-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Cách ăn mặc dân tộc Thái - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa
Cách ăn mặc dân tộc Thái - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn hóa dân gian 43 tài liệu
Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu
Cách ăn mặc dân tộc Thái - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa
Cách ăn mặc dân tộc Thái - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Văn hóa dân gian 43 tài liệu
Trường: Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Khánh Hòa
Preview text:
Phần (1): 1 slide - Quan niệm về phạm trù lưỡng hợp âm dương trong sinh học
Phần (2): Sự phân định về màu sắc: 2 slide - slide 1 (Sự phân định....Dương)
slide 2: ghép 2 ảnh chèn chữ để so sánh
Phần (3): Việc cất giữ ngọc bội: 2 slide- mỗi slide là 1 ý gạch đầu dòng trong world. CÂU HỎI VUI:
1. Ở ngành Thái Đen, con gái đi lấy chồng, sau thời gian gia thất yên ổn,
con cái đã lớn khôn, có tục về tạ ơn cha mẹ đẻ. Lễ vật mang theo gồm: 5
sải vải trắng và 4 sải vải đen, cùng 6 đồng bao nhiêu hào bạc trắng. A.4 B.5 C.6 D.7
2. Nhóm phần của mẹ - Thái Đen, phụ nữ được trưng diện thoả sức với các
gam màu sặc sỡ theo huyết khí của mẹ là màu đỏ là ĐÚNG hay SAI ? ĐÚNG SAI
QUAN NIỆM VỀ CÁCH ĂN MẶC CỦA NGƯỜI DÂN TỘC THÁI 1. Quan ni m vềề ph ệ ạm trù l ng h ưỡ p âm d ợ ng trong sinh h ươ ọc: - Quan ni m này chi p ệ hốối nh n th ậ c trong đ ứ i sốống c ờ a ng ủ i ph ườ ng ươ
Nam - Bách Việt, c s ơ c ở ho s hình thàn ự h các c p "đ ặ c cái" và hi ự n v ệ t ậ l ng h ưỡ p - âm d ợ ng. ươ
qua văn hóa trang phục của họ Thư tịch của Trung Quốc như sách Man thư
và Tân Đường thư trong phần mô tả về người phương Nam Bách Việt ở
vùng Vân Nam xưa, có đoạn ghi về người Man như sau: "Ô Man Đông
Thoán và bạch Man Tây Thoán" (ô là đen, bạch là trắng), sự đen trắng
này không phải ở da người mà ở trang phục - ô Man Đông Thoán là người
Man ở phía Đông có trang phục màu đen, còn bạch Man Tây Thoán là
người Man ở phía Tây có trang phục màu trắng. Ở đây đều là người Man
cả, nhưng người Man ở phía Đông thì mặc trang phục màu đen, còn người
Man ở phía Tây thì mặc trang phục màu trắng.
-Tư tưởng này, ngày nay vẫn còn thấy tiềm tàng, đậm nét trong tâm thức
của các cư dân sinh sống ở đây, song có sự đậm nhạt khác nhau qua các
hình thái biểu hiện văn hoá của từng dân tộc
-Còn việc phân đôi dân tộc thành hai ngành thì nay vẫn còn thấy trong
trang phục của một số dân tộc như người Mèo và đặc biệt là người Thái ở Tây Bắc.
2. Sự phân định về màu sắc:
Thái Trắng, Thái Đen ở dân tộc Thái, đó là sự phân chia một "nửa" của
cha và một "nửa" của mẹ, về những người con trong cùng một dân tộc
Ngay từ thưở ban sơ, các dân tộc nói chung và người Thái nói riêng đã đặt
câu hỏi về nòi giống, gốc nguồn của dân tộc mình: con người ở đâu mà ra,
và quá trình sinh ra đó như thế nào? Trả lời - Qua trực quan, họ thấy:
Người Thái sinh ra từ hai chất "nguyên khí" của Po Me (bố mẹ): chất của
Po màu "trắng", chất của Me màu "đỏ".Vậy phần của cha (Po) ký hiệu
màu "trắng" Thái Trắng, trang phục màu trắng – tóc để sau vai; phần của
mẹ (Me) ký hiệu màu "đỏ" Thái Đỏ, trang phục màu đỏ. Vậy ngành Thái
Đỏ có trước, về sau ngành Thái Đỏ chuyển thành ngành Thái Đen- phụ nữ
Thái đen có chồng rồi tóc trên đầu tằng cẩu bới ngược lên và trùm khăn
Piêu. Sự phân định màu sắc về Thái Trắng, Thái Đen ấy, ngày nay nhìn lại
là phù hợp với người phương Đông, trong quan niệm về ngũ sắc thì màu
"đen" và các màu "sẫm" là thuộc tính "Âm", còn màu "trắng" và các màu
"sáng" là thuộc tính "Dương". Theo tập tính của loài người thì giới mày râu
(Po) nghiêng về sức vóc cường tráng, còn giới đàn bà (Me) thuộc phái yếu,
làm đẹp. Vậy nên nhóm phần của mẹ - Thái Đen, phụ nữ được trưng diện
thoả sức với các gam màu sặc sỡ theo huyết khí của mẹ là màu đỏ, mà
chiếc khăn "Piêu" đội đầu của phụ nữ Thái Đen là một điển hình.
Những hoa văn trên khăn "Piêu" đội đầu của phụ nữ Thái đen, với ý nghĩa
chịu trách nhiệm mang tải những tư tưởng ban đầu của người Thái về việc
sinh thành, phát triển và bảo vệ từng thành viên của dân tộc. Còn phụ nữ
ngành Thái Trắng tuy cũng là phái yếu, thuộc diện làm đẹp, nhưng theo ký
hiệu của cha (Po) mầu "trắng", cho nên chỉ được trưng diện ở các gam
màu "trắng" và "sáng", không có gam màu sặc sỡ
Tóm lại, trong tư tưởng phân đôi phần của cha và phần của mẹ- những
người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành kí hiệu trang phục
‘’trắng’’ ‘’đen’’ ‘’Âm’’ ‘’Dương’’. Đó là tư tưởng chủ đạo của người
phương Nam Bách Việt, trung tâm là người Văn Lang Giao Chỉ. Tư tưởng
này chi phối toàn bộ phong tục tập quán sinh hoạt đời sống xã hội: từ đồ
dùng vật dụng, không chỉ riêng trang phục. Chúng đều mang tính ‘’ Đực’’
‘’Cái’’. Như ở người Kinh, ngay đôi phách gõ nhịp của ả đào trong Hát thờ
cũng có ý phiếm chỉ cái’’âm’’’’dương’’ và âm nhạc thì tiếng trong, tiếng
đục, hoặc chiếc trống cũng trống đực, trống cái...- nghĩa là, tư tưởng Âm
Dương, chủ đạo trong ý niệm và các hình thái hoạt động xã hội của người phương Nam Bách Việt.
Ngoài ra việc ngành Thái Đen dùng mầu "đen" và màu "trắng" để làm bao
bì đóng gói quà biếu giữa hai nhà thông gia, cũng là tín hiệu có sức thuyết
phục cao. Ở ngành Thái Đen, con gái đi lấy chồng, sau thời gian gia thất
yên ổn, con cái đã lớn khôn, có tục về tạ ơn cha mẹ đẻ. Lễ vật mang theo
gồm: 5 sải vải trắng và 4 sải vải đen, cùng 6 đồng và 4 hào bạc trắng. Phân
thành các lễ: dùng một sải vải trắng gói 4 hào bạc biếu người làm mối,
dùng 4 sải vải trắng gói 2 đồng bạc biếu bố vợ, dùng 2 sải vải đen gói 2
đồng bạc biếu mẹ vợ và dùng 2 sải vải đen gói 2 đồng bạc trả lại cho vợ
chồng con đem về lại quả, bên gia đình nhà chồng Nghi thức dùng màu sắc
để đóng gói quà biếu ở đây là có dụng ý (chỉ diễn ra ở hai gia đình thông
gia - tức là tượng trưng cho: bên nửa của cha nhà "trai" và bên nửa của mẹ
nhà “gái”) gói vải màu "trắng" biếu cho "bố" vợ, gói vải màu "đen" biếu
cho "mẹ" vợ và gói quà của nhà "gái" lại quả thì gói vào vải màu "đen",
còn gói quà của nhà "trai" biếu cho người làm mối thì gói vào tấm vải màu
"trắng" : ở đây mầu "trắng" thì bên nam (bố vợ, nhà trai), còn màu "đen"
thì bên nữ (mẹ vợ, nhà gái). Đó là những tín hiệu tự nó đã giải mã cái tâm
thức truyền kỳ về Thái Trắng "phần" của cha và Thái Đen "phần" của mẹ ở
người Thái cho hậu thế. 3. Cất giữ ngọc bội:
-Đó là việc ngành Thái trắng vào những ngày cúng giỗ Tổ tiên người ta lại
ăn vận đồ "đen" và phụ nữ hàng ngày mặc áo ngắn (xửa cóm) thì nẹp viền
cổ và lề áo cũng phải màu "đen" rồi trên đó mới đơm hàng cúc bướm bạc,
vì thế ngạn ngữ có câu ‘’áo rách giữ lấy lề’’ cho nên người ta lấy lề áo làm
vật "ngọc bội" là có dụng ý.
- Còn phụ nữ ngành Thái Đen thì trên lề áo đen cũng đơm hàng cúc bướm
bạc và đeo xà tích bằng bạc bên thắt lưng trái.
Trong các dấu hiệu về trao đổi màu sắc (ngọc bội) này của hai ngành Thái
vừa nêu ở trên thì dấu hiệu mặc áo đen trong dịp cúng lễ Tổ tiên của ngành
Thái Trắng là có ý nghĩa hơn cả, hoặc dùng "lề áo" màu đen, vòng qua cổ,
rồi thõng xuống hai đường trước ngực cũng là một biểu hiện có ý nghĩa.
Trang phục của người phụ nữ Thái là niềm tự hào không chỉ của riêng
người Thái mà còn là một nét văn hóa rất đặc sắc trong kho tàng văn hoá
vật thể của dân tộc. Từ lâu đời, người phụ nữ dân tộc Thái ở Mai Châu
(Hoà Bình) đã biết trồng bông, dệt vải, trồng dâu, nuôi tằm để tự dệt lấy
vải mặc, họ ý thức được rằng: "Gà đẹp nhờ bộ lông/ Người đẹp nhờ quần
áo". Để làm đẹp cho bộ trang phục của mình, người phụ nữ Thái Mai Châu
đã biết tìm cây tô mộc (cây phang) làm màu đỏ, cây chàm (hóm) làm màu
xanh và đen, củ nghệ (nghìn) làm màu vàng, đã biết cô đặc lá chàm qua
nhiều công đoạn phức tạp và kỹ thuật làm "chua" bằng lá trầu, nước chanh
cùng một số loại cây có chất keo làm bền sợi, sau đó mới đem nhuộm màu.
Ngay từ khi mới trưởng thành, phụ nữ Thái đã biết lo sắm cho mình cái
nằm, cái mặc, ngoài trang phục mặc hàng ngày