chung. Việt
2.1.4.Quan niệm quản lí nhà nước về giáo dục
Nam đã trải qua hơn 30 năm thực hiện chuyển đổi từ
QLNN về giáo dục là sự tác động có tổ chức và
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp
điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước, trên cơ sở pháp
sang nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện
luật đối với các hoạt động giáo dục, do các cơ quan
nay, vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục
nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực trong nền KTTT, cụ thể:
hiện chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước uỷ quyền -
Đối lập giáo dục với KTTT, không chấp nhận
nhằm phát triển sự nghiệp GD-ĐT; duy trì trật tự, kỉ
cơ chế thị trường trong giáo dục: Quan điểm này xuất
cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục của nhân dân;
phát từ quan niệm coi giáo dục là lĩnh vực cao quý,
thực hiện mục tiêu GD-ĐT của Nhà nước đáp ứng
bất vụ lợi, là trách nhiệm của Nhà nước và xã hội; là
yêu cầu phát triển của đất nước. Hay, QLNN về giáo
dịch vụ công, phúc lợi chung, thể hiện sự công bằng
dục là việc Nhà nước thực hiện
xã hội và bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Do đó, không
thể coi giáo dục là hàng hóa, “trường học không thể
là cái chợ, là nơi buôn bán, trao đổi” (tức là, không
thể có thị trường trong giáo dục). Tuy nhiên, quan
điểm này không hoàn toàn phủ nhận sự liên quan giữa
giáo dục với thị trường và cho rằng: vận dụng cơ chế
thị trường vào QL giáo dục, đào tạo là cần thiết. -
Coi giáo dục là một thứ hàng hóa, dịch vụ:
Chủ trương “giáo dục không thể quay lưng với cơ chế
thị trường”, cần thị trường hóa, “thương mại hóa”
giáo dục. Theo quan điểm này, cần sử dụng cơ chế thị
trường trong giáo dục để phục vụ sự phát triển kinh
tế, đáp ứng nhu cầu thị trường, thích nghi với thị 2 lOMoAR cPSD| 48599919
trường thông qua việc thực hiện chức năng phát triển
nguồn nhân lực, góp phần hình thành thị trường lao động... -
Một mặt, thừa nhận vị trí đặc biệt, chức năng
cao quý của giáo dục; mặt khác, cũng coi giáo dục là
hàng hóa, nhưng là hàng hóa đặc biệt:
Cần vận dụng
cơ chế thị trường trong giáo dục đại học với mục đích hạn chế 3 lOMoAR cPSD| 48599919
mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực của nó. Tuy nhiên,
với tính cạnh tranh quyết liệt, đòi hỏi nguồn nhân lực
những người theo quan điểm này cho rằng, cơ chế thị
đa dạng, chất lượng cao, yêu cầu đổi mới giáo dục,
trường chỉ tốt trong ngắn hạn, về lâu dài phải có tầm đổi mới cơ chế QL
nhìn thông minh, sáng suốt.
Cả 3 quan điểm trên đều có điểm chung là: trong
điều kiện phát triển KTTT định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, dù muốn hay
không, chúng ta cũng phải chấp nhận cơ chế thị
trường, vận dụng khôn ngoan để tồn tại và phát triển,
kể cả trong lĩnh vực giáo dục. 2.2. Nội dung quản lí
nhà nước về giáo dục

Trong QLNN cũng như QL hành chính Nhà nước
về giáo dục thì khách thể QL là nền giáo dục quốc
gia, được cụ thể hóa thông qua hệ thống giáo dục
quốc dân. Đối tượng QL là mọi yếu tố cấu thành nên
hệ thống giáo dục quốc dân, gồm: nhà trường, nhà
giáo, người học, chương trình giáo dục, tài chính giáo
dục, nhân sự giáo dục, môi trường giáo dục… Mục
tiêu QL có những sự khác biệt đáng kể từ nước này
sang nước khác, giai đoạn này sang giai đoạn khác,
nhưng về cơ bản nhằm bảo đảm trật tự, kỉ cương
trong tổ chức, hoạt động và phát triển giáo dục đáp
ứng yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước.
Nội dung QLNN về giáo dục Việt Nam được quy
định cụ thể trong Chương VII, Mục 1, Điều 99 của
Luật Giáo dục ( sửa đổi bổ sung năm 2009) [2; tr
105-106]. Hiện nay, khi hệ thống giáo dục đã khác
trước rất nhiều, phức hợp hơn với sự tham gia của
nhiều chủ thể, thì làm thế nào để QLNN về giáo dục
đạt được các kết quả mong muốn về quy mô, chất
lượng, hiệu quả và công bằng xã hội trong phát triển
giáo dục là một câu hỏi mở. Bản thân QL giáo dục
cũng trở thành một hệ thống lớn, gồm các hệ thống
con là QLNN trong từng phân hệ của hệ thống giáo
dục quốc dân như: QLNN về giáo dục mầm non, giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên… 2.
3.Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quản lí
nhà nước về giáo dục trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
2.3.
1.Đổi mới quản lí nhà nước về giáo
dục theo yêu cầu của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa

Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, giáo dục trở
thành độc quyền của Nhà nước; nhà trường chỉ là nơi
chấp hành mọi kế hoạch và chỉ tiêu, pháp lệnh mà
Nhà nước giao, không cần quan tâm nhiều đến “đầu
ra”. Chúng ta không phủ nhận những thành tựu của
giáo dục do cơ chế tập trung bao cấp tạo ra, song cũng
cần thấy rằng, cơ chế QL đó đã làm cho hệ thống giáo
dục thiếu tính cạnh tranh, kém năng động, sáng tạo,
trở thành “mảnh đất” cho căn bệnh thành tích và chủ
nghĩa hình thức tồn tại. Ngược lại, trong nền KTTT 4 lOMoAR cPSD| 48599919
phù hợp với yêu cầu phát triển trong thời kì mới đang
xã hội, phải có sự tham gia, liên kết chặt chẽ giữa Nhà
đặt ra hết sức gay gắt. Trong bối cảnh đó, rất cần vai
nước - nhà trường - nhà doanh nghiệp để cùng hỗ trợ
trò QL của Nhà nước trong giáo dục để phát huy mặt
lẫn nhau trong quá trình đào tạo, sử dụng nguồn nhân
tích cực, hạn chế mặt trái và những tác động tiêu cực
lực. Do đó, cần đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí đào
của KTTT. Vì vậy, những vấn đề cần quan tâm hiện
tạo, thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng trong giáo
nay trong QLNN về giáo dục là:
dục. Nhà nước sẽ thực hiện cấp kinh phí đào tạo theo
- Làm rõ quan điểm, chính sách và
cơ chế đấu thầu, đặt hàng trong đào tạo, thay vì phân
nguyên tắc, xây dựng khung pháp lí và thể
bổ kinh phí cho các trường theo
chế đồng bộ, tạo môi trường pháp lí và tâm
lí xã hội thuận lợi để có thể vận dụng cơ
chế thị trường trong giáo dục đại học hiệu
quả nhất, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Trên cơ sở phân biệt rõ QLNN về
giáo dục và QL của cơ sở giáo dục, xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm của các cơ quan QLNN về
giáo dục và của các trường, thực hiện
mạnh mẽ sự phân cấp QL giáo dục, phát
huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các trường.
-Xây dựng đồng bộ và kịp thời ban hành các văn
bản pháp lí về giáo dục trong điều kiện phát triển
KTTT, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, QL chặt chẽ các loại hình đào tạo,
chấn chỉnh tình trạng thu chi không minh
bạch và những biểu hiện tiêu cực, vụ lợi,
cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi
nhuận, hoặc xu hướng “thương mại hóa” trong giáo dục...
2.3.2. Đổi mới phương thức đào tạo, thực hiện đào
tạo theo nhu cầu xã hội, gắn nhà trường với doanh
nghiệp, gắn giáo dục với nghiên cứu khoa học

Giáo dục Việt Nam đang đứng trước “bài toán” về
chất lượng “đầu ra” chưa đáp ứng được nhu cầu của
thị trường lao động. Hiện nay, các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế đang cần lực lượng lớn lao động có
trình độ kĩ thuật cao, nhưng đào tạo chưa đáp ứng
được, trong khi nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học,
cao đẳng ra trường lại không có việc làm. Chúng ta
đang thừa lao động phổ thông chưa qua đào tạo,
nhưng lại thiếu lao động kĩ thuật lành nghề, thiếu
chuyên gia và các nhà QL, cán bộ khoa học - công nghệ có trình độ cao.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới
tình trạng trên là chương trình đào tạo trong các
trường đại học và dạy nghề còn nặng về lí thuyết, nhẹ
về thực hành; chưa thực sự gắn với điều kiện và nhu
cầu thực tiễn của doanh nghiệp, thị trường và xã hội.
Cơ chế thị trường đòi hỏi đào tạo phải theo nhu cầu 5 lOMoAR cPSD| 48599919
dự toán hằng năm. Việc phân bổ ngân sách Nhà nước -
Giao quyền tự chủ, đảm bảo quyền tự chủ và
cho các trường cần gắn với nhu cầu và đối tượng được
trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, nhất là
đào tạo, nên đánh giá hiệu quả đào tạo qua chỉ số sinh các trường
viên có việc làm. Điều này đòi hỏi các trường đại học
phải gắn giảng dạy với nghiên cứu khoa học, nghiên
cứu thực tiễn; đồng thời tích cực đổi mới chương
trình đào tạo, phương pháp dạy và học, tăng cường
năng lực đội ngũ giảng viên, đổi mới phương thức
QL và đào tạo theo hướng hiện đại, hiệu quả, nhằm
đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng, đòi hỏi
ngày càng cao của xã hội.
Doanh nghiệp cần chủ động đặt hàng với các cơ
sở đào tạo, tham gia xây dựng chương trình đào tạo
và hỗ trợ trực tiếp quá trình đào tạo, thực hiện mô
hình trường trong doanh nghiệp. Cần có cơ chế, chính
sách khuyến khích các chuyên gia có trình độ cao
đang làm việc tại các doanh nghiệp tham gia đào tạo
sinh viên. Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ”, là cầu nối
giữa nhà trường và doanh nghiệp, cung cấp thông tin
dự báo nhu cầu nhân lực, hỗ trợ kinh phí, ban hành
cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà
trường thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội. Cần
thành lập Ban chỉ đạo quốc gia phụ trách vấn đề này.
2.3.3.Quản lí nhà nước đảm bảo sự thống nhất giữa
phát triển giáo dục và kinh tế
Về cơ sở lí luận, phát triển giáo dục phải đi trước
một bước phát triển kinh tế. Ngày nay các nước trên
thế giới muốn phát triển kinh tế phải trên cơ sở phát
triển khoa học kĩ thuật và công nghệ, phải dựa vào
nguồn nhân lực có trình độ cao về tri thức cũng như
kĩ năng và tay nghề. Cụ thể là: -
Đa dạng hoá cách làm giáo dục thông qua
đa dạng hoá loại hình giáo dục: Giáo dục chính quy,
không chính quy và phi chính quy với nhiều thang
bậc, loại hình dài hạn và ngắn hạn với những cơ cấu
linh hoạt, mềm dẻo, liên thông về nội dung, ngành
nghề, về không gian (vùng, miền) và thời gian.
-Giáo dục thích ứng với nhu cầu xã hội: “Nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”
thích ứng với nhu cầu xã hội. Đào tạo nhân lực với
nhiều hình thức căn cứ vào nhu cầu xã hội, lấy hiệu
quả xã hội của giáo dục làm nền tảng. Tối ưu hoá tri
thức của học sinh, sinh viên, mở rộng diện kiến thức,
tăng cường nhiều năng lực thích ứng với những biến
động mới của nền KTTT, tạo điều kiện tốt cho học
sinh, sinh viên được tiếp xúc nhiều và thường xuyên
với xã hội, thực sự hiểu biết xã hội và tăng cường
năng lực xử lí các vấn đề thực tế đang diễn ra hàng ngày. -
Đa dạng hoá cơ cấu ngành nghề đáp ứng
nhu cầu kinh tế Trung ương và địa phương trong hợp
tác quốc tế với xu thế toàn cầu hoá. 6 lOMoAR cPSD| 48599919 V
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 115
đại học để có thể thích ứng nhanh được với KTTT. QL [10]Đặng Quốc Bảo (2010). Những vấn đề cơ bản của
trường học phải dựa trên cơ sở tổ chức, sử dụng một hoạt động quản lí và sự vận dụng vào quản lí cách khoa
học nhân lực, vật lực và tài lực của nhà nhà trường. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội trường giúp nhà trường
phát triển ổn định, bền vững, đạt hiệu quả cao nhằm thực hiện được mục đích giáo dục theo cơ chế thị trường
trong xu thế toàn cầu hoá. 3. Kết luận
QL giáo dục trong nền KTTT là tạo động lực cho
giáo dục phát triển nhanh, mạnh, phát triển liên tục,
phù hợp và hài hoà với sự phát triển của nền KTTT.
QL giáo dục coi trọng sự dân chủ, bình đẳng, cạnh
tranh, xã hội hoá với những chính sách thông thoáng
giúp các cơ sở giáo dục chủ động, sáng tạo tự xây
dựng thương hiệu của mình ở trong nước cũng như
trên thế giới. Hiệu quả là mục tiêu quan trọng số một
của QL giáo dục. Nhà nước cần có đường lối, chính
sách hợp lí, kịp thời và phù hợp để giáo dục thực sự là
“quốc sách hàng đầu” và là động lực phát triển KT- XH.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết
số 29- NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế
.
[2] Quốc hội (2010). Luật Giáo dục. NXB Lao động Xã hội.
[3] Bộ GD-ĐT (2017). Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên chính
hạng II
. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Vũ Ngọc Hải (2005). Giáo dục Việt Nam và tác
động của WTO. Tạp chí Khoa học Giáo dục,
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 2, tr 3-7.
[5] Vũ Ngọc Hải - Đặng Bá Lãm - Trần Khánh Đức
(2007). Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển
hiện đại hóa
. NXB Giáo dục.
[6] Nguyễn Song Bình - Trần Thị Thu Hà (2006).
Quản lí chất lượng toàn diện - con đường cải tiến
và thành công
. NXB Khoa học và Kĩ thuật.
[7] Phạm Thành Nghị (2000). Quản lí chất lượng
giáo dục đại học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[8] Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc
(2005). Những xu thế quản lí hiện đại và vận
dụng vào quản lí giáo dục. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
[9] Nguyễn Như An (2017). Đổi mới quản lí hoạt
động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung
học cơ sở trong giai đoạn hiện nay
. Tạp chí Khoa
học Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 145, tr 20-24. 7 lOMoAR cPSD| 48599919 V
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 115
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG
cao đẳng nghề. Tạp chí Giáo dục, số 327, tr CAO... 24-26 ; 23. (Tiếp theo trang 83)
[6] Phạm Duy Bảy (2013). Những yếu tố cơ bản
để phát triển đội ngũ giảng viên trường cao
đẳng nghề
. Tạp chí Giáo dục, số 313, tr 1-2;
Các dự án liên kết trong và ngoài nước đang được
chú trọng phát triển dựa trên chiến lược phát triển 46.
[7] Đậu Chính Nghĩa (2012). Thực trạng và
nguồn nhân lực của đất nước từ nay đến năm 2020,
biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu
tầm nhìn 2030; đồng thời, chiến lược phát triển giáo
khoa học của giảng viên Trường Cao đẳng
dục, phát triển ĐTN cũng đã được ban hành. Với
nghề du lịch Thương mại Nghệ An. Tạp chí
những dự án này thì phát triển quan hệ hợp tác với
Giáo dục, số 293, tr 60-61 ; 59.
các trường cao đẳng, đại học trong hoạt động NCKH
của đội ngũ GV Trường CĐN Cần Thơ là yếu tố rất cần thiết. 3 . Kết luận
Trong bối cảnh đổi mới căn bản toàn diện GD-
ĐT, phát triển giáo dục nghề nghiệp đòi hỏi chất
lượng công tác đào tạo nói chung, ĐTN nói riêng
phải có những bước tiến triển mới, phù hợp với yêu
cầu sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao của thị trường lao động và của
các nhà tuyển dụng, sử dụng nhân lực. Bên cạnh đó,
sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kĩ thuật và
công nghệ và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang
diễn ra nên rất cần có nguồn nhân lực tay nghề cao,
đặc biệt các ngành nghề kĩ thuật. Đội ngũ GV
Trường CĐN Cần Thơ đóng vai trò quyết định sự
thành công, đảm bảo chất lượng trong quá trình đào
tạo của Trường. Vì vậy, nâng cao hoạt động NCKH
của đội ngũ GV Trường CĐN Cần Thơ là một tất
yếu cần phải chú trọng, quan tâm, phát triển, phù hợp
với yêu cầu của tình hình mới hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 630
/QĐ-TTg ngày 29/05/2012 Phê duyệt Chiến
lược phát triển dạy nghề thời kì 2011-2020.

[2] Quốc hội (2014). Luật số 74/2014/QH13 ngày
27 /11/2014 về Luật Giáo dục nghề nghiệp.
[3] Vũ Cao Đàm (2013). Phương pháp luận nghiên
cứu khoa học. NXB Giáo dục Việt Nam.
[4] Lê Thị Thơ (2016). Bồi dưỡng năng lực nghiên
cứu khoa học - công nghệ cho giảng viên cao
đẳng nghề vùng Đồng bằng sông Cửu Long
.
Luận án tiến sĩ Lí luận và Lịch sử giáo dục, Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam.
[5] Lê Thị Thơ (2014). Cơ sở khoa học về năng lực
nghiên cứu khoa học - công nghệ của giảng viên 8