



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61178690
Câu 1: Phân biệt sáng tạo trong tiếp nhận văn học và sáng tạo trong sáng tác
văn học? Cho ví dụ. Nêu những điểm cần chú ý khi bồi dưỡng năng lực cảm
thụ văn học cho học sinh tiểu học.
* Phân biệt sáng tạo trong tiếp nhận văn học và sáng tạo trong sáng tác văn học?
Sáng tác văn học là hoạt động của tác giả, tiếp nhận văn học là hoạt động của
người đọc. Cả hai hoạt động này đều có chung đặc điểm là sự sáng tạo, tuy nhiên sự
sáng tạo của mỗi đối tượng lại mang những điểm riêng. 1. Giống nhau
- 2 hoạt động sáng tạo này bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống:
+ Tác giả: Bắt đầu bằng vốn sống, sự hiểu biết, sự trải nghiệm cuộc sống và cảm xúc
mãnh liệt để tạo nên tác phẩm.
+ Bạn đọc: Dựa vào vốn sống, sự hiểu biết và các năng lực, trạng thái tâm lí khác
nhau để tiếp nhận tác phẩm.
- Cả tác giả và bạn đọc đều xảy ra quá trình chủ động, tự điều chỉnh theo hướngvừa
phân tích vừa tổng hợp để thâm nhập vào nội dung và hình thức tác phẩm:
+ Tác giả: Điều chỉnh ngôn ngữ để thể hiện mình
+ Bạn đọc: Điều chỉnh mình để hiểu ngôn ngữ của tác giả. 2. Khác nhau
a) Quá trình sáng tạo của nhà văn:
Quá trình sáng tác của nhà văn, nhà thơ là quá trình sáng tạo. Để cho ra đời
tác phẩm văn chương - sản phẩm tinh thần, nhà văn, nhà thơ đã trải qua quá trình lOMoAR cPSD| 61178690
nhận thức, tìm hiểu, khám phá hiện thực cuộc sống(HTCS) bậc (1) – thông qua lăng
kính chủ quan sáng tạo ra văn bản văn học – HTCS bậc (2) (hiện thực cuộc sống
trong tác phẩm văn học). Hiện thực cuộc sống (2) này bắt nguồn từ HTCS (1) nhưng
đã được hiện thực hóa, khái quát hóa. Nhân vật và cuộc sống trong tác phẩm được
nhà văn điển hình hóa bằng tất cả sự sáng tạo của mình.
Hiện thực trong tác phẩm được tái hiện bằng hệ thống ngôn từ . Hệ thống ngôn
từ này cũng là ngôn từ được sử trong cuộc sống hằng ngày những được nâng lên
thành ngôn từ nghệ thuật. Ngôn từ nghệ thuật có đặc tính khác với ngôn ngữ đời
sống ở tính hình tượng, tính biểu cảm , tính hàm súc, tính tổ chức cao và tính chính
xác… Từ ngữ sử dụng trong tác phẩm đã được nhà văn, nhà thơ lựa chọn kĩ càng và
phải đạt tới độ tinh, rất tinh sao cho phù hợp với từng ngữ cảnh. Đặc biệt nhà văn,
nhà thơ trước và trong sáng tạo nghệ thuật thì luôn hình dung trước mắt mình hình
ảnh của bạn đọc, hướng đến bạn đọc, chờ đợi ở bạn đọc.
b) Quá trình tiếp nhận, cảm thụ văn học của bạn đọc: lOMoAR cPSD| 61178690
Cảm thụ văn học cũng là hoạt động sáng tạo. Người đọc bằng vốn sống, vốn
hiểu biết và bằng các năng lực khác nhau, với nhiều trạng thái tâm lí khác nhau để
đọc, tiếp nhận tác phẩm và cảm thụ văn học.
Bạn đọc tiếp nhận hiện thực cuộc sống bậc (1) qua hình ảnh của hiện thực
cuộc sống bậc (2) được phản ánh trong tác phẩm. Trong quá trình tiếp nhận, rất có
thể xuất hiện ở bạn đọc hình ảnh của hiện thực cuộc sống (3) và nhiều giá trị mới
khác. Hiện thực cuộc sống (3) được tạo nên trong sự tưởng tượng, liên tưởng của
người đọc, bằng năng lực tiếp nhận của người đọc. Dựa trên hệ thống hình tượng
trong tác phẩm, người đọc đã phát hiện và và cảm nhận được những giá trị thẩm mĩ,
những điều nhà văn gửi gắm đến bạn đọc bằng cách nói hàm ngôn trong tác phẩm.
Những giá trị bạn đọc phát hiện và mang đến cho tác phẩm nhiều khi nhà thơ, nhà
văn còn chưa tính đến trong quá trình sáng tác. Sáng tạo của người đọc trong tiếp
nhận văn học đã góp phần làm phong phú, sinh động sự sống hình tượng tác phẩm.
Quá trình sáng tạo giữa nhà văn và bạn đọc có những điểm khác nhau nhưng thực
tế, những hoạt động này đều nhằm hướng tới một yêu cầu chung: cả hai đối tượng
phải chủ động tự điều chỉnh theo hướng vừa phân tích vừa tổng hợp để thâm nhập
vào nội dung và hình thức của tác phẩm. Trong tiếp nhận và cảm thụ văn học, nếu
người sáng tác điều chỉnh ngôn ngữ để thể hiện mình thì người tiếp nhận điều chỉnh
mình để thâm nhập, khám phá hệ thống ngôn ngữ. Đó là hai quá trình khác nhau
giữa hai chủ thể sáng tác và tiếp nhận nhưng điều đó lại hoàn toàn có thể xảy ra
nhằm đạt tới một đích chung là hướng tới sự cân bằng trong cảm thụ.
c) Quá trình sáng tạo trong sáng tác văn học và sáng tạo trong tiếp nhận văn học: lOMoAR cPSD| 61178690
Đọc tiếp nhận tác phẩm là hoạt động tìm ra ý nghĩa trong thông điệp được tổ
chức bằng một hệ thống kí hiệu. Nghĩa là quan hệ văn bản với cái mà nó biểu đạt. Ý
nghĩa là quan hệ văn bản với người tiếp nhận. Người đọc muốn phát hiện ra ý nghĩa
của văn bản thì trước hết phải hiểu nghĩa. Nghĩa của văn bản văn học là một thực tại
đã được cải tạo một cách đặc thù gắn liền với chính văn bản ấy. Nghĩa của nghệ thuật
không thể được miêu tả bằng “ quan niệm ngữ nghĩa” độc lập với cách diễn đạt bằng
ngôn từ này. Thay đổi cách diễn đạt có nghĩa là kéo theo sự phá vỡ nghĩa của nó
hoặc là tạo ra nghĩa mới. Như vậy, ý nghĩa gắn liền với ngữ cảnh. Bản thân ngữ cảnh
của văn bản tạo ra tính đa nghĩa. Nghĩa được xét đến trong ba quan hệ ý nghĩa mà
tác giả muốn gửi gắm, ý nghĩa vốn có trong văn bản tương quan với một hiện thực
nào đó, ý nghĩa do mối quan hệ của người đọc đặt vào văn bản. Đọc văn là tìm ra
cái nghĩa cho bản thân. Thông điệp nhà văn gửi đến bạn đọc đã thức tính điều gì ở
bản thân người đọc. Đích của đọc văn không chỉ dừng lại lại ở việc phát hiện tư
tưởng chủ đề của tác phẩm mà chính là sự thức tỉnh, tự nhận thức tìm ra ý nghĩa cho bản thân minh.
Quá trình tiếp nhận tác phẩm luôn là quá trình đòi hỏi ở chủ thể tiếp nhận
những năng lực : năng lực ngôn ngữ và vận dụng ngôn ngữ, năng lực quan sát phát
hiện từ ngữ, hình ảnh, năng lực phân tích, tổng hợp và trái tim giàu cảm xúc. Quá
trình này cũng đòi hỏi sự chủ động, sự vận động từ bên trong bản thân chủ thể trước
những tình huống có vấn đề. Bởi vì mỗi người có sự cảm nhận riêng, tình cảm riêng,
cung bậc cảm xúc riêng… Trong tiếp nhận và cảm thụ nghệ thuật, cảm thụ cái đẹp
đều không có chỗ cho việc làm thay hoặc cảm thụ cái đẹp nhưng dựa theo ý của người khác. lOMoAR cPSD| 61178690
Cảm thụ văn học là hoạt động tiếp nhận có quá trình tâm lí phức tạp và sáng
tạo ở người đọc. Hoạt động này chịu sự chi phối bởi đối tượng tiếp nhận tác phẩm –
đối tượng nhận thức thẩm mĩ có tính đặc thù. Tác phẩm văn học là một khối đa diện
nhiều màu sắc và chứa đựng trong nó những lớp nghĩa khác nhau: nghĩa hiển ngôn
(còn gọi là nghĩa tường minh) và nghĩa của tác phẩm. Muốn tiếp nhận và hiểu được
tác phẩm, người đọc phải có vốn sống, vốn hiểu biết, năng lực ngôn ngữ để có thể
đọc ra, nhìn ra bên trong câu chữ ấy những thông điệp mà nhà văn muốn nói nhưng
nói hàm ẩn. Con đường tiếp nhận tác phẩm của bạn đọc là con đường ngược chiều
mà nhà văn nếu lấy mốc là hình tượng nghệ thuật và bắt đầu từ ngôn từ nghệ thuật.
Nếu quá trình sáng tác là quá trình khách quan hóa vốn sống của nhà văn thì quá
trình cảm thụ văn học cũng là quá trình khác quan hóa vốn sống, vốn hiểu biết của
người đọc để tiếp nhận nghệ thuật.
* Những điểm cần chú ý khi bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh tiểu học:
+ Giáo viên cần giúp học sinh trau dồi hứng thú khi tiếp xúc thơ văn: Khi có hứng
thú khi tiếp xúc thơ văn, các em sẽ vượt qua được khó khăn trở ngại, cố gắng luyện
tập để cảm thụ văn học tốt hơn và học giỏi môn Tiếng Việt. Khi dạy các bài tập đọc
giáo viên nên chú ý rèn đọc diễn cảm một bài văn, một bài thơ, đoạn văn. Các em
biết chăm chú quan sát, lắng nghe để tìm hiểu cái đẹp của thiên nhiên và cuộc sống
quanh ta, tập dùng từ ngữ cho đúng và hay, nói và viết câu cho rõ ý sinh động và gợi
cảm…tất cả đều giúp các em phát triển năng lực cảm thụ văn học.
+ Giáo viên phải khéo léo gợi mở, dẫn dắt nhằm phát huy tính sáng tạo về tư duy
văn học của mỗi học sinh. Giáo viên đóng vai trò người gợi mở, dẫn dắt các em tiếp
xúc với tác phẩm, tôn trọng những suy nghĩ, những cảm xúc chân thật, thơ ngây của
trẻ và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn. Khi tiếp nhận văn chương, các em phải
tư duy khác với lối tư duy logic thông thường. Đó là năng lực thẩm mỹ khi học sinh lOMoAR cPSD| 61178690
biết nghe và đọc được những gì ẩn chứa bên trong lớp vỏ ngôn từ. Những tín hiệu
nghệ thuật này chính là cách biểu hiện của văn chương bằng những lớp từ gợi cảm,
gợi tả, những cách biểu đạt đa nghĩa, những tứ thơ hay, những hình thức tu từ mới lạ…
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện những tín hiệu nghệ thuật. Để giải mã tác
phẩm văn chương, học sinh phải chú trọng các yếu tố được diễn đạt hàm ẩn, cách
nói biểu trưng, tính đa nghĩa, những cách nói hướng đến “gây ấn tượng” (lạ hóa)
khác với ngôn ngữ thông thường. Các biện pháp tư từ đã góp phần hữu hiệu vào việc
thể hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Khi đánh giá các tín hiệu nghệ thuật trong việc
biểu đạt nội dung, học sinh không những cần nhận diện cắt nghĩa mà còn cần đánh
giá ý nghĩa của chúng trong đoạn thơ, câu văn từ dễ đến khó. + Giáo viên phải hướng
đến chủ trương tích hợp các phân môn. Khi học sinh được trang bị những kiến thức
về sử dụng hiệu quả biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong tác phẩm văn học,
các em sẽ nhận thấy cái hay, cái đẹp của cuộc sống và con người. Từ đó, các em sẽ
biết sử dụng các biện pháp tu từ sao cho đúng, cho hay để viết văn miêu tả gợi hình, gợi cảm và sinh động.
+ Giáo viên phải đảm bảo tính vừa sức, đúng đối tượng. Hệ thống câu hỏi, bài tập
thực hành cần phải phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức nhưng cũng cần
đảm bảo tính vừa sức để kích thích học sinh trong khi phối hợp thực hiện yêu cầu
của giáo viên. Tránh đưa ra các bài tập quá khó khiến học sinh chán nản, ngược lại,
không nên đưa ra bài tập quá dễ khiến trẻ chủ quan. Đặc biệt cũng cần phân hóa hệ
thống bài tập kiểm tra kiến thức để phù hợp với các nhóm học sinh khá, giỏi, trung bình.
Câu 2: Luận giải sức mạnh đặc biệt của văn chương đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách trẻ em lứa tuổi học sinh tiểu học. Chứng minh đọc văn sẽ
làm cho học sinh phát triển ngôn ngữ và phát triênr tư duy. lOMoAR cPSD| 61178690
* Luận giải sức mạnh đặc biệt của văn chương đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách trẻ em lứa tuổi học sinh tiểu học.
a) Văn học giúp mở rộng thế giới tâm hồn, thế giới hiểu biết, hình thành nhân
cách, tình cảm, thẩm mĩ cho học sinh tiểu học.
- Văn học giúp mở rộng thế giới tâm hồn cho học sinh tiểu học: nghĩa là văn họcgiúp
trẻ thơ có tâm hồn bay bổng, trí tưởng tượng phong phú và hình thành tình cảm,
cảm xúc với những thứ diễn ra quanh mình. Điều này được hình thành là do thế
giới của các tác phẩm văn học mang lại cho các em.
- Văn học giúp mở rộng hiểu biết:
+ Văn học cung cấp kiến thức về tất cả lĩnh vực trong cuộc sống: lịch sử, địa lí, chính trị,…
+ Trẻ em khi đọc văn sẽ được “du lịch trong tâm tưởng”, làm giàu trí tri thức của bản thân.
Ví dụ: Khi đọc tác phẩm “sông Hương”, các em sẽ tiếp nhận tri thức địa lí
Khi đọc tác phẩm “Hội đua voi ở Tây Nguyên”, các em sẽ tiếp nhận tri thức văn hóa.
- Văn học góp phần hình thành nhân cách cho học sinh tiểu học: nhân cách của
trẻem được hình thành thông qua nhiều yếu tố, trong đó văn học “như một thứ
dưỡng chất nuôi sống và phát triển tâm hồn con người”. Văn chương có một sức
mạnh đặc biệt có khả năng thay đổi nếp sống và nếp nghĩ của con người.
- Văn học giúp học sinh phân biệt phải – trái, đúng – sai thông qua hệ thống nhânvật
có tính cách rõ ràng, kết thúc tác phẩm thường có hậu. Lí giải vì sao học sinh tiểu
học rất thích đọc truyện cổ tích.
- Văn chương bồi đắp và thanh lọc cảm xúc làm cho con người trở nên trong sáng,có
cuộc sống nội tâm sâu sắc và phong phú. lOMoAR cPSD| 61178690
- Văn học giúp con người sống sâu sắc hơn để tự nhận thức về mình, nâng caoniềm
tin bản thân và tự hoàn thiện nhân cách. Vì vậy, có thể khẳng định “Văn học là nhân học” (M. Gorki)
- Văn học góp phần hình thành tình cảm, thẩm mĩ: Bản thân trẻ em có quan niệmvề
cái đẹp chưa hoàn chỉnh, chưa đủ màu sắc, vì vậy cần giáo dục cái đẹp cho trẻ em
từ rất sớm. Qua việc đọc các tác phẩm văn chương, học sinh tiểu học dần hình
thành quan niệm về cái đẹp, tránh xa cái xấu, biết trân trọng và vươn lên những giá
trị tốt đẹp trong cuộc sống. Tuy nhiên, khi giáo dục cái đẹp cho học sinh tiểu học
cần đặt trong bối cảnh cụ thể và có cái nhìn toàn diện.
=> Văn chương có sức mạnh kì diệu đối với đời sống tinh thần con người. Song điều
đó phụ thuộc hoàn toàn vào giá trị tác phẩm cũng hiệu quả tiếp nhận ở người đọc.
Vì vậy, văn chươngcho trẻ em cần phù hợp với tâm lí lứa tuổi các em và có khả năng
khơi động đến nơi sâu kín nhất của tình cảm con người, rọi một nguồn ánh sáng vào
tâm linh để làm cho các em sống tốt hơn, cao quý hơn. b) Văn học giúp phát triển
ngôn ngữ, tư duy cho học sinh tiểu học
- Ngôn từ là lời nói và được thể hiện dưới nhiều hình thức: lời nói miệng, lời nóiviết và lời nói câm.
- Lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng, văn chương vừa có điều kiệnthuận
lợi trong việc tái hiện quá trình tư duy và phát triển tư duy, vừa có khả năng tác
động gợi lên những liên tưởng, tưởng tượng trong tâm trí người đọc.
- Vấn đề trong tác phẩm văn học gợi ra ở người đọc nhu cầu tìm hiểu, suy ngẫm,phán
đoán, phân tích và so sánh, tổng hợp. Tác phẩm văn chương thực sự là nguồn kích
thích vô tận, tạo điều kiện cho tư duy phát triển.
- Khi đọc tác phẩm văn học, học sinh không những có khả năng tri giác về tácphẩm
mà có khả năng phác họa, sáng tạo nghệ thuật một cách độc đáo. Những hình ảnh lOMoAR cPSD| 61178690
được các em xây dựng trong quá trình tri giác thường chứa đựng sắc thái tươi sáng của cảm xúc.
- Sự phong phú về cảm xúc tri giác là điều kiện để phát triển năng lực sáng tạo ởlứa
tuổi học sinh tiểu học.
- Trẻ em thích đọc truyện cổ tích. Truyện cổ tích có khả năng phát triển ngôn ngưvà
tư duy mạnh mẽ thông qua những hình ảnh, ngôn ngữ có sức lay động và gợi cảm sâu xa.
- Thông qua đọc tác phẩm văn học, học sinh được rèn các kĩ năng qua sát từ ngữ,rèn
phản xạ nhanh, nhạy trong việc phát hiện những từ ngữ được dùng khác với cách nói thông thường.
- Từ sự nhận thức về sự giàu và đẹp của Tiếng Việt, các em biết yêu và giữ gìn
sựtrong sáng của Tiếng Việt.
c) Văn học giúp trẻ có khả năng phát triển năng lực liên tưởng, tưởng tượng. -
Liên tưởng và tưởng tượng là những phẩm chất của tư duy, nhờ đó bạn đọc có
thểlàm sống lại những hình tượng văn học. Phẩm chất này vô cùng quý giá và cần
được bồi dưỡng một cách thận trọng ngay từ tuổi ấu thơ. -
Ở trẻ em, óc tưởng tượng đã phát triển và đòi hỏi được thỏa mãn hơn tất cả
cácphẩm chất khác. Trẻ em nhìn hình ảnh trực tiếp, sau đó tưởng tượng và xây dựng hình ảnh trong óc mình. -
Phát tiển trí tưởng tượng sáng tạo, phát triển tư duy cho học sinh lứa tuổi tiểu
họcbằng văn chương vừa phù hợp với đặc trưng văn học, vừa phù hợp với tâm lí lứa tuổi. lOMoAR cPSD| 61178690
* Đọc văn sẽ làm cho học sinh phát triển ngôn ngữ và phát triển tư duy vì: -
Ngôn từ là lời nói và được thể hiện dưới nhiều hình thức: lời nói miệng, lời nói viết
và lời nói câm. Lấy ngôn từ làm chất liệu xây dựng hình tượng, văn chương vừa có
điều kiện thuận lợi trong việc tái hiện quá trình tư duy và phát triển tư duy, vừa có
khả năng tác động gợi lên những liên tưởng, tưởng tượng trong tâm trí người đọc.
=> Trong quá trình đọc văn bản, học sinh đồng thời vừa đọc, vừa quan sát để phát
hiện được trong hệ thống ngôn từ các từ ngữ quan trọng, những từ ngữ then chốt,
đồng thời xử lí các thông tin mà mắt tiếp nhận được. -
Những vấn đề trong tác phẩm văn học gợi ra ở người đọc nhu cầu tìm hiểu,
suyngẫm, phán đoán, phân tích và so sánh, tổng hợp. Sau khi đọc xong tác phẩm,
bạn đọc - đặc biệt là bạn đọc nhỏ tuổi sẽ đặt ra hàng loạt các câu hỏi Vì sao? Và Tại
sao? Quá trình trẻ em suy nghĩ tìm lời giải đáp là quá trình các em tư duy.
=>Tác phẩm văn chương thực sự là nguồn kích thích vô tận, tạo điều kiện cho tư duy phát triển. -
Khi đọc tác phẩm văn học, học sinh không những có khả năng tri giác về
tácphẩm mà có khả năng phác họa, sáng tạo nghệ thuật một cách độc đáo. Những
hình ảnh được các em xây dựng trong quá trình tri giác thường chứa đựng sắc thái
tươi sáng của cảm xúc. -
Sự phong phú về cảm xúc tri giác là điều kiện để phát triển năng lực sáng tạo
ởlứa tuổi học sinh tiểu học. -
Trẻ em thích đọc truyện cổ tích. Truyện cổ tích có khả năng phát triển ngôn
ngưvà tư duy mạnh mẽ thông qua những hình ảnh, ngôn ngữ có sức lay động và gợi cảm sâu xa. lOMoAR cPSD| 61178690 -
Thông qua đọc tác phẩm văn học, học sinh được rèn các kĩ năng qua sát từ
ngữ,rèn phản xạ nhanh, nhạy trong việc phát hiện những từ ngữ được dùng khác
với cách nói thông thường. -
Từ sự nhận thức về sự giàu và đẹp của Tiếng Việt, các em biết yêu và giữ gìn
sựtrong sáng của Tiếng Việt.
Câu 3: Cho đoạn thơ sau:
Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến nôn nao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao.
Mẹ ơi trong lời mẹ hát
Có cả cuộc đời hiện ra
Lời ru chắp con đôi cánh
Lớn rồi con sẽ bay xa…
(Trích “Lời mẹ hát” – Trương Nam Hương)
a) Hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, cái đẹp của đoạn thơ.
b) Anh (chị) viết bài cảm thụ. Bài làm
a) Hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, cái đẹp của đoạn thơ. Quy trình
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS lOMoAR cPSD| 61178690
Bước 1: Đọc k ĩ - GV yêu cầu 3,4 HS đọc - HS đọc văn bản
đoạnthơ, cả lớp đọc đồng thanh - GV đọc - GV nêu câu hỏi: - HS lắng nghe- HS trả lời:
+ Đoạn thơ trên được trích trong + Đoạn thơ trên được trích trong bài bài thơ nào?
thơ “Trong lời mẹ hát” của Trương + Tác giả nào? Nam Hương.
+ Đoạn thơ viết về cái gì?
+ Đoạn thơ viết về tình mẫu tử.
+ Ý chính của đoạn thơ là gì?
+Tình cảm của người con đối với
những sự hi sinh vất vả, nhọc nhằn
của người mẹ, từ đó bày tỏ lòng biết
ơn đến những sự hi sinh của người mẹ của mình.
Bước 2,3: Tổ chức - GV nêu câu hỏi: - HS trả lời:
cho HS phát hiện + Trong đoạn thơ, tác giả đã sử + Đoạn thơ sử dụng biện pháp nghệ
các tín hiệu nghệ dụng những biện pháp nghệ thuật thuật nhân hoá, biện pháp ẩn dụ
nào? Tìm những từ ngữ, chi tiết,
thuật, lí giải để hình ảnh có sử dụng biện pháp chuyển đổi cảm giác, biện pháp đối. hiểu dụng ý nghệ thuật ấy?
Phép nhân hoá được thể hiện của nhà thơ
qua các câu thơ: “Thời gian
chạy qua tóc mẹ”, “Lời ru lOMoAR cPSD| 61178690
+ Nêu tác dụng của các biện pháp chắp con đôi cánh”. nghệ thuật đó?
• Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác được thể hiện qua hình
ảnh: “màu trắng đến nôn nao”
• Phép đối được thể hiện qua
hình ảnh: “Lưng mẹ cứ còng
dần xuống – Cho con ngày một thêm cao”
+ Phép nhân hóa thời gian “chạy”
giúp người đọc nhận thấy thời gian
trôi qua một cách nhanh chóng
khiến cho mẹ ngày càng già đi. +
Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
“màu trắng đến nôn nao”
=> Diễn tả chân thực cảm giác nôn
nao của niềm kính trọng, biết ơn và
lẫn cả nỗi thương yêu, xót xa của
con khi nhìn mái tóc của mẹ đã in
hằn dấu vết tháng năm. Mái tóc ấy
không còn xanh mướt, đen óng như xưa...
+ Phép đối : “còng-cao” giúp cho
người đọc thấy được sự hi sinh cao
cả của người mẹ để cho con ngày
một lớn khôn. Hay nói cách khác là
khi con cái cao lớn, trưởng thành lOMoAR cPSD| 61178690
+ Nhận xét về cách sử dụng từ láy cũng là lúc tấm lưng mẹ còng đi,
“nôn nao” của tác giả ? xương khớp yếu dần. + Từ láy “nôn nao”
=> góp phần hình ảnh hóa, làm
chân thực hơn tình cảm xót xa của
tác giả trước sự chảy trôi của thời
gian, diễn tả sinh động hơn tấm lòng
biết ơn của tác giả đối với mẹ.
Bước 4: Nhận xét, - GV yêu cầu HS nêu cảm - HS nêu cảm nghĩ.
đánh giá của học nhận sau khi đọc xong đoạn thơ sinh - GV chốt lại -HS lắng nghe b) Viết bài cảm thụ
Tình mẫu tử là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao cả hơn bao giờ hết.
Bởi vậy cuộc đời của mỗi con người không bao giờ lại có ý nghĩa khi thiếu đi tình
mẫu tử. Bài thơ " Trong lời mẹ hát" của Trương Nam Hương là một bài thơ hay và
cảm động nói về tình mẫu tử. Trong bài thơ, tác giả có viết:
“Thời gian chạy qua tóc mẹ Một màu trắng đến nôn nao
Lưng mẹ cứ còng dần xuống
Cho con ngày một thêm cao. lOMoAR cPSD| 61178690
Mẹ ơi trong lời mẹ hát Có cả cuộc đời hiện ra
Lời ru chắp con đôi cánh
Lớn rồi con sẽ bay xa…”
Ở khổ thơ đầu thể hiện tình yêu và sư hi sinh to lớn của mẹ dành cho con.
Thời gian cứ thế trôi đi hững hờ, không bao giờ quay trở lại. Mái tóc của mẹ theo
thời gian dần dần trở nên bạc trắng những lo âu và vất vả khiến phận làm con trông
mà xót lòng: “Thời gian chạy qua tóc mẹ - Một màu trắng đến nôn nao”. Tác giả đã
sử dụng biện pháp nhân hóa, thời gian “chạy” qua một cách nhanh chóng khiến cho
mẹ ngày càng già đi. Mẹ dành tình yêu cho con bằng cả trái tim mình, không quản
ngại bao gian nan, vất vả chỉ để cho con lớn thành người. Nhà thơ đã sử dụng phép
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “màu trắng đến nôn nao” diễn tả chân thực cảm giác nôn
nao của niềm kính trọng, biết ơn và lẫn cả nỗi thương yêu, xót xa của con khi nhìn
mái tóc của mẹ đã in hằn dấu vết tháng năm. Mái tóc ấy không còn xanh mướt, đen
óng như xưa... Sự đổi thay của mẹ in dấu vết thời gian qua mái tóc, sự đổi thay của
mẹ là sự hi sinh để con lớn lên và trưởng thành. Sự hi sinh cao cả đó quả thực không
thể nói hết bằng lời. Nhà thơ đã sử dụng từ láy
“nôn nao” giúp tăng giá trị biểu cảm, nhấn mạnh tình cảm, cảm xúc. Từ láy đã góp
phần hình ảnh hóa, làm chân thực hơn tình cảm xót xa của tác giả trước sự chảy trôi
của thời gian, diễn tả sinh động hơn tấm lòng biết ơn, yêu thương của tác giả đối với
mẹ. Chỉ với một từ “nôn nao” mà tác giả đã làm cho những cảm xúc, tình cảm,
những thứ trừu tượng trở nên hình ảnh hơn, chân thực hơn, cụ thể hơn. Phép nhân
hóa và nghệ thuật dùng từ láy điêu luyện đã đưa hồn vào hai câu đầu của bài thơ lOMoAR cPSD| 61178690
thật khéo léo và cẩn thận tới từng chi tiết, làm cho rung động trái tim bao đứa con
xa mẹ mà nhớ mà thương,...
Hai câu thơ tiếp theo cho chúng ta thấy rõ hơn sự hi sinh lớn lao của người mẹ:
“Lưng mẹ cứ còng dần xuống - Cho con ngày một thêm cao”. Ôi!Đã có biết bao khó
khăn đè nặng trĩu trên tấm lưng ấy! Khi con cái cao lớn, trưởng thành cũng là lúc
tóc đã mẹ bạc, xương khớp đã yếu đi. Mẹ không quản khó khăn, gian khổ chăm sóc,
che chở cho con qua bao ngày tháng, chỉ mong sao con lớn khôn nên người. Nghệ
thuật đối lập “còng – cao” trong hai câu thơ đã làm nổi bật rõ hơn về hình ảnh người
mẹ “ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để mai sau con có thể chắp cánh bay xa,
vững vàng trên con đường đời đầy gian khổ. Đứa con cứ như ngọn trúc xanh của
mùa xuân vụt lên phơi phới còn tấm lưng của mẹ thì ngày càng còng đi dần. Bởi vậy
con sẽ không thể nào quên đi được những tình yêu mẹ ấp ủ, xây dựng, bồi đắp suốt
bao thời gian qua đã trao cho con một cách âu yếm, nhẹ nhàng mà thầm kín. Chỉ với
bốn câu thơ, nhà thơ đã cho người đọc thấy được sự hi sinh cao cả, tình yêu vĩnh
hằng của người mẹ được ấp ủ từ những tháng ngày mẹ hoài thai cho đến khi con dần
lớn lên và trưởng thành.
Khổ thơ thứ hai đã bộc lộ rõ tình cảm của con dành cho mẹ. Trong những lời
hát ru hời hỡi tràn đầy yêu thương của mẹ, pha trong những giấc mơ là cả một cuộc
đời trước mắt: “Mẹ ơi trong lời mẹ hát - Có cả cuộc đời hiện ra”. Mẹ đem đến cho
con cả “cuộc đời” trong lời hát ru. Có ai lớn lên mà không chăng còn đọng mãi trong
lòng tiếng ru ngọt ngào của mẹ. Lời ru có ở khắp nơi, và đến cùng với sự xuất hiện
của con, vì con mà ngân lên tha thiết. Lời ru của mẹ sẽ theo con suốt cuộc đời, in
dấu và chở che mỗi bước con đi. Lời ru của mẹ không chỉ nâng giấc con khi thơ bé,
mà khi con lớn, vẫn ở bên con. Trên đường đời gian khó, mỗi lúc con nao núng mỏi
mệt, hay thất bại, lời ru sẽ an ủi con, giúp cho con có thêm sức mạnh. Như nhà thơ
Nguyễn Duy khi viết về mẹ: “Ta đi trọn kiếp con người – Cũng không đi hết mấy lOMoAR cPSD| 61178690
lời mẹ ru”. Những lời mẹ ru biểu tượng cho tình cảm yêu thương vô bờ mà mẹ dành
cho con. Cách nói đi trọn kiếp cũng không đi hết khẳng định tình mẹ là vô cùng
thiêng liêng cao cả, là bao la vô tận, không sao có thể đền đáp hết được. Lời ru chính
là tình mẹ thiêng liêng và cảm động. Tình mẹ có ở khắp nơi, được ấp ủ trong những
tháng ngày mẹ hoài thai và dần lớn lên cùng với sự ra đời của con. Hai câu thơ tiếp
theo cho chúng ta thấy sự động viên người con trong lời ru của mẹ: “Lời ru chắp con
đôi cánh - Lớn rồi con sẽ bay xa…”. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa hết sức
đặc sắc khi cho rằng lời ru “ chắp con đôi cánh”. Đó là đôi cánh của một sự động
viên, một sự khích lệ như để tiếp sức cho con thêm mạnh mẽ khi bước vào đường
đời. Nó như một câu nói nhẹ nhàng của mẹ bên con: “Đi đi con, hãy mang theo đôi
cánh này cùng với những ước mơ to lớn nhất mà con từng mơ thấy những đêm say
giấc, hãy sử dụng nó làm cho con trở nên mạnh mẽ vàtự tin hơn!”. Có thể thấy rằng
lời ru của mẹ có một sức mạnh to lớn khiến cho con có một đôi cánh vững chắc để
bay cao và xa hơn. Khi có được đôi cánh vững vàng con có thể bay xa tới những nơi
tuyệt nhất của cuộc đời để xây nên một cơ nghiệp thật to lớn. Mẹ chính là động lực
để ta tin tưởng và có niềm tin vào cuộc đời, mẹ luôn là người dang tay đỡ ta khi ta
vấp ngã, khi ta khó khăn. Mẹ vất vả, hi sinh cả cuộc đời mình cho ta mà không than
thở điều gì cả, chỉ mong chúng ta khôn lớn , vững bước trên con đường đời đầy gian
khổ, mẹ vẫn luôn ở phía sau dõi theo con mỗi ngày. Thật cảm ơn biết bao những câu
hát mẹ tặng cho con. Lời ru của mẹ năm xưa đã giúp cho con đạt được ước mơ. Con
sẽ không thể nào quên được những công lao mẹ đã hi sinh vất vả để con có thể khôn lớn trưởng thành.
Qua hai khổ thơ, nhà thơ đã cho bạn đọc thấy được tình mẫu tử thiêng liêng
cao cả - thứ tình cảm mà bất cứ một con người nào cũng không thể thiếu đi được.
Mẹ là người đã phải trải qua chín tháng mười ngày vất vả, khổ cực để sinh thành nên
ta, mẹ nuôi dưỡng ta bằng tiếng hát ru, bằng dòng sữa mát ngọt dịu êm. Mẹ tần tảo
lo lắng nuôi dạy cho ta thành người, mẹ như ánh sao rực rỡ soi sáng cuộc đời của ta, lOMoAR cPSD| 61178690
làm sao có thể nói hết công lao to lớn, vĩ đại của mẹ, làm sao gánh hết những vất vả,
nhọc nhằn mẹ chịu vì con. Mỗi lần cất tiếng gọi mẹ là lòng ta lại dâng trào bao cảm
xúc, mẹ – chỉ một từ thôi sao mà thiêng liêng quá đỗi. Bởi vậy chúng ta cần biết quý
trọng và báo đáp công ơn của mẹ. Cuộc đời thật công bằng biết bao khi đã cho cho
mỗi người chúng ta thứ gọi là “tình mẫu tử”.
Câu 4: Anh (chị) tự chọn 1 văn bản trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5.
a) Dựa vào văn bản trên, xây dựng một bài tập cảm thụ văn học cho đối
tượng học sinh lớp 5.
b) Hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, cái đẹp của bài cảm thụ.
c) Anh (chị) viết bài cảm thụ. Bài làm
a) Xây dựng một bài tập cảm thụ văn học cho đối tượng học sinh lớp 5.
Trong bài “Hạt gạo làng ta”, nhà thơ Trần Đăng Khoa có viết:
“Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”
Em hiểu đoạn thơ trên như thế nào? Hình ảnh đối lập trong đoạn thơ gợi cho em những suy nghĩ gì?
b) Hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, cái đẹp của bài cảm thụ Quy trình
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
Bước 1: Đọc kĩ - GV yêu cầu 3,4 HS đọc - HS đọc văn bản
đoạnthơ, cả lớp đọc đồng thanh - GV đọc lOMoAR cPSD| 61178690 - GV nêu câu hỏi: - HS lắng nghe - HS trả lời:
+ Đoạn thơ trên được trích trong + Đoạn thơ trên được trích trong bài bài thơ nào?
thơ “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng + Tác giả nào? Khoa.
+ Đoạn thơ viết về cái gì?
+ Đoạn thơ viết về giá trị của “hạt gạo làng ta”
+ Ý chính của đoạn thơ là gì?
+Phải trải qua bao khó khăn thử
thách mới có được hạt gạo. lOMoAR cPSD| 61178690
Bước 2,3: Tổ chức - GV nêu câu hỏi: - HS trả lời:
cho HS phát hiện + Trong đoạn thơ, tác giả đã sử + Đoạn thơ sử dụng biện pháp nghệ
các tín hiệu nghệ dụng những biện pháp nghệ thuật thuật nhân hoá, biện pháp ẩn dụ
nào? Tìm những từ ngữ, chi tiết,
thuật, lí giải để hình ảnh có sử dụng biện pháp chuyển đổi cảm giác, biện pháp đối. hiểu dụng ý nghệ thuật ấy?
• Phép nhân hoá được thể hiện của nhà thơ
qua các câu thơ: “Thời gian
chạy qua tóc mẹ”, “Lời ru chắp con đôi cánh”.
• Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác được thể hiện qua hình
ảnh: “màu trắng đến nôn nao”
• Phép đối được thể hiện qua
hình ảnh: “Lưng mẹ cứ còng
dần xuống – Cho con ngày