



















Preview text:
  lOMoAR cPSD| 58540065
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ  ---------***--------   
TIỂU LUẬN KINH TẾ MÔI TRƯỜNG 
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ LỆ THU GOM 
RÁC THẢI ĐIỆN TỬ TẠI CÁC NƯỚC CHÂU ÂU 
TỪ NĂM 2006 – 2021 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM 
Nhóm: 03 Lớp: KTE404.2 Khóa: 61 Giảng viên hướng dẫn: 
TS. Phạm Hương Giang 
Hà Nội, tháng 9 năm 2024            lOMoAR cPSD| 58540065 MỤC LỤC 
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3 
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ 
THUYẾT ............................................................................................................................ 6 
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................ 6 
1.2 Cơ sở lý thuyết ......................................................................................................... 8 
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI TẠI MỘT SỐ NƯỚC TẠI 12 
CHÂU ÂU ........................................................................................................................ 12 
2.1 Thực trạng quản lý chất thải điện tử tại Châu Âu ............................................. 12 
2.2 Thực trạng tại Việt Nam ....................................................................................... 13 
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................ 15 
3.1 Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu .............................................. 15 
3.2 Kết quả .................................................................................................................... 21 
CHƯƠNG 4: HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM ........................................... 29 
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 32 
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 33   
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU HÌNH VẼ 
Hình 2.1 Tổng lượng rác thải điện tử và điện tử thu gom năm 2021 ………………. 
Bảng 3.1. Mô tả dữ liệu trong mô hình……………………………………………….. 
Bảng 3.2. Bảng giải thích biến trong mô hình………………………………………… 
Bảng 3.3 Kết quả thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu……………… 
Bảng 3.4 Mối tương quan các biến trong mô hình…………………………………… 
Bảng 3.5 Kết quả hồi quy mô hình……………………………………………………..        lOMoAR cPSD| 58540065 LỜI MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài: 
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ đã thúc đẩy sản xuất các sản 
phẩm điện và điện tử, dẫn đến chu kỳ sản phẩm ngắn hơn và thiết bị nhanh lỗi thời. Đồng 
thời, nhu cầu và thu nhập tăng cho phép người dân thay thế thiết bị cũ thường xuyên hơn, 
góp phần làm gia tăng lượng rác thải điện tử. Rác thải điện tử bao gồm các thiết bị điện tử, 
tấm pin mặt trời, ắc quy... thuộc nhóm chất thải độc hại, với thành phần hóa học, nhựa, chất 
phụ gia và kim loại nặng như chì, thủy ngân, lưu huỳnh, niken... Việc thu gom rác thải điện 
tử đóng vai trò then chốt trong quản lý tổng thể vấn đề rác thải điện tử, mang lại nhiều lợi 
ích quan trọng cho môi trường, kinh tế và xã hội. Trước hết, thu gom hiệu quả ngăn chặn 
việc rác thải điện tử bị thải bỏ không kiểm soát, giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm đất, nước và 
không khí do các chất độc hại như chì, thủy ngân và các hóa chất khác rò rỉ. Điều này góp 
phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và hệ sinh thái. Thứ hai, thu gom có hệ thống tạo điều 
kiện cho việc tái chế và tái sử dụng hiệu quả, giúp thu hồi các kim loại quý hiếm và vật 
liệu có giá trị, từ đó giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên và tiết kiệm năng lượng trong 
sản xuất. Quá trình này cũng thúc đẩy phát triển nền kinh tế tuần hoàn, tạo ra cơ hội việc 
làm trong lĩnh vực tái chế và quản lý chất thải. Hơn nữa, hệ thống thu gom rác thải điện tử 
hiệu quả là nền tảng cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu về lượng và loại rác thải điện tử được 
tạo ra, cung cấp thông tin quan trọng cho việc hoạch định chính sách và quy hoạch cơ sở 
hạ tầng xử lý. Điều này cũng giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của 
việc xử lý rác thải điện tử đúng cách, thúc đẩy hành vi tiêu dùng có trách nhiệm. 
Theo báo cáo Giám sát Rác thải Điện tử Toàn cầu (GEM) 2020 do Liên minh Viễn 
thông Quốc tế (ITU) và Viện Đào tạo và Nghiên cứu Liên Hiệp Quốc (UNITAR) công bố, 
tổng lượng rác thải điện tử toàn cầu đã đạt 53,6 triệu tấn, tăng 21% so với 5 năm trước, 
trong đó chỉ có 17% được tái chế. Châu Âu đã nổi lên như một hình mẫu tiên phong trong 
quản lý rác thải điện tử. Mặc dù tạo ra 12 triệu tấn rác thải điện tử, Châu Âu có tỷ lệ tái chế 
cao nhất với mức 42%. EU đã áp dụng các chỉ thị quan trọng như WEEE và RoHS để thu      lOMoAR cPSD| 58540065
gom, quản lý rác thải điện tử hiệu quả. Mặt khác, Châu Á là nơi tạo ra lượng rác thải điện 
tử nhiều nhất với 24,9 triệu tấn, nhưng tỷ lệ tái chế chỉ đạt 12%. Cụ thể ở Việt Nam, tình 
hình rác thải điện tử đang trở nên đáng báo động. Năm 2019, Việt Nam phát sinh 257 nghìn 
tấn rác thải điện tử và dự kiến con số này sẽ tiếp tục gia tăng. Mặc dù đã có chính sách và 
quy định, việc thu gom, xử lý rác thải điện tử ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập do chi phí 
cao và độ phức tạp trong quá trình xử lý. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, 
việc cải thiện tỷ lệ thu gom rác thải điện tử không chỉ là vấn đề môi trường mà còn là cơ 
hội để hiện đại hóa hệ thống quản lý chất thải, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển 
trong lĩnh vực này. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc đạt được tỷ lệ thu gom rác thải điện 
tử cao có thể nâng cao uy tín quốc tế, tạo thuận lợi trong việc thu hút đầu tư và hợp tác 
quốc tế trong lĩnh vực công nghệ và bảo vệ môi trường. 
Trong bối cảnh này, việc nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm từ các nước Châu Âu 
có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam. Mặc dù có sự khác biệt về bối cảnh kinh tế - xã 
hội, nhiều bài học và thực tiễn tốt từ EU có thể được điều chỉnh và áp dụng phù hợp cho 
Việt Nam. Điều này sẽ giúp cải thiện tỷ lệ thu gom rác thải điện tử, định hướng phát triển 
một ngành công nghiệp tái chế hiệu quả và đóng góp vào nền kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy  phát triển bền vững. 
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu 
gom rác thải điện tử tại các nước Châu Âu từ năm 2006-2021 và bài học kinh nghiệm 
cho Việt Nam” là vô cùng cấp thiết. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần quan trọng trong việc 
định hướng chính sách và giải pháp thu gom rác thải điện tử hiệu quả tại Việt Nam, hướng 
tới mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu nghiên cứu của bài tiểu luận là hệ thống hóa cơ sở lý thuyết tác động của 
các yếu tố tác động đến tỷ lệ thu gom rác thải điện tử và các nghiên cứu thực nghiệm liên 
quan. Bên cạnh đó còn nghiên cứu thực nghiệm mối tương quan tại một số nước Châu Âu; 
xác định mô hình và ước lượng, phân tích ảnh hưởng của các biến đến tỷ lệ thu gom rác 
thải điện tử; từ đó đưa ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.      lOMoAR cPSD| 58540065
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
- Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu gom rác thải điện tử  - Phạm vi nghiên cứu: 
+ Về nội dung: Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu gom rác thải điện tử từ đó rút ra 
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 
+ Về thời gian: 2006 - 2021 + Về 
không gian: Các nước Châu Âu 
4. Cấu trúc của bài tiểu luận:  PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 
4. Phương pháp nghiên cứu 
5. Cấu trúc của bài tiểu luận:  PHẦN NỘI DUNG 
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT 
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI ĐIỆN TỬ TẠI 1 SỐ NƯỚC  TRÊN THẾ GIỚI 
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
CHƯƠNG 4: HÀM Ý CHÍNH SÁCH  KẾT LUẬN  TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Do còn nhiều hạn chế trong quá trình tìm kiếm và phân tích thông tin, việc có những 
sai sót trong bài báo cáo là hoàn toàn không thể tránh khỏi. Chúng em rất mong nhận được 
những đánh giá và nhận xét của cô để bài báo cáo của nhóm được hoàn thiện và đầy đủ  hơn. 
Chúng em xin chân thành cảm ơn!      lOMoAR cPSD| 58540065
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT 
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 
1.1.1 Các nghiên cứu đã công bố 
Trên thế giới có một số nghiên cứu đã công bố phân tích về các yếu tố ảnh hưởng 
đến tỷ lệ thu gom và tái chế rác thải điện tử. Một số nghiên cứu nổi bật có thể kể đến như: 
Nghiên cứu của Corina & cộng sự (2016) được đăng trên Science Direct đã chỉ ra 
rằng các yếu tố kinh tế xã hội có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ thu gom rác thải điện tử, 
nhưng mức độ và hướng ảnh hưởng khác nhau giữa các quốc gia. Cụ thể tuổi trung vị có 
tác động mạnh nhất đến tỷ lệ thu gom rác thải điện tử nhưng ảnh hưởng này không đồng 
nhất giữa các quốc gia. Tỷ lệ thất nghiệp có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ thu gom rác thải 
điện tử. Tiếp đến là trình độ học vấn đại học có ảnh hưởng không đồng nhất, tác động nhìn 
chung khá nhỏ. Cuối cùng mức lương tối thiểu có ảnh hưởng thấp nhất trong số các biến 
độc lập và tác động không đồng nhất giữa các quốc gia. 
Được đăng trên tạp chí Journal of Cleaner Production, nghiên cứu của Wang & 
cộng sự (2016) về các yếu tố quyết định ý định hành vi tái chế rác thải điện tử tại Trung 
Quốc có kết quả là nhận thức về môi trường có tác động tích cực đến tỷ lệ thu gom rác thải 
điện tử. Ngược lại, thu nhập của người dân, chi phí tái chế có tác động tiêu cực đến tỷ lệ 
thu gom rác thải điện tử. 
Nhóm tác giả Nguyen & cộng sự (2018) đã có nghiên cứu đăng trên MDPI phân 
tích về các yếu tố quyết định đến việc tái chế rác thải điện tử của người dân ở Việt Nam. 
Dữ liệu cho nghiên cứu này được thu thập bằng cách khảo sát trực tiếp thông qua việc phát 
545 bảng câu hỏi cho các hộ gia đình có sẵn tại Đà Nẵng trong hai tháng từ tháng 7 đến 
tháng 8 năm 2018. Nghiên cứu đã có kết quả rằng luật pháp và quy định có tác động tích 
cực đến sự tham gia của người dân vào các chương trình tái chế rác thải điện tử. nhận thức 
về môi trường và thái độ đối với việc tái chế là yếu tố quyết định mạnh thứ hai đã hạn chế 
hiệu quả ý định tái chế của cư dân. Nhận thức về môi trường và thái độ đối với việc tái chế, 
tức là nhận thức của cư dân về tác động tiêu cực rác thải điện tử đến môi trường và trách 
nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường đã có đóng góp to lớn, dẫn đến sự phát triển của sự      lOMoAR cPSD| 58540065
ủng hộ và hài lòng của mọi người khi tham gia tái chế. Bên cạnh đó sự tiện lợi là một trong 
những yếu tố chính ảnh hưởng tích cực đến ý định tái chế. Yếu tố này được đánh giá từ khả 
năng và khả năng tiếp cận của người trả lời đối với các trung tâm thu gom hoặc tái chế rác 
thải điện tử xung quanh khu dân cư của họ. 
Nghiên cứu của Bilal & cộng sự (2021) được lấy từ Environment, Development and 
Sustainability đã sử dụng số liệu từ các quốc gia thuộc châu Âu để tập trung phân tích các 
yếu tố chính quyết định đến việc tái chế rác thải điện tử. Sử dụng các biến độc lập như 
GDP bình quân đầu người, cường độ năng lượng, tín dụng cho khu vực tư nhân và tỷ lệ thu 
gom rác thải điện tử, kết quả nghiên cứu cho rằng GDP bình quân có tác động tích cực đến 
tỷ lệ tái chế rác thải điện tử. Tỷ lệ rác thải điện tử được thu gom, dân số, cường độ năng 
lượng và tín dụng cho khu vực tư nhân đều có tác động đáng kể về mặt thống kê (mức ý 
nghĩa 1%) đến tỷ lệ tái chế rác thải điện tử. Trong số các biến này, tác động có liên quan 
nhất được tìm thấy đối với việc thu gom rác thải điện tử (tương quan dương với tỷ lệ tái 
chế rác thải điện tử). Quy mô dân số, cường độ năng lượng và tín dụng cho khu vực tư 
nhân có tương quan âm với tỷ lệ tái chế rác thải điện tử, tức là, sự gia tăng các thông số 
này có nghĩa là sự suy giảm của tỷ lệ tái chế. Ngoài ra, trái ngược với GDP và tỷ lệ thu 
gom rác thải điện tử, tác động của quy mô dân số, cường độ năng lượng và tín dụng cho 
khu vực tư nhân rõ ràng là không đồng nhất giữa các phân vị; các biến này có liên quan 
nhiều hơn đến việc xác định tỷ lệ tái chế rác thải điện tử ở các quốc gia có tỷ lệ tái chế đạt 
được cho đến nay thấp hơn. 
Nghiên cứu về các quốc gia thuộc EU, Sonia & cộng sự (2024) thuộc tạp chí Elsevier 
đã nghiên cứu các yếu tố để tăng cường tái chế rác thải điện tử tại các quốc gia thuộc EU. 
Kết quả nghiên cứu từ bài báo chỉ ra rằng mức độ giáo dục cao hơn, thuế môi trường và 
năng lượng tái tạo có tác động tích cực đến tỷ lệ tái chế rác thải điện tử. Ngược lại GDP 
bình quân đầu người (GDP per capita), đầu tư vào R&D, cấu trúc dân số, mức phát thải 
CO2 có tác động tiêu cực đến tỷ lệ tái chế rác thải điện tử. Tuy nhiên nghiên cứu hiện tại 
bị giới hạn bởi thời gian ngắn và sự thiếu hụt dữ liệu từ tất cả các quốc gia EU. 
Nghiên cứu của Lidwin & cộng sự được đăng trên Cogent Business & Management 
(2024) đã sử dụng dữ liệu sơ cấp thu thập từ bảng câu hỏi có cấu trúc và phương pháp đo      lOMoAR cPSD| 58540065
lường để thu thập và phân tích các phản hồi khảo sát về yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu 
gom rác thải điện tử. Từ 415 phản hồi, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng kiến thức về môi 
trường có ảnh hưởng tích cực đến ý định xử lý rác thải điện tử. Kết quả nghiên cứu này 
phù hợp với phát hiện của Kwatra và cộng sự (2014); Echegaray và Hansstein (2017); 
Borthakur và Govind (2019); Afroz và cộng sự (2020). Hơn nữa, các phát hiện đã chứng 
minh rằng sự tiện lợi có ảnh hưởng tích cực đến việc xử lý rác thải điện tử. Điều này là do 
hầu hết người trả lời cho biết họ tái chế rác thải điện tử vì việc này dễ dàng, đặc biệt là về 
mặt thời gian, không gian và khoảng cách. 
1.1.2 Khoảng trống nghiên cứu 
Trên thế giới đã có những nghiên cứu khoa học phân tích các yếu tố tác động đến tỷ 
lệ thu gom rác thải điện tử. Tuy nhiên hầu hết nghiên cứu trên đều sử dụng dữ liệu ở các 
quốc gia thuộc châu Âu. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu bị hạn chế bởi thời gian nghiên 
cứu ngắn và sự thiếu hụt dữ liệu từ tất cả các quốc gia. Dữ liệu về khối lượng chất thải điện 
tử và hiệu quả của các chính sách quản lý có thể thiếu chính xác hoặc không đầy đủ. Việc 
thu thập dữ liệu từ các quốc gia mới nổi có thể gặp khó khăn do thiếu cơ sở dữ liệu chính 
thức hoặc sự bất đồng trong phương pháp thu thập dữ liệu. Các mô hình khác nhau có thể 
không được phân tích đầy đủ, dẫn đến sự thiếu sót trong việc đánh giá tất cả các giải pháp 
khả thi. Đặc biệt việc xử lý rác thải điện tử ở Việt Nam còn chưa phổ biến đồng thời vẫn 
còn rất ít các nghiên cứu ở Việt Nam phân tích các yếu tố tác động đến tỷ lệ thu gom rác  thải điện tử. 
Chính bởi những khoảng trống nghiên cứu trên, nhóm chúng em quyết định nghiên 
cứu vấn đề “Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu gom rác thải điện tử” và lựa chọn EU làm 
đối tượng nghiên cứu của mình. Từ đó đưa ra các bài học kinh nghiệm và các khuyến nghị  cho Việt Nam. 
1.2 Cơ sở lý thuyết 
1.2.1 Khái niệm rác thải điện tử: 
Theo Handbook of electronic waste management viết bởi Narasimha Vara Prasad, 
Meththika Vithanage and Anwesha Borthakur, chất thải điện tử (hay còn gọi là e-waste) là      lOMoAR cPSD| 58540065
các sản phẩm điện tử đã hết hạn sử dụng hoặc không còn hoạt động, chẳng hạn như máy 
tính, điện thoại di động, TV, và thiết bị gia dụng khác. Việc quản lý chất thải điện tử là rất 
quan trọng vì chúng chứa nhiều thành phần có thể gây hại cho môi trường và sức khỏe con 
người nếu không được xử lý đúng cách. 
Các bài viết trên World Health Organization chỉ ra rằng chất thải điện tử (e-waste) 
là dòng chất thải rắn phát triển nhanh nhất thế giới, tăng nhanh gấp 3 lần dân số thế giới. 
Chưa đến 1/4 rác thải điện tử được sản xuất trên toàn cầu vào năm 2019 được biết là đã 
được tái chế chính thức; tuy nhiên, các dòng rác thải điện tử chứa các nguồn tài nguyên có 
giá trị và hữu hạn, có thể được tái sử dụng nếu chúng được tái chế phù hợp. Do đó, rác thải 
điện tử đã trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho các cá nhân và thậm chí cả cộng đồng. 
Tuy nhiên, chất thải điện tử được coi là chất thải nguy hại vì nó chứa các vật liệu độc hại 
hoặc có thể tạo ra các hóa chất độc hại khi được xử lý không đúng cách. Nhiều chất độc 
hại trong số này được biết hoặc bị nghi ngờ là gây hại cho sức khỏe con người và một số 
chất được đưa vào 10 hóa chất gây lo ngại cho sức khỏe cộng đồng, bao gồm dioxin, chì 
và thủy ngân. Việc tái chế chất thải điện tử kém chất lượng là mối đe dọa đối với sức khỏe  và an toàn cộng đồng. 
1.2.2 Khái niệm tỷ lệ thu gom rác thải điện tử:  
Theo “Critical factors for implementing collection target responsibility in e-waste 
collection”, tỷ lệ thu gom rác thải điện tử là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng rác thải điện 
tử được thu gom so với tổng khối lượng rác thải điện tử phát sinh trong một khoảng thời 
gian nhất định. Tỷ lệ này giúp đánh giá hiệu quả của các chương trình thu gom và tái chế 
rác thải điện tử, đồng thời phản ánh mức độ ý thức và tham gia của cộng đồng trong việc 
xử lý loại rác thải này. Một tỷ lệ cao cho thấy sự thành công trong việc quản lý rác thải điện 
tử, trong khi tỷ lệ thấp có thể chỉ ra những thách thức cần được giải quyết. 
1.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu gom rác thải điện tử:  
Việc thu gom rác thải đóng vai trò quan trọng trong việc khép kín vòng lặp vật liệu 
theo mô hình kinh tế tuần hoàn. Dựa trên phương pháp nghiên cứu của Milovantseva và 
Saphores (2013), chúng tôi tiến hành phân tích các tài liệu liên quan để xác định các yếu 
tố quyết định trong việc tái chế rác thải điện tử, cũng như lý do cho các lựa chọn mô hình      lOMoAR cPSD| 58540065
hóa. Trong lĩnh vực này, có một xu hướng nghiên cứu tập trung vào hành vi tái chế, điển 
hình là Vicente và Reis (2008) đã chỉ ra rằng sự thành công của chương trình tái chế phụ 
thuộc vào sự tham gia tích cực và liên tục của cộng đồng trong việc phân loại và thu gom 
rác thải tái chế đúng cách. Ở trong quy trình sản xuất truyền thống, việc xác định khối 
lượng, giá cả và thời hạn cung cấp nguyên liệu thường khá rõ ràng. Ngược lại, trong một 
số trường hợp, sự không chắc chắn về tính sẵn có và chất lượng của nguyên liệu từ rác thải 
điện tử là một thách thức lớn. Vì vậy, một số tiêu chí phải được xem xét để giảm bớt sự 
không chắc chắn của quá trình khai thác và xử lý rác thải điện tử. Nhóm nghiên cứu đã 
phân tích một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả tái chế. 
Cụ thể, Miafodzyeva và Brandt (2013) đã thực hiện một nghiên cứu tổng hợp 63 
nghiên cứu thực nghiệm từ năm 1990 đến 2010 về hành vi tái chế trong các hộ gia đình. 
Bốn nhóm yếu tố: nhân khẩu học xã hội, kỹ thuật - tổ chức, tâm lý xã hội và các yếu tố 
nghiên cứu cụ thể đã được xác định cùng các yếu tố nhân khẩu học xã hội bao gồm giới 
tính, độ tuổi, loại nhà, trình độ học vấn và thu nhập. Một số yếu tố như quy mô gia đình và 
sự hiện diện của người nhập cư có thể được đưa vào nhóm nhân khẩu học hoặc nhóm 
nghiên cứu cụ thể, cùng với lượng rác thải mà hộ gia đình tạo ra. 
Các nhà nghiên cứu cũng xem xét các nghiên cứu về tác động của các yếu tố kỹ 
thuật-tổ chức đến kết quả tái chế, như phân chia khu vực, mật độ dân số và đặc điểm địa 
hình. Tại Ý, các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng hiệu suất tái chế ở các khu vực phía 
Nam thấp hơn so với Trung và Bắc, cả trong việc xử lý rác thải hộ gia đình và rác thải điện 
tử. Tỷ lệ rác thải sinh hoạt được thu gom riêng có thể ảnh hưởng đến việc thu gom rác thải 
điện tử, vì tỷ lệ cao cho thấy sự hiện diện của chương trình thu gom rác thải có tổ chức theo 
phân tích số lượng điểm thu gom trên 100.000 cư dân. Các nghiên cứu trước đó về tác động 
của các yếu tố kinh tế xã hội và nhân khẩu học đối với hoạt động tái chế chưa đạt được sự 
đồng thuận (Arbués và Inmaculada, 2016). Tương tự, tác động của các yếu tố kỹ thuật và 
tổ chức cũng không nhất quán. 
Do đó, giống như nghiên cứu của Milovantseva và Saphores (2013), chúng tôi chưa 
thể xác định giả thuyết cụ thể về tác động của các yếu tố này đối với biến phụ thuộc. Tuy 
nhiên, dựa trên các nghiên cứu trước đây và trường hợp cụ thể của Ý, chúng tôi quyết định      lOMoAR cPSD| 58540065
kiểm tra một số giả thuyết liên quan đến mối quan hệ giữa tỷ lệ thu gom rác thải và tính 
khả dụng của các điểm thu gom, phân chia vùng, cũng như lượng rác thải sinh hoạt được  thu gom riêng.        lOMoAR cPSD| 58540065
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI TẠI MỘT SỐ NƯỚC TẠI  CHÂU ÂU 
2.1 Thực trạng quản lý chất thải điện tử tại Châu Âu 
Theo dữ liệu trên Eurostat, lượng thiết bị điện và điện tử thải ra thị trường ở EU đã 
tăng với số liệu từ 7,6 triệu tấn năm 2012 lên 13,5 triệu tấn trong năm 2021. Tổng lượng 
rác thải thiết bị điện và điện tử thu gom được tăng từ 3,0 triệu tấn năm 2012 lên 4,9 triệu  tấn năm 2021.   
Hình 2.1 Tổng lượng rác thải điện tử và điện tử thu gom năm 2021 
(Nguồn: “Waste electrical and electronic equipment collected, 2021” - Eurostat) 
Thực trạng tái chế rác thải điện tử giữa các quốc gia EU cũng vô cùng khác nhau: Năm 
2021, Áo đứng đầu các nước EU về thu gom rác thải điện tử, trung bình 15,46kg/1 người. 
Năm 2021, trung bình cứ mỗi một cư dân EU sẽ thu gom được 11 kg rác thsir thiết bị điện  và điện tử. 
Hiểu được rằng rác thải thiết bị điện và điện tử bị bỏ đi ẩn chứa tiềm tàng các chất 
thải độc có nguy cơ gây hại cho môi trường cũng như tăng rủi ro cho những người tái chế 
chất thải điện tử. Để xử lý vấn đề này, EU đã thông qua dự luật RoHS (hay Quy định Hạn 
chế các chất độc hại trong thiết bị điện và điện tử) nhằm hạn chế sử dụng các chất độc hại      lOMoAR cPSD| 58540065
trong thiết bị điện và điện tử nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng, ví dụ điển 
hình như chì cùng nhiều loại hóa chất khác. 
Vào tháng 3 năm 2020, Ủy ban Châu Âu đã đưa ra một dự thảo kinh tế tuần hoàn 
mới, trong đó ưu tiên cắt giảm rác thải điện tử và thiết bị điện. Đề xuất đã nêu ra cụ thể các 
giải pháp như cung cấp quyền sửa chữa và cải thiện khả năng tái sử dụng nói chung. Dự 
thảo này cũng đồng thời thống nhất chuẩn sạc - khi các thiết bị điện tử sẽ dùng chung một 
cổng sạc để giảm thải lượng rác thải điện tử dôi ra. Đến năm 2024, USB-C sẽ là chuẩn sạc 
chung cho hầu hết thiết bị. Máy tính xách tay phải được trang bị cổng USB Type-C trước 
ngày 28 tháng 4 năm 2026. Tháng 3/2023, EU đã tiếp tục siết chặt quy định, bắt buộc nhà 
sản xuất phải sửa chữa sản phẩm trong thời gian bảo hành. Ủy ban cũng khuyến khích 
người dân tái chế thiết bị điện tử để nhận được phần thưởng có giá trị. EU cũng đã có 
những bước đi mạnh mẽ nhằm tăng cường trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) 
trong lĩnh vực sản xuất thiết bị điện và điện tử. Đề xuất tháng 3/2023 về quyền sửa chữa 
đã đặt ra yêu cầu bắt buộc đối với nhà sản xuất trong việc sửa chữa sản phẩm còn bảo hành. 
Bên cạnh đó, việc cập nhật chỉ thị về rác thải thiết bị điện và điện tử còn nhằm đảm bảo 
được việc thực thi phán quyết của Tòa án Công lý Châu Âu và thích ứng với những phát 
triển mới của thị trường. 
Về lâu dài, Nghị viện Châu Âu cũng thông qua nghị quyết về kế hoạch hành động 
kinh tế tuần hoàn, đặt ra lộ trình rõ ràng để chuyển đổi sang một nền kinh tế không carbon 
và tuần hoàn vào năm 2050. Nghị quyết này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm thiểu 
rác thải, đặc biệt là rác thải điện tử, thông qua việc tăng cường các quy định về tái chế, thiết 
lập các mục tiêu ràng buộc về sử dụng vật liệu và khuyến khích các giải pháp kéo dài tuổi 
thọ sản phẩm như sửa chữa và tái sử dụng. 
 2.2. Thực trạng tại Việt Nam 
Tại Việt Nam giai đoạn 2000-2023 đã trải qua những thay đổi đáng kể, phản ánh sự 
phát triển nhanh chóng của kinh tế, công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 
đã làm gia tăng nhanh chóng trong nhu cầu sử dụng, tiêu thụ các sản phẩm điện tử.      lOMoAR cPSD| 58540065
Trong thời kỳ đầu của cuộc cách mạng công nghiệp, Việt Nam bắt đầu bước vào 
thời kỳ tăng trưởng mạnh về kinh tế và công nghệ, dẫn đến nhu cầu lớn về thiết bị điện tử 
như điện thoại di động, máy tính và tivi. Tuy nhiên, nhận thức về rác thải điện tử vẫn còn 
thấp. Hầu hết các thiết bị lỗi thời thường bị bỏ đi hoặc không được xử lý đúng cách. Từ 
năm 2011 trở đi, tốc độ tăng trưởng của rác thải điện tử gia tăng nhanh chóng khi việc sử 
dụng thiết bị điện tử trở nên phổ biến và chu kỳ đổi mới các sản phẩm công nghệ ngày 
càng ngắn. Theo thống kê của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường, khối lượng rác 
thải điện tử ở Việt Nam đạt đến 200.000 - 300.000 tấn mỗi năm trong giai đoạn cuối, chiếm 
tới 2% trong tổng lượng rác thải. Đặc biệt, theo báo cáo của Liên Hợp Quốc, Việt Nam 
nằm trong top 10 quốc gia có lượng rác thải điện tử lớn nhất châu Á. Năm 2019, Việt Nam 
thải ra khoảng 380.000 tấn rác thải điện tử, và con số này đang tiếp tục tăng mạnh theo tốc 
độ phát triển kinh tế và sự gia tăng sử dụng các thiết bị điện tử. Mặc dù vậy, nhưng chỉ 
khoảng 10-15% lượng rác thải điện tử được thu gom và xử lý một cách chính thức. Phần 
lớn rác thải còn lại bị tiêu hủy không đúng quy cách hoặc lẫn vào rác thải sinh hoạt thông 
thường. Có đến 85-90% trong số lượng rác thải điện tử đó đang bị xử lý tại các cơ sở tái 
chế không chính thức, nơi không đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn môi trường. 
Vấn đề chính khiến Việt Nam chưa phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải 
điện tử là do thiếu đầu vào ổn định và đủ lớn. Hệ thống quản lý chất thải điện tử chưa hiệu 
quả, phần lớn lợi ích kinh tế thuộc về các bên trung gian chỉ tháo dỡ và bán, không tái chế. 
Các công ty tái chế gặp khó khăn vì giá mua từ dân cao, trong khi phải tuân thủ các nghĩa 
vụ pháp lý và chi phí lớn. Chất thải điện tử thường được thu gom bởi cá nhân và các trung 
tâm tư nhân, khiến Nhà nước khó kiểm soát. Do đó, doanh nghiệp không thể đầu tư công 
nghệ tái chế hiện đại khi nguồn đầu vào không ổn định và đã bị lấy mất các kim loại giá trị 
cao. Bên cạnh đó, Việt Nam hầu như không có hệ thống quản lý rác thải điện tử. Các cơ sở 
tái chế chủ yếu là các xưởng nhỏ lẻ, hoạt động không có sự giám sát về môi trường. Mãi 
đến sau năm 2015, việc thu gom và xử lý rác thải điện tử mới được chú ý hơn khi Chính 
phủ ban hành Quyết định 16/2015/QĐ-TTg về thu hồi và xử lý sản phẩm thải bỏ. Tuy 
nhiên, việc thực hiện vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu cơ sở hạ tầng chuyên nghiệp và nhận 
thức cộng đồng chưa cao. Một trong những nguyên nhân khác khiến việc thu gom rác thải      lOMoAR cPSD| 58540065
điện tử, cũng như đo lường các chỉ số về rác thải điện tử gặp nhiều khó khăn đến từ các cơ 
sở tái chế không chính thức. Theo các nghiên cứu từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt 
Nam có khoảng 1.000 cơ sở tái chế không chính thức hoạt động nhỏ lẻ trên khắp cả nước. 
Các cơ sở này chủ yếu tập trung tại những làng nghề truyền thống, nơi mà quy trình xử lý 
thiếu an toàn gây hại nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người. 
Tuy nhiên, trong một số những năm gần đây, khi Việt Nam đã có những nhận thức 
nhất định về rác thải điện tử và sự cần thiết trong việc thu gom rác thải điện tử gia tăng, đã 
có một số những chương trình nhằm thu gom lượng rác thải điện tử. Chương trình "Việt 
Nam Tái Chế" (Vietnam Recycles) đã thu gom và xử lý khoảng 100 tấn rác thải điện tử từ 
năm 2015 đến 2020. Đây là một con số khá khiêm tốn so với lượng rác thải điện tử thải ra 
mỗi năm. Cùng với đó, một số tập đoàn lớn như Samsung, LG, và HP cũng đã triển khai 
các chương trình thu hồi sản phẩm cũ nhưng hiệu quả chưa cao do thiếu sự phối hợp chặt 
chẽ và chiến lược dài hạn. 
Tóm lại, rác thải điện tử tại Việt Nam đã trở thành một vấn đề đáng lo ngại, với khối 
lượng tăng nhanh do sự phát triển công nghệ và nhu cầu tiêu dùng thiết bị điện tử. Hệ thống 
thu gom và xử lý rác thải điện tử còn thiếu đồng bộ và chủ yếu dựa vào các cơ sở tái chế 
tự phát, không đảm bảo an toàn môi trường. Điều này dẫn đến những tác động tiêu cực 
nghiêm trọng tới môi trường và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là ở các khu vực gần cơ sở 
tái chế không chính quy. Mặc dù đã có những chính sách quản lý từ nhà nước, việc thực 
thi và giám sát còn hạn chế, khiến việc xử lý rác thải điện tử chưa đạt hiệu quả mong muốn. 
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
3.1. Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 
3.1.1 Dữ liệu nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện là nghiên cứu định lượng. Do đó, các dữ liệu về những 
biến được thu thập là dữ liệu định lượng, được thu thập và tổng hợp thông qua nhiều 
trang thông tin uy tín như World Bank hay Eurostat. 
Về phạm vi không gian và thời gian của dữ liệu nghiên cứu: Nghiên cứu lấy dữ 
liệu từ 20 quốc gia thuộc khu vực châu Âu trong giai đoạn từ 2006 đến 2021. Dữ liệu      lOMoAR cPSD| 58540065
được sử dụng để nghiên cứu là dữ liệu bảng bởi sự phù hợp với tính chất của bài nghiên 
cứu. Nghiên cứu được thực hiện bằng dữ liệu bảng sẽ có nhiều quan sát hơn, từ đó các kết 
quả được đưa ra từ bài nghiên cứu sẽ chính xác hơn. 
Cụ thể các số liệu như sau:  Kí  Định nghĩa  Đơn vị  Nguồn dữ  hiệu  liệu  CR 
Tỷ lệ thu gom rác thải điện tử(WEEE)  kilogam/  Eurostat  người 
GDPc Tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân đầu  US đola  Worldbank  người  HC 
Tiêu dùng Hộ gia đình(trong tổng GDP)  %  Worldbank  GE 
Chỉ số đo lường hiệu quả của chính phủ    Worldbank  DIU 
Tỷ lệ người dân sử dụng internet(trong tổng dân %  Worldbank  số)  RDE 
Tỷ lệ chi tiêu cho Nghiên cứu và Phát  %  Worldbank 
triển(R&D)(trong tổng GDP)  DE 
Tỷ lệ người dân học đại học(trong tổng dân số)  %  Worldbank 
Bảng 3.1. Mô tả dữ liệu trong mô hình 
3.1.2 Xây dựng Mô hình nghiên cứu 
Trong quá trình ước lượng mô hình xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thu 
gom rác thải điện tử tại các quốc gia châu Âu, nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu của 20      lOMoAR cPSD| 58540065
quốc gia từ năm 2006 đến 2021 với tổng số 320 quan sát. Dựa vào phần tổng quan nghiên 
cứu nhóm đã đề cập đến tại Chương 1, nhóm đưa ra mô hình nghiên cứu chính như sau: 
CRit =  β0 + β1GDPcit + β2HCit + β3GEit + β4DIUit + β5RDEit + β6DEit + uit 
Nhóm tóm tắt hệ số biến và kỳ vọng dấu ở bảng dưới đây:  Ký  Loại  Mô tả biến  Đơn vị  Kỳ  Nghiên cứu  hiệu  biến  vọng ủng hộ  dấu  CR  Biến 
Tỷ lệ thu gom rác thải điện tử, Kilogam/      phụ 
thể hiện cho mức độ quản lý rác người 
thuộc thải điện tử của một quốc gia, 
thu thập với dữ liệu được lấy 
trên các quốc gia i, tại thời điểm  t  GDPC Biến 
Tổng sản phẩm nội địa bình  %  +  Cucchiella và  độc 
quân, thể hiện cho kinh tế của  cộng sự,  lập 
quốc gia, thu thập với dữ liệu 
được lấy trên các quốc gia i, tại  2015  thời điểm t                    lOMoAR cPSD| 58540065 HC  Biến 
Tỷ lệ chi tiêu tiêu dùng của hộ  %  -  Lauridsen và  độc 
gia đình trong tổng GDP của  Jørgensen,  lập 
một quốc gia, thể hiện giá trị thị 
trường của tất cả hàng hóa và  2010 
dịch vụ, do hộ gia đình mua, thu 
thập với dữ liệu được lấy trên 
các quốc gia i, tại thời điểm t  GE  Biến 
Chỉ số hiệu quả chính phủ, thể  +  Winans và  độc 
hiện chất lượng của dịch vụ  cộng sự,  lập 
công và mức độ độc lập của 
dịch vụ này khỏi các áp lực  2017; Milios, 
chính trị, thu thập với dữ liệu  2018 
được lấy trên các quốc gia i, tại  thời điểm t  DIU  Biến 
Tỷ lệ người dân sử dụng  %  +  Ciobanu,  độc 
internet trong tổng dân số, thể  Radu và cộng  lập  sự, 2023 
hiện mức độ tiếp cận internet 
của một quốc gia, thu thập với 
dữ liệu được lấy trên các quốc  gia i, tại thời điểm t  RDE  Biến  %  +  Ghisellini và  độc 
Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong  cộng sự,  lập 
tổng GDP, thể hiện mức độ đầu 
tư vào khu vực R&D, thu thập  2016 
với dữ liệu được lấy trên      lOMoAR cPSD| 58540065    
các quốc gia i, tại thời điểm t        DE  Biến 
Tỷ lệ người dân học đại học  %  +  Ciobanu và  độc 
trong tổng dân số, thể hiện trình  cộng sự,  lập 
độ học vấn của một quốc gia, 
thu thập với dữ liệu được lấy  2022 
trên các quốc gia i, tại thời điểm  t 
Bảng 3.2. Bảng giải thích biến trong mô hình 
Sau khi thu thập số liệu từ các nguồn trên, nhóm thực hiện các thao tác tổng hợp dữ 
liệu để có bảng dữ liệu phù hợp cho phần mềm Stata. 
3.1.3 Phương pháp nghiên cứu 
Về công cụ nghiên cứu, nhóm tác giả tổng hợp và sắp xếp các dữ liệu thứ cấp, sau 
đó nhóm tiến hành trình bày dữ liệu trên phần mềm Microsoft Excel. Về hoạt động chạy 
mô hình ước lượng, nhóm sử dụng phần mềm thống kê và phân tích dữ liệu STATA 17. 
Nhằm đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội đến tỷ lệ thu gom rác thải 
điện tử ở các quốc gia châu Âu, nhóm tác giả sử dụng ba mô hình hồi quy như sau: (i) Mô 
hình hồi quy gộp (Pooled Ordinary Least Square – POLS) 
Mô hình POLS là mô hình giả định về tung độ gốc và hệ số độ dốc không thay đổi, sử dụng 
phương pháp bình phương nhỏ nhất cổ điển. Mô hình này giả định không tồn tại nhân tố 
về sự khác biệt đặc trưng giữa các đơn vị không đo lường được. (ii) Mô hình tác động cố 
định (Fixed Effects Model – FEM) 
Mô hình tác động cố định FEM là mô hình được giả định cho các trường hợp sau:  (1) 
Các hệ số độ dốc không đổi nhưng tung độ góc thay đổi theo các đơn vị.  (2) 
Các hệ số độ dốc không đổi nhưng tung độ gốc thay đổi theo các đơn vị và theo  thờigian.  (3) 
Tất cả các hệ số đều thay đổi theo các đơn vị.  (4) 
Tất cả các hệ số đều thay đổi theo các đơn vị và theo thời gian.      lOMoAR cPSD| 58540065
(iii) Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effects Model – REM) 
Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) là mô hình được giả định có sự khác biệt đặc 
trưng giữa các đơn vị, nhưng sự khác biệt này là ngẫu nhiên (nằm trong thành phần sai số 
ngẫu nhiên) và không tương quan với các biến giải thích. Một giả định quan trọng trong 
mô hình tác động ngẫu nhiên là thành phần sai số không tương quan với bất kỳ biển giải 
thích nào trong mô hình. Phương pháp ước lượng của mô hình REM là phương pháp bình  phương tổng quát (GLS). 
Ngoài ra, nghiên cứu của nhóm sử dụng các kiểm định sau để lựa chọn mô hình và 
hạn chế khuyết tật của mô hình:  (i) Kiểm định Hausman 
Kiểm định Hausman trong phân tích dữ liệu thống kê là một phương pháp sử dụng 
để đánh giá sự khác biệt giữa hai phương pháp ước tính: ước tính cố định (fixed effect) và 
ước tính ngẫu nhiên (random effect) trong mô hình hồi quy. Nếu giá trị P-value kiểm định 
Hausman lớn hơn 0,05, chúng ta có căn cứ để cho rằng mô hình REM phù hợp hơn. Nếu 
giá trị P-value của kiểm định nhỏ hơn 0,05, ta có thể cho rằng mô hình FEM phù hợp hơn. 
(ii) Kiểm định tự tương quan 
Tự tương quan hay còn gọi là Autocorrelation là hiện tượng mà tại đó hạng nhiễu 
tại thời điểm t (hay còn gọi là sai số) thường được kí hiệu là ut có tương quan với hạng 
nhiễu tại thời điểm (t-1) hoặc bất kỳ hạng nhiều nào trong quá khứ. Các cách kiểm định tự 
tương quan: Đối với dữ liệu bảng: kiểm định Wooldridge 
(iii) Kiểm định phương sai sai số thay đổi 
Một giả thiết quan trọng trong mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển là các yếu tố nhiễu 
ui (hay còn gọi là phần dư residuals) xuất hiện trong hàm hồi quy tổng thể có phương sai 
không thay đổi (homoscedasticity, còn gọi là phương sai có điều kiện không đổi); tức là 
chúng có cùng phương sai. Nếu giả thiết này không được thỏa mãn thì có sự hiện diện của 
phương sai thay đổi. Phương sai thay đổi (Heteroskedasticity, còn gọi là phương sai của  sai số thay đổi). 
Có hai cách chính để kiểm định phương sai sai số thay đổi trong, đó là dùng kiểm 
định White , hoặc dùng kiểm định Breusch-Pagan.