



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45315597
1. Khái niệm, bản chất của KDQT (dưới góc độ chung và góc độ doanh nghiệp), các phương thức tham
gia KDQT chủ yếu của doanh nghiệp
2. Các động cơ chủ yếu thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia KDQT (lực đẩy – lực kéo)
3. Các chủ thể liên quan đến KDQT
4. DN nhỏ và KDQT (cơ hội, điều kiện, khả năng và cách thức tham gia KDQT của các DN nhỏ)
5. Khái niệm, các cấp độ của toàn cầu hóa (TCH), các nhân tố thúc đẩy TCH (không chỉ nêu mà cần lý
giải các nhân tố này thúc đẩy quá trình TCH thị trường và TCH sản xuất như thế nào!)
6. Lý giải sự cần thiết về tầm nhìn chiến lược toàn cầu đối với các DN
7. Khái niệm, đặc trưng và các nhân tố cấu thành văn hóa. Vai trò của văn hóa đối với DN KDQT.
8. Văn hóa định hướng nhóm: đặc trưng, ý nghĩa đối với kinh doanh
9. Văn hóa định hướng cá nhân: đặc trưng, ý nghĩa đối với kinh doanh
10. Khái niệm, nguồn gốc, hình thức và tác động của rủi ro chính trị đối với các DN KDQT11. Ngăn ngừa,
hạn chế rủi ro chính trị đối với DN KDQT: các bước và các công cụ áp dụng
12. Đặc điểm của các dòng luật chính trên thế giới: Thông luật, dân luật, thần luật.
13. Một số vấn đề luật pháp quốc tế quan trọng đối với DN KDQT (Giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ, an toàn, trách nhiệm sản phẩm)
14. Liên hệ tình hình rủi ro chính trị đối với:
i) các DN nước ngoài trên thị trường Việt Nam;
ii) đối với các DN Việt Nam trên thị trường Mỹ
15. Liên hệ thực trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
16. Liên hệ thực trạng vấn đề an toàn sản phẩm ở Việt Nam
17. Các đặc trưng và ưu, nhược điểm của các hệ thống kinh tế thị trường, kinh tế chỉ huy và kinh tế hỗn hợp.
18. Nội dung và ưu nhược điểm của các chỉ tiêu thu nhập và chỉ số HDI trong việc phản ánh trình độ
pháttriển kinh tế của các quốc gia.
19. Chu kỳ kinh tế: đặc trưng của các pha trong chu kỳ kinh tế và tác động đến doanh nghiệp.
20. Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo: nội dung và khả năng giải thích thực tiễn thương mại quốc tế
21. Lý thuyết H-O: nội dung và khả năng giải thích thực tiễn thương mại quốc tế
22. Lý thuyết Porter về năng lực cạnh tranh quốc gia của các ngành công nghiệp: nội dung và khả năng
giải thích thực tiễn thương mại quốc tế
23. Tự do hoá thương mại và Bảo hộ mậu dịch: nội dung, các lập luận ủng hộ và phản bác.
24. Tác động của FDI đối với: i) nước tiếp nhận đầu tư; ii) nước đầu tư
25. Can thiệp của chính phủ (nước tiếp nhận – nước đầu tư) vào FDI: nguyên nhân và các biện pháp can thiệp
26. Các lý thuyết giải thích FDI: lý thuyết vòng đời sản phẩm, lý thuyết quyền lực thị trường, lý thuyết
vềcác yếu tố không hoàn hảo trên thị trường, lý thuyết chiết trung.
Câu 1: Khái niệm, bản chất của KDQT (dưới góc độ chung và góc độ doanh nghiệp), các phương thức
tham gia KDQT chủ yếu của doanh nghiệp)
Kinh doanh quốc tế: là tổng hợp toàn bộ các giao dịch kinh doanh vượt qua các biên giới của 2 hay nhiều quốc gia.
Các phương thức tham gia KDQT chủ yếu của Doanh nghiệp
- Hình thức kinh doanh trên lĩnh vực ngoại thương:
+ Nhập khẩu: là hoạt động đưa các hàng hóa và dịch vụ vào một nước do các Chính phủ , tổ chức hoặc
cá nhân đặt mua từ các nước khác nhau
+ Nhập khẩu: là hoạt động đưa hàng hóa và dịch vụ ra khỏi một nước sang các quốc gia khác để bán
+Gia công quốc tế: là phương thức gia công quốc tế trong đó bên đặt gia công nước ngoài cung cấp
máy móc thiết bị, nguyên liệu, phụ kiện thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công. Toàn bộ sản phẩm làm
ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để nhận về được 1 thù lao ( phí gia công theo thỏa thuận)
+ Tái xuất khẩu: là hình thức xuất khẩu những hang hóa trước đây là nhập khẩu và chưa qua chế biến
của nước tái xuất. tái xuất là phương thức giao dịch buôn bán mà người bên tái xuất kho nhằm phục vụ
nhu cầu tiêu dung trong nước mà chỉ tạm thời nhập khẩu sau đó tái xuất khẩu để kiếm lời Các loại hình tái xuât: • Xuất khẩu tại chỗ • Chuyển khẩu
- Nhóm các hình thức kinh doanh thông qua các hợp đồng:
+ Hợp đồng cấp giấy phép: là hợp đồng thông qua đó một công ty (DN, ng cấp giấy phép) trao quyền
sử dụng những tài sản vô hình của mình cho một DN khác trong một thời gian nhất định và người được cấp
giấy phép phải trả cho người câó giấy phép một số tiền nhất định
+ Hợp đồng đại lý độc quyền: là một hợp đồng hợp tác kinh doanh thông qua đó alf ng đưa ra đặc
quyền trao và cho phép ng nhận đặc quyền sử dụng tên cty rồi trao cho họ nhãn hiệu mẫu mã và tiếp tục thực
hiên sự giúp đỡ hoạt động kinh doanh của đối tác, ngc lại cty nhận được một khoản tiền mà đối tác trả cho công ty
+ Hợp đồng quản lý: là hợp đồng qua đó một doanh nghiệp thực hiện sự giúp đỡ của mình đối với một
doanh nghiệp khác quốc tịch bằng việc đưa những nhân viên quản lý của mình để hỗ trợ cho DN kia thực hiện các chức năng quản lý
+ Hợp đồng theo đơn đặt hàng: là loại hợp đồng thhường diễn ra với các dự án vô cùng lớn, đa dạng,
chi tiết với những bộ phận rất phức tạp cho nên các vấn đề về vốn, công nghệ và quản lý, họ ko tự đảm nhận
được mà pahỉ kí hợp đồng theo đơn đặt hàng từng khâu từng gia đoạn cảu dự án đó.
+ Hợp đồng xây dựng và chuyển giao: là nhứng hợp đồng đc áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực xd cơ sở
hạ tầng, trong đó chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn ra xây dựng công trình, kinh daonh trong 1 khaongr thời gian
nhất định sau đó chuyển giao lại cho nước sỏ tại trong tình trạng công trình còn đang hoạt động tốt mà nước
sở tại ko phải bồi hoàn tài sản cho bên nước ngoài
+ Hợp đồng phân chia sản phẩm: là loại hợp đồng mà hai bên hoặc nhiều bên ký kết với nhau góp vốn
để tiến hành các hoạt động kinh doanh và sản phẩm thu đc sẽ đc chia cho bên theo tỷ lệ góp vốn hoặc thỏa thuận
- Nhóm hình thức kinh doanh thông qua đầu tư nước ngoài:
Đầu tư nước ngoài là một quá trình trong đó hai hay nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng nhau góp vốn để
xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nào đó nhằm mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Nói cách khác, đầu
tư nước ngoài là quá trình di chuyển vốn giữa các quốc gia nhằm tìm kiếm lợi ích thông qua các hoạt động sử
dụng vốn ở nước ngoài.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài: là hình thức chủ đầu tư mang vốn hoặc tài sản sang nước khác để đầu
tư kinh doanh và trực tiếp quản lý và điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn, đồng thời chịu trách nhiệm hoàn toàn
về kết quả kinh doanh củ dự án
+ Đầu tư gián tiếp: là hình thức chủ đầu tư mang vốn hoặc tài sản sang nước khác để đầu tư nhưng
không trực tiếp tham gia quản lý và điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư thông qua việc mua cổ phiếu ở
nước ngoài hoặc cho vay.
Câu 2: Các động cơ chủ yếu thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia KDQT (lực đẩy – lực kéo)
Có 2 nguyên nhân chính là tăng doanh số bán hàng và tiếp cận các nguồn lực:
- Tăng doanh số bán hàng: (lực đẩy)
Mục tiêu tăng doanh số bán tỏ ra hấp dẫn khi 1 công ty đối mặt với 2 vấn đề: Cơ hội tăng daonh số bán hàng
quốc tế hoặc năng lức sản xuất dư thừa + Cơ hội tăng doanh số bán quốc tế:
Các công ty thường tham gia kinh doanh quốc tế nhằm tăng doanh số bán hàng do các yếu tố như thị
trường trong nước bão hòa hoặc nền kinh tế đang suy thoái buộc các công ty phải khai thác các cơ hội bán hàng quốc tế
Một lý do khác thúc đẩy các công ty tăng doanh số bán hàng quốc tế là do mức thu nhâọ bấp bênh.
Cac công ty có thể ổn định nguồn thu nhập của mình bừng các bổ sung doanh số BHQT.
Đbiệt các công ty sẽ nhảy vào thị trường quốc tế khi họ tin rằng KH ở nền VH khác có thái độ tiếp nhận SP
của mình và có thể mua chúng.
+ Tận dụng công suất sản xuất dư thừa:
Đôi khi các công ty sản xuất lượng hàng hóa quá mức thị trươg tiêu thụ. Điều đó xảy ra khi các nguồn
lực bị dư thừa nhưng nếu DN khám phá ra được nhu cầu tiêu thu qtế thì có thể phân bổ chi phí SX cho số
lượng nhiều hơn SP làm ra. Vì thế mà giảm bớt chi phí cho mỗi SP và tăng đc lợi nhuận.
- Tiếp cận các nguồn lực nước ngoài: (lực kéo)
Các nguồn lực ở đây phải kể tới đầu tiên là tài nguyên thiên nhiên- những SP do thiên nhiên tạo ra và
hữu ích về mặt kinh tế hoặc công nghệ, đbiệt là rừng. Chẳng hạn Nhật là 1 nước có mật độ dsố cao TNTN thì
ít, Vì vậy hoạt động của cty sx giấy lớn nhất của Nhật Bản là Nippon Seishi không chỉ đơn thuần phụ thuộc
vào nhập khẩu bột gỗ, công ty này còn nắm quyền sở hữu các khu rừng rộng lớn và các cơ sở chế biến gỗ ở Australia, Canada, Mỹ.
Các thị trường lao động cũng là nhân tố thúc đẩy các công ty tham gia vào kinh doanh quốc tế. Một
phương pháp được áp dụng nhiều là tổ chức sx ở các nước có chi phí thấp để duy trì mức giá có tính cạnh
tranh quốc tế.. Để có sức hấp dẫn, 1 qgia phải có mức chi phí thấp, có đội ngũ công nhân lành nghề và 1 môi
trg với mức ổn định về kinh tế,chính trị và xh có thể chấp nhận đc.
Câu 3: Các chủ thể liên quan đến KDQT
Các chủ thế liên quan tới hoạt động KDQT: doanh nghiệp, người tiêu dùng, tổ chức tài chính tiền tệ, chính phủ.
Về phía doanh nghiệp
Các công ty thuộc tất cả các loại hình, các loại quy mô và ở tất cả các ngành đều tham gia vào hoạt
động kinh doanh quốc tế.Tất cả các công ty sản xuất, công ty dịch vụ và công ty bán lẻ đều tìm kiếm khách
hàng ngoài biên giới quốc gia mình.
Công ty quốc tế là một công ty tham gia trực tiếp vào bất kỳ hình thức nào của hoạt động kinh doanh
quốc tế.Vì vậy sự khác nhau của các công ty là ở phạm vi và mức độ tham gia vào kinh doanh quốc tế.Chẳng
hạn, mặc dù một công ty nhập khẩu chỉ mua hàng từ các nhà nhập khẩu nước ngoài, nhưng nó vẫn được coi
là một công ty quốc tế.
Tương tự, một công ty lớn có các nhà máy phân bổ trên khắp thế giới cũng được gọi là công ty quốc tế, hay
còn gọi là công ty đa quốc gia (MNC)- một công ty tiến hành đầu tư trực tiếp (dưới hình thức các chi nhánh
sản xuất hoặc marketing) ra nước ngoài ở một vài hay nhiều quốc gia. Như vậy. mặc dù tất cả các công ty có
liên quan đến một hay một vài khía cạnh nào đó của thương mại hay của đầu tư quốc tế đều được coi là
công ty quốc tế, nhưng chỉ có các công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới được gọi là công ty đa quốc
gia. - Các doanh nhân và doanh nghiệp nhỏ:
Các công ty nhỏ đang ngày càng tham gia tích cực vào hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Một nghiên
cứu gần đây đã cho thấy các công y nhỏ tham ia vào hoạt động xuất khẩu nhiều hơn và tăng nhanh chóng, sự
đổi mới công nghệ đã gỡ bỏ nhiều trở ngại thực tê đối với các DN nhỏ. Trong khi kênh phân phối truyền thống
thường chỉ cho phép các công ty lớn thâm nhập thi trường thì với mạng điện tử lại là giải pháp ít tốn kém và
có hiệu quả với các DN nhỏ
- Các công ty đa quốc gia: là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai
quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia.Công ty đa quốc gia
có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia.Các công ty đa quốc
gia đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa; một số người cho rằng một dạng mới của MNC
đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu.
Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế giới đều thuộc quyền sở hữu tập
trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có những hoạt động cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau.
Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh có tính toàn cầu. Tuy các
công ty đa quốc gia có thể có nhiều chiến lược và kỹ thuật hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi nó có chi nhánh.
Mục đích phát triển thành công ty đa quốc gia
Thứ nhất: đó là nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và thị trường nhằm tránh những hạn chế thương
mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước mua hàng, sử dụng được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai
thác các tìêm năng tại chỗ.
Thứ hai , đó là nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh và những lợi thế so sánh của nước sở tại, thực hiện việc
chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao.
Thứ ba, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và phân tán rủi ro. Cũng như tránh những bất ổn do ảnh hưởng
bởi chu kỳ kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia đơn nhất.
Ngoài ra, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một ngành không muốn
chuyển giao cũng là lý do phải mở rộng địa phương để sản xuất. Bên cạnh đó, tối ưu hóa chi phí và mở rộng
thị trường cũng là mục đích của MNC.
Hoạt động MNC, vì được thực hiện trong một môi trường quốc tế, nên những vấn đề như thị trường
đầu vào, đầu ra, vận chuyển và phân phối, điều động vốn, thanh toán… có những rủi ro nhất định. Rủi ro
thường gặp của các MNC rơi vào 2 nhóm sau:
Rủi ro trong mua và bán hàng hóa như: thuế quan, vận chuyển, bảo hiểm, chu kỳ cung cầu, chính sách vĩ mô khác…
Rủi ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính sách của chính quyền địa phương thay đổi,
các rủi ro về tỷ giá, lạm phát, chính sách quản lý ngoại hối, thuế ,khủng hoảng nợ.
Câu 4: DN nhỏ và KDQT (cơ hội, điều kiện, khả năng và cách thức tham gia KDQT của các DN nhỏ) Cơ hội: -
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động và phát triển trong một môi trường pháp lý, cơ chế
đang được tích cực hoàn thiện theo hướng thông thoáng, gia tăng nhiều ưu đãi. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Việt Nam phần nào đã khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, được hưởng những ưu đãi trong kinh doanh
quốc tế như các doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa được hưởng
những hỗ trợ cụ thể về cải tiến quá trình chế tác, quản lý kinh doanh các hoạt động sản xuất thủ công thông
qua dự án ” nghiên cứu phát triển ngành thủ công phục vụ công nghiệp hoá ở nông thôn Việt nam ” do Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng cơ quan hợp tác quốc tế nhật bản ( JICA) thực hiện…. -
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã bước đầu tạo dựng được thế và lực trong kinh doanh nội địa;
và từng bước tham gia vào thị trường quốc tế, thu hút đầu tư vốn và công nghệ của nước ngoài. Gần đây, Việt
nam được đánh giá là quốc gia có môi trường kinh doanh an toàn nhất ở châu Á – đây là cơ hội rất lớn cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam hợp tác với nước ngoài. Điều kiện:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật cần phải được tiếp tục hoàn thiện phù hợp với quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường. Xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng cho tất cả các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận với nguồn vốn, đất đai, lao động, công nghệ và thông tin thị
trường theo hướng: cơ chế chính sách phải đồng bộ; xoá bỏ những phân biệt đối xử về tín dụng, thuế, giá thuê
đất và các ưu đãi khác… Thực hiện nghiêm túc theo Luật Doanh nghiệp, ban hành Luật Khuyến khích đầu tư
áp dụng chung cho cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, phát triển thị trường lao động và có chính sách thích hợp đối với thị trường bất động sản. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa được mở rộng quyền thuê và tuyển dụng lao động. Có chính sách khuyến khích các
doanh nghiệp nhỏ và vừa tiến hành các hoạt động đào tạo, dạy nghề nâng cao trình độ chuyên môn của người
lao động. Nhà nước có thể cấp lại một phần hay toàn bộ số tiền thuế thu nhập mà các cơ sở đào tạo, dạy nghề
đã nộp vào ngân sách để dùng vào đầu tư phát triển. Xem xét sửa thuế thu nhập đối với người Việt Nam.
Nghiên cứu xây dựng hệ thống bảo hiểm thất nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình cơ cấu lại các
doanh nghiệp nhỏ và vừa… Chuyển việc yêu cầu các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải trích lập quỹ phúc lợi, trợ
cấp mất việc làm sang tham gia Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
Thị trường bất động sản và chính sách đất đai phải xây dựng được hệ thống đăng ký, khắc phục sự bất bình
đẳng trong việc giao, cấp đất cho sản xuất kinh doanh. Hình thành loại hình dịch vụ chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, bảo đảm cho việc kinh doanh quyền sử dụng đất được thuận lợi, trôi chảy. Mở rộng quyền của doanh
nghiệp tư nhân trong việc chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp…
Thứ ba, phát triển thị trường tài chính, tăng sự hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Hỗ trợ về tài chính của Nhà nước cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất cần thiết, nhất là các loại này mới
được thành lập.Về nguyên tắc, chính sách hỗ trợ này cần đảm bảo được sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế. Tuy nhiên, để phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước trong quá trình chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế thì các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc biệt của Nhà nước chỉ nên tập trung vào một số doanh nghiệp nhỏ
và vừa được xác định là cần thiết, không nên áp dụng chính sách này một cách tràn lan, phân tán. Việc hỗ trợ
của Nhà nước có thể thực hiện thông qua hai hình thức: thành lập Công ty đầu tư tài chính nhằm giúp các
doanh nghiệp nhỏ và vừa mua cổ phần hoặc trái phiếu chuyển nhượng; thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để
bảo lãnh một phần cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được các khoản vay tại các tổ chức tín dụng
thông qua việc cấp bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng và chia sẻ rủi ro khi xảy ra bất khả kháng không trả được nợ vay…
Việc hình thành và phát triển các loại hình dịch vụ tài chính, tín dụng là hướng cơ bản để giải quyết
vấn đề nguồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.Trong đó, vấn đề trước mắt là phải làm lành mạnh
hoá tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng. Nghiên cứu để áp dụng một hệ thống giám sát từ xa đối với
thị trường tài chính theo các chuẩn mực thông lệ quốc tế. Xây dựng thêm loại hình tổ chức tín dụng mới để
hỗ trợ lẫn nhau và nên chuyển Quĩ tín dụng nhân dân trung ương thành Ngân hàng Phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh.Khuyến khích việc phát triển dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán và về những dịch vụ
liên quan đến tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Có chính sách hỗ trợ về thông tin, đào tạo nhằm hình thành hệ thống thông tin về kinh tế – tài chính
doanh nghiệp trong phạm vi cả nước… Nhà nước thực hiện việc hướng dẫn và hỗ trợ về nghiệp vụ, về phương
pháp quản lý,. công bố công khai những thông tin về các định hướng đầu tư phát triển của từng ngành, vùng
và lãnh thổ; hỗ trợ về cơ sở hạ tầng để giảm thiểu chi phí kinh doanh. Cần qui hoạch đô thị, xây dựng các cụm
công nghiệp, quy mô nhỏ ở một số thành phố nhằm đảm bảo được sự ổn định về địa bàn kinh doanh cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ tư, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong kinh doanh và mở rộng thị trường xuất
khẩu. Để giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh, cần có sự cải
cách về đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép đủ điều kiện kinh doanh, thủ tục vay vốn, phương thức thanh toán,
kê khai nộp thuế… Các cấp, các ngành cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp được tự do đăng ký kinh doanh,
thay đổi sản phẩm và xuất nhập khẩu hàng hóa theo quy định của pháp luật.
Để xuất khẩu có hiệu quả, cần khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân trực tiếp xuất khẩu, cũng như
gián tiếp tham gia vào hoạt động xuất khẩu.Hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia vào các
hợp đồng xuất khẩu, không phân biệt mặt hàng xuất khẩu; mở rộng các nghiệp vụ bảo hiểm xuất khẩu. Đối
với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu cần chú ý đến thương hiệu sản phẩm…
Thứ năm, nâng cao hơn nữa vai trò của các hiệp hội, câu lạc bộ giám đốc và tổ chức chuyên môn đối
với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa .
Ở các nước có nền kinh tế phát triển, các hiệp hội chuyên ngành, các câu lạc bộ…. có vai trò to lớn trong việc
xúc tiến thương mại, giao lưu, trao đổi thông tin và hỗ trợ phát triển chuyên môn.Ở Việt Nam, cũng có một số
hiệp hội ngành hàng, tổ chức chuyên môn đã tích cực hoạt động nhưng hiệu quả và vai trò còn hạn chế. Các
hiệp hội, các câu lạc bộ chuyên ngành cần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc tổ chức sinh hoạt, giao
lưu, giới thiệu kinh nghiệm trong nước và quốc tế, cập nhật thông tin về ngành và về hoạt động kinh doanh
nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển .
Thứ sáu, tăng cường đào tạo về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế cho cán bộ quản lý của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Đã xuất hiện những doanh nhân Việt Nam thành công trên thương trường quốc tế, tuy nhiên con
số này không phải là nhiều và phát triển còn mang tính tự phát, trình độ kinh doanh quốc tế còn thấp. Những
kinh nghiệm từ sự thành công của Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc trong lĩnh vực này cần được chọn lọc và áp dụng.
Câu 5: Khái niệm, các cấp độ của toàn cầu hóa (TCH), các nhân tố thúc đẩy TCH (không chỉ nêu mà
cần lý giải các nhân tố này thúc đẩy quá trình TCH thị trường và TCH sản xuất như thế nào!)
=> Toàn cầu hóa kinh tế vừa là trung tâm, vừa là động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa các lĩnh vực khác.
Về bản chất, toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới
quốc gia và khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới
một nền kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất. Các cấp độ
a. Toàn cầu hóa thị trường nhằm chỉ tiến trình liên tục hội nhập và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế, nhằm tạo nên một thị trường toàn cầu •
Theo nghĩa hẹp, toàn cầu hóa thị trường chỉ ra sự ra đời của một thị trường toàn cầu, với những mặt
hàng tiêu chuẩn hóa và những công ty quy mô toàn cầu để phục vụ thị trường này. •
Theo nghĩa rộng, toàn cầu hóa thị trường nhằm chỉ ra quá trình liên kết giữa các nền kinh tế quốc gia
và sự lệ thuộc ngày càng tăng giữa những người mua, người sản xuất nhà cung cấp và chính phủ tại các quốc gia trên toàn thế giới. b.
Toàn cầu hóa hoạt động sản xuất
Khi mà toàn cầu hóa thị trường diễn ra mạnh mẽ thì nhu cầu về hoạt động sản xuất cũng phát triển ở khắp mọi nơi trên thế giới: -
Với công nghệ cho phép sản phẩm bất kỳ có thể được sản xuất ở nơi nào mà việc sản xuất được coi là
rẻ nhất thì sẽ hình thành rất nhiều trung tâm sản xuất của thế giới (công xưởng của thế giới) -
Các quốc gia đang phát triển tự xây dựng lên các định hướng để hội nhập vào nền sản xuất chung của thế giới:
Để toàn cầu hóa cần phải cso các liên kết kinh tế: Các loại hình liên kết kinh tế hiên nay bao gồm:
+ Khu vực mậu dịch tự do: các nc thanh viên trong kkhu vực áp dụng 1 biểu thuế quan thống nhất hay
các nc dỡ bỏ hàng rào thuế quan, hàng hóa dịch vụ di chuyển tự do giữa các nc
+ Đồng minh thuế quan: đây là hình thức liên kết cao hơn, nó không chỉ laoị bỏ các hạn chế thuế quan
giữa các nc thành viên mà còn thiết lập biểu thuế quan chung cho các nc ngoài liên minh
+ Thị trường chung: ngoài việc áp dụng các biện pháp giống đồng minh thuế quan, các nước tham gia
thị trường chung cho phép vốn, lao động đc tự do di chuyển thông qua việc hình thành 1 thị trường thống nhất.
+ Liên minh tiền tệ: là hình thức chủ yếu của liên kết kinh tế trên lĩnh vực tiền tệ, các nc tham gia liên
kết phải phối hợp các chính sách tiền tệ với nhau, thực thi 1 chính sach tiền tệ chung trong toàn khối, thống
nhất đồng tiền trong toàn khối
+ Liên minh kinh tế: đây là liên kết có trình độ cao nhất hiện nay, Hàng hóa, dịch vụ, sức lao động,
vốn đc di chuyển tự do giữa các quốc gia thành viên. Các nước thực hiện 1 chính sách thuế quan với nc ngoài
liên minh, thực hiện các chính sách kinh tế tài chính thống nhất hình thành cơ cấu kinh tế mới có tính chất khu vực
Các nhân tố thúc đẩy TCH Có 2 nhân tố chính:
- Giảm bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư:
• Hiệp định GATT là 1 hiệp định quốc tế có chức năng thiết lập những quy tắc cụ thể đối với thương
mại quốc tế nhằm mở cửa các thị trường quốc gia thông qua việc cắt giảm thuế quan và các trở ngại phi thuế quan
• Thuế suất TB đối với thương mại hàng hóa sẽ giảm hơn nữa
• Trợ cấp (trợ giá) đối với nôg sản được giảm đáng kể
• Quyền sở hữu trí tuệ đc định nghĩa ró ràng và thưucj hiện bảo hộ đối với bản quyền, nhãn hiệu thương
mại, nhãn hiệu dịch vụ và bằng sáng chế
• Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đc thành lập với chức năg tăng cường hiệu lực của Hiệp đinh GATT
• Các khối thương mại đc sáng lập làm tăng tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế nhanh hơn nhiêì
tốc độ tăng trưởng của sx trên toàn thế giới
- Sự phát triển của công nghệ thông tin
Trong khi việc giảm bớt các trở ngại đối với thương mại và đầu tư kích thích quá trình toàn cầu hóa thì sự
phát triển của công nghệ thông tin đang thúc đẩy mạnh hơn quá trình đó
• Các công ty sử sụng mạng toàn cầu, mạng nội bộ, mạng mở rộng để tiếp cận các hoạt động sản xuấtf
và các hoạt động phân phối quốc tê
• Nhiều hoạt động kinh doanh như quản lý lao động, lập kế hoạch sx, truyền tải dữ liệu … trở nên dễ
dàng hơn và ít tốn kém hơn
• Làm tăng khẳ năng cạnh tranh của các công ty nhỏ thông qua việc giảm chi phí tiếp cân thi trường quốc tế
Ngoài ra còn có các nhân tố khác như:
- Sự phát triển của giao thông vận tải
Những tiến bộ trong phương thức vận tải cũng đang giúp cho quá trnhf toàn cầu hóa thi trường và hoạt
động sản xuất.Tiến bộ trong vận tải hàng không cho phép các nhà quản trị đi lại nhanh chóng và rẻ hơn tới
các địa điểm ở các nước khác.Sự ra đời cuẩ tầu chở hàng khổng lồ có thể chuyên chở được một lượng hàng
hóa cực lớn đã giảm bớt chi phí vận tải đươg biển.
Sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất
Thực tiển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bước quá độ từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh
tế tri thức, điều này được thể hiện rõ ở các quốc gia phát triển. Cùng với nó các quốc gia đang phát triển cũng
đã kết hợp bước chuyển nông nghiệp lên công nghiệp kết hợp những bước nháy tắt để rút ngắn quá trình xây
dựng những cơ sở của nền kinh tế tri thức.
Sự phát triển của kinh tế tri thức dự trên các công nghệ có hàm lượng khoa hoc kỹ thuật cao, nhất là
công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuận lợi cho sự đẩy nhanh xu thế toàn cầu hoá, ví dụ như: các công
nghệ mới làm tăng tốc độ giao dịch kinh doanh, rút ngắn khoảng cách về không gian và thời gian. Công nghệ
thông tin đồng thời cũng góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện cho dân chủ phát triển, thúc đẩy
nhu cầu mở của, giao lưu hội nhập.
Tóm lại, chính sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cách địa
giới trong giao dịch của con người trên tất cả các mặt giãu các quốc gia.Điều này đã đẩy quốc tế hoá nền kinh
tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Cac quốc gia dù muốn hay không dều chịu
tác động của của quá trình toàn cầu hoá và đương nhiên để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay không
thế không tham gia quá trình toàn cầu hoá, tức là hội nhập quốc tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thi trường
Qua trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình phát triển của kinh tế thi
trường. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế hoá, thể hiện trên hai
khía cạnh chính: Thứ nhất, kính tế thị trường mở ra cơ sở, điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất,
làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi cua từng quốc gia mà mang tầm quốc tế, như vậy cũng
có nghĩa là thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các quố gia vào sự ràng buộc của sản xuất và
tiêu thụ. Thứ hai, nền kinh tế thi trường phát triển của các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho sử lý các
mối quan hệ, đó là cơ chế thị trường.
Có thể nói, ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất với cơ chế vận hành : cơ chế thi trường.
Kinh tế thi trườngcàng phát triển thì sự giao thoa thâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế càng tăng.
Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường không chỉ ở sự mở rộng qui mô về không gian, về sự xâm nhập
ràng buộc lẫn nhâu giữa các quốc gia mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu. Đó là sự bùng nổ phát
triển của thi trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch.
Thi trường sản phẩm hàng hoá cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện ở qui mô chưa từng có của khối luqongj giao
dich thương mại và ở sự phát triển của các dang giao dịch mới như thương mại dịch vụ và điện tử.
Như vậy có thể thấy sư phát triển mạnh mẽ của cơ chế thị trường chínhlà cơ sở, điều kiệncho quá trình
quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới ngày nayđèu dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương
tiện và công cụcủa kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn, không
gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyểncác yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy,
Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết thúc chiến tranh lạnh bước vào
thời kì hoà bình hợp tác và phát triển.
Trong vài thập niên trở lại đây nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ nhưng kéo theo đó là những
vấn đề mang tính chất toàn cầunhư sự phân hoá giàu nghèo, sự ô nhiễm môi trường, dịch bệnh...Những vấn
đề này liên quan đến mọi quốc gia, có tác động trên phạm vi toàn thế giới, nó quyết định sự phát triển tồn
vong của toà thể cộng đồng nhân loại.
Do đó khi giải quyết các vấn đề mang tính chất toàn cầu phải có sự nỗ lực của mọi quốc gia, sự liên
kết sức lực của cả cộng đồng. Bản thân mỗi quốc gia cho dù tiềm lực mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết
nổi vấn đề liên quan đến toàn thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan qui định , thúc đẩy cho việc tiến tới
thống nhất những qui phạm chung cho quá trình phát triển kinh tế.
Sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia
Với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến sự tâp trung sản xuất
và dẫn đến độc quyên. Trong lịch sử của nền sản xuất thế giớivào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và những năm
đầu của thế kỷ 21 này dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuậtđã đưa lại sự phát triển chưa
từng có của các công ti xuyên quốc gia.
Đến nay có gần khoảng 60000 công ti xuyên quốc gia đang kiểm soát 2/3 nền thưong mại thế giới, 4/5
nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu và chuyển giao công nghệ thế giới. Với
sức mạnh như vậy các công ti xuyên quốc gia không những có ưu thế trong phân phối tài nguyên trên phạm
vi thế giới giúp cho việc thúc đẩy phân công lao động quốc tếđi vào chi tiết hoá mà còn thông qua việc toàn
cầu hoá sản xuất và kinh doanh để đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hoá kinh tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của các công ti xuyên quốc gia trên địa phận toàn cầu đã tạo ra mạng lưói liên
kết kinh tế quốc tế.Các quốc gia có thể tham gia ngay vào dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau gia tăng.
Các công ty xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất lớn trong việc tăng mức xuất khẩu, gia tăng mạnh mẽ
vốn đầu tư trực tiếp nứoc ngoài vào các nước đang phát triển đẩy mạnh tiến trinhf hội nhập của nền kinh tế
này vào nền kinh tế thế giới nói chung.
Như vậy sự phát triển và xâm nhập ngày càng mạnh của các công ty xuyên quốc gia vào các nền kinh
tế dân tộc đã góp phần xoá bỏ sự ngăn cách biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc
gia dân tộc từng bước thamm gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế đồng thời nó cũng
đem lại nét mới từ những bản sắc riêng, bổ sung vào nền kinh tế toàn cầu làmm gia tăng tính đa dạng của nó.
Sự hình thành và phát triển của các định chế toàn cầu và khu vực.
Các định chế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế.Sự tồn
tại và hoạt động của các định chế toàn cầu và khu vực lại góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của xu thế toàn cầu hoá.
Trong các tổ chức kinh tế- thương mại-tài chính toàn cầu và khu vực có ảnh hưỏng lớn tới quá trình
toàn cầu hoá và khu vực hoá phải kể đến WTO, IMF, WB và các tổ chức khu vực khác như EU, NAFTA,
APEC...Với các mục tiêu chức năng của mình các tổ chức kinh tế quốc tế đã tham gia và thúc đẩy các hoạt
động kinh tế quốc tế, điều phối và quản lí các hoạt động này. Cho dèu tính hiệu quả của các tổ chức này còn
đựoc đánh giá khác nhau xuất phát từ quan điểm lợi ích quốc gia, song không ai không thừa nhận sự cần thiết
và vai trò của chúng, thậm chí đang đặt ra yêu cầu về hoàn thiệncơ cấu tổ chức, đổi mới nguyên tắc hoạt động của chúng.
Tác động của các tổ chức toàn cầu và đặc biệt là các tổ chức khu vực đến xu thế toàn cầu hoá kinh tế
thể hiện ở hai điểm chính:
- Thứ nhất, việc tham gia vào các tổ chức này cho phép các quốc gia đựoc hưỏng những ưu đãi của
hoạt động kinh doanh khu vực; thúc đẩy các quốc gia trong khu vực tiến đến những chuẩn mực chung trong
quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trên cơ sở các thoã thuận hợp tác song phương và đa phươngđã làm
tăng lên sự gắn bó tuỳ thuộc lân nhau giữa các nền kinh tế, thực chất nó đã thúc đẩy phân công lao động quốc
tế ngày càng sâu sắc trong nội bộ tổ chức.
- Thứ hai, hoạt động của các tổ chức này từ thấp đến cao sẽ đẩy đến hình thành một thị trường thống
nhất trong khu vực buộc các quốc gia tham gia phải có lịch trình hội nhập tích cực để hoà đồng vào khu vực.
Nói tóm lại các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực vừa là kết quả vừa là động lực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Vai trò của chính phủ và sự chuyển đổi trong chính sách phát triển.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ thuộc rất nhiều vào chính sách
của các quốc gia. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất thì việc đóng cửa đất nước không giao lưu thông thương
với nước ngoài của các quốc gia đã làm cho lưu thông quốc tế bị hạn chế nền kinh tế thế giới suy thoái
mạnh.Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ haithì các quốc gia phát triển đã nhận thấy vấn đề cần phải tự do
háo thương mại, giảm các hàng rào thuế quan nhằm bành trướng thế lực ra bên ngoài. Và cho đến naythì hầu
hết các quốc gia trên thế giới đều tiến hành cải cách mở cửa, thực hiện tư nhân hoá và tự do hoá mở ra không
gian mới cho sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá. Đặc biệt trong quá trình cải cách nhiều quốc gia đã chuyển
hướng phát triển kinh tế từ hướng nội sang hướng ngoại mà cốt lõi là chuyển từ công nghiệp hoá thay thế nhập
khẩu sang công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu buộc các quốc gia phải thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển kinh tế không chỉ phải dựa vào nhu cầu bên trong mà phải căn cứ vào nhu cầu thị trường
thế giới, sản xuất sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của thị trường quốc tế. Muốn vậy đòi
hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế, cho nhập các thành tựu công nghệ, thu hút vốn đầu tư để xây dựng
và phát triển một cơ cấu ngành kinh tế phù hợp. Như vậy với chiến lược hướng về xuất khẩu, trên thực tế đã
đẩy đến xu thế gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các nền kinh tế thông qua thực hiện phân
công lao động quốc tế dựa trên thế mạnh của từng nền kinh tế đân tộc.
Ngoài những nhân tố đã nêu trên thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá trong những năm gần đây
chúng ta còn có thể kể đến một số nhân tố khác xem như xung lực đẩy mạnh thêm cho xu thế toàn cầu hoá.
Đó là sự phát triển về dân chủ, văn hoá...
Câu 6: Lý giải sự cần thiết về tầm nhìn chiến lược toàn cầu đối với các DN
Các công ty không còn có thể chỉ chú ý đến thị trường nội địa của mình, cho dù nó lớn đến đâu đi
nữa.Nhiều ngành toàn cần và những công ty dẫn đầu ngành đó đã đạt được chi phí thấp hơn và mức độ nhận
biết nhãn hiệu cao hơn.Các biện pháp bảo hộ chỉ có thể làm chậm lại mức độ xâm nhập của hàng hoá siêu
hạng.Nên cách phòng thủ tốt nhất của công ty là tấn công toàn cầu trên cơ sở đúng đắn.
Trong khi đó kinh doanh toàn cầu cũng có rất nhiều rủi ro, bởi vì tỷ giá hối đoái thăng giáng, chính
phủ không ổn định, có các hàng rào bảo hộ mậu dịch, chi phí thích nghi sản phẩm và thông tin lớn và một số
yếu tố khác. Mặt khác, chu kỳ sống của sản phẩm quốc tế cho thấy rằng ưu thế tương đối trong nhiều ngành
sẽ chuyển dịch từ những nước có chi phí cao sang những nước chi phí thấp, nên các công ty không thể cứ ở
lại trong nước và hy vọng có thể giữ được các thị trường của mình. Do những lợi ích và rủi ro tiềm ẩn của
Kinh doanh quốc tế, các công ty cần thường xuyên đưa ra những quyết định kinh doanh quốc tế đúng đắn.
Muốn làm được điều đó, DN cần phải có một tầm nhìn chiến lược toàn cầu
Câu 7. Khái niệm, đặc trưng và các nhân tố cấu thành văn hóa.Vai trò của văn hóa đối với DN KDQT. Khái niệm:
Văn hóa là một hệ thống các giá trị chân lý, chuẩn mực, mục tiêu mà con người cùng thống nhất với
nhau trong quá trình tương tác và hoạt động sáng tạo. Nó được bảo tồn và chuyền hóa cho những thế hệ nối tiếp theo sau.
Văn hóa là một phạm trù dùng để chỉ các giá trị , tín ngưỡng, luật lệ và thể chế do một nhóm người xác lập nên
■ Giá trị (Values): những gì (có tính trừu tượng) mà một nhóm người nào đó cho rằng là tốt, là đúng và mong muốn đạt được.
■ Chuẩn mực (Norms): Những quy tắc, hướng dẫn xã hội về hành vi phù hợp trong bối cảnh cụ thể
Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con
người và xã hội.Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật
tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được
tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người.Văn hóa là trình độ phát triển
của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của
con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. => Đặc trưng của văn hóa: • Tính dân tộc • Tính ổn định • Tính cộng đồng • Tính phổ biến • Tính đặc thù • Tính học hỏi • Tính kế thừa • Tính tiến hóa
Các nhân tố cấu thành nên văn hóa:
Bao gồm: Thẩm mỹ, các giá trị và thái độ, phong tục và tập quán, cấu trúc xã hội, niềm tin, giao tiếp
cá nhân, giáo dục, môi trường vật chất và môi trường tự nhiên 1.
Thẩm mỹ: là những gì mà một nền văn hóa
cho là đẹp khi xem xét đến các khía cạnh như nghệ thuật
(bao gồm âm nhạc, hội họa, nhảy múa, kịch nói và kiến
trúc); hình ảnh thể hiện gợi cảm qua các biểu hiện và sự
tượng trưng của các màu sắc. 2.
Giá trị và thái độ: -
Giá trị: là những gì thuộc về quan niệm, niềm tin và tập quán gắn với tình cảm con
người. Các giá trị bao gồm những vấn đề như trung thực, chung thủy, tự do và trách nhiệm -
Thái độ: là những đánh giá tình cảm và khuynh hướng tích cực hay tiêu cực của con
người đối với một khái niệm hay một hiện tượng nào đó
□ Thái độ đối với thời gian
□ Thái độ đối với công việc và sự thành công
□ Thái độ đối với sự thay đổi văn hóa 3.
Tập quán và phong tục -
Phong tục: Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành
trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không
tùy tiện như hoạt động sống thường ngày.Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và
tương đối thống nhất.
Có 2 loại phong tục : phong tục phổ thôg và phong tục dân gian
+ Phong tục dân gian thường là cách cư xử bắt đầu tư nhiều thế hệ trc đã taoọ thành thông lệ trong 1 nhóm ng đồng nhất
+ Phong tục phổ thông: là cách cư xử chung của nhóm không đồng nhất hoặc nhiều nhóm -
Tập quán: Tập quán là phương thức ứng xử và hành động đã định hình quen thuộc và
đã thành nếp trong lối sống, trong lao động ở một cá nhân, một cộng đồng. Tập quán gần gũi với thói
quen ở chỗ nó mang tính tĩnh tại, bền lâu, khó thay đổi. Trong những tình huống nhất định, tập quán
biểu hiện như một hành vi mang tính tự động hoá. tập quán hoặc xuất hiện và định hình một cách tự
phát, hoặc hình thành và ổn định thông qua sự rèn luyện và là kết quả của quá trình giáo dục có định hướng rõ rệt. 4.
Cấu trúc xã hội
Cấu trúc xã hội thể hiện cấu tao tảng của một nền văn hóa bao gồm các nhóm xã hội các thể chế hệ
thống xã hội mối quan hệ giữa các địa vị này và quá trình qua đó các nguồn nhân lực xã hội được phân bổ
- Các nhóm xã hội: con người trong tất cả các nên văn hóa tự hội họp với nhau thành các nhóm xã hội
rất đa dạng. Hai nhóm đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh ở
mọi nơi là gia đình và giới tính +Gia đình:
• Gia đình hạt nhân: hình thành trên cơ sở các mối quan hệ gần gũi nhất của một con người gồm cha mẹ
anh chị em xuất hiện ở Úc, Canada, Mỹ và các chây Âu
• Gia đình mở rộng hình thành trên cơ sở mở rộng gia đình hạt nhận trong đó sẽ bao gồm cả ông bà cha
mẹ cô dì chú bác cháu chắt và người thân thích như con dâu con rể. xuất hiện nhiều ở Châu Á, Trung
Đông, Bắc Phi và Mỹ Latinh
+ Giới tính: đc nhận biết qua các hành vi và thái độ về mặt xã hội đề cập đến vấn đề là nữ hay nam, chẳng hạn
như phong cách ăn mặc và sở thích hoạt động.
- Địa vị xã hội
Thường được xác định bởi 1 hay nhiều trong 3 yếu tố sau: tính thừa kế gia đình, thu nhập và nghề
nghiệp. ở hầu hết các xh thì những tầng lớp cao nhất thường do những ng có uy thế, quan chức chính phủ và
doanh nhân kinh doanh hàng đầu nắm giữ. Các nhà khoa học bác sĩ và nhiều giới khác có có trình độ đại học
chiến thứ bậc TB trong xh. DƯới các tầng lớp đó là lđộng có giáo dục trung học và đào tạo nghề cho các
nghề nghiệp chân tay và văn phòng. Mặc dù bậc xh là ổn định nhưng mọi ng có thể cải thiện địa vị của mình.
- Tính linh hoạt của xã hội: một trong hai hệ thống quyết định tính linh hoạt của xh là: hệ thống
đẳng cấp và hệ thống giai câp:
+Hệ thống đẳng cấp: là 1 hệ thống về phân tầng xh trong đó con ng đc sinh ra ở một thứ bậc xh hay
đẳng cấp xh, ko có cơ hội di chuyển sang 1 đẳng cấp khác.
+ Hệ thống giai cấp: là 1 hệ thống phân tầng xh trong đó khả năng cá nhân và hành động cá nhân quyết
định địa vị xh và tính linh hoạt của xh 5.
Tôn giáo: là 1 hệ thống các tín ngưỡng và
nghi thức liên quan tới yếu tố tinh thần của con người
Tôn giáo không giới hạn theo biên giới quốc gia và nó có thể tồn tại ở nhiêu vùng khác nhau trên thế
giới đông thời cùng 1 lúc.
Các tôn giáo chình: Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Hindu giáo, Phật giáo , Khổng giáo, Do Thái giáo, Shinto giáo 6.
Giao tiếp cá nhân;
Con người trong mỗi nền văn hóa có một hệ thống giao tiếp để truyền đật thông tin, ý nghĩ, tình cảm, kiến
thức qua các lời nói, hành động và chữ viết Các hình thức:
• Ngôn ngữ thông thường là một bộ phận trong hệ thống truyền đạt tin của một nền văn hóa đc thể hiện
thông qua lời nói hoặc chữ viết
• Ngôn ngữ chung (ngôn ngữ quốc tế) là ngôn ngữ thứ 3 hoặc là ngôn ngữ liên kết đc 2 bên cùng hiểu mà
cả hai bên này đều nói những thứ ngôn ngữ bản địa khác nhau.
• Ngôn ngữ cử chỉ:sự truyền tin qua ám hiệu không âm thanh bao gồm điệu bộ tay chăn thể hiện nét mặt
ánh mắt trong phạm vi cá nhân 7. Giáo dục:
Giáo dục thông quá các yếu tố truyền thống tập quán và các giá trị
Các quốc gia có chương trình giáo dục cơ bản tốt thường là nơi hấp dẫn đối với các ngành công nghiệp
có thu nhập cao. Và thực tế hiển nhiển là các nước với lực lượng lđ đc giáo dục tốt có kỹ năng sẽ thu hút các
công việc có thu nhập cao và ngc lại
Hiện tượng “chảy máu chất xám” là việc ra đi của những ng có trình độ giáo dục cao từ một nghề
nghiệp, một khu vực hoặc một quốc gia mày đến một nghề nghiệp, một khu vực hay một quốc gia khác 8.
Môi trường tự nhiên và môi trường vật chất -
Môi trường tự nhiên: địa hình và khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống và công việc, tới tập quán văn hóa -
Văn hóa vật chất: là tất cả các công nghệ áp dụng trong một nền văn hóa để sản xuất hàng hóa và cung câó dịch vụ
Vai trò của Văn hóa trong KDQT
■ Hiểu biết văn hóa đa quốc gia: Kinh doanh ở các nền văn hóa khác nhau đòi hỏi phải thích ứng với hệ
thống các giá trị và chuẩn mực của nền văn hóa đó
■ Tránh quan điểm vị chủng: quan điểm cho rằng một dân tộc hay văn hóa của một dân tộc có tính ưu việt
hơn so với các dân tộc hoặc các nền văn hóa khác
■ Văn hóa và đàm phán: thời gian, địa điểm, số lượng người tham gia, chiến thuật đàm phán
■ Văn hóa và quá trình ra quyết định: ai là người ra quyết định (cá nhân hay tập thể) và ra quyết định như
thế nào (dựa trên thông tin định lượng hay định tính, sự hợp lý, kinh nghiệm hay các yếu tố khác)
■ Văn hóa và hoạt động marketing: chọn sản phẩm (không được kinh doanh rượu bia ở các nước theo đạo
Hồi), đặt tên sản phẩm (Ford Feira), bao bì, đóng gói, định giá sản phẩm, quảng cáo (chữ viết – quảng
cáo bột giặt ở các nước Arập, hình ảnh – giày NIKE), kênh phân phối
■ Văn hóa và quản trị nhân lực: tuyển chọn, bố trí công việc, trả lương, thưởng phạt, quan hệ lao động
(phụ thuộc vào giá trị và thái độ, văn hóa định hướng nhóm hay định hướng cá nhân, tôn giáo).
■ Lựa chọn địa điểm kinh doanh: Văn hóa có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một quốc gia (quốc gia có
hệ thống giáo dục phát triển sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài)
Câu 8: Văn hóa định hướng nhóm: đặc trưng, ý nghĩa đối với kinh doanh
“Văn hóa định hướng nhóm (Group-oriented Culture) là tập hợp các giá trị và chuẩn mực có tính đặc
trưng cho nhóm người đề cao sự phụ thuộc qua lại giữa con người với nhau và tầm quan trọng của
tập thể chứ không phải là của từng cá nhân riêng rẽ”.
Đặc trưng: Một nền văn hóa trong đó một nhóm cùng chung chia sẽ trách nhiệm về sự sung túc của mỗi thành
viên được gọi là nền văn hóa định hướng theo nhóm. Con người làm việc vì tập thể nhiều hơn các mục tiêu
cá nhân và có trách nhiệm trong nhóm đối với các hành động của họ. Toàn thể các thể chế xã hội, chính trị,
kinh tế và luật pháp phản ánh vai trò chủ yếu của nhóm. Mục tiêu duy trì sự hài hòa nhóm được minh chứng
tốt nhất thông qua cấu trúc gia đình. Ví dụ: Nhật Bản. -
Đề cao lợi ích , giá trị của nhóm : Con người thuộc nền văn hóa định hướng nhóm thường đặt mục tiêu
tạo ra lợi ích , giá trị cho tập thể rất quan trọng trong các hoạt động của mình. Điều này có thể được giải thích
bằng việc họ được lớn lên , sinh sống trong sự bao bọc của tập thể , rủi ro được chia sẻ từ đó dẫn đến xu hướng
chia sẻ lợi ích. Ví dụ : con trai cả các gia đình ở Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc thường chọn những công
việc gần nhà, tiện chăm sóc cha mẹ và các anh em trong gia đình, cũng như có thói quen phụng dưỡng người
già và duy trì mối quan hệ họ hàng. Trong khi đó ở phương Tây, khi đủ 18 tuổi các thanh niên đều ra ở riêng
và rất hiếm khi về thăm lại cha mẹ. Các viên chức Nhật Bản thường rất trung thành và thái độ làm việc chăm
chỉ hết mình với công ty, cũng như các công ty luôn chú trọng việc phụng sự đất nước. Thêm nữa, con người
trong nền văn hóa này có xu hướng quan tâm đến các vấn đề xã hội , môi trường, sức khỏe cũng như việc từ thiện. -
Đề cao sự ổn định: Văn hóa định hướng nhóm khác biệt hoàn toàn với văn hóa định hướng cá nhân, đó
là sự hạn chế dành cho khác biệt cá thể . Các cá nhân trong văn hóa định hướng nhóm có xu hướng hành động,
sinh sống, suy nghĩ theo trường giá trí, chuẩn mực như nhau , có thái độ kỳ thị với các cá thể khác biệt. Ví dụ
: việc mặc đồng phục và xử lý vi phạm ở các trường phổ thông ở Hàn Quốc rất nghiêm ngặt, cũng như việc
phân biệt chủng tộc cũng có nguy cơ lớn nhất ở các quốc gia này. Tính ổn định ngoài việc đồng nhất giữa các
cá thể, còn thể hiện trong việc ra quyết định thường ưu tiên phương án ít rủi ro, đề cao sự an toàn trong công
việc. Đó là nguyên do tại sao các viên chức Nhật Bản và Hàn Quốc có năm làm việc cho một công ty trung
bình cao nhất thế giới. -
Đề cao tính hợp tác : dưới ảnh hưởng của đặc điểm đề cao lợi ích tập thể và tính ổn định, các cá thể
trong văn hóa nhóm cũng quan tâm đến tính hợp tác. Theo quan niệm này, các cá nhân có mối tương tác chặt
chẽ với nhau mới tạo ra khối tập thể mạnh , và sức mạnh tập thể lớn hơn nhiều so với sức mạnh các cá nhân.
Biểu hiện cho việc này đó là trên bàn đàm phán các doanh nhân phương đông thường đưa ra phương án có lợi
đôi bên, hướng tới hợp tác lâu dài khác với các doanh nhân từ Mỹ hay Châu Âu. Ở Việt Nam, đó còn là sự đề
cao các mối quan hệ khác nhau trong trường học, công việc, gia đình, làng xóm, xã hội … Ý nghĩa và tác động:
1. Nội bộ doanh nghiệp có sự liên kết chặt chẽ, thống nhất trong các khâu công việc. Tận dụng
triệt để được lợi thế phát triển kinh tế nhờ quy mô lớn. -
Cơ cấu tổ chức: Phân công theo nhóm, tổ làm việc, tăng cường sự hợp tác giữa các cá nhân cùng giải
quyết một công việc, giảm áp lực công việc, hường tới sự phát triển ổn định của doanh nghiệp. Phương pháp
làm việc theo nhóm thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ trong nhóm và các công nhân quan tâm nhiều nhiệm vụ hơn
là chỉ quan tâm đến một số nhiệm vụ nào đó mà thôi. Xét về mặt liên kết nhóm thì một phần của mức lương
thường không dựa trên sản lượng, vì nếu vậy nhóm sẽ gây áp lực đòi hỏi không được vắng mặt thường xuyên
và luôn cố gắng nhiều. Xét về mặt nhiều loại nhiệm vụ khác nhau, các công nhân viên có thể luân phiên làm
các công việc trong nhóm để giảm sự nhàm chán và phát triển khả năng thay thế phòng khi người nào đó trong nhóm vắng mặt. -
Quản lý nhân sự: dễ quản lý, tính kỉ luật chung cao, mọi người đều vì lợi ích chung của tập thể, có tinh
thần trách nhiệm cao, giảm thiểu hiềm khích giữa các cá nhân, tránh làm phá vỡ sự thống nhất giữa các tổ
chức sản xuất, mục tiêu của nhóm phù hợp với mục tiêu chung của doanh nghiệp. -
Quan hệ lao động: -
Cấp trên với cấp dưới: Bình đẳng, khuyến khích sự hợp tác giữa người lao động và nhà quản trị bằng
cách phân chia quyền lãnh đạo.Nhân viên được tham gia vào hoạt động quản trị của công ty, đây là quá trình
hợp tác giữa người lao động và nhà quản trị trong việc ra quyết định và các chính sách kinh doanh. -
Tuyển dụng : Sở hữu lực lượng nhân viên trung thành, có sự tận tụy với tổ chức cao. Người lao động
rất có tinh thần trách nhiệm đối với công ty. Vì lợi ích của công ty mà người lao động sẵn sàng làm bất cứ
công việc gì được giao phó, bất kể họ là những người có chức vụ hay không. Họ được đào tạo kỹ lưỡng về
nhiều chuyên ngành nên luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng mọi tình huống để có thể thay thế đồng nghiệp lúc cần thiết.
Và như vậy có nghĩa là kiến thức của họ rất đa dạng, tổng hợp. -
Hệ thống trả lương , thưởng phạt đơn giản , theo cấp bậc . Trong một vài nước, hiệu
quả công việc thường không phải là cơ sở chính để thăng cấp công nhân. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, tuổi đời
mới là nhân tố quyết định hàng đầu trong việc thăng cấp. Vì vậy, nhân viên sẽ được đãi ngộ dựa trên thâm
niên chứ không phải theo kết quả công việc. Điều này sẽ gây khó khăn khi liên doanh với các công ty nước
ngoài, vì phong cách quản lý phương Tây lại là trả lương theo hiệu quả công việc, nên nhân viên thâm niên
cao chưa chắc được đãi ngộ tương xứng.
2.Triết lý kinh doanh:Hướng tới mục tiêu đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, xã hội; đặt lợi ích của người tiêu dùng lên hàng đầu.
Ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá lên hoạt động marketing của doanh nghiệp là tác động lên chính hành vi
của các chủ thể kinh doanh hay hành vi của các nhà hoạt động thị trường. Những hành vi đó sẽ in dấu lên các
biện pháp marketing mà họ thực hiện. Ví dụ: những quy tắc xã giao, cách nói năng cư xử của một nền văn
hoá nào đó mà các nhà hoạt động thị trường chịu ảnh hưởng sẽ đựơc họ mang theo và sử dụng trong quá trình
giao tiếp, đàm phán, thương lượng với khách hàng.
Văn hoá ảnh hưởng đến hàng loạt các vấn đề có tính chất chiến lược trong marketing như: lựa chọn lĩnh
vực kinh doanh, lựa chọn thị trường mục tiêu, lựa chọn các chiến lược marketing chung, các quyết định về
nhiệm vụ mục tiêu tổng quát của doanh nghiệp và hoạt động marketing.
Văn hoá cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các chiến thuật, các sách lược, các biện pháp cụ thể, các thao
tác, hành vi cụ thể của nhà hoạt động thị trường trong quá trình làm marketing.Văn hoá hầu như ảnh hưởng
một cách toàn diện đến các công cụ khác nhau của hệ thống marketing- mix của doanh nghiệp trong đó đặc
biệt đáng lưu ý là ảnh hưởng đến công cụ sản phẩm, phân phối và xúc tiến hỗn hợp.
Chiến lược Marketing mix(4p):
+ Sản phẩm: có chất lượng, độ bền cao do mọi người làm việc có kỷ luật cao, phân công tổ chức rõ ràng.
Trong các nền văn hóa nhóm, sự chấp nhận giá trị ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn thái độ và giá trị. Thái độ và
giá trị thể hiện rõ bởi những yếu tố tạo nên bản sắc của con người của quốc gia, doanh nghiệp.
Ví dụ: Sự chấp nhận sản phẩm bị ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn thái độ và giá trị. Nhật Bản,
quốc gia có xu hướng hướng đến sự hoàn thiện về hình thức, họ hướng tới thể hiện sự giàu có và hiểu biết.
Người Nhật Bản sẵn sàng bỏ ra giá cao để sở hữu sản phẩm mà họ cho là thể hiện giá trị bản thân. +Phân
phối: nếu thị trường mục tiêu có văn hóa định hướng nhóm, kênh phân phối không cần phức tạp vì thông
tin được lan truyền nhanh do mọi người hay chia sẻ thông tin( tính cộng đồng, xã hội cao), tận dụng được
hiệu ứng “đám đông”.
+Xúc tiến: quảng cáo hướng tới lợi ích chung xã hội dễ được người tiêu dùng đón nhận, thiết lập mối quan
hệ tốt với khách hàng, như vậy dễ phát triển sản phẩm do dễ dàng tiếp thu được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
+Giá cả: dễ dàng đưa ra được giá sản phẩm cuối cùng hợp lý do tuy có nhiều ý kiến về giá, việc định giá tuy
có mất nhiều thời gian hơn nhưng sẽ tìm được mức giá trung bình của cả nhóm, đảm bảo tính khách quan cao, tính khả thi cao.
- Đàm phán: tạo lập được nhiều mối quan hệ dựa trên mức độ tin cậy lẫn nhau do các đối tác “gặp gỡ”
nhau vì mục tiêu 2 bên cùng có lợi, như vậy các đối tác có thể linh động giúp đỡ nhau trong nhiều trường hợp
để duy trì mối quan hệ.
Ví dụ: Những mối quan hệ: Doanh nhân - Xã hội; Doanh nhân - Khách hàng; Doanh nhân - Các Doanh
nhân đối tác; Cấp trên - cấp dưới thường nảy sinh rất nhiều mâu thuẫn về lợi ích, tiêu chí, đường lối. Để
giải quyết các doanh nhân Nhật Bản thường tìm cách mở rộng đường tham khảo giữa các bên, tránh gây ra
những xung đột đối đầu. Các bên đều có thể đưa ra các quyết định trên tinh thần giữ chữ Tình trên cơ sở
hợp lí đa phương. Các qui định Pháp luật hay qui chế của Doanh nghiệp được soạn thảo khá " lỏng lẻo"
rất dễ linh hoạt nhưng rất ít trường hợp lạm dụng bởi một bên.
PHÂN TÍCH NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA VĂN HÓA NHÓM ĐẾN KINH DOANH:
1. Quản trị nguồn nhân lực :
a) Thiết kế công việc :
Thiết kế công việc là cách mà một loạt công việc hoặc một công việc trọn vẹn được thiết lập nhằm sắp
xếp một cách hợp lí các yêu cầu về sức mạnh và hoạt động trí óc. Tuy nhiên, theo nghiên cứu (1) “ Taking
stock in our progress on individualism – collectivism: 100 years or solidarity and community” của P.C.Earley
và C.B.Gibson đã chỉ ra rằng “thiết kế công việc không phù hợp và áp dụng được ở những nền văn hóa theo
định hướng nhóm”. Tại những nền văn hóa này, công việc có sự lệ thuộc và những nhu cầu giống nhau trông
tổ chức có tầm quan trọng đối với công việc hơn là những nhân tố truyền thống của một công việc như: sự
xác định nhiệm vụ và sự phản hồi …
Nghiên cứu này cũng cho thấy có sự ảnh hưởng của giá trị tổ chức đối với văn hóa định hướng nhóm, đặc
tính của nhiệm vụ có thể ảnh hưởng bởi bởi cấp độ của nhóm và giữa những người trong nhóm đó. Những
người gắn mình với nhiệm vụ độc lập trong xã hội định hướng cá nhân sẽ hoàn thành chúng tốt hơn là những
người gắn mình vào nhiệm vụ mang tính hợp tác trong xã hội định hướng nhóm. Đặc biệt, có sự tương tác
giữa giá trị văn hóa và kiểu loại nhiệm vụ. Trong văn hóa định hướng nhóm, giữa những thành viên trong
nhóm sẽ có mối quan hệ tích cực và công việc sẽ có tính hợp tác cao nếu không ai trong nhóm thể hiện “cái
tôi cá nhân” của mình ra tập thể. Có thể thấy, trong nền văn hóa này công việc đều mang tính lệ thuộc và từng
cá nhân không được quan tâm bằng sự tương đồng giữa các cá nhân. Thiết kế công việc được áp dụng và dùng
để phân công công việc cho từng cá nhân, nhưng trong những nền văn hóa định hướng nhóm như Nhật Bản
hay Trung Quốc, những nhiệm vụ mang tính hợp tác sẽ có kết quả tốt hơn khi làm việc nhóm.
Vì vậy, thiết kế công việc dù là đúng đắn và là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu suất, kết quả công việc vẫn
chưa thực sự phát huy được ưu điểm của mình trong nền văn hóa định hướng nhóm.
b) Đánh giá thực hiện công việc
Đây là hoạt động giúp các cán bộ nhân sự hay các nhân viên có cơ hội để xem xét lại những phẩm chất
liên quan đến công việc mà một công nhân cần thiết phải có. Thế nhưng trong nghiên cứu (1) P.C.Earley đã
thấy rằng “trong các nền văn hóa định hướng nhóm, điển hình là Trung Quốc thường đánh giá thực hiện công
việc cũng như khen thưởng nhân viên dựa trên tính hợp lí hơn là sự công bằng” . Nghĩa là, họ lấy kết quả
chung mà cả nhóm đạt được để định hiêu suất công việc cho mỗi thành viên trong nhóm mà không đánh giá
dựa trên thành tích cá nhân của mỗi người trong nhóm. Điều này dẫn đến sự cào bằng và gây tâm lí ức chế
cho những thành viên trong nhóm khí công việc bị ảnh hưởng bởi cá nhân nào đó trong nhóm.
Trong nghiên cứu (1), Earley có đề cập tới 3 tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá thực hiện công viêc. Đó là: - Sự hợp lí - Sự công bằng - Sự cần thiết
Ông cũng chỉ ra rằng, trong các nền văn hóa định hướng nhóm luôn nhấn mạnh tiêu chí hợp lí thì
những nền văn hóa định hướng cá nhân lại nhấn mạnh đến sự công bằng và tỷ lệ đóng góp của cá nhân
trong toàn bộ công việc. Trong những nền văn hóa như Nhật Bản hay Trung Quốc, họ nhấn mạnh đến
tiêu chí này bởi họ quan tâm nhiều hơn đến sự hài hòa lợi ích của các thành viên trong nhóm hơn là
những mục tiêu sẽ đạt được. Trong việc khen thưởng, tại các quốc gia có văn hóa định hướng nhóm, các
cá nhân không có xu hướng tự tôn mình lên trước người khác và thường hướng tới sự ngang bằng giữa
các thành viên. Bên cạnh đó, trong nền văn hóa định hướng nhóm, con người thường tiết chế rất tốt khi
đóng góp bất cứ y kiến gì trong nhóm và luôn tránh làm mất mặt người khác. Chính điều này vô hình đã
làm sự mất công bằng và minh bạch trong công việc. Nhóm sẽ không có những ý tưởng tốt trong công
việc do cá nhân không muốn thể hiện mình.
c) Khả năng làm việc nhóm
Theo một nghiên cứu của Lobel & McLeod vào năm 1991 được đề cập trong nghiên cứu (1), thì giữa hai
nhóm đến từ Mĩ và Nhật Bản, sau khi được chọn giữa cạnh tranh và hợp tác thì nhóm Nhật đã thể hiện thái
độ hợp tác hơn nhóm Mĩ. Tuy nhiên, sự hợp tác này lại khiến mỗi cá nhân trong nhóm ỷ lại vào người khác
và mất dần sự tự tin vốn có của mình khi làm việc độc lập. Càng làm việc nhóm nhiều thì tính cạnh tranhmột
nhân tố thúc đẩy sự phát triển càng biến mất. Trong những nền văn hóa như Nhật Bản, làm việc nhóm sẽ thành
công hơn và có sự thể hiện tốt hơn là làm việc cá nhân, nhưng người Nhật lại không đạt được những kết quả
mang tính kết nối toàn xã hội và không được tự do thể hiện bản thân.
Mặt khác, trong nền văn hóa định hướng nhóm, nhóm thường chịu trách nhiệm tốt hơn so với cá nhân.
Trong khi đó, tại các nền văn hóa định hướng cá nhân, mỗi người phải tự chịu lấy trách nhiệm của mình. Và
năng suất làm việc của những cá nhân trong nền văn hóa Mĩ hay châu Âu thường cao hơn hẳn khi làm việc
một mình và sẽ ngược lại nếu làm việc nhóm. Còn những đồng nghiệp người Trung hay Nhật, họ đạt kết quả
cao hơn khi làm việc nhóm và tồi hơn khi làm việc cá nhân.
Để chúng minh cho điều nay, Earley đã lập một nhóm gồm 48 thực tập sinh người Trung và nhóm khác
gồm 48 thực tập sinh người Mĩ. Nhiệm vụ của họ là viết ghi nhớ và đánh giá kế hoạch, đơn xin việc của những
ứng viên. 10 người đầu tiên mỗi nhóm sẽ thực hiện một công việc gồm 200 nhiệm vụ đơn lẻ và phải hoàn
thành trong 1 giờ đồng hồ và được ẩn danh. 10 người tiếp theo cũng được làm nhiệm vụ tương tự như trên
nhưng phải ghi tên các thành viên trong nhóm và phân công công việc. 10 người tiếp của cả hai nhóm được
giao các nhiệm vụ đơn lẻ và phải hoàn thành trong 2-5 phút và cũng được ẩn danh, nhóm người còn lại của
hai đội cũng phải làm nhiệm vụ cá nhân như trên nhưng phải ghi danh rõ ràng. Kết quả cho thấy, người Trung
làm tốt hơn khi làm nhóm và ẩn danh. Trong khi đó họ lại không xuất sắc bằng người Mĩ khi làm cá nhân và
phải ghi tên họ đầy đủ
Nghiên cứu (1) còn chỉ ra rằng hiệu suất làm việc của nhóm bị ảnh hưởng bởi sự đào tạo theo nhóm .
Những người trong nhóm thường tập trung chú y vào những vai trò đạt tiêu chuẩn của nhóm. Vì vậy, nếu một
nhóm không được đào tạo tập trung hay khồn có sự tương đồng về kiến thức giữa những người trong nhóm
thì hiệu suất làm việc sẽ bị giảm sút.
Ngoài ra, tầm ảnh hưởng của trưởng nhóm là rất lớn tròn ngững nền văn hóa định hướng nhóm. Người
trưởng nhóm là người cổ vũ và trân trọng những công hiến của nhân viên trong nhóm. Nhũng nỗ lực của nhân
viên luôn phải được đánh giá cao với tổ chức và sự ủng hộ của người trưởng nhóm quan trọng hơn so với văn
hóa định hướng cá nhân. Người trưởng nhóm vừa phải tham gia công việc vừa phải chỉ đạo nhóm. Điều này
khiến các cá nhân khác trong nhóm thường ỷ lại trưởng nhóm và thụ động trong nhiều việc, trách nhiệm cũng
là một vấn đề cần đề cập khí người trưởng nhóm được mặc định là người “hứng mũi chịu sào”. d) Khả năng sáng tạo
Sáng tạo là những ý tưởng mới mẻ và có ích trong công việc. Những người có khả năng sáng là những
người luôn độc lập với sự phán xet của người khác, và là người tự tin, năng động. Sự sáng tạo giúp con người
bước khỏi lối mòn suy nghĩ và luôn công hiến nhiều hơn cho xã hội. Tuy nhiên, trong nghiên cứu (2)
“Individualism – collectivism and group creativity” của J.A.Goncalo và B.M.Staw, đã chỉ ra rằng: “Trong nền
văn hóa định hướng nhóm, các công việc liên quan đến sự sáng tạo không được thể hiện tốt so với nền văn
hóa định hướng cá nhân.” Trong một nhóm, chỉ những định hướng tương đồng với giá trị nhóm mới được
khuyến khích sáng tạo và thể hiện,. Hơn nữa, mục tiêu nhóm cũng tác động đến khả năng sáng tạo. Vói những
vấn đề mang tính thực tiễn thì tập thể không làm tốt bằng cá nhân và trong những nền văn hóa định hướng
nhóm, cá nhân không được thả sức sáng tạo bởi những ảnh hưởng bởi mục tiêu của nhóm.
2. Đàm phán và tranh cãi
Những người trong nền văn hóa định hướng nhóm có khuynh hướng bị ảnh hưởng bởi những định
hướng nhóm trong giao tiếp. Họ sử dụng đại từ nhân xưng “chúng tôi” thay vì là “tôi” . Trong cuộc đàm phán
họ thường để đến bối cảnh. Người Nhật thường sử dụng những ngôn ngữ tiềm ẩn thể hiện thông qua thái độ,
hành vi hơn là lời nói. Trong đàm phán họ thường im lặng hay không nhất quán rõ ràng. Đặc biệt, thái độ im
lặng trong đàm phán của các đối tác đến từ nền văn định hướng nhóm dễ khiến người khác hiểu lầm và khó
đoán định. Với người Nhật hay Trung, sự im lặng có thể đông nghĩa với sự không đồng tình hoặc sức mạnh
tiềm ẩn cho dù những người Mĩ chỉ thấy sự yếu ớt và ngại ngùng trong hành động này. Trong đàm phán, người
Nhật hay người Trung thường tránh xung đột và không đi thẳng vào vấn đề trong khi người Mĩ lại thích sự rõ
ràng và có cái nhìn trực diện vào vấn đề đang bàn luận. Điều này gây mất thời gian và gây khó chịu cho những
người phương Tây. Tại các quốc gia theo nền văn hóa định hướng nhóm, phong cách đàm phán thường làm
hài lòng số đông cho nên khó thực hiện được những yêu cầu mà số đông đưa ra hoặc nếu có thực hiện thì cũng
không triệt để. Đối với những người trong nhóm, họ thường thân tình và cởi mở hơn khi giao tiếp trong khi
đó lại thỏa hiệp hơn đôi khi là khách sáo nếu giao tiếp vơi người ngoài nhóm. Trong nền văn hóa định hướng
cá nhân, thường có ý kiến rõ ràng về mục đích và ý định của cuộc đàm phán, khi có tranh chấp họ cũng dễ
dàng tìm ra giải pháp và thích làm chủ mọi tình huống. Trong khi ở nền văn hóa định hướng nhóm, họ không
có khuynh hướng thích kiểm soát vấn đề .
3. Qúa trình ra quyết định trong kinh doanh:
“Ở nền văn hóa định hướng nhóm, luôn tồn tại quyền lực nhóm. Các quy tắc nhóm và nghĩa vụ được đề
cao khi đưa ra quyết định hơn là quyền và kinh nghiệm của cá nhân . Và quyết định này dựa trên sự hi sinh
vì những mục tiêu cần đạt được và lợi ích duy trì mối quan hệ tốt với những thành viên khác trong nhóm”
theo nghiên cứu (3) The impact of I and C on ethical decision making by individual in organization
Trong nền văn hóa này, người ra quyết định là trưởng nhóm và người trưởng nhóm sẽ đưa ra quyết định
dựa trên những chuẩn mực và qui tắc đạo đức mà không dựa trên cơ sở của sự công bằng. Thời gian ra quyết
định cũng lâu hơn so với khi quyết định bởi cá nhân nhưng mức độ chính xác và hiệu quả thì chưa chắc đã
hơn. Tính kiên định của người ra quyết định cũng bị ảnh hưởng khi có nhiều ý kiến đóng góp.
Câu 9: Văn hóa định hướng cá nhân: đặc trưng, ý nghĩa đối với kinh doanh
Khái niệm: Một nền văn hóa trong đó mỗi cá nhân có xu hướng chịu trách nhiệm cho sự sung túc của anh
ta hay cô ta được gọi là văn hóa định hướng theo cá nhân.
Đặc trưng: Hình thức văn hóa này thường thấy ở Úc, Canada, Tây Ban Nha, Anh và Mỹ. Con người
được tự do chú tâm vào các mục tiêu cá nhân nhưng phải có trách nhiệm về những hành động của họ. Trẻ em
được giáo dục độc lập và tự tin khi còn bé. Giá trị của các nền văn hóa đó là làm việc tích cực, nỗ lực bản thân
và chú trọng vào chủ nghĩa cá nhân nhằm thúc đẩy việc chấp nhận rủi ro, mà chính điều đó khuyến khích sự
sáng tạo và cải tiến. Sự chú trọng vào chủ nghĩa cá nhân dẫn đến mức độ thay đổi nơi làm việc cao. Điều này
là một cân nhắc rất quan trọng. Nếu một nhà quản lý then chốt nắm giữ các thông tin có giá trị đi làm việc cho
một dối thủ cạnh tranh, người chủ cũ của anh ta có thể mất tính cạnh tranh chỉ qua một đêm.
Trong nền văn hóa chủ nghĩa cá nhân, đôi khi khó phát triển một môi trường làm việc hợp tác hoặc
“tinh thần đồng đội” giữa những người lao động. Con người đã quen sự thừa nhận cá nhân có hướng liên đới
tới các trách nhiệm cá nhân hơn là cho hoạt động rộng rãi của công ty. Các công ty trong nền văn hóa định
hướng theo cá nhân có thể thấy khó tin vào sự hợp tác giữa các bên. Các đối tác rất có thể sẽ rút lui khỏi sự
hợp tác khi các mục tiêu của họ được thỏa mãn. *Ưu điểm :
-Con người được tự do chú tâm vào các mục tiêu cá nhân nhưng phải có trách nhiệm về hành động của
mình.Điều này thúc đẩy sự làm việc tích cực, nỗ lực bản thân, chấp nhận rủi ro.Từ đó khuyến khích sự đổi
mới, sáng tạo trong công việc.
-Chủ nghĩa cá nhân sẽ dẫn đến những con người dân chủ(hiểu rõ tầm quan trọng của tự do cá nhân và đa
nguyên xã hội), từ đó làm động lực cho sự phát triển của đất nước.Con người là chủ thể của xã hôi, 1 xã hội
ko thể phát triển với những con người ko sáng tao, ỷ lại vào số đông,… *Nhược điểm :
-Đôi khi khó phát triển 1 môi trường làm việc hợp tác hoặc “tinh thần đồng đội “ giữa những người lao
động.Con người đã quen sự thừa nhân có hướng liên đới tới các trách nhiệm cá nhân hơn là cho hoạt động rộng rãi của công ty.
-Sự hợp tác giữa các công ty có thể gặp khó khăn , các đối tác có thể rút lui khỏi sự hợp tác khi các mục tiêu
của họ đã được thỏa mãn.
-Chủ nghĩa cá nhân không thể giải quyết được vấn đề gia tăng bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo
Tóm lại, lựa chọn chủ nghĩa cá nhân hay chủ nghĩa tập thể phải dựa vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể.Phải có sự kết hợp hài hòa giữa 2 chủ nghĩa nhằm đem lại lợi ích cao nhất.Đề cao chủ nghĩa tập thể nhưng
vẫn phải xác định đúng vai trò của cá nhân trong cộng đồng, tạo mọi điều kiện để các cá nhân có cơ hội phát
huy tính sáng tạo, khả năng của mình.
Câu 10: Khái niệm, nguồn gốc, hình thức và tác động của rủi ro chính trị đối với các DN KDQT
Khái niệm rủi ro chính trị: rủi ro chính trị là những nguy cơ hoặc thiệt hại cho doanh nghiệp có nguyên
nhân bắt nguồn từ những biến động chính trị bất thường gây ra. Nguồn gốc: -
Sự lãnh đạo của chính trị yếu kém; -
Chính quyền bị thay đổi thường xuyên; -
Sự dính líu đến chính trị của các nhà lãnh đạo tôn giáo và quân đội; -
Hệ thống chính trị không ổn định; -
Những vụ xung đột về chủng tộc, tôn giáo và các dân tộc thiểu số; -
Sự liên kết kém chặt chẽ giữa các quốc gia. Các tác động: -
Xung đột và bạo lực Thứ nhất, xung đột địa phương có thể gây cản trở mạnh mẽ đến đầu tư của
các công tyquốc tế. Bạo lực làm suy yếu khả năng sản xuất và phân phối sản phẩm, gây khó khăn cho
việcnhận nguyên liệu và thiết bị gây cản trở việc tuyển dụng những nhân công giỏi. Xung đột nô racũng
đe dọa cả tài sản (văn phòng, nhà máy và thiết bị sản xuất) và cuộc sống của nhân công.Nguyên nhân, sự
oán giận và bất đồng hướng về chính phủ của họ. Khi mà những giải pháp hòabình giữa người dân và
chính phủ thất bại, xung đột để thay đổi người lãnh đạo xảy ra. Thứ hai, xung đột diễn ra do tranh chấp
lãnh thổ giữa các quốc gia Thứ ba, chiến tranh xảy ra giữa các dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Ngoài sự
tranh chấp ởPakixtan, xung đột còn thường xuyên xảy ra giữa đạo Hồi và đạo Hindu ở ngay tại Ấn Độ.
Vớicác công ty hoạt động ở Ấn Độ, những rủi ro tôn giáo sẽ làm gián đoạn công việc kinh doanh. -
Khủng bố và bắt cóc Bắt cóc và những cuộc khủng bố khác là phương tiện để các thế lực khẳng
định vị thếchính trị. Khủng bố có mục đích tạo ra sự lo sợ và ép buộc sự thay đổi thông qua việc gây
ranhững cái chết và tàn phá tài sản một cách bất ngờ, thiệt hại nặng nề và không lường trước được.VD:
khủng bố 11-9. Bắt cóc thường được sử dụng nhằm tài trợ tài chính cho các hoạt động khủng bố. Cáchãng
kinh doanh nước ngoài lớn là mục tiêu chính bởi vì những người làm việc ở đây có thể trảnhững khoản
chuộc khá hậu hĩnh. Khi những đại diện chính của công ty được bổ nhiệm sang làmviệc ở những nước có
nhiều vụ bắt cóc, họ nên đến làm việc một cách lặng lẽ, chỉ nên gặp một sốquan chức chủ chốt địa phương
nhằm mục đích bảo vệ an ninh cho họ và khi trở về nước cũngnên nhanh chóng, lặng lẽ. -
Chiếm đoạt tài sản Đôi khi một số chính quyền chiếm đoạt tài sản của các công ty trên lãnh thổ
của họ. Sựchiếm đoạt diễn ra dưới 3 hình thức:
Tịch thi, xung công và quốc hữu hóa. Tịch thu: Là việc chuyển tài sản của công ty vào tay chính phủ
mà không có sự đền bùnào cả. Thông thường không có cơ sở pháp lý yêu cầu đền bù hoặc hoàn trả lại tài sản.
Xung công: Là việc chuyển tài sản của tư nhân vào tay chính phủ nhưng được đền bù Ngày nay, các
chính phủ ít sử dụng đến giải pháp tịch thu hoặc xung công. Bởi vì ảnhhưởng đến thu hút đầu tư trong
tương lai. Các công ty đã đầu tư thì lo sợ mất tài sản và nó cũngngăn cản các công ty mới bắt đầu đầu tư
vào địa phương nếu việc tịch thu xảy ra.
Quốc hữu hóa: Quốc hữu hóa phổ biến hơn xung công và tịch thu. Trong khi xung côngáp dụng đối
với một hoặc một số công ty nhỏ trong một ngành, thì quốc hữu hóa diễn ra đối vớitoàn bộ ngành. Quốc
hữu hóa là việc Chính phủ đứng ra đảm nhiệm cả một ngành. Quốc hữu hóa được các chính phủ áp dụng
vì 4 lý do sau: (1) Chính phủ phải quốc hữu hóa những ngành mà họ cho rằng các công ty nước ngoàichuyển
lợi nhuận tới đầu tư ở những nước khác có tỷ lệ thuế thấp. (2) Chính phủ tiến hành quốc hữu hóa một ngành
bởi vì tư tưởng lãnh đạo. Quốc hữu hóađôi khi là công cụ chính trị. Nhà nước hứa là sẽ đảm bảo việc làm
nếu được quốc hữu hóa. (3) Quốc hữu hóa có lẽ là giải pháp trợ giúp những ngành mà các công ty tư nhân
khôngmuốn hoặc không có khả năng đầu tư, chẳng hạn như đầu tư vào những ngành công cộng. Chínhphủ
thường kiểm soát ngành công cộng và tài trợ hoạt động cho các ngành này từ thuế. Quốc hữu hóa cũng có
sự khác nhau giữa các quốc gia. Trong khi các chính phủ Cuba,Bắc Triều Tiên kiểm soát mọi ngành, thì
Mỹ và Canada chỉ kiếm soát một số ngành. Các nướckhác như Pháp, Braxin, Mexico, Ban Lan và Ấn Độ
cố gắng làm cân bằng giữa sở hữu nhà nướcvà sở hữu tư nhân. -
Sự thay đổi các chính sách Sự thay đổi chính sách của chính phủ cũng có thể là do nguyên nhân
mất ổn định xã hộihoặc là do có sự tham gia của các chính đảng mới. - Những yêu cầu của địa phương
Luật mà khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cung cấp một số lượng hàng hóa vàdịch vụ nào
đó gọi là bảo hộ của địa phương. Chế độ bảo hộ yêu cầu các công ty sử dụng nguồnnguyên liệu sẵn có của
địa phương, mua một phần từ nhà cung cấp địa phương hoặc thuê một sốlượng nhân công nhất định nào
đó ở địa phương. Các yêu cầu của địa phương có thể gây bất lợi sự tồn tại của các hãng trong dài hạn.
Đặcbiệt, họ có thể gây ra hai điểm bất lợi đối với các công ty 1. Yêu cầu phải tuyển dụng những nhân công
địa phương của họ có thể làm cho các côngty này thiếu những người làm việc có đủ trình độ. 2. Yêu cầu
các công ty sử dụng toàn bộ hoặc một phần nguyên, nhiên vật liệu của địaphương dẫn đến chi phí sản xuất
cao, chất lượng giảm sút hoặc cả hai.
Câu 11: Ngăn ngừa, hạn chế rủi ro chính trị đối với DN KDQT: các bước và các công cụ áp dụng
Bên cạnh kiểm soát và dự đoán những khả năng thay đổi chính trị, các công ty quốc tế phảicố gắng
quản lý được rủi ro chính trị mà những rủi ro này đe dọa đến hoạt động hiện tại cũngnhư tương lai. Có
năm phương pháp quản lý rủi ro chính trị đó là: né tránh, thích nghi, phụthuộc, thu nhập thông tin và
những chính sách của địa phương. -
Né tránh: Né tránh đơn giản là hạn chế đầu tư vào những nước thiếu cơ hội đầu tư. Khi mà rủi
ro cóthể kiểm soát được và thị trường địa phương bị xáo trộn, các nhà quản lý tìm cách khác để giảiquyết rủi ro chính trị. -
Thích nghi: Thích nghi có nghĩa là kết hợp chặt chẽ rủi ro với chiến lược kinh doanh, thường
đượcgiúp đỡ của các quan chức địa phương. Các công ty thu nhận rủi ro qua năm chiến lược: vốn tíndụng
và vốn cổ phần của địa phương, định vị, trợ giúp phát triển, cộng tác và bảo hiểm. Vốn tín dụng và vốn cổ
phần ở địa phương. Vốn tín dụng và vốn cổ phần trong đó phảikể đến tài trợ cho các hoạt động kinh doanh
ở địa phương bằng sự trợ giúp của các hãng địaphương, công đoàn, các định chế tài chính và chính phủ.
Sự trợ giúp của các tổ chức được thuậnlợi với điều kiện phải đảm bảo là các thế lực chính trị không làm
gián đoạn các hoạt động trên.Nếu là hoạt động góp vốn, các đối tác chấp nhận được lãi suất. Nếu là những
khoản cho vay, họnhận được lãi suất. Rủi ro được giảm xuống bởi vì các đối tác ở địa phương nhận được
lợi ích. Chiến lược định vị: Định vị đòi hỏi những hoạt động trợ giúp, đó là sự pha trộn sản phẩmhoặc một
số yếu tố kinh doanh khác- thậm chí các công ty chỉ rõ ra- để phù hợp với kiểu thẩmmỹ và văn hóa. Trợ
giúp phát triển. Trợ giúp phát triển cho phép các công ty nước ngoài trợ giúp cáccông ty trong nước hoặc
khu vực trong phát triển mạng lưới thông tin và giao thông, cải thiệnchất lượng cuộc sống ở địa phương.
Bởi vì lúc này các công ty và quốc gia đó trở thành đối táccủa nhau và cả hai bên cùng có lợi. Mức trợ
giúp có sự thay đổi sâu sắc. Đối với các dự án nhỏ, các công ty xây dựng nhàcho người lao động. Đối với
các dự án lớn, các hãng có thể chi ra hàng triệu đô-la để xây dựngtrường học, bệnh viện và nâng cấp cơ
sở hạ tầng. Sự cộng tác: Một phương thức ngày càng phổ biến trong quản lý rủi ro, sự hợp tác có thểlà
phương thức tối ưu trong kế hoạch phát triển công ty, nó là phương thức để chia sẻ rủi ro. Bảo hiểm: Các
công ty mua bảo hiểm để chống lại rủi ro chính trị tiềm ẩn. Có một sốchính sách bảo vệ các công ty khi
mà chính quyền địa phương hạn chế việc chuyển tiền từ trongnước ra ngoài nước. Có những hình thức
khác hạn chế mất mát do bạo lực, chiến tranh, khủngbố. -
Duy trì mức độ phụ thuộc: Thông thường, một công ty duy trì sự phụ thuộc sở tại vào hoạt động
của nó. Công typhải tiếp cận theo ba hướng để giải quyết vấn đề này:
1. Minh chứng được địa phương được lợi ích qua hoạt động của công ty nước ngoài
2. Các công ty nước ngoài cố gắng sử dụng nguyên vật liệu, công nghệ và một phầnnguồn lực sẵn
cócủa địa phương. Họ cố gắng thuyết phục bất bỳ một sự chiếm đoạt tài sản nàocũng gây ra khó khăn
trong kinh doanh. Nếu công ty đủ mạnh và đủ lớn, nó có thể nhận được toàn bộ quyền kiểm soát
kênhphân phối ở địa phương. Nếu nó bị đe dọa, nó có thể từ chối cung cấp cho người tiêu dùng
địaphương và người mua là các công ty địa phương. Duy trì sự phụ thuộc nhằm: Thứ nhất, công ty không
phát triển nhân công địa phương.Những doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn do sự hiện diện
của các doanh nghiệp nướcngoài hùng mạnh. Thứ hai, các công ty quốc tế phá vỡ nhiều khu vực kinh tế
bằng việc từ chốisử dụng các yếu tố sản xuất do khu vực này cung cấp. Thứ ba, các công ty này từ chối
cung cấpsản phẩm cho địa phương. Thực tế này có ảnh hưởng xấu đến phúc lợi và an toàn của người
dânđịa phương, đặc biệt những sản phẩm này có tầm quan trọng đối với sức khỏe và an ninh. - Thu thập
thông tin Các hãng kinh doanh quốc tế phải kiểm soát được thậm chí cố gắng dự đoán trước nhữngsự
kiện chính trị đe dọa hoạt động hiện tại và thu nhập trong tương lai. Có hai nguồn dữ liệu cầnthiết cho
việc dự báo rủi ro chính trị chính xác: (1)
Công ty yêu cầu người lao động đánh giá mức độ rủi ro chính trị. Những công nhâncó thời gian
làm việc ở một nước đủ lâu để hiểu được văn hóa và chính trị ở đây, cũng chính vìvậy, đây là nguồn thông tin đáng tin cậy. (2)
Một công ty cũng có thể thu thập thông tin từ những hãng chuyên cung cấp nhữngdịch vụ về rủi
ro chính trị. Đó là các ngân hàng, chuyên gia phân tích chính trị, các ấn phẩm mớixuất bản và các dịch vụ
đánh giá rủi ro. Nhiều hãng đưa ra các báo cáo rủi ro chính trị chi tiết kểcả mức độ và nguồn gốc rủi ro
cho mỗi quốc gia. Bởi vì dịch vụ này khá đắt đỏ, cho nên cácdoanh nghiệp và công ty nhỏ thường quan
tâm những nguồn thông tin miễn phí sẵn có, đáng chúý là nguồn từ chính phủ. - Những chính sách của địa
phương Các nhà quản lý có thể phải xem xét đến những luật lệ và quy định áp dụng trong kinhdoanh ở
mỗi quốc gia. Hơn nữa, pháp luật ở nhiều quốc gia rất dễ thay đổi và luật mới ra đời tiếp tục tác động đến
doanh nghiệp. Để những ảnh hưởng của địa phương có lợi cho họ, các nhà quảnlý đề nghị những định
hướng thay đổi có ảnh hưởng tích cực tới họ Sự tranh thủ ảnh hưởng chính trị ở địa phương, luôn liên
quan đến những nhà làm luật vàcác chính trị gia, ảnh hưởng này hoặc trực tiếp hoặc thông qua hậu trường.
Những nhà vận độnggặp các quan chức địa phương và cố gắng gây tác động đến những vấn đề liên quan
đến công tycủa họ. Họ mô tả những lợi ích mà công ty mang lại cho địa phương, môi trường tự nhiên, cơ
sởhạ tầng và nguồn nhân lực. Mục đích cuối cùng của họ là nhận được sự ủng hộ của luật pháp. Tham
nhũng: Hối lộ là một phương pháp chiếm được cảm tình từ giới chính trị. Đôi khi nó là phương tiện để
kiếm được những hợp đồng khác nhau và tiếp cận được những thị trườngnhất định. Vật hối lộ có thể là
“bất kỳ cái gì có giá”, có thể là tiền, những món quà và nhữnghình thức khác
Câu 12: Đặc điểm của các dòng luật chính trên thế giới: Thông luật, dân luật, thần luật. * Thông luật
Luật phổ thông bắt nguồn từ Anh Quốc vào thế kỷ thứ XVII và nó được công nhận ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Hệ thống luật pháp dựa trên những yếu tố lịch sử của luật pháp, dựa vào đó mà tòa án tiến
hành xử lý những tình huống cụ thể. Một hệ thống thông luật phản ánh 3 nhân tố:
- Nhân tố truyền thống: Là lịch sử pháp luật của một quốc gia.
- Các tiền lệ: Các quy ước có tính chất bắt buộc xuất hiện trước khi có tòa án.
- Cách sử dụng: Là những cách mà theo đó luật pháp được áp dụng cho một tình huống cụ thể.
Thông luật: Tòa án giải quyết một trường hợp nào đó thông qua việc làm sáng tỏ các yếu tố lịch sử, tiền
lệ và cách sử dụng. Tuy nhiên, mỗi bộ luật được vận dụng khác nhau đôi chút trong mỗi tình huống. Hợp
đồng kinh doanh là thỏa thuận mang tính chất pháp lý giữa hai bên, có xu hướng dài dòng bởi vì họ phải
quan tâm đến luật pháp sẽ giải quyết như thế nào trong trường hợp có tranh chấp. Các công ty phải xác
định thời gian rõ ràng trong hợp đồng, và phải cam kết tar một khoản tiền lớn để nhận được sự tư vấn
pháp luật. Xét về mặt tích cực, thường luật khá linh hoạt. Thay vì áp dụng cứng nhắc trong mọi tình huống,
bộ luật này xử lý trong những trường hợp và tình huống cụ thể. Thông luật được áp dụng tại Úc, Anh,
Canada, New zealand, Mỹ và một phần Châu Á và Âu. * Luật dân sự
Luật dân sự xuất hiện ở Rome vào thế kỷ XV trước công nguyên, nó là bộ luật ra đời và thông dụng
nhất trên thế giới. Luật dân sự dựa trên các quy định chuẩn tắc bằng văn bản. Luật dân sự ít có sự đối lập
như thông luật bởi vì nó không cần giải thích các điều luật theo lịch sử hình thành, tiền lệ và cách sử dụng.
Bởi vì, tất cả các luật được hệ thống hóa và súc tích, cho nên các hợp đồng cần làm rõ các hàm ý trong
hợp đồng. Tất cả các quyền lợi và trách nhiệm đều trực tiếp thể hiện trong hợp đồng. Bên cạnh đó, chi phí
về thời gian và tiền bạc ít tốn kém hơn, nhưng luật dân sự có xu hướng bỏ qua những tình huống đơn lẻ.
Luật được áp dụng tại Cuba, Puerto Rico, Quebec và tất cả các nước trung và Nam Phi.
* Luật mang tính chất tôn giáo (thần luật) .
Luật dựa trên nền tảng tôn giáo được gọi là luật thần quyền. Có 3 luật thần quyền nổi lên đó là Luật Đạo
Hồi, đạo Hin-đu, luật Do Thái.
Các hãng hoạt động ở những nước tồn tại luật thần quyền phải nhạy cảm với niềm tin và văn hóa địa
phương. Họ nên đánh giá hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh bao gồm những thông lệ và chính sách
đầu tư để đảm bảo phù hợp với không chỉ pháp luật mà còn tôn giáo và văn hóa địa phương.
Nhìn chung, luật liên quan đến chất lượng sản phẩm, trách nhiệm với sản phẩm và ô nhiễm môi trường,
đối xử với công nhân được áp dụng mạnh mẽ ở những nước Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ Latinh. Một số
công ty quốc tế lợi dụng những chuẩn mực khác nhau ở những nước khác nhau. Thí dụ: họ sản xuất sản
phẩm bị cấm ở một nước nhưng lại bán sản phẩm đó sang nước khác. Vì vậy, sự khác nhau của luật pháp
làm nảy sinh vấn đề đạo đức trong những thương gia kinh doanh quốc tế.
Câu 13: Một số vấn đề luật pháp quốc tế quan trọng đối với DN KDQT (Giải quyết tranh chấp, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, an toàn, trách nhiệm sản phẩm) * Tiêu chuẩn hóa
Bởi vì hệ thống là khác nhau ở mỗi nước cho nên các công ty thường thuê các chuyên gia pháp luật ở
những nước mà họ kinh doanh. Điều này có thể làm tăng chi phí. Nhưng có một điều thuận lợi, hệ thống luật
pháp giữa các nước đều có chuẩn mực chung, tuy nhiên, chuẩn mực đó không phải hoàn toàn đồng nhất.
Mặc dù hệ thống luật pháp quốc tế không được rõ ràng nhưng bước đầu đã có những điểm chung. Luật
quốc tế ảnh hưởng đến nhiều khu vực, bao gồm quyền sở hữu trí tuệ, luật chống độc quyền, thuế, luật phân
xử tranh chấp hợp đồng và những vấn đề thương mại nói chung. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức quốc tế khuyến
khích áp dụng các chuẩn mực. Trong số các tổ chức Liên Hiệp Quốc, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD), Tổ chức về sự thống nhất của các luật tư nhân của Rome đã đưa ra các quyết định cho kinh doanh
quốc tế. Để tháo gỡ các rào cảm cho các công ty hoạt động trên thị trường Tây Âu, Liên hiệp Châu Âu cũng
tiêu chuẩn hóa hệ thống luật pháp của các nước trong hiệp hội.
* Quyền sở hữu trí tuệ
Tài sản là kết quả do hoạt động trí tuệ của con người và những nguồn lực đó gọi là tài sản trí tuệ. Nó
bao gồm: tiểu thuyết, phần mềm máy tính, các bản thiết kế vè máy móc và các bí quyết như công thức làm
nước giải khát của hãng Coca-cola. Xét về mặt kỹ thuật, nó là kết quả của sản phẩm công nghiệp (hoặc là phát
minh sáng chế hoặc là nhãn hiệu đăng ký) hoặc bản quyền và vấn đề hạn chế độc quyền.
Nhiều đạo luật bảo vệ quyền tài sản- nó chứng nhận về nguồn gốc và bất kỳ một thu nhập nào được
tạo ra. Giống như các tài sản khác, trí tuệ cũng được mua bán, cấp giấy phép nhằm thu được phí và các quyền khác.
Quyền sở hữu trí tuệ có thể chia thành quyền sở hữu công nghiệp và bản quyền tác giả.
Quyền sở hữu công nghiệp: bao gồm bằng sáng chế, nhãn hiệu đăng ký, thường là tài sản có giá trị
nhất của công ty. Luật bảo vệ quyên sở hữu công nghiệp để thưởng cho những hoạt động sáng tạo và những
phát minh. Mục đích của đạo luật bang sáng chế Liên bang Mỹ là khuyến khích mọi người phát minh sáng
chế và áp dụng vào cuộc sống. Tương tự, luật nhãn hiệu đăng ký khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư vào
những sản phẩm và đảm bảo với người tiêu dùng rằng họ nhận được những sản phẩm giống nhau từ một nhà cung cấp.
Bằng phát minh sáng chế: Bằng phát minh sáng chế là giấy cấp cho người phát minh hoặc là quá trình
ngăn chặn nhữngngười khác làm, sử dụng, bán những phát minh đã được đăng ký này. Bằng phát minh sáng
chế yêu cầu những phát minh phải đảm bảo yếu tố mới, khả dụng.
Nhãn hiệu đăng ký: là những từ hoặc các biểu tượng để phân biệt các sản phẩm và nhà sản xuất ra nó.
Lợi ích của khách hàng là họ hiểu ra được chất lượng sản phẩm mà họ mua là của các hãng nổi tiếng.
Bản quyền tác giả: Trao cho quyền sở hữu có quyền tự do xuất bản hoặc quyền quyết định về sản phẩm
của mình. Bản quyền tác giả còn cho biết rõ thời gian và tên người sở hữu. Một người sở hữu có những quyền sau:
- Quyền được tái xuất bản.
- Quyền được nhận sản phẩm mới từ bản quyền.
- Quyền được bán và phân phối các bản sao chép.
- Quyền định đoạt sản phẩm từ bản quyền.
- Quyền công bố bản quyền ra công chúng.
* Sự đảm bảo và trách nhiệm đối với sản phẩm
Hầu hết các quốc gia đều có đạo luật bảo vệ sản phẩm, luật này đưa ra các tiêu chuẩn áp dụng cho các
nhà sản xuất. Trách nhiệm đối với sản phẩm yêu cầu các nhà sản xuất, người bán và những đối tượng khác,
gồm cả nhân viên công ty phải có trách nhiệm đối với những thiệt hại, thương tích hoặc chết chóc do các sản
phẩm khuyết tật gây ra. Tổn thất có thể phải được bồi thường bằng tiền thông qua bộ luật dân sự và tiền phạt,
hoặc có thể bị phạt tù theo luật hình sự. Những hòa giải phải được thực hiện thường xuyên trước khi vụ việc
được đưa ra tòa án. * Thuế
Chính phủ các nước dùng thu nhập từ thuế doanh thu cho nhiều mục đích. Tiền thuế được dùng để trả
lương, xây dựng quân đội, điều hòa thu nhập từ người giàu sang người nghèo. Chính phủ cũng đánh thuế trực
thu, còn gọi là thuế tiêu dùng cho hai mục đích:
- Nó giúp cho việc chi trả cho những hậu quả của việc tiêu dùng một sản phẩm.
- Làm cho hàng hóa nhập khẩu đắt hơn.
Thuế tiêu dùng được đánh trên các hàng hóa như rượu và thuốc lá để điều trị những bệnh tật sinh ra từ
những sản phẩm này. Tương tự, thuế đánh trên xăng dầu để xây dựng và sữa chữa cầu cống và đường xá. Thuế
đánh trên những mặt hàng nhập khẩu làm cho những hàng hóa địa phương có lợi thế hơn về mặt giá cả. Xét
về tỷ lệ khác, các nước có tỷ lệ thuế suất khác nhau tính trên thu nhập.
* Đạo luật chống độc quyền
Các đạo luật nhằm chống các công ty ấn định giá cả, chiếm lĩnh thị trường và tận dụng những lợi thế
do độc quyền gọi là đạo luật chống độc quyền. Những đạo luật này cố gắng cung cấp cho khách hàng những
sản phẩm đa dạng ở mức giá hợp lý.
Các công ty bị chế tài bởi luật chống độc quyền cho rằng họ bị mất lợi thế do phải chia sẻ thị phần với
các đối thủ cạnh tranh trong nước. Vì vậy, những hãng hoạt động ở những nước có đạo luật chống độc quyền