








Preview text:
Đề tài thảo luận KTCT M-L: Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
trong nền kinh tế thị trường.
Phần 1: Mở đầu: Nêu tính cấp thiết của đề tài
Theo đánh giá của V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết
kinh tế của Mác và học thuyết của Mác là nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác. Để
đạt được mục đích làm giàu tối đa của mình, nhà tư bản đã mua sức lao động của
công nhân, từ đó xảy ra sự chuyển hóa từ tiền thành tư bản. Sự chuyển hóa đó
tương đương với quá trình T-H với hàng hóa ở đây không phải là hàng hóa bình
thường mà là một loại hàng hóa đặc biệt sức lao động của công nhân. Trong xã hội
tư bản, một quan hệ sản xuất mới đã được hình thành: quan hệ sản xuất giữa nhà tư
bản với người công nhân làm thuê. Nhà tư bản chỉ trả một phần giá trị sức lao động
cho người công nhân thông qua hình thức tiền lương, còn phần giá trị thặng dư mà
người công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không.
Trong xã hội tư bản tồn tại mối quan hệ cơ bản và sâu sắc, đó là mối quan hệ giữa
tư bản và lao động. Và giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành nên thu nhập của
các nhà tư bản và của giai cấp bóc lột trong chủ nghĩa tư bản. Do vậy, giá trị thặng
dư là nội dung chính của quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của
đời sống xã hội.Nó quyết định đến sự tồn vong của chủ nghĩa tư bản và thay thế nó
bằng một xã hội khác cao hơn.Đó cũng là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nên nhóm em đã chọn chủ đề: Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư và ý
nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu cho bài tập lớn của mình.
Phần 2: Những nội dung chính
1.Những lý luận về vấn đề nghiên cứu
Lênin đã từng đánh giá: Giá trị thặng dư là hòn đá tảng trong học thuyết
kinh tế của Mác, lời đánh giá này cho thấy việc nghiên cứu về giá trị thặng
dư là một vấn đề lớn.
Thật vậy, chủ nghĩa tư bản ra đời gắn với sự phát triển ngày càng cao của sản
xuất hàng hóa và khi sức lao động trở thành hàng hóa thì một quan hệ sản xuất
mới ra đời: quan hệ giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê. Từ mối quan
hệ này, nhà tư bản đã chiếm đoạt giá trị thặng dư mà người công nhân tạo ra
trong quá trình sản xuất (chúng ta có thể thấy rõ qua công thức T-H-T trong đó T=T+ΔT).
Ban đầu, tiền được chuyển hóa thành tư bản bằng cách chúng được sử dụng để
bóc lột sức lao động của người khác. Trong công thức lưu thông hàng hóa H- T-
H và công thức lưu thông tư bản T- H -T thoạt nhìn thì không khác nhau là mấy
nhưng thực ra bản chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Về hình thức bên
ngoài: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán và kết thúc bằng
việc mua. Điểm xuất phát và điểm kết thúc của quá trình đều là hàng hóa, tiền
đóng vai trò trung gian.Trong lưu thông của tư bản, hàng hóa đóng vai trò trung gian.
Về bản chất bên trong: Mục đích của lưu thông hàng hóa là giá trị sử dụng
còn mục đích của lưu thông tư bản là giá trị
Trong công thức T-H-T trong đó T = T + ΔT thì ΔT chính là giá trị thặng dư mà
người công nhân làm thuê tạo ra. Thực ra các nhà kinh tế học tư sản đã chứng
minh được lưu thông không đẻ ra giá trị thặng dư.Vậy giá trị thặng dư là nguồn
gốc hình thành nên thu nhập của các nhà tư bản, là một bộ phận của giá trị mới
dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
2.Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.
2.1. Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất:
2.1.1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Muốn tạo ra giá trị hàng hóa, nhà tư bản phải chi phí một số lao động nhất
định, gọi là chi phí lao động. Còn chi phí sản xuấttư bản chủ nghĩa là khái
niệm kinh tế chính trị Mác-Lenin chỉ về phần giá trị bù lại giá cả của những
tư liệu sản xuấtvà giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa
cho nhà tư bản. Mác ký hiệu chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là k.
Nếu gọi giá trị hàng hóa là W, thì W = c + v + m. Đó chính là những chi phí
lao động thực tế của xã hội để sản xuất hàng hóa. Nhưng đối với nhà tư bản,
để sản xuất hàng hóa, họ chỉ cần chi phí một lượng tư bản để mua tư liệu sản
xuất (c) và mua sức lao động (v). Ta có k = c +v. Vậy, chi phí sản xuất tư
bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất và giá
cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản.
Nếu dùng k để chỉ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức W = c + v
+ m sẽ chuyển hoá thành: W = k + m.
Giữa chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị hàng hóa có sự khác nhau
cả về chất và về lượng.
Về chất, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ là sự chi phí về tư bản, nó
không tạo ra giá trị hàng hóa; còn giá trị hàng hóa là sự chi phí thực tế của
xã hội để sản xuất ra hàng hóa, phản ánh đầy đủ hao phí lao động xã hội cần
thiết để tạo ra hàng hóa.
Về lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế, tức
là giá trị của hàng hóa, vì rằng W = k + m thì k = W - m.
Tư bản sản xuất được chia ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động nên mới có
bất đẳng thức sau: ( c + v) < ( c + v + m ).
Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn thực tế của lỗ lãi
kinh doanh nên họ ra sức "tiết kiệm" chi phí sản xuất này bằng mọi cách. Hơn nữa
chi phí sản xuất k thực chất làm che đậy sự bóc lột người lao động của nhà tư bản.
Và gần như toàn bộ chi phí sản xuất của tư bản chủ nghĩa sinh ra giá trị thặng dư.
Chi phí sản xuất cũng có ý nghĩa hai mặt của nó
Một là, chi phí sản xuất biểu hiện sự chuyển hóa hao phí lao động thành chi phí tư
bản (hình thái chuyển hóa của giá trị) nên chi phí sản xuất là một phạm trù đặc thù
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hai là, chi phí sản xuất biểu hiện dưới hình thái chi phí về giá trị tức là chi phí thực
tế, nó biểu hiện quan hệ kỹ thuật giữa sản phẩm vừa mới làm ra và những sản
phẩm đã làm ra từ trước đó.
Từ hai điều trên ta thấy chi phí sản xuất là một phạm trù chỉ có trong sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa. 2.1.2. Lợi nhuận.
Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa,
nên sau khi bán hàng hoá theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lại đủ số tiền
đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền lời này gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.
Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
ra, là kết quả hoạt động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.Hay nói
cách khác, lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư, là mức lớn lên
của toàn bộ tư bản ứng trước.
Công thức tính lợi nhuận: p = W - k.
Công thức W = k + m chuyển thành W = k + p, có nghĩa là giá trị hàng hóa tư bản
chủ nghĩa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận.
Lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
Cái khác nhau giữa bỏ m và p ở chỗ, khi nói m là hàm ý so sánh nó với v, còn khi
nói p lại hàm ý so sánh với (c + v); pvà m thường khôngbằng nhau, p có thể cao
hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá cả bánhàng hóa do quan hệ cung - cầu quy
định. Nhưng xét trên phạm vi toànxã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư.
Lợi nhuận là một phạm trù khách quan: Sự chuyển hóa giá trị thặng dư thành lợi
nhuận là một quá trình khách quan. Quá trình này không chỉ diễn ra trong ý thứ
thông thường của những người đảm nhiệm sản xuất mà còn do bản thân phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định một cách khách quan. Phạm trù lợi nhuận
được hiểu như là một hình thái thần bí của giá trị thặng dư. Thần bí bởi lẽ xét trong
trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa với giá cả bằng giá trị của nó( p = m) hoặc
bán đắt hơn hay rẻ hơn thì xét trong phạm vi toàn xã hội và trong thời gian dài thì
tổng giá cả bằng tổng giá trị, nên tổng lợi nhuận cũng bằng tổng giá trị thặng
dư.Điều này càng che giấu đi bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự chiếm đoạt
lao động thặng dư trong phương thức sản xuất ấy khoác lấy hình thái giá trị thặng
dư. Bản thân giá trị thặng dư cũng không ngoại lệ, nó cũng phải khoác trên mình hình thái lợi nhuận.
2.1.3. Tỷ suất lợi nhuận
Khi giá trị thặng dư chuyển hóa thành lợi nhuận thì tỷ suất giá trị thặng dư chuyển
hóa thành tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản
ứng trước, ký hiệu là p': p được tính bằng tỉ số phần tram giữa giá trị thặng dư và
toàn bộ tư bản ứng trước.
Tỷ suất lợi nhuận là biến tướng của tỷ suất giá trị thặng dư, tương tự như lợi nhuận
là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư . Tỷ suất lợi nhuận nêu lên hiệu suất sử
dụng tư bản chứ không nói đến trình độ bóc lột. Tỷ suất lợi nhuận phụ thuộc vào
các nhân tố: tỉ suất gía trị thặng dư, cấu thành hữu cơ của tư bản, tốc độ chu
chuyển của tư bản, tiết kiệm trong việc sử dụng tư bản bất biến
Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: tỷ suất giá trị
thặng dư, cấu tạo hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển tư bản, sự tiết kiệm tư bản bất biến...
2.2.. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất
2.2.1. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một
ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa , nhằm mục đích giành ưu thế trong sản
xuất và trong tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành được thực hiện thông qua các biện pháp: cải tiến kỹ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng hang hóa, cải tiến mẫu mã... làm
cho giá trị cá biệt của hàng hóa do xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để
thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Trong thực tế, ở mỗi ngành sản xuất có những điều kiện tự nhiên kinh tế, kỷ luật
và tổ chức quản lí khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Giả sử có 3 ngành sản xuất khác nhau, tư bản đầu tư như nhau đều 100, tỷ suất giá
trị thặng dư đều bằng 100%, tốc độ chu chuyển của tư bản ở cá ngành đều như
nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong từng ngành khác nhau nên có tỷ
suất lợi nhuận khác nhau.
Như ở trên đã đề cập cạnh tranh trong nội bộ ngành nhằm giành ưu thế trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa (giảm giá trị cá biệt) để thu lợi nhuận siêu ngạch. Muốn
vậy cần phải cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,¼ kết quả là hình thành giá trị
thị trường của hàng hóa, làm cho điều kiện sản xuất trung bình của một ngành thay
đổi, giá trị xã hội của hàng hóa giảm xuống, chât lượng hàng hóa nâng lên.
2.2.2. Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh
trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Trong xã hội có nhiều ngành sản xuất khác nhau, với các điều kiện sản xuất không
giống nhau, do đó lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận không giống nhau, nên
các nhà tư bản phải chọn ngành nào có tỷ suất lợi nhuận cao nhất để đầu tư.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là "con số trung bình" của tất cả các tỷ suất lợi nhuận
khác nhau hay tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số theo phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư và tổng tư bản xã hội.
Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào các
ngành sản xuất khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn
cứ vào tổng tư bản đầu tư, nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không kể cấu
thành hữu cơ của nó như thế nào.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân đã làm cho quy luật giá trị thặng dư, quy luật
kinh tế cơ bản của tự do cạnh tranh thể hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân
chủ nghĩa tư bản, bị biến dạng đi. Quy luật giá trị thặng dư hoạt động trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản.
y nghĩa của việc nghiên cứu tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất:
Thứ nhất là, Trong xã hội có nhiều ngành sản xuất khác nhau, với những
điều kiện sản xuất không giống nhau, lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi
nhuận cũng sẽ không giống nhau. Điều này dẫn đến việc cạnh tranh giữa các
ngành.Đó là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh trong các
ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Chính vì điều này mà dẫn đến việc các nhà tư bản di chuyển từ các ngành lợi
nhuận ít sang những ngành có lợi nhuận cao hơn. Sự tự do di chuyển tư bản từ
ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận ngành và dẫn đến
hình thành tỷ suất lợi nhuận ngành ngang nhau.
Đó là tỷ suất lợi nhuận chung hay tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tỷ suất lợi
nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau
hay là tỷ số phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản XH. Khi hình
thành tỷ xuất lợi nhuận bình quân, ta có thể tính được lợi nhuận bình quân của
từng ngành.Đây là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào những
ngành khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được căn cứ vào
tổng tư bản đầu tư, nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, không quan tâm đến
cấu thành hữu cơ của nó. Sự xuất hiện của lợi nhuận bình quân đã biến quy luật
giá trị thặng dư trở thành quy luật lợi nhuận bình quân (Tổng lợi nhuận bình
quân bằng tổng giá trị thặng dư).
Thứ hai là, Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự hình thành tỷ suất lợi
nhuận bình quân đã làm giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất. Giá
cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.Giá
trị là cơ sở của giá cả sản xuất.Giá cả sản xuất là phàm trù kinh tế tương
đương với giá cả, là cơ sở của giá cả trên thị trường, nó điều tiết giá cả thị
trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.Lúc này, quy luật giá trị
đã biểu hiện ra thành quy luật giá cả sản xuất (Tổng giá cả sản xuất bằng tổng giá trị).
Thứ ba là, Việc nghiên cứu sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi
nhuận bình quân và giá cả sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng. Về mặt lý
luận, nó giúp ta thấy được sự phát triển lý luận giá trị và giá trị thặng dư của
Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Mặt khác, nó còn phản ánh
quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong việc giành giật lợi nhuận với
nhau.Về mặt thực tiến, nó vạch rõ toàn bộ giai cấp tư sản đã bóc lột toàn bộ giai cấp công nhân.
Cạnh tranh giữa các ngành nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi (thu tỷ suất lợi
nhuận cao), ngành nào tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ bị thu hẹp chuyển sang ngành
có tỷ suất lợi nhuận cao kết quả là sẽ hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
2.2.3. Sự hình thành giá cả sản xuất
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì
giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả bằng
chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân.
Giá cả sản xuất = k ± p'
Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất.Giá cả sản xuất là phạm trù kinh tế tương đương
với phạm trù giá cả.Nó cũng là cơ sở của giá cả trên thị trường.Giá cả sản xuất
điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.
y nghĩa của việc nghiên cứu giá cả sản xuất:
Việc hình thành lợi nhuận bình quân chỉ rõ sự tranh giành về mặt quyền lợi giữa
các nhà tư bản, vạch rõ toàn bộ giai cấp tư sản tham gia bóc lột giai cấp công nhân,
giai cấp công nhân phải đứng lên đấu tranh với tư cách là 1 giai cấp, đấu tranh vũ
trang kết hợp với đấu tranh chính trị.
Lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất che giấu nguồn gốc giá trị thặng dư, làm
cho người ta nhầm tưởng cứ đầu tư một lượng tư bản như nhau thì thu được lợi
nhuận như nhau dẫn đến quan điểm tư bản sinh ra lợi nhuận.
Sự hình thành lợi nhuận bình quân cho thấy cạnh tranh gay gắt có tác dụng ngăn
cản độc quyền. Mặt khác cạnh tranh thôi thúc các nhà tư bản cải thiện kỹ thuật sản
xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Cạnh tranh dẫn đến đa dạng hóa chủng loại hàng hóa, giá cả hang hóa rẻ hơn,
ngành nghề được mở rộng, sản phẩm mới ngày càng tăng về chất và lượng.
y nghĩa của việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất của
chủ nghĩa tư bản thì phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch có thể vận dụng
trong các danh nghệp ở nước ta nhằm kích thích sản xuất, tăng năng suất lao động
xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản
xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm
tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của
nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng triệt để các nguồn
lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng
việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế quốc dân là là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Phần 3: Kết luận chung
1. Giá trị thặng dư là mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong xã hội tư bản
chủ nghĩa, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu hiện thành lợi nhuận công nghiệp,
lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay và địa tô tư bản chủ
nghĩa.Về chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa được định nghĩa là khái niệm kinh tế
chính trị Mác-Lenin chỉ về phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuấtvà
giá cả sức lao động đã tiêu dùng để sản xuất ra hàng hóa cho nhà tư bản, qua đó ta
cũng hiểu được sự khác biệt giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Phạm trù lợi nhuận là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư, là mức lớn
lên của toàn bộ tư bản ứng trước.
2. Tỷ suất lợi nhuận là biến tướng của tỷ suất giá trị thặng dư, tương tự như lợi
nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư .Tỷ suất lợi nhuận cho nhà tư
bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi hơn, tỷ suất giá trị thặng dư chi
phối tỉ suất lợi nhuận trực tiếp, một cách tỉ lệ nghịch.
3. Dựa vào cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh ngoài ngành ta rút ra 2
phạm trù giá trị thị trường và lợi nhuận bình quân. Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận
bình quân và lợi nhuận bình quân đã che giấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản, qua đó nó cũng góp phần điều tiết nền kinh tế chứ không chấm dứt quá trình
cạnh tranh trong xã hội tư bản.