Các hình thái ý thức xã hội môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội

Các hình thái ý thức xã hội môn Triết học Mác -Lênin | Đại học sư phạm Hà nội với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 39651089
CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Ý thức xã hi tn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhưng những hình thái chủ yếu
của ý thức hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức nghệ thuật (hay còn gọi là ý thức thẩm mỹ), ý thức tôn giáo, ý thức ý luận (hay
còn gọi ý thức khoa học) và ý thức triết học. nh phong phú đa dạng của các hình
thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống hi.
Trong các hình thái ý thức hội những hình thái gần với sở kinh tế của tồn
tại xã hội hơn, có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn so với các hình
thái ý thức hội khác. Vì vậy các hình thái ý thức chính trị và ý thức pháp quyền
gần gũi với cơ sở kinh tế hơn cả.
1. Ý thức chính trị
Đầu tiên hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị hình thái ý thức
chỉ xuất hiện và tồn tại trong các hội có giai cấp nhà nước. phản ánh các
quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng
như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị thực tiễn
thông thường hình thành từ trực tiếp từ các hoạt động thực tiễn trong môi trường
chính trị của xã hội. trạng thái tâm lí xã hội, những cảm xúc và tâm trạng về chính
trị của quần chúng cảm xúc tâm trạng vchính trị của quần chúng thường thiếu
bền vững không ổn định. Song, những trạng thái tâm lí xã hội như vậy lại đóng
vai trò to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần chúng đông đảo. Thông
qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống chính trị của xã hội. Hệ tư tưởng
của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh trực tiếp tập trung lợi ích giai cấp của
giai cấp ấy. Ý thức chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của
các chính đảng ca các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp chính sách nhà
nước công cụ của giai cấp thống trị, hệ tưởng chính trị được hình thành một
cách tgiác. được các nhà tưởng của giai cấp xây dựng truyền bá. Hệ
lOMoARcPSD| 39651089
tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị, thông qua các tổ chức chính trị mà một
giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh giành ý thức. lợi ích của giai cấp của
mình, ý thức chính trị đặc biệt hệ tưởng chính trị vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh
tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng
chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nó thâm nhập
vào các hình thái ý thức hội khác, tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tưởng
chính trị cũng như ý thức chính trị nói chung phụ thuộc vào tính tiến bộ, cách mạng
hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tưởng đó. Khi giai cấp
đó tiến bộ, cách mạng tiêu biểu làm cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư
tưởng chính tr của nó có tác động tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó
trở thành lạc hậu, phản cách đng thì htưởng chính trị của tác động tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội
Ví dụ:
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam hoạt động của Đảng ch mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-
Lênin khoa học vcác quy luật phát triển của tự nhiên hội, khoa
học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học về sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta, khẳng định
lấy chủ nga Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động nêu cao
tuởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa MácLênin là tư tưởng
về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột người. vậy, trong s
nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội của nhân dân ta tất nhiên phải lấy chủ
nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng H Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của nước ta; mà cốt lõi là sự kết hợp
lOMoARcPSD| 39651089
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước của
nhân dân ta.
2. Ý thức pháp quyền
Tiếp theo đó là ý thức pháp quyền. Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan
điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền nghĩa vụ của
nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của
hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong
việc thực thi pháp luật của Nhà nước.
Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai
hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản
ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được
thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể
hiện thành luật lệ do đó Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành
luật lệ, do đó mỗi chế độ hội, mỗi nhà nước chỉ một hệ thống pháp luật của
giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong hội các giai cấp đối kháng, các giai
cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai
cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước mà n phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lí pháp luật của xã
hội.
VD:
Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền
hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích bản giữa giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà nước ban
hành. Việc thể hiện ý chí của giai cấp ng nhân cũng đồng thời phản ảnh
lOMoARcPSD| 39651089
thể hiện lợi ích dân tộc trong công cuộc đối mới tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
3. Ý thức đạo đức
Thứ 3 là ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức các
trạng thái cảm xúc, tâm chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác,
lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v.v… và về những quy tắc đánh giá,
những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các
cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức một trong các hình thái ý thức ra đời từ rất sớm. Trong lịch sử,
ngay từ xã hội nguyên thủy sự ý thức về lương tâm, danh dự lòng tự trọng phản
ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản
quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng biểu hiện bản chất của con
người.
Từ ý nghĩa đó, sphát triển đạo đức nhân tố biểu hiện tiến bộ hội. Trong ý thức
đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu nó thì
những khái niệm, phạm tđạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con
đường tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Trong tiến trình phát
triển ca hội đã hình thành những gtrị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn
tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc ứng
xử đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi các sinh hoạt thường ngày của con người
trong cộng đồng xã hội.
lOMoARcPSD| 39651089
Tuy nhiên, trong một xã hội có sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo
đức phản ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức
luôn luôn phản ánh địa vị lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn
phát triển nhất định của lịch shội đều những quan niệm đạo đức của riêng
mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền
đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một đạo đức suy thoái
Vd: Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con
người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ như:
+Về đạo làm con:
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,
Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con.
+Về quy tắc ăn nói, giao tiếp, cư xử:
Kính trên, nhườngới
lOMoARcPSD| 39651089
Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Một điều nhịn, chín điều lành
4. Ý thức khoa học
Tiếp đến là phần 4 – Ý thức khoa học. Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức
xã hội vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý
thức xã hội không thể tách rời, xem xét nó như một hiện tượng xã hội. Ý thức khoa
học với tính chất là một hình thái xã hội là hệ thống phản ánh tri thức chân thực dưới
dạng logic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn. Đối
tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và
duy trong khi các hình thái ý thức hội khác chỉ phản ánh một mặt một khía
cạnh nào đó của đời sống xã hội mà thôi. Đó là một trong những điểm khác biệt của
ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác. Khoa học có thể tồn tại dưới
dạng hệ thống lý luận chung nhất hoặc dưới dạng cụ thể các tri thức chuyên ngành.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của ý thức khoa học là các phạm trù, định luật, quy luật
và là ngôn ngữ chuyên môn hoá, là công cụ của tư duy khoa học.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức hội khác, hình thành các
khoa học tương ứng từng hình thái ý thức đó. (ví dnhư ý thức chính trị và chính trị
học, ý thức đạo đức đạo đức học, ý thức nghệ thuật nghệ thuật học, v.v…).
Nhờ tri thức khoa học con người không ngừng vươn tới cái mới để tạo ra một
thế giới mới và ngày càng thể hiện rõ vị thế làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm
chủ bản thân mình.
lOMoARcPSD| 39651089
Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên – kỹ thuật nghiên cứu các
quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục cải tạo tự nhiên khoa học
xã hội nghiên cứu những hiện tượng hội khác nhau, các quy luật vận động, phát
triển của chúng cả bản thân con người như một thực thể hội. Triết học
cũng được coi một khoa học bởi nghiên cứu những quy luật chung nhất của
mọi tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy, xây dựng nên phương pháp luận chung
cho việc nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong mỗi khoa học có thể phân chia thành các cấp độ kinh nghiệm và lý luận (hay
thuyết). Cấp độ kinh nghiệm những liệu hiện thực đã tích lũy được qua sự
tổng hợp quan sát, thí nghiệm; luận sự khái quát kinh nghiệm thể hiện trong
những thuyết về quy luật nguyên tương ứng. Cấp độ luận của các khoa
học cụ thể kết hợp với nhau trong sgiải thích các nguyên quy luật chung được
phát hiện ở tầm nghiên cứu triết học, hình thành thế giới quan và phương pháp luận
của toàn bộ nhận thức khoa học.
Nguồn gốc sâu xa của khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng với sự phát
triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển. Trong
quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống hội ngày càng tăng lên. Ngày
nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân
tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công nghệ
và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động không
còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri
thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các
phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản kinh tế. Hơn nữa khoa học n trở
thành một ngành hoạt động sản xuất với quy ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt
các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng
tăng, vốn đầu ngày càng lớn, hiệu quả đầu ngày càng cao. Do những biến đổi
lOMoARcPSD| 39651089
căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp.
VD: Các định luật của Newton về chuyển động là tập hợp của 3 định luật cơ học
phát biểu bởi nhà bác học Isaac Newton, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển (còn gọi
là cơ học Newton). Nội dung 3 định luật:
Định luật 1 Newton: Nếu một vật không chịu tác dụng của lực nào hoặc chịu
tác dụng của các lực có hợp lực bằng không thì nó giữ nguyên trạng thái
đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều.
Định luật 2 Newton: Gia tốc của một vật cùng hướng với lực tác dụng lên
vật. Độ lớn của gia tốc tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối
lượng của vật.
Định luật 3 Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B một
lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị,
cùng độ lớn, nhưng ngược chiều.
5. Ý thức thẩm mĩ
Đối với phần ý thức thẩm mĩ, thì đây là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người
trong quan hvới nhu cầu thưởng thức sáng tạo cái Đẹp. Trong các hoạt động
thưởng thức và sáng tạo cái đẹp nghệ thuật biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ.
dụ: với cách một hình thái ý thức hội, khi phản ánh vcon người nói
chung, khoa học chỉ quan tâm về những gì mà vốn có (cấu tạo cơ thể con người
gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bphận này ra sao; ….) còn các
nghệ sĩ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm con người;
đặc biệt là đi sâu tìm tòi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong những
con người bình dị, đời thường
lOMoARcPSD| 39651089
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, quá
trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn hội.
Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật thuộc về thời khi con người biết sản xuất
ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mĩ bắt nguồn từ tồn tại
hội. Khác với khoa học triết học phản ánh thế giới bằng khái niệm, phạm trù,
quy luật; nghệ thuật phản ánh thế giới phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể,
bằng những hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy phản ánh cái bản chất
của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh
động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, cái bản chất
trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt. Song cái cá biệt trong
nghệ thuật phải là cái điển hình. Và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải
là cái điển hình đã được cá biệt hóa.
Sự phát triển của nghệ thuật về cả nội dung và hình thức không thể tách khi sự phát
triển của tồn tại hội nhưng nghệ thuật tính độc lập tương đối rất nét trong
sự phát triển của mình. Không phải bao giờ nghệ thuật cũng phản ánh tồn tại một
cách trực tiếp, dễ thấy. Do đó, Mác đã viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng
những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển
chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất
của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội” .
Và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắn bó mật thiết với đời sống hiện thực của
nhân dân, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày càng cao nhu
cầu thẩm mỹ của con nguời: quan niệm “Nghệ thuật vị nhân sinh”, “Chao ôi, nghệ
thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên ánh trăng lừa dối;
lOMoARcPSD| 39651089
nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…” (trích
tác phẩm “Trăng sáng” của Nam Cao)
Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá
trị thẩm cao, nghệ thuật đã tác động đến trí tình cảm của con người, kích
thích tính tích cực của con người, sẽ nuôi dưỡng cho con người những hành vi đạo
đức tốt đẹp.
Trong xã hội sự phân chia giai cấp, bao giờ nghệ thuật cũng mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết chỗ không thể không chịu sự
tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng
ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội chia thành các giai cấp mà phủ
nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm. Khi nhấn mạnh
tính giai cấp của nghệ thuật, trong hội có giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó, không ít tác phẩm nghệ thuật
giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại mặc tác giả
đại biểu của một giai cấp nhất định. những nền nghệ thuật của một dân tộc
nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiểu biểu của cả nhân loại. Tính
giai cấp của nghệ thuật, cách mạng tiến bộ không những không mâu thuẫn với
tính nhân loại mà ngược lại còn làm rõ sâu sắc giá trị toàn nhân loại.
VD: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai
trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi n nghệ văn
nghệ sĩ tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
lOMoARcPSD| 39651089
6. Ý thức tôn giáo
Phần tiếp theo đó chính là ý thức tôn giáo. Nói về bản chất của tôn giáo, Ăng ghen
viết: Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đu óc con
người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống ng ngày của họ, chỉ
là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu
trần thế”.
Nguồn gốc của tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa con người
với tự nhiên lẫn trong các quan hệ hội của con người. Khi những công cụ lao động
và phương tiện sản xuất còn kém phát triển, con người dễ cảm thấy yếu đuối bất lực
trước giới tự nhiên. Sự bất lực sợ hãi của con người trước những sức mạnh của
giới tự nhiên một trong những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc của tôn giáo
còn nằm trong những mối quan hệ xã hội. Trong điều kiện xã hội có áp bức giai cấp
nh tự phát còn những đặc trưng của sự phát triển xã hội. Những quy luật
xã hội biểu hiện như những thế lực mù quáng, trói buộc con người và thường xuyên
quyết định đến số phận của họ khiến con người sợ hãi đó là một trong những nguồn
gốc của tôn giáo
Ý thức tôn giáo với tính cách hình thái hội gồm tâm tôn giáo h
tưởng tôn giáo. Tâm tôn giáo toàn bnhững biểu tượng, tình cảm, tâm trạng
thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống
giáo do các giáo , các nhà thần học tạo ra truyền trong hội. Đứng về
mặt lịch sử, tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý
thức tôn giáo nhưng chúng liên htác động qua lại và bổ sung nhau. Tâm lí tôn giáo
đem lại cho htưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng.
Hệ tư tưởng tôn giáo thuyết minh những hiện tượng tâm lí tôn giáo, khái quát chúng
và làm cho chúng biến đổi theo một chiều hướng nhất định. Ý thức tôn giáo một
lOMoARcPSD| 39651089
hình thái ý thức xã hội thực hiện chủ yếu chức năng chủ yếu của mình là chức năng
đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo.
Chức ng đó làm cho ý thức tôn giáo một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt
trong xã hội. Chức năng đền bù hư ảo nói lên chức khả năng của tôn giáo có thể bù
đắp, bổ sung một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước sức
mạnh của tự nhiên và những điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Những mâu
thuẫn của đời sống hiện thực, những bất lực trong thực tiễn của con người được giải
quyết một cách o trong ý thức của họ. Vì vậy tôn giáo luôn được các giai cấp
thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa v
thống trị của họ.
Nếu như ý thức tôn giáo hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tnhiên
thì trái lại, ý thức khoa học lại mang một nhiệm vụ cao cả ớng con người
việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới để để phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày nhiều
mặt ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Chủ nghĩa MácLênin cho rằng
điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức có tính chất tiêu
cực phải xóa bỏ nguồn gốc hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách
mạng xã hội triệt để nhằm cải tạo cả tồn tại xã hội lẫn ý thức xã hội. Bằng hoạt động
cách mạng tích cực của mình, quần chúng không những cải tạo hội còn cải
tạo bản thân, giải phóng ý thức mình khỏi những quan niệm sai lầm; kể cả những
quan niệm tôn giáo.
VD: Nội dung cơ bản của đạo Bà la môn - đạo Hindu
+Thừa nhận thế giới do thần tạo ra và sự bất tử của linh hồn .Thừa nhận Thuyết
luân hồi
+ Cho rằng mt thực thể tinh thần tối cao tn tại vĩnh viễn là Braman. Linh hồn
thể là Át man là một bộ phận của Braman
lOMoARcPSD| 39651089
+ Con người có sống chết nhưng linh hồn thì tồn tại mãi và luôn hồi qua nhiều kiếp
khác nhau chỉ khi nào Át man hoà nhập với Braman thì mới chấm dứt được thuyết
luân hồi
7. Ý thức triết học
Cuối cùng đó chính ý thức Triết học. Đây loại ý thức đặc biệt và cao nhất của
tri thức cũng như của các ý thức xã hội. Triết học nhất là Triết học Mác-Lênin cung
cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết
toàn bộ lịch sphát triển của khoa học và chính bản thân triết học. Khi đánh giá mối
liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định: “Xét từ góc độ tinh thần,
chúng ta có thể gọi Triết học là cái cần thiết nhất.” Với Mác thì “mọi triết học chân
chính đềutinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình” nên nhất định sẽ có thời kì
mà triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung ca mà về cả bên ngoài, theo
sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc tác động qua lại với thế giới hiện thực của thời
đại nh. “Lúc đó triết học sẽ khong còn một hệ thống nhất định đối với các hệ
thống nhất định khác, trở thành triết học nói chung đối với thế giới, trở thành triết
học của thế giới hiện đại. Những biểu hiện bên ngoài chứng minh rằng triết học đã
có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa…”
Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là
triết học duy vật biện chứng nói riêng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ sở
và hạt nhân của thế giới quan đó là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con người
trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa tới nay thường xuyên đặt ra cho mình.
Chẳng hạn, thế giới xung quan ta gì? Thế giới ấy điểm bắt đầu điểm kết thúc
hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và
sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống của con người
ý nghĩa gì? Con người vị trí nào trong thế giới đó? v.v… Như vậy, thế giới
lOMoARcPSD| 39651089
quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan. Trong thời đại hiện nay, thế giới
quan khoa học chân chính nhất thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Triết
học duy vật biện chứng vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa vai trò
của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái
ấy trong cuộc sống và trong xã hội để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm
và sự phát triển của chúng.
VD: Ý thức được sự vận động phát triển của xã hội việt nam từ chế độ phong kiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Ý thức được mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
xã hội. Như trong quá trình khai thác than, nếu mỗi người làm việc tách biệt nhau,
không có sự phối hợp giữa các cá nhân, không nghe lời chỉ đạo…tức không tồn tại
mqh giữa những con người (qhsx) thì không thể khai thác than hiệu quả.
| 1/14

Preview text:

lOMoAR cPSD| 39651089
CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau nhưng những hình thái chủ yếu
của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý
thức nghệ thuật (hay còn gọi là ý thức thẩm mỹ), ý thức tôn giáo, ý thức ý luận (hay
còn gọi là ý thức khoa học) và ý thức triết học. Tính phong phú đa dạng của các hình
thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân đời sống xã hội.
Trong các hình thái ý thức xã hội có những hình thái gần với cơ sở kinh tế của tồn
tại xã hội hơn, có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn so với các hình
thái ý thức xã hội khác. Vì vậy các hình thái ý thức chính trị và ý thức pháp quyền
gần gũi với cơ sở kinh tế hơn cả.
1. Ý thức chính trị
Đầu tiên là hình thái ý thức chính trị. Hình thái ý thức chính trị là hình thái ý thức
chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội có giai cấp và nhà nước. Nó phản ánh các
quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia cũng
như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị thực tiễn
thông thường hình thành từ trực tiếp từ các hoạt động thực tiễn trong môi trường
chính trị của xã hội. Ở trạng thái tâm lí xã hội, những cảm xúc và tâm trạng về chính
trị của quần chúng cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng thường thiếu
bền vững và không ổn định. Song, những trạng thái tâm lí xã hội như vậy lại đóng
vai trò to lớn và trực tiếp đối với hành vi chính trị của quần chúng đông đảo. Thông
qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động vào đời sống chính trị của xã hội. Hệ tư tưởng
của một giai cấp chính trị nhất định phản ánh trực tiếp tập trung lợi ích giai cấp của
giai cấp ấy. Ý thức chính trị được thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của
các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp chính sách nhà
nước – công cụ của giai cấp thống trị, hệ tư tưởng chính trị được hình thành một
cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá. Hệ tư lOMoAR cPSD| 39651089
tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị, thông qua các tổ chức chính trị mà một
giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh giành ý thức. Vì lợi ích của giai cấp của
mình, ý thức chính trị đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị có vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh
tế và có thể trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng
chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nó thâm nhập
vào các hình thái ý thức xã hội khác, tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng
chính trị cũng như ý thức chính trị nói chung phụ thuộc vào tính tiến bộ, cách mạng
hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp
đó tiến bộ, cách mạng tiêu biểu làm cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư
tưởng chính trị của nó có tác động tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó
trở thành lạc hậu, phản cách động thì hệ tư tưởng chính trị của nó có tác động tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển của xã hội Ví dụ:
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam hoạt động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác-
Lênin là khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, khoa
học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học về sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đảng ta, khẳng định
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư
tuởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa MácLênin là tư tưởng
về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột người. Vì vậy, trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta tất nhiên phải lấy chủ
nghĩa Mác- Lênin làm kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và cách mạng
Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào hoàn cảnh điều kiện cụ thể của nước ta; mà cốt lõi là sự kết hợp lOMoAR cPSD| 39651089
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta.
2. Ý thức pháp quyền
Tiếp theo đó là ý thức pháp quyền. Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan
điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của
nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của
hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong
việc thực thi pháp luật của Nhà nước.
Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai
hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản
ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được
thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể
hiện thành luật lệ do đó Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành
luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của
giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có các giai cấp đối kháng, các giai
cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai
cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết và tâm lí pháp luật của xã hội. VD:
Ở Việt Nam hiện nay, ý thức pháp quyền của xã hội ta là ý thức pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Sự thống nhất cao về mặt lợi ích cơ bản giữa giai cấp công
nhân và nhân dân lao động đã tạo nên hệ thống pháp luật do Nhà nước ban
hành. Việc thể hiện ý chí của giai cấp công nhân cũng đồng thời phản ảnh lOMoAR cPSD| 39651089
và thể hiện lợi ích dân tộc trong công cuộc đối mới tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
3. Ý thức đạo đức
Thứ 3 là ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các
trạng thái cảm xúc, tâm lí chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác,
lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v.v… và về những quy tắc đánh giá,
những chuẩn mực hành vi cùng cách ứng xử giữa các cá nhân với nhau và giữa các cá nhân với xã hội.
Ý thức đạo đức là một trong các hình thái ý thức ra đời từ rất sớm. Trong lịch sử,
ngay từ xã hội nguyên thủy sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng phản
ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản
quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất của con người.
Từ ý nghĩa đó, sự phát triển đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Trong ý thức
đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu thiếu nó thì
những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con
đường lí tính không thể chuyển hóa thành hành vi đạo đức. Trong tiến trình phát
triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn
tại trong mọi xã hội và ở các hệ thống đạo đức khác nhau. Đó là những quy tắc ứng
xử đơn giản nhằm điều chỉnh hành vi và các sinh hoạt thường ngày của con người
trong cộng đồng xã hội. lOMoAR cPSD| 39651089
Tuy nhiên, trong một xã hội có sự phân chia giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo
đức phản ánh quan hệ giai cấp nên nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức
luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn
phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức của riêng
mình. Giai cấp tiêu biểu cho sự phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền
đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một đạo đức suy thoái
Vd: Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc rút ra những bài học về đạo đức để răn dạy con
người, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ như: +Về đạo làm con:
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,
Ngày sau khôn lớn ơn dày biển sâu.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con.
+Về quy tắc ăn nói, giao tiếp, cư xử:
Kính trên, nhường dưới lOMoAR cPSD| 39651089
Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
Một điều nhịn, chín điều lành
4. Ý thức khoa học
Tiếp đến là phần 4 – Ý thức khoa học. Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức
xã hội vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý
thức xã hội không thể tách rời, xem xét nó như một hiện tượng xã hội. Ý thức khoa
học với tính chất là một hình thái xã hội là hệ thống phản ánh tri thức chân thực dưới
dạng logic trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn. Đối
tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và
tư duy trong khi các hình thái ý thức xã hội khác chỉ phản ánh một mặt một khía
cạnh nào đó của đời sống xã hội mà thôi. Đó là một trong những điểm khác biệt của
ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác. Khoa học có thể tồn tại dưới
dạng hệ thống lý luận chung nhất hoặc dưới dạng cụ thể là các tri thức chuyên ngành.
Hình thức biểu hiện chủ yếu của ý thức khoa học là các phạm trù, định luật, quy luật
và là ngôn ngữ chuyên môn hoá, là công cụ của tư duy khoa học.
Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các
khoa học tương ứng từng hình thái ý thức đó. (ví dụ như ý thức chính trị và chính trị
học, ý thức đạo đức và đạo đức học, ý thức nghệ thuật và nghệ thuật học, v.v…).
Nhờ tri thức khoa học mà con người không ngừng vươn tới cái mới để tạo ra một
thế giới mới và ngày càng thể hiện rõ vị thế làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình. lOMoAR cPSD| 39651089
Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên – kỹ thuật nghiên cứu các
quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên và khoa học
xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các quy luật vận động, phát
triển của chúng và có cả bản thân con người như là một thực thể xã hội. Triết học
cũng được coi là một khoa học bởi nó nghiên cứu những quy luật chung nhất của
mọi tồn tại trong tự nhiên, xã hội và tư duy, xây dựng nên phương pháp luận chung
cho việc nghiên cứu tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong mỗi khoa học có thể phân chia thành các cấp độ kinh nghiệm và lý luận (hay
lí thuyết). Cấp độ kinh nghiệm là những tư liệu hiện thực đã tích lũy được qua sự
tổng hợp quan sát, thí nghiệm; lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thể hiện trong
những lý thuyết về quy luật và nguyên lý tương ứng. Cấp độ lý luận của các khoa
học cụ thể kết hợp với nhau trong sự giải thích các nguyên lý và quy luật chung được
phát hiện ở tầm nghiên cứu triết học, hình thành thế giới quan và phương pháp luận
của toàn bộ nhận thức khoa học.
Nguồn gốc sâu xa của khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất. Cùng với sự phát
triển của sản xuất và thực tiễn xã hội, khoa học cũng không ngừng phát triển. Trong
quá trình đó, vai trò của khoa học trong đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Ngày
nay, trong sự tự động hóa sản xuất, tri thức khoa học được kết tinh trong mọi nhân
tố của lực lượng sản xuất - trong đối tượng lao động, kỹ thuật, quá trình công nghệ
và cả trong những hình thức tổ chức tương ứng của sản xuất; người lao động không
còn là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là vận dụng tri
thức khoa học để điều khiển quá trình sản xuất; khoa học cho phép hoàn thiện các
phương pháp sản xuất, hoàn thiện việc quản lý kinh tế. Hơn nữa khoa học còn trở
thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt
các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa học ngày càng
tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Do những biến đổi lOMoAR cPSD| 39651089
căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
VD: Các định luật của Newton về chuyển động là tập hợp của 3 định luật cơ học
phát biểu bởi nhà bác học Isaac Newton, đặt nền tảng cho cơ học cổ điển (còn gọi
là cơ học Newton). Nội dung 3 định luật:
Định luật 1 Newton: Nếu một vật không chịu tác dụng của lực nào hoặc chịu
tác dụng của các lực có hợp lực bằng không thì nó giữ nguyên trạng thái
đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều.
Định luật 2 Newton: Gia tốc của một vật cùng hướng với lực tác dụng lên
vật. Độ lớn của gia tốc tỉ lệ thuận với độ lớn của lực và tỉ lệ nghịch với khối lượng của vật.
Định luật 3 Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B một
lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị,
cùng độ lớn, nhưng ngược chiều.
5. Ý thức thẩm mĩ
Đối với phần ý thức thẩm mĩ, thì đây là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người
trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái Đẹp. Trong các hoạt động
thưởng thức và sáng tạo cái đẹp nghệ thuật là biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mĩ.
Ví dụ: với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khi phản ánh về con người nói
chung, khoa học chỉ quan tâm về những gì mà nó vốn có (cấu tạo cơ thể con người
gồm những bộ phận nào; chức năng cụ thể của từng bộ phận này ra sao; ….) còn các
nghệ sĩ thì lại quan tâm phản ánh đến đời sống tâm hồn, tâm tư tình cảm con người;
đặc biệt là đi sâu tìm tòi phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn từ sâu bên trong những
con người bình dị, đời thường lOMoAR cPSD| 39651089
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp, quá
trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn xã hội.
Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật thuộc về thời kì khi con người biết sản xuất
ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng.
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mĩ bắt nguồn từ tồn tại xã
hội. Khác với khoa học và triết học – phản ánh thế giới bằng khái niệm, phạm trù,
quy luật; nghệ thuật phản ánh thế giới phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể,
bằng những hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật tuy phản ánh cái bản chất
của đời sống hiện thực nhưng phản ánh thông qua cái cá biệt, cụ thể - cảm tính, sinh
động. Hình tượng nghệ thuật cũng nhận thức cái chung trong cái riêng, cái bản chất
trong cái hiện tượng, nhận thức cái phổ biến trong cái cá biệt. Song cái cá biệt trong
nghệ thuật phải là cái điển hình. Và nếu nhà nghệ thuật tạo ra cái điển hình thì phải
là cái điển hình đã được cá biệt hóa.
Sự phát triển của nghệ thuật về cả nội dung và hình thức không thể tách khỏi sự phát
triển của tồn tại xã hội nhưng nghệ thuật có tính độc lập tương đối rất rõ nét trong
sự phát triển của mình. Không phải bao giờ nghệ thuật cũng phản ánh tồn tại một
cách trực tiếp, dễ thấy. Do đó, Mác đã viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng
những thời kỳ hưng thịnh nhất của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển
chung của xã hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất
của xã hội, cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội” .
Và nghệ thuật chân chính bao giờ cũng gắn bó mật thiết với đời sống hiện thực của
nhân dân, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội, đáp ứng ngày càng cao nhu
cầu thẩm mỹ của con nguời: quan niệm “Nghệ thuật vị nhân sinh”, “Chao ôi, nghệ
thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, và cũng không nên là ánh trăng lừa dối; lOMoAR cPSD| 39651089
nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…” (trích
tác phẩm “Trăng sáng” của Nam Cao)
Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật chân thực và có giá
trị thẩm mĩ cao, nghệ thuật đã tác động đến lí trí và tình cảm của con người, kích
thích tính tích cực của con người, sẽ nuôi dưỡng cho con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, bao giờ nghệ thuật cũng mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của nghệ thuật biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể không chịu sự
tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp, không thể đứng
ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Trong xã hội chia thành các giai cấp mà phủ
nhận mối liên hệ của nghệ thuật với chính trị thì hoàn toàn sai lầm. Khi nhấn mạnh
tính giai cấp của nghệ thuật, trong xã hội có giai cấp, quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó, không ít tác phẩm nghệ thuật
mà giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại mặc dù tác giả
là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc
nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiểu biểu của cả nhân loại. Tính
giai cấp của nghệ thuật, cách mạng và tiến bộ không những không mâu thuẫn với
tính nhân loại mà ngược lại còn làm rõ sâu sắc giá trị toàn nhân loại.
VD: Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn đánh giá cao vai
trò của văn nghệ, của các văn nghệ sĩ, đồng thời cũng đòi hỏi ở văn nghệ và văn
nghệ sĩ tinh thần trách nhiệm cao cả đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. lOMoAR cPSD| 39651089
6. Ý thức tôn giáo
Phần tiếp theo đó chính là ý thức tôn giáo. Nói về bản chất của tôn giáo, Ăng ghen
viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con
người – của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ
là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế”.
Nguồn gốc của tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa con người
với tự nhiên lẫn trong các quan hệ xã hội của con người. Khi những công cụ lao động
và phương tiện sản xuất còn kém phát triển, con người dễ cảm thấy yếu đuối bất lực
trước giới tự nhiên. Sự bất lực và sợ hãi của con người trước những sức mạnh của
giới tự nhiên là một trong những nguồn gốc của tôn giáo. Nguồn gốc của tôn giáo
còn nằm trong những mối quan hệ xã hội. Trong điều kiện xã hội có áp bức giai cấp
và có tính tự phát còn là những đặc trưng của sự phát triển xã hội. Những quy luật
xã hội biểu hiện như những thế lực mù quáng, trói buộc con người và thường xuyên
quyết định đến số phận của họ khiến con người sợ hãi đó là một trong những nguồn gốc của tôn giáo
Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái xã hội gồm có tâm lí tôn giáo và hệ tư
tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng
thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống
giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về
mặt lịch sử, tâm lí tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý
thức tôn giáo nhưng chúng liên hệ tác động qua lại và bổ sung nhau. Tâm lí tôn giáo
đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một sắc thái tình cảm riêng.
Hệ tư tưởng tôn giáo thuyết minh những hiện tượng tâm lí tôn giáo, khái quát chúng
và làm cho chúng biến đổi theo một chiều hướng nhất định. Ý thức tôn giáo là một lOMoAR cPSD| 39651089
hình thái ý thức xã hội thực hiện chủ yếu chức năng chủ yếu của mình là chức năng
đền bù – hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù – hư ảo.
Chức năng đó làm cho ý thức tôn giáo có một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt
trong xã hội. Chức năng đền bù hư ảo nói lên chức khả năng của tôn giáo có thể bù
đắp, bổ sung một cách hư ảo cái hiện thực mà trong đó con người bất lực trước sức
mạnh của tự nhiên và những điều kiện khách quan của đời sống xã hội. Những mâu
thuẫn của đời sống hiện thực, những bất lực trong thực tiễn của con người được giải
quyết một cách hư ảo trong ý thức của họ. Vì vậy tôn giáo luôn được các giai cấp
thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.
Nếu như ý thức tôn giáo hướng con người vào thế giới những ảo tưởng, siêu tự nhiên
thì trái lại, ý thức khoa học lại mang một nhiệm vụ cao cả là hướng con người và
việc biến đổi hiện thực, cải tạo thế giới để để phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày nhiều
mặt và ngày càng tốt hơn, cao hơn của con người. Chủ nghĩa MácLênin cho rằng
điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức có tính chất tiêu
cực là phải xóa bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách
mạng xã hội triệt để nhằm cải tạo cả tồn tại xã hội lẫn ý thức xã hội. Bằng hoạt động
cách mạng tích cực của mình, quần chúng không những cải tạo xã hội mà còn cải
tạo bản thân, giải phóng ý thức mình khỏi những quan niệm sai lầm; kể cả những quan niệm tôn giáo.
VD: Nội dung cơ bản của đạo Bà la môn - đạo Hindu
+Thừa nhận thế giới do thần tạo ra và sự bất tử của linh hồn .Thừa nhận Thuyết luân hồi
+ Cho rằng một thực thể tinh thần tối cao tồn tại vĩnh viễn là Braman. Linh hồn cá
thể là Át man là một bộ phận của Braman lOMoAR cPSD| 39651089
+ Con người có sống chết nhưng linh hồn thì tồn tại mãi và luôn hồi qua nhiều kiếp
khác nhau chỉ khi nào Át man hoà nhập với Braman thì mới chấm dứt được thuyết luân hồi
7. Ý thức triết học
Cuối cùng đó chính là ý thức Triết học. Đây là loại ý thức đặc biệt và cao nhất của
tri thức cũng như của các ý thức xã hội. Triết học nhất là Triết học Mác-Lênin cung
cấp cho con người tri thức về thế giới như một chỉnh thể thông qua việc tổng kết
toàn bộ lịch sử phát triển của khoa học và chính bản thân triết học. Khi đánh giá mối
liên hệ của tinh thần với triết học, Hêghen khẳng định: “Xét từ góc độ tinh thần,
chúng ta có thể gọi Triết học là cái cần thiết nhất.” Với Mác thì “mọi triết học chân
chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình” nên nhất định sẽ có thời kì
mà triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của nó mà về cả bên ngoài, theo
sự biểu hiện của nó, sẽ tiếp xúc và tác động qua lại với thế giới hiện thực của thời
đại mình. “Lúc đó triết học sẽ khong còn là một hệ thống nhất định đối với các hệ
thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói chung đối với thế giới, trở thành triết
học của thế giới hiện đại. Những biểu hiện bên ngoài chứng minh rằng triết học đã
có ý nghĩa khiến cho nó trở thành linh hồn sống của văn hóa…”
Đồng thời, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học nói chung và nhất là
triết học duy vật biện chứng nói riêng, có sứ mệnh trở thành thế giới quan, mà cơ sở
và hạt nhân của thế giới quan đó là tri thức. Chính thế giới quan đó giúp con người
trả lời cho các câu hỏi được nhân loại từ xưa tới nay thường xuyên đặt ra cho mình.
Chẳng hạn, thế giới xung quan ta là gì? Thế giới ấy có điểm bắt đầu và điểm kết thúc
hay không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và sự biến đổi đó? Con người là gì và
sinh ra từ đâu và có quan hệ như thế nào với thế giới ấy? Cuộc sống của con người
có ý nghĩa gì? Con người có vị trí nào trong thế giới đó? v.v… Như vậy, thế giới lOMoAR cPSD| 39651089
quan triết học bao hàm trong nó cả nhân sinh quan. Trong thời đại hiện nay, thế giới
quan khoa học chân chính nhất là thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Triết
học duy vật biện chứng có vai trò to lớn để nhận thức đúng đắn ý nghĩa và vai trò
của các hình thái ý thức xã hội khác; để xác định đúng đắn vị trí của những hình thái
ấy trong cuộc sống và trong xã hội để nhận thức tính quy luật cùng những đặc điểm
và sự phát triển của chúng.
VD: Ý thức được sự vận động phát triển của xã hội việt nam từ chế độ phong kiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ý thức được mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
xã hội. Như trong quá trình khai thác than, nếu mỗi người làm việc tách biệt nhau,
không có sự phối hợp giữa các cá nhân, không nghe lời chỉ đạo…tức không tồn tại
mqh giữa những con người (qhsx) thì không thể khai thác than hiệu quả.