Câu hỏi ôn tập - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Câu hỏi ôn tập - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

PHẦN TRẢ LỜI CÂU HỎI CỦA NHÓM 01
Trước hết, Nhóm 01 chúng em xin chân thành cảm ơn sự đóng góp, nhận xét và những câu hỏi
đến từ các nhóm cũng như các nhân trong lớp CNXHKH.5. Nhóm chúng em thấy được sự
quan tâm và giúp đỡ đến từ cô và các bạn đã giúp chúng em rất nhiều trong quá trình hoàn thiện
bài thuyết trình của mình.
Và dưới đây sẽ là phần trả lời câu hỏi của Nhóm 01 xin được gửi đến các nhóm cũng như các đại
diện cá nhân trong lớp CNXHKH.5. Trong quá trình theo dõi nếu cảm thấy chưa hài lòng với câu
trả lời hay còn điều gì thắc mắc, Nhóm 01 chúng em rất hy vọng và các bạn sẽ nêu lên nhận
xét với nhóm chúng em để chúng em thể hoàn thiện câu trả lời tốt hơn. Chúng em xin chân
thành cảm ơn!
Phần trả lời câu hỏi cho nhóm 02:
1.Tại sao giai cấp công nhân lại đóng vai trò chính trong công cuộc cách mạng không
phải là những giai cấp khác chẳng hạn như trí thức hay tư sản?
Thứ nhất, theoluận hình thái kinh tế - hội, nhân tố quyết định sự phát triển của xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất; trong đó, người lao động là lực lượng sản xuất
hàng đầu. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay trong bất cứ một xã hội nào dựa trên sự phát
triển của nền đại công nghiệp thì lực lượng sản xuất hàng đầu của vẫn là người công
nhân.
Thứ hai, trong các giai cấp, tầng lớp xã hội đối lập (mâu thuẫn) giai cấp tư sản thì chỉ
giai cấp công nhân là giai cấp ở vào địa vị mâu thuẫn trực tiếp nhất và có tính đối kháng.
Điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp có tính cách mạng triệt để nhất
trong cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị, áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Trong
cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân dân lao động khỏi ách
thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân (với tư cáchgiai cấp
vô sản) không mất gì cả, ngoại trừ mất xiềng xích, còn nếu được thì được cả thế giới.
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm của nền sản xuất công nghiệp, nhất nền công nghiệp
hiện đại, khiến cho giai cấp công nhân được tính tở chức cao với kỷ luật chặt
chẽ.Đồng thời, với sự phát triển mở rộng, có tính xã hội hoá cao của nền sản xuất công
nghiệp khiến cho giai cấp công nhân được mối quan hệ liên minh mang tính quốc tế
của nó từ sở của nền công nghiệp phát triển và nền kinh tế thị trường mở rộng xu
hướng quốc tế hoá. Mặt khác, đội ngũ của nó cũng không ngừng lớn mạnh nhờ quá trình
phát triển của công nghiệp hoá ngày càng mở rộng trong phạm vi một quốc gia cũng như
ở nhiều quốc gia khác nhau.
Thứ tư, giai cấp công nhân giai cấp thuộc những người lao động, điều đó cơ sở
khách quan cho sự liên minh vững chắc lâu dài giữa giai cấp công nhân với các giai
cấp và tầng lớp lao động khác trong toàn xã hội, tạo thành lực lượng cách mạng của công
cuộc cách mạng xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, giai cấp công nhân là giai cấp có được hệ tư tưởng khoa học của nó - đó là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
2. Tại sao trong thời kỳ đại công nghiệp, những giai cấp khác như nô lệ, chủ nô,...bị xóa bỏ
trong khi giai cấp công nhân lại được thành lập hay nói cách khác tại sao lại nói giai cấp
công nhân là “ con đẻ “ của nền đại công nghiệp?
Giai cấp công nhân là con đẻ, sản phẩm của nền đại công nghiệp,tính xã hội hóa
ngày càng cao, chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. thế, giai cấp
công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại.
Do lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại, giai cấp công nhân là
người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, làm giàu cho xã hội, có vai trò
quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại.
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế quy định giai cấp công nhân là lực lượng
phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình, chuyển từ
giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho sự
tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức và lãnh
đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ
xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.
3. Phải làm gì để giai cấp công nhân Việt Nam có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?
Để thiết thực xây dựng và phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu cấp bách của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế quốc tế nước ta hiện nay, cần đẩy
mạnh việc tuyên truyền giáo dục về sứ mệnh, vai trò của giai cấp công nhân; chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức chính trị - hội trong các doanh nghiệp, đồng thời, đổi mới phương thức hoạt động của
các tổ chức này phù hợp với tình hình mới.
Vừa tăng trưởng kinh tế với tốc độĐẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa.
cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hòa, lành mạnh; không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc biệtgiai cấp công nhân; giữ vững ổn
định chính trị; bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây sẽ là quá trình
phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc tạo ra một thị
trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với phong phú về ngành nghề, đa dạng
về chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công nhân không chỉ về số lượngcả chất
lượng.
Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Cần một chiến dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp trong
hội nhằm đề cao, tôn vinh người công nhân, sao cho cả hội nhận thức được vai trò vị trí
quan trọng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa
hội nhập quốc tế; đồng thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã hộihội
chủ nghĩa.
Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề cho giai
cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát triển giai cấp
công nhân trong tình hình mới. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao động và
việc làm cũng không ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực lượng
lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp bản. Do đó, chất lượng lao động,
nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và tăng trưởng cao. Tính cạnh tranh
cao cùng với sự sôi động của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần một chiến lược xây
dựng phát triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng
nhằm đáp ứng kịp thời lâu dài nhu cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thiết thực chăm lo đời sống vật chất tinh thần của giai cấp công nhân. Trong hội
hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân những người nghèo trong hội. Đời sống
vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn nghèo nàn. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước
cần cấp thiết một chiến lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất đội ngũ
công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung đông các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó,
trước hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ
sở và chống tham nhũng.
- Xây dựng phát triển giai cấp công nhân phải được thực hiện trong một môi
trường kinh tế - xã hội mà mỗi người công nhân luôn có điều kiện phát huy năng lực
của mình và được thụ hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra.
- Cùng với thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ trong các doanh nghiệp, đấu tranh
chống tham nhũng cũng là một vấn đề gây bức xúc trong không ít các doanh nghiệp,
nhất doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp cổ phần. Kiên quyết đấu tranh loại
trừ tệ tham nhũng ra khỏi các doanh nghiệp đó một việc làm vừa ý nghĩa phát
triển sản xuất, kinh doanh vừa ý nghĩa bảo vệ cán bộ công nhân không bị rơi
vào trạng thái mâu thuẫn trên.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các
doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - hội trong các
doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh
nghiệp được đề cập đây trong các doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp cổ
phần hóa.
- Vấn đề đặt ra là, Đảng cần có phương thức lãnh đạo mới, một cơ chế mới để vừa thể
hiện được vai trò lãnh đạo của mình vừa thúc đẩy sự hoạt động một cách có hiệu quả
của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp.
- Sự lãnh đạo sát sao của Đảng đối với tổ chức công đoàn sẽ một sức mạnh mới
thiết thực góp phần bảo vệ, chăm sóc và phát triển giai cấp công nhân trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. - Bảo vệ quyền lợi chính đáng của công
nhân cũng là một cách xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện
nay.
4.Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, mối quan hệ biện chứng giữa công nhân, công
nghiệp và chủ nghĩa xã hội (CNXH) (chế độ chính trị). Vậy theo các bạn, ngày nay chế độ
chính trị có còn tác động đến sự phát triển của công nhân và công nghiệp?
Chế độ chính trị ngày nay vẫn luôn và sẽ tác động đến sự phát triển cảu công nhân và
công nghiệp vì: Tư duy mới về chính trị có thể thúc đẩy sự phát triển của GCCN. Chế độ XHCN
đã tạo ra một chất lượng mới, quy mô và tốc độ mới cho công nghiệp hóa. Ngay trong kiểu công
nghiệp hóa này cũng có 2 trình độ là công nghiệp hóa theohình công nghiệp hóa cũ và theo
hình công nghiệp hóa mới. Hiện nay, cùng với luận công nghiệp hóa mới của thế giới
xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nước XHCN có thể thông qua hợp tác - phân công lao
động quốc tế để thực hiện công nghiệp hóa. Chính CNTB cũng cần đến CNXH tìm đến để
hợp tác trong sản xuất toàn cầu. Đổi mớiduy chính trị, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế... là xu thế chung của nhiều quốc gia. Giai cấp công nhân đã
xuất hiện với số lượng, chất lượng và diện mạo mới không chỉ từ công nghiệp hóa mà còn từ cải
cách, đổi mới. Nhưng quan trọng hơn, là khả năng phát triển, cơ độnghội của GCCN và các
giai cấp khác. Trước đây, như nhận định của một tác giả Trung Quốc: “Nhà nước trao cho GCCN
địa vị giai cấp lãnh đạo và thực hiện chính sách phúc lợi toàn hội khiến cho GCCN được
địa vị hội kinh tế “trời phú” rất cao, vào vị trí trung tâm trong toàn bộ kết cấu hội,
được hưởng một loạt quyền lợi đặc thù, có sự khác biệt với giai cấp nông dân trên nhiều phương
diện cao hơn nhiều so với nông dân”. Nhưng hiện nay, “thân phận “trời phú” của GCCN
Trung Quốc đương đại bị phá vỡ, chuyển biến từ tượng trưng thân phận sang khái niệm nghề
nghiệp”. “Phương thức hợp đồng hóa nghề nghiệp” thay cho chế độ công nhân, viên chức vĩnh
viễn; quan hệ lợi ích kinh tế thay cho quan hệ hành chính, “từ trạng thái do quá khứ lưu truyền
đến trạng thái do khế ước quy định”. ràng, công nhân hiện nay không chỉ sản phẩm của
công nghiệp hóacòn là sản phẩm của đổi mới chính trị. Trong một số trường hợp, chính trị,
chính sách đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp và tạo biến đổi sâu sắc đối với GCCN.
5.Những biến động của quá trình toàn cầu hóa tác động như thế nào đến giai cấp công
nhân?
Quá trình công nghiệp hóa cùng với cải cách, đổi mới đang tạo ra nhiều đặc điểm mới cho
GCCN:
Trước hết quá trình công nghiệp hóa là tác nhân hàng đầu làm biến đổi GCCN hiển nhiên
là các cuộc cách mạng công nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn hơn, yêu cầu đa diện hơn. Trong
hơn 100 năm gần đây nhất người ta đã thấy 3 cuộc cách mạng công nghiệp: lần thứ hai, lần thứ
ba lần thứ tư. Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng đã tiến hành 2 kiểu công nghiệp hóa công
nghiệp hóa bản chủ nghĩa (TBCN) công nghiệp hóa XHCN. Các cuộc cách mạng công
nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn dần: Từ “đại công nghiệp” tức từ “công nghiệp 1.0” đến
“công nghiệp 2.0” mất gần hai thế kỷ; nhưng từ “công nghiệp 2.0” đến “công nghiệp 3.0” chỉ
khoảng một thế kỷ; còn từ “công nghiệp 3.0” đến “công nghiệp 4.0” chỉ mất 30 năm!
Công nghiệp hóa theo kiểu mới với các đặc trưng: Rút ngắn (diễn ra không tuần tự từ A
đến Z mà phải tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia); gắn với hiện đại hóa (sử dụng thành
tựu khoa học và công nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển bền vững về xã hội và
môi trường, sinh thái...); nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa được chuẩn bị sớm và kỹ hơn; các
yêu cầu ngoài công nghiệp như tính nhân văn, bảo vệ môi trường, sinh thái, tài nguyên cao hơn;
và hội nhập thị trường quốc tế cấp thiết hơn...
Theo đó, luận “GCCN là sản phẩm chủ thể của đại công nghiệp” đã được bổ sung
thêm nhiều nhận thức lý luận mới. Sự phát triển của công nhân gắn liền với hội nhập kinh tế thế
giới, chẳng hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thếchấp nhận hợp tác, hội nhập
quốc tế. Quá trình sản xuất hàng hóa công nghiệp của công nhân buộc phải đáp ứng các tiêu
chuẩn kỹ thuật quốc tế, đáp ứng những nhu cầu “khó tính” của thị trường... Và kết quả là một sản
phẩm công nghiệp được công nhân tạo ra không chỉkết quả của công nghệ - kỹ thuật mà còn
sự tích hợp những giá trị kinh tế, hội, môi trường. Nhiều nước phát triển đã ứng dụng
chế quản lý linh hoạt (FMS) trong công nghiệp để khuyến khích tính linh hoạt, sáng tạo, tối ưu
hóa quá trình sản xuất bằng nhiều nguyên tắc, như thường xuyên đổi mới công nghệ, tiết kiệm
tối đa năng lượngvật tư, hạn chế thời gian lưu kho bãi, linh hoạt thời gian và địa điểm làm
việc (chế độ làm việc tại nhà). Công nhân hiện đại không còn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền
sản xuất TBCN” mà có tính chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn.
Sự phát triển của GCCN ở “các nước đang chuyển đổi” hiện nay còn là kết quả của sự
kết hợp các cơ chế, quy luật của kinh tế thị trường với vai trò của nhà nước và thành phần kinh tế
nhà nước; với chính sách đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ nhân lực, dần chuyển dịch
hình kinh tế từ phát triển “bề rộng” chủ yếu sang phát triển theo “chiều sâu”. Công nhân
không chỉ là sản phẩm của công nghiệp hóa mà còn là kết quả tổng thành của chế độ chính trị và
chế kinh tế thị trường. Trình độ làm chủ sáng tạo công nghệ, duy kinh tế thị trường,
năng lực tổ chức quản lý của GCCN ở các nước cải cách, đổi mới đều đã có bước tiến lớn. Quan
tâm đến lợi ích chính đáng của người lao động, kết hợp hài hòa lợi ích của người lao động với lợi
ích của tập thể và lợi ích của xã hội..., vừa là tư duy kinh tế phù hợp, vừa là sự thể hiện tính chất
XHCN trong phát triển.
6.Vì sao trong kinh tế tri thức giai cấp công nhân vẫn là giai cấp quyết định nhất đến tồn
tại và phát triển xã hội?
Trong kinh tế tri thức, GCCN vẫn là giai cấp quyết định nhất đến tồn tại và phát triển xã hội vì:
Một là, thực chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là gì và lực lượng nào là quyết
định nhất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta, trong chặng đường trước mắt chuyển
toàn bộ các ngành sản xuất (công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp...) từ lao động thủ công, nửa cơ
khí và cơ khí với công nghệ lạc hậu, lỗi thời sang sản xuất chủ yếu bằng công cụ cơ khí hiện đại,
công nghệ tiên tiến. Như vậy cả hai khâu: chế tạo công cụ hiện đại điều khiển, vận hành
máy móc, công cụ đó, không ai khác công nhân, trước hết công nhân cơ khí công nhân
công nghệ hiện đại. Đành rằng mấy năm lại đây nhằm hiện đại hóa nền sản xuất công nghiệp,
nước ta đã đang nhập ngày càng nhiều máy móc hiện đại; nhưng cũng chỉ nhập những máy
móc từng chi tiết máy móc hiện đại trong nước chưa sản xuất được; quan trọng hơn,
công nhân và cán bộ kỹ thuật nước ta đãđang vươn lên chế tạo máy móc hoặc bộ phận máy
móc thay thế cho nhập ngoại. Còn người điều khiển và vận hành máy móc hiện đại, tuyệt đại bộ
phận công nhân ta. Trong thực tế, công nhân ta đã đang làm tốt; trong không ít ngành
nghề, công nhân ta không kém công nhân khu vực các sản phẩm đứng vững trong cạnh
tranh thị trường thế giới và hai kỳ thi công nhân kỹ thuật ASEAN là một minh chứng.
Hai là, sự khác biệt cơ bản giữa nền kinh tế công nghiệp với nền kinh tế tri thức là một
đằng, sản phẩm được tạo ra bằng lao động bắp chủ yếu; một đằng, sản phẩm được tạo ra
bằng lao động trí tuệ là chủ yếu. Như vậy, cho dù đến khi có nền kinh tế tri thức phát triển (hàm
lượng trí tuệ chiếm 70% trở lên trong tổng sản phẩm hội), vẫn cần một lực lượng lao động
chân tay và một hàm lượng lao động cơ bắp đáng kể trong lực lượng GCCN và sản phẩm công
nghệ. Hơn thế nữa, cho dù là kinh tế tri thức và công nghệ hiện đại, người công nhân vẫn giữ vai
trò quan trọng cùng trí thức tạo ra sản phẩm trí tuệ, vẫn lực lượng quyết định vận hành nền
kinh tế tri thức. Tất nhiên, lúc đó phải là tầng lớp công nhân trí thức.
Như vậy, đất nước càng đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước
phát triển nền kinh tế tri thức như Đại hội IX của Đảng đã quyết định, càng làm nổi bật vai trò đi
đầu và quyết định của GCCN và trí thức nước ta; chứ vai trò ấy không hề suy giảm và bị hạ thấp
như không ít người quan niệm. Vấn đề là làm sao để GCCN nhanh chóng vươn lên đảm đương
được sứ mệnh nặng nề vẻ vang đó.phải là lực lượng GCCN có tổ chức rộng lớn và chặt
chẽ đủ sức đảm đương sứ mệnh vẻ vang và nặng nề đó.
Phần trả lời câu hỏi cho nhóm 03:
1.Trong hội bản chủ nghĩa, địa vị hội của giai cấp công nhân biểu hiện như thế
nào?
Trong xã hội bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân về bản là những người không
liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột về giá trị thặng dư
2.Vai trò của giai cấp công nhân trong thời đại 4.0 khi con người dần bị thay thế b_i máy
móc và quá trình tự đô
`
ng hóa?
Dưới thời đại công nghiệp 4.0, giai cấp công nhân vừa phải đối mặt với không ít những
khó khăn nhưng bên cạnh đó cũng là những cơ hội:
Những cơ hội:
Về chất lượng của giai cấp công nhân, sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 càng làm cho
trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của công nhân được nâng cao. Một điều hiển nhiên là, để
làm chủ những công cụ hiện đại cách mạng 4.0 mang lại thì đòi hỏi công nhân phải không
ngừng học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng được đòi hỏi của dây chuyền sản xuất
hiện đại. Ở một khía cạnh khác, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, trình độ phát triển của
giáo dục đào tạo cũng ngày càng cao, giúp GCCN hiện đạiđủ tri thức, năng lực sáng tạo
khả năng làm chủ công nghệ cao để tự giải phóng mình và tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới – xã hội XHCN.
Tuy sẽ có sự đe dọa đến số lượng công nhân do sự ra đời của các máy móc tự động nhưng đây
cũng có thể được xem là 1 cơ hội bởi trong thời gian tới làn sóng công nghệ mới ra đời sẽ tạo ra
những làn sóng kinh doanh mới việc làm mới. Cuộc cách mạng 4.0 cũng làm cho khả năng
khởi nghiệp của các nhóm nhỏ với các sản phẩm và dịch vụ mới ra đời. Và hệ quả tất yếu sẽ làm
cho GCCN không ngừng tăng lên.
Những khó khăn:
Cách mạng 4.0 sẽ đem lại lợi ích kinh tế nhiều nhất cho những người phát minh, nhà đầu
chứ không phải người lao động thông thường. Bên cạnh đó, khi máy móc tự động hóa dần
thay thế con người trong lao động sản xuất, người lao động sẽ bị mất việc làm, giảm thu nhập.
Từ đó dẫn đến những bất bình đẳng, làm cho những mâu thuẫn trong phương thức sản xuất
bản chủ nghĩa ngày càng trở nên sâu sắc.
Một bộ phận công nhân sẽ được trả lương cao nhờ có tài năng, tri thức, kỹ năng cao. Và do đó
có cuộc sống trung lưu; có tư liệu sản xuất phụ; một số ít khác có cổ phần cổ phiếu trong các nhà
máy nghiệp… Tuy nhiên, mọi liệu sản xuất chủ yếu vẫn nằm trong tay giai cấp sản.
Những người hưởng lợi lớn nhất của cuộc cách mạng 4.0 vẫn các nhà tư bản. Nếu như trước
kia người công nhân chỉ bán sức lao động cơ bắp là chủ yếu, thì ngày nay họ còn bán luôn cả sức
lao động trí óc và cả chất xám cho nhà tư bản. Họ vẫn là giai cấp làm thuê, bị giai cấp tư sản bóc
lột giá trị thặng dư dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Những điều này sẽ thúc đẩy quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
3.Tại sao nói Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm kết hợp của chủ nghĩa Mác và phong trào
công nhân?
Đảng cộng sản xuất hiện trên cơ s_ phong trào công nhân.
Giai cấp công nhân chỉ thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là kẻ đào mồ chôn chủ
nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, nếu được lãnh đạo bởi bộ tham mưu và đội
tiên phong của mình là đảng cộng sản.
Muốn cho đảng cộng sản có thể ra đời, cần phải sự tồn tại của học thuyết Mác -
Lênin.
Xét về mặt lịch sử, học thuyết vĩ đại này xuất hiện trước khi có sự ra đời của đảng cộng sản,
và ở bên ngoài phong trào tự phát của công nhân
Học thuyết Mác là sản phẩm của những điều kiện phát triển nhất định của chủ nghĩa tư bản
của phong trào công nhân. Theo Lênin, phong trào công nhân không thể thắng lợi nếu như
không có lý luận cách mạng khoa học “Lý luận này không thể do tưởng tượng mà bịa đặt ra.
luận này được hình thành trên sở tổng hợp kinh nghiệm cách mạng tưởng cách mạng
của tất cả các nước trên trái đất.
V. Lênin nhấn mạnh rằng: Chủ nghĩahọi khoa học “chỉ có thể trở nên sức mạnh, khi
trở thành mục tiêu của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân. Chỉ trong điều kiện này,
luận cách mạng mới trở nên sức mạnh cải tạo, mới được quán triệt vào đời sống, mới được
phát triển sáng tạo phong phú, trên cơ sở kinh nghiệm đấu tranh mới của giai cấp công nhân
và đảng của nó.
Đảng cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học
phong trào công nhân.
Sự kết hợp giữa lý luận cách mạng khoa học và phong trào công nhân, trước hết là một quá
trình tất yếu của việc thành lập đảng. Đó thời kỳ lịch sử, trong đó từ giai cấp công nhân, đã
xuất hiện đội tiên phong của mình; những phần tử tiên tiến này tập hợp thành tổ chức chính trị,
thành đảng cộng sản.
Nhờ được kết hợp với phong trào công nhân, học thuyết mác - xít mà được tiếp thu bởi Đảng
cộng sản đã có sở để gắn liền với thực tiễn, để phát triển không ngừng, trở nên khí tư
tưởng của phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh giành giải phóng. Bản thân phong trào
công nhân, được chỉ đạo bởi tưởng xã hội chủ nghĩa khoa học cũng đổi thay về chất. Phong
trào công nhân vượt ra khỏi giới hạn của chủ nghĩa nghiệp đoàn. Nhờ được kết hợp với chủ
nghĩa hội, cuộc đấu tranh giai cấp của công nhân đã thật sự mang tính chất chính trị. Theo
V.Lênin, cuộc đấu tranh của công nhân trở nên đấu tranh giai cấp thật sự, khi nào cuộc đấu tranh
ấy được học thuyết mác - xít soi sáng.
4.Thế nào là lực lượng sản xuất hàng đầu? Thế nào là giai cấp tiên phong trong thời kỳ CN
hoá, hiện đại hoá? Làm gì để GCCN - lực lượng sản xuất hàng đầu thực sự phát triển, thực
sự tiên phong?
Lực lượng sản xuất hàng đầu là:
Lực lượng sản xuất là tổng hợp toàn bộ những yếu tố vật chất và ý thức tạo thành sức
mạnh cải biến giới tự nhiên theo nhu yếu sống sót và tăng trưởng của con người. được dùng
trong quá trình sản xuất của hội qua các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, Lực lượng sản
xuất gồm có hai bộ phận cơ bản đó là tư liệu sản xuất và người lao động.
Và lực lượng sản xuất hàng đầu là những tư liệu sản xuất tiên tiến nhất, đem lại năng
suất cao. Còn với người lao động thì những người lao động trình độ cao, đáp ứng được
những yêu cầu của sản xuất, góp phần tạo ra năng suất tối đa cho sản xuất.
Giai cấp tiên phong trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
Ở nước ta, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong của cách mạng Việt Nam,
góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang của dân tộc. Trong công cuộc đổi mới, nhất
từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công
nhân vai trò đặc biệt quan trọng. Giai cấp công nhân trực tiếp làm việc trong các công
xưởng, nhà máy, doanh nghiệp, trong các lĩnh vực của ngành kinh tế công nghiệp, trực tiếp
tiếp nhận công nghệ tiên tiến đưa vào sản xuất, cải tiến công cụ, quy trình, quản lý... Đó
những người chủ trong ngành công nghiệp, người đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng CNXH nước ta hiện nay. Đảng đã khẳng định: Giai cấp công
nhân nước ta là “lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Để GCCN trở thành giai cấp thực sự tiên phong, cần:
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng kinh tế
với tốc độ cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - hội hài hòa, lành mạnh; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc biệt giai cấp công
nhân; giữ vững ổn định chính trị; bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Một xã hội
ổn định, phát triển toàn diện và hài hòa không chỉmôi trường thuận lợi cho sự phát triển của
giai cấp công nhân mà còn của mọi người dân trong xã hội.
Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy hoạch
nền kinh tế, vùng kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp với sự phát triển nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu
nước ngoài, khuyến khích các tập thể nhân phát triển sản xuất - kinh doanh, chủ động
tích cực tham gia vào thị trường lao động quốc tế, phát triển cảng biển, hệ thống đường giao
thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không, xây dựng những khu công nghiệp, khu chế xuất mới...
Đây sẽ là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc
tạo ra một thị trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với phong phú về ngành
nghề, đa dạng về chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công nhân không chỉ về số
lượng mà cả chất lượng.
Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thứchơn về vai trò, vị trísứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của người công nhân
còn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của hội hiện nay, hình ảnh người công nhân chưa
phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều kiện như thế, để giai cấp công nhân có điều kiện khẳng
định được vai trò, vị trí của mình cũng như hoàn thành được sứ mệnh lịch sử cao quý của mình
cần một chiến dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp trong hội nhằm đề cao, tôn vinh
người công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của giai cấp công
nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa hội nhập quốc tế; đồng
thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cải cách triệt để hệ thống giáo dục đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ tay
nghề cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát
triển giai cấp công nhân trong tình hình mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội
nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một nhu cầu mới về nguồn
nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao
động và việc làm cũng không ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi
lực lượng lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp vàbản. Do đó, chất lượng lao
động, nguồn nhân lực mới nhân tố quyết định cho sự phát triển tăng trưởng cao. Đối với
người lao động, khi tham gia thị trường lao động nếu chưa được đào tạo cơ bản, đáp ứng nhu cầu
thực tế của thị trường lao động, thì rất khó tìm được việc làm, và nếu có, thì cũng thường là việc
làm không ổn định, lao động giản đơn, nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với
sự sôi động của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựngphát
triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng kịp
thời và lâu dài nhu cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Trong
hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo trong xã hội. Đời
sống vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn nghèo nàn. Đây là một nghịch lý rất
đáng suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến, ưu tú, nắm quyền lãnh đạo xã hội mà lại nghèo. Vì lẽ đó, Đảng
và Nhà nước cần cấp thiết có một chiến lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất
đội ngũ công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung đông các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trong đó, trước hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương. Có như thế, giai cấp
công nhân mới thoát khỏi những bức bách của đời sống, có điều kiện học tập, rèn luyện nâng cao
tay nghề ý thức hội. Chỉ khi đó, đội ngũ công nhân trẻ này mới gắn sâu sắc với sự
nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, có ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân
chủ _ cơ s_ và chống tham nhũng. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân phải được thực
hiện trong một môi trường kinh tế -hội mà mỗi người công nhân luôn có điều kiện phát huy
năng lực của mình và được thụ hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra. Muốn thế, cần
thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một khi
người công nhân được tôn trọng, được thực sự góp phần vào quá trình phát triển doanh nghiệp
thì sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, công nhân yên tâm hăng say làm việc,
sáng tạo mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và bản thân.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - hội
trong các doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - hội
trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các
tổ chức chính trị - hội trong các doanh nghiệp được đề cập đây trong các doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong quá trình chuyển đổi vừa qua, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với doanh nghiệp cũng như đối với các tổ chức chính trị - hội trong các
doanh nghiệp còn lúng túng, nhiều bất cập. Chính vậy, vị thế, vai trò của Đảng trong các
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp đã cổ phần hóa khá mờ nhạt. Các tổ chức chính trị -
hội trong nhiều doanh nghiệp hầu như rất lúng túng trong phương hướng hoạt động, không hoạt
động hoặc hoạt động chỉ mang tính hình thức.
5.GCCN hiện đại ngày nay GCCN thế kỷ 19 những điểm khác nhau nào? Những
điểm khác nhau ấy có làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hay không?
-Những điểm khác nhau của giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp công nhân ở thế kỉ XIX:
a.Về số lượng:
phân tích cho rằng: “Khi C. Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm
1848, trên thế giới chỉ có khoảng 10 - 20 triệu công nhân, tương đương chiếm 2%
- 3% số dân toàn cầu và chỉ trong vài lĩnh vực có máy móc.
Đến đầu thế kỷ XX, toàn thế giới có 80 triệu công nhân.
Theo nguồn cung của báo VnExpress thì Hiện nay khoảng 1,6 tỷ người lao
động ăn lương, tăng thêm 600 triệu kể từ giữa những năm 1990, hơn 1 tỷ trong số
đó là công nhân” .
[1]
Số liệu về số lượng công nhân có thể khác nhau đôi chút, nhưng nhận thức chung
là sự tăng lên mạnh mẽ của lao động công nghiệp trên thế giới trong vài thập niên
gần đây.
b.Về nguồn gốc xuất thân:
Ở thời C. Mác, giai cấp công nhân giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lộtxuất
thân chủ yếu từ nông dân, nông thôn.
Nhưng khoảng từ giữa thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hóa đông đảo
dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của GCCN khiến cho
quá trình đô thị hóa trên thế giới có sự khác biệt so với những thế kỷ trước. Đô thị
hóa làm xuất hiện ngày một đông đảo hơn đội ngũ lao động làm thuê, làm cho số
lượng của GCCN hiện nay đông đúc hơn, đa dạng hơn với nhiều ngành nghề khác
nhau. GCCN hiện nay bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc.
c.Về cơ cấu:
Ngày nay, nền kinh tế thị trường làm chocấu GCCN ngày càng đa dạng hơn.
Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng
làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của
liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng:
theo lĩnh vực (công nhân làm việc trong lĩnh vực công nghiệp - nông nghiệp -
dịch vụ);
theo trình độ công nghệ (công nhân áo xanh - công nhân của công nghiệp truyền
thống; công nhân áo trắng - công nhân có trình độ đại học, cao đẳng, chủ yếu làm
công việc điều hành, quản sản xuất; công nhân áo vàng - công nhân của các
ngành công nghệ mới, công nhân áo tím - công nhân dịch vụ - lao động đơn giản
như gác cầu thang, vệ sinh đô thị...).
Thêm vào đó là phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, cóliệu sản xuất
trực tiếp lao động tại nhà để sống công nhân không cổ phần, chỉ sống
bằng sức lao động của mình).
Phân loại công nhân theo chế độ chính trị (công nhân các nước phát triển theo
định hướng XHCN; ở các nước G7; ở các nước đang phát triển...).
d.Về đặc điểm:
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa dẫn đến sự thay đổi tích cực về đặc điểm
của GCCN. GCCN hiện nay thể sử dụng thành tựu khoa học công nghệ
mới, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển bền vững về xã hội và môi trường,
sinh thái…, nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa được chuẩn bị sớm và kỹ hơn và
hội nhập thị trường quốc tế cấp thiết hơn…
Trong thế kỷ XXI này, sự phát triển của công nhân gắn liền với hội nhập kinh tế
thế giới, chẳng hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thếchấp nhận
hợp tác, hội nhập quốc tế. Có thể nói, trình độ, tư duy kinh tế thị trường, năng lực
tổ chức quản lý của GCCN ở các nước cải cách, đổi mới đều đã có nhiều sự phát
triển vượt bậc.
Ngoài ra cũng có một số sự khác nhau như điều kiện sống và làm việc, công nghệ
và tổ chức lao động,…
- Những điểm khác biệt ấy không làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Trong hội bản, các giai cấp khác đều suy tàn tiêu vong cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp; trái lại, GCCN là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là LLSX tiên tiến, đại
diện cho PTSX tiên tiến - PTSX cộng sản chủ nghĩa. Đâyđiều quyết định GCCN giai cấp
duy nhất có sứ mệnh thủ tiêu CNTB, xây dựng CNXH, CNCS.
Công nhân hiện nay dù có cổ phiếu, cũng chẳng làm thay đổi được địa vị làm thuê và bị
bóc lột trong hội bản. Họ không trở thành “nhà tư bản” theo cách tuyên truyền của các
luận gia sản, chỉ “nhà bản” đối với chính mình. Chế độ cổ phiếu thật sự phương
pháp hữu hiệu cột chặt người lao động bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. trong lòng thế
giới tư bản hiện đại, mâu thuẫn vốn có giữa LLSX hiện đạiquan hệ sản xuất dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX không những vẫn còn tồn tại,mặt còn sâu
sắc hơn và lan ra phạm vi rộng hơn. Cho dù CNTB hiện đại có những biến đổi và phát triển như
thế nào, thì bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản,
các công ty bản xuyên quốc gia cùng sự bòn rút tài nguyên bóc lột nhân dân nhiều nước
thuộc thế giới thứ ba; các cuộc chiến tranh đẫm máu chống các quốc gia chủ quyền do chủ
nghĩa đế quốc phát động... là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe dọa chết
đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người
mù chữ...
6.Theo như sứ mệnh lịch sử thì GCCN có trách nhiệm xoá bỏ CNTB, tuy nhiên xét _ nhiều
góc độ CNTB vẫn mang đến cho thế giới những tiến bộ và phát triển mang tính cách mạng.
Liệu sứ mệnh xoá bỏ CNTB này có còn phù hợp hay không ?
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chủ nghĩabản với mục tiêu chính là giành
lại quyền lợi cho giai cấp công nhân, hay nói cách khác chính đấu tranh giành quyền lợi cho
giai cấp này. Do đó, khi nào giai cấp sản vẫn còn bóc lột, xâm phạm đến quyền lợi của giai
cấp công nhân thì lúc đấy sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn còn và sẽ không bao giờ bị
xóa bỏ.(Các ví dụ cho sự bóc lột của CNTB với giai cấp công nhân có thể thấy ở câu 5)
7.Vì sao nói giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất?
Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để nhất bởi vì lợi ích của họ mâu
thuẫn trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Lợi ích của giai cấp công nhân chỉ
thực sự được đảm bảo khi xoá bỏ triệt để chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
và các hình thức tư hữu khác. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công
nhân chỉ được giải phóng khi đồng thời giải phóng toàn hội khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân còn được thể hiện
trong tiến trình cách mạng không ngừng cho tới khi xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới.
Họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại. Được trang bị luận khoa học luôn đi đầu
trong mọi phong trào cách mạng. Bên cạnh đó, họ không gắn với chế độ tư hữu về
tư liệu sản xuất
Phần trả lời câu hỏi nhóm 04:
1.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Để giành thắng lợi, cách mạng nhất định
phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. giai cấp tiên tiến nhất tổ chức chặt chẽ
nhất”. Song _ thời điểm hiện tại, nhìn vào bộ máy lãnh đạo của nhà nước ta phần đông
xuất thân tri thức. Đơn cử như Chủ tịch nước đương nhiệm ông Văn Thư_ng một
chính trị gia, thạc sĩ triết học. Vậy theo quan điểm của Nhóm, thực tế này có “đi ngược” lại
so với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không? Vì sao?
Trả lời:
Quan điểm của nhóm : Thực tế này không đi ngược lại với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vì: ( cách mạng muốn thành công giai cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của đảng )
Nhìn nhận từ quá trình hình thành và phát triển của công nhân việt nam họ đi từ bộ phận
bị bóc lột và ít học qua từng giai đoạn giai cấp công nhân việt nam ngày càng một trưởng thành
về tư duy và tư tưởng chính trị .Cho đến nay giai cấp công nhân nước ta đã có những biến đổi vô
cùng to lớn ,từ người làm thuê cho tư bản , đế quốc trở thành người làm chủ đất nước .Giai cấp
công nhân phát triển về cả số lượng , cơ cấu ,trình độ , tay nghề và đặc biệt về bản lĩnh chính trị
….. thể hiện và khẳng định vị thế làm chủ đất nước , đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới và
xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc .
Từ thực tế đó trên sở chủ tịch hồ chí minh đảng ta xác định : “Giai cấp công
nhân là một lực lượng xã hội to lớn ,đang phát triển ,bao gồm người lao động và trí óc ( Võ Văn
Thưởng)và người lãnh đạo là phải những người có tri thức mới đề ra được những đường lối phát
triển . Hội nghị trung ương 6 khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân việt nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước khẳng định :’ Giai cấp công nhân nước ta sứ mệnh lịch
sử to lớn giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong ĐCSVN, giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội , lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa , hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh ,
lực lượng nòng cốt của liên minh giai cấp công nhân , nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của đảng .
2.Nêu suy nghĩ của nhóm về việc: hiện nay trong xã hội, một số bộ phận trong giai cấp công
nhân biểu hiện “phai nhạt” về chính trị, quan tâm chủ yếu về những lợi ích kinh tế, ít
quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như bản lĩnh chính trị, trách nhiệm,
vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vậy, Nhà nước nên biện pháp như thế
nào để giải quyết, khắc phục tình trạng này. Và, vấn đề nổi bật nhất đối với việc thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Tại sao?
Trả lời :
Hiện nay trong xã hội, một số bộ phận trong giai cấp công nhân có biểu hiện “phai nhạt”
về chính trị, quan tâm chủ yếu về những lợi ích kinh tế, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài
tính chiến lược như bản lĩnh chính trị, trách nhiệm, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân( đây chỉ là một bộ phận nhỏ và không chỉ dừng lại ở đấy Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai
đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay còn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của
dân tộc, của nhân dân, của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và cái bảo
thủ, trì trệ, v.v. nên đấu tranh giai cấp là tất yếu( nhưng đây chỉ là một bộ phận nhỏ bởi nhà nước
ta là một nhà nước do dân và vì dân nên mọi người có quyền và nghĩa vụ phát triển đất nước .
Trước tiên muốn thay đổi điều này phải xuất phát từ nội tại của mỗi bản thân công nhân
bác hồ đã từng có 6 điều dạy đối với giai cấp công nhân từ thay đổi nhận thức chính trị và nhận
thức nhiệm vụ của mình . Muốn xây dựng chủ nghĩa hội phải người hội chủ nghĩa
công nhân phải trở thành người xã hội chủ nghĩa . Muốn thành người xã hội chủ nghĩa phải có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa phải chống chủ nghĩa nhân phải có tinh thần làm chủ đất nước . phải
đặt lợi ích dân tộc giai cấp lên lợi ích nhân , chống thói kèn cựa , suy ích kỷ làm trọn
nhiệm vụ của đảng và nhà nước giao cho phải đẩy mạnh phát triển sản xuất phát triển kinh tế .
Đảng và nhà nước có vai trò lãnh đạo , nhiệm vụ xây dựng đội ngũ công nhân tiến bộ
theo định hướng XHCN . làm cho người dân tin tưởng vào bộ máy lãnh đạo .
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng
lớp hội quan hệ hợp tác đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết hợp tác lâu dài
trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”; Nội dung chủ yếu
cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện
công bằng hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tưởng
hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá các thế
lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên đây là rất lớn lao và phức tạp. Để thực
hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, vừa mềm
dẻo, vừa kiên quyết, bao gồm cả đấu tranh trực diện bằng bạo lực, trấn áp đối với thế lực thù
địch trong nước và trên thế giới luôn tìm cách ngăn cản, phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân
ta, đấu tranh bằng giáo dục, tuyên truyền, vận động, cả hành chính đấu tranh chống khuynh
hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản nói riêng.
Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính là thông qua đấu
tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thoái hóa, biến chất và chống đối nhằm củng
cố, tăng cường và phát huy vai trò của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách khá gay
gắt phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đang đứng trước nhiều thách
thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ hội chủ
nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo
loạn lật đổ, với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra
sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến
chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn,
xung đột tronghội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần
tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để thấy đặc điểm, nội
dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện
mới.
3.Trong “Giáo trình CNXHKH” (NXB Chính trị quốc gia sự thật - 2021), nhóm tác giả đã
viết “Cũng giống như thế kỷ XIX, _ các nước TBCN hiện nay, công nhân vẫn bị giai cấp tư
sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư.” (tr66). Tuy nhiên, một số người khác cho
rằng, “học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đã lỗi thời, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã thay
đổi bản chất, không còn là chế độ bóc lột nữa” ... Nêu ý kiến của nhóm bạn về vấn đề trên.
Trả lời:
Nhóm mình không đồng ý với quan điểm trên. Vì các lý do sau:
Trước tiên phải hiểu giá trị thặng ? Giá trị thặng mức độ dôi ra khi lấy
mức thu của một đầu vào nhân tố trừ đi phần giá cung của nó .ví dụ như về việc nộp tô cho chủ
sở hữu những miếng đất màu mỡ . Mác đã nghiên cứu giá trị thặng dư dưới giác độ hao phí lao
động , trong đó công nhân sản xuất ra nhiều hơn chi phí trả cho họ - yếu tố quy định bởi mức tiền
lương tối thiểu chỉ đảm bảo cho họ tồn tại với tư cách người lao động . Theo Mác sự bóc lột công
nhân chỉ có thể được loại trừ nếu nhà tư bản trả cho họ toàn bộ giá trị mới được tạo ra .
Đã gọi là giai cấp tư bảntrước hay hiện nay bản chất vẫn không thay đổi . Bản
chất của chủ nghĩa bản chính quan hệ bóc lột củabản đối với công nhân làm thuê dưới
hình thức giá trị thặng dư .Quá trình sản xuất tư bản là sự thống nhất giữa quá trình lao động tạo
ra giá trị sử dụng quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Nhà bản dùng tiền mua liệu sản
xuất , sức lao động và tiến hành sản xuất . quá trình sản xuất có đặc trưng là công nhân lao động
dưới sự kiểm soát của bản sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của bản .Nhìn vào thực tế tập
đoàn Amazon hay phong trào công nhân áo vàng pháp nếu chủ nghĩa bản thay đổi thì đã
không những phong trào này xảy ra. Như vậy học thuyết giá trị thặng của Mác không hề
lỗi thời và vẫn có giá trị có đến thời điểm hiện tại.
Phần trả lời câu hỏi nhóm 07:
1. Giai cấp công nhân _ Việt Nam có những điểm mạnh và hạn chế như thế nào? Liệu giai
cấp công nhân _ Việt Nam thể tiếp thu được nhữngtừ giai cấp công nhân trên toàn
thế giới?
- Điểm mạnh và hạn chế của giai cấp công nhân ở VN:
+ Điểm mạnh:
Qua 35 năm đổi mới giai cấp công nhân Việt Nam đã tăng về số lượng, trưởng thành về
chất lượng khẳng định,giai cấp công nhân ngày càng phát huy vai trò, địa vị của
mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Công nhân lao động Việt Nam ngày càng đa dạng về cấu ngành nghề, trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức về giá trị của bản thân thông qua lao
động.
Đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận CN trí thức (có trình độ ĐH, CĐ trở lên) làm
công tác quản lý, nghiên cứu và quản lý khoa học kỹ thuật gắn với sản xuất kinh doanh.
Hằng năm đóng góp trên 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà
nước. Đó là những giá trị thực không thể phủ nhận.
Độ tuổi bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, nhóm công từ 18 đến 30 tuổi
chiếm 36,4%, hầu hết công nhân được tiếp cận với kinh tế thị trường nên năng động,
thích ứng nhanh với công nghệ hiện đại.
+ Hạn chế:
Giai cấp công nhân Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước.
Trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động còn thấp so với yêu
cầu phát triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật
giữa các bộ phận công nhân. Trình độ nghề nghiệp của công nhân tuy đã được nâng cao,
nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được đảm bảo, môi trường làm việc độc
hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng
Ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân còn yếu. Ý
thức chính trị, nhận thức về luật pháp của công nhân còn hạn chế. Tỷ lệ đảng viên, đoàn
viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp.
Vai trò của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa đáp ứng được s
phát triển nhanh chóng về số lượng, cấu của GCCN. Công tác phát triển đảng trong
công nhân chậm.
-Liệu giai cấp công nhân VN có thể tiếp thu những gì từ giai cấp công nhân trên thế giới:
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, thực hiện chủ trương vừa "đi sau", "đi
cùng", vừa "đón đầu" những thành tựu KHCN mới nhất của nhân loại theo kế hoạch
mục tiêu của đất nước ta; tránh "tụt xa hơn nữa" về kinh tế - kỹ thuật so với khu vực
thế giới. Đó làsở vật chất - kỹ thuật trực tiếp nhất để hình thành GCCN hiện đại Việt
Nam thực sự lớn mạnh.
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá hội nhập kinh tế, nhiều vấn đề phải được làm sáng tỏ như: sự trí thức hoá
GCCN, về việc công nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp, về mối quan hệ giữa GCCN
với các giai cấp khác trong hội, về sự phân tầng mối quan hệ trong nội bộ GCCN, về
các tổ chức chính tr- hội trong các doanh nghiệp, quan hệ giữa người sử dụng lao
động và người lao động, về mối quan hệ giữa GCCN Việt Nam và GCCN các nước trong
điều kiện toàn cầu hoá v.v.
Tăng cường củng cố, xây dựng GCCN Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển chung của
GCCN thế giới nói chung và GCCN Việt Nam nói riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nước.
Từ thực trạng của GCCN các nước bản phát triển GCCN nước ta hiện nay thể
đưa ra một số xu hướng phát triển của GCCN Việt Nam trong giai đoạn tới.
Thứ nhất, GCCN sẽ tiếp tục có sự thay đổi lớn về cơ cấu, số lượng, chất lượng
quyền sở hữu tài sản.
Thứ hai, trí tuệ hoá, tri thức hoá GCCN sẽ xu hướng tất yếu khi nước ta đẩy
mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho đến khi về bản trở thành
một nước công nghiệp.
Thứ ba, sự phân tầng trong GCCN do trình độ học vấn, trình độ chuyên môn
mức độ sở hữu tài sản sẽ dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích, khoảng cách giàu nghèo
trong nội bộ GCCN và sự không đồng nhất về nhiều mặt. Sự hình thành các tầng
lớp khác nhau trong nội bộ GCCN sẽ dẫn đến những lợi ích khác nhau và do đó ý
thức cũng khác nhau. Chính sự khác nhau này sẽ sinh ra không ít nguy về
tưởng, nhận thức, ý thức tổ chức từ đó giảm sức mạnh đoàn kết của GCCN. Đây
là một trong những hệ quả gây nhiều rắc rối nhất cho PTCN và công đoàn cho sự
lãnh đạo của Đảng đối với GCCN và công đoàn.
Nhận thức đầy đủ các xu hướng này để những đối sách thích hợp nhằm làm cho GCCN
trong hoàn cảnh nào cũng giữ được vai trò tiên phong của mình.
Câu 2: Từ cuộc biểu tình của công nhân áo vàng _ pháp, nhà nước Việt Nam đã rút ra
được những bài học gì?
- Những diễn biến ở Pháp đã cho thấy điều người dân quan tâm trước nhất là giá cả, chi phí sinh
hoạt, phúc lợi hội nên mục tiêu của mỗi quốc gia bao giờ cũng bảo đảm nâng cao đời
sống vật chất của người dân.
- Nhưng trong dài hạn, để đất nước phát triển ổn định thì cần phải hạn chế tối đa được sự bất
bình đẳng, giải quyết được những mâu thuẫn kéo dài trong lòng xã hội.
- Người ta cũng lại một lần nữa chứng kiến sức mạnh của mạng xã hội và các phương tiện thông
tin truyền thông khi phong trào “áo vàng” ở Pháp khởi nguồn chỉ từ một đoạn phim trên mạng.
Do đó, trong thời buổi phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, không gian mạng sẽ là một
kênh quan trọng làm cầu nối giữa người dân và chính phủ,một công cụ đắc lực phục vụ cho
công tác quản lý nhà nước.
- Cuối cùng, trong giải quyết các vấn đề hội, cần luôn cảnh giác biện pháp ngăn chặn
không để các phần tử, thế lực thù địch lợi dụng cơ hội để lôi kéo, kích động người dân có những
hành vi vi phạm pháp luật, gây mất ổn định an ninh trật tự.
Câu 3: Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh của giai
cấp công nhân trong việc xây dựng CNXH _ Việt Nam hiện nay như thế nào?
Thực hiện từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội: Hiện nay, Việt Nam đang
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao không chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà còn trên thế giới,
thể trở thành hình mẫu để các nước noi theo học tập kinh nghiệm. thể kể đến
một số thành tựu kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây như: Về các dự án đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam, năm 2022 có 1.107 lượt dự án đăng ký điều chỉnh tăng vốn
đầu tư với tổng số vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 10,12 tỷ USD; vốn FDI thực hiện đạt
22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm 2021, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 đã
lập kỳ tích, đạt 8,02%, vượt khá nhiều mục tiêu kế hoạch,...Về khía cạnh văn hóa xã hội:
Đảng & Nhà nước luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt tới giai cấp công nhân
người lao động: tổ chức "Tết Sum vầy" cho người lao động; xây dựng các thiết chế công
đoàn, góp phần tháo gỡ những vấn đề bức xúc về nhà ở, nhà trẻ, nơi sinh hoạt văn hóa ở
địa phương,...
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới: Đến nay, nước ta quan hệ
ngoại giao với 189 quốc gia, quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh
thổ, có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 30 quốc gia.
Đặc biêt, trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sứ mệnh lịch sử của công nhân
được C.Mác phát hiệnluận chứng từ cuộc Cách mạng CN lần thứ nhất càng được thể
hiện rõ và trong bối cảnh này vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng Cộng Sản là rất cần thiết
bởi để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, thích ứng cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, cần thực hiện tốt một số giải pháp yêu cầu đến năng lực
lãnh đạo của Đảng: nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động; nâng
cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình độ cao, ngày càng làm
chủ được khoa học - công nghệ;kỹ năng lao động, tác phong công nghiệp, ý thức kỷ
luật, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân tăng cường vai trò của các
cấp uỷ đảng, Công đoàn và các đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng tổ chức đảng
phát triển đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp, nhất khu vực doanh nghiệp
ngoài nhà nước.
Câu 4: Có hay không sự khác biệt giữa địa vị xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa?
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân đều là bộ phận quan trọng nhất của lực
lượng sản xuất, là lực lượng sản xuất chủ yếu tạo ra của cải vật chất cho xã hội; là Lực lượng gắn
với khoa học công nghệ hiện đại, những đặc điểm chính trị hội giống nhau. Thế
nhưng họ vẫn có những sự khác nhau làm nên nét riêng của giai cấp công nhân ở các khối xã hội
này; không thể không nhắc đến sự chênh lệch lớn về địa vị xã hội ở các nhóm nước này.
-Giai cấp công nhân ở các nước Tư bản chủ nghĩa:
Kinh tế: Về cơ bản giai cấp công nhân vẫn là người khôngtư liệu sản xuất, bị
bóc lột. Chính vì vậy họ đấu tranh xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN và xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu,...
Chính trị: giai cấp công nhân vẫn chưa giành được chính quyền, phải tiếp tục đấu
tranh trước mắt để chống lại bất công,.. tiếp tục giữ vững vai trò của Đảng cộng
sản.
-Giai cấp công nhân ở các nước Xã hội chủ nghĩa:
Kinh tế: Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đã làm chủ những
liệu sản xuất, xuất phát điểm thấp trong Công nghiệp hóa – hiện đại hóa…
Chính trị: Đã giành chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị hội chủ nghĩa,
đặc biệt củng cố vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cộng sản, xây dựng nhà
nước phân quyền xã hội chủ nghĩa…..
Câu 5: Những hình thức hoạt động phản kháng mới nào đang nổi lên trong giai cấp
công nhân để đối phó với những thách thức của thế kỷ 21?
Vì chưa giành được chính quyền nên hiện nay GCCN ở các nước TBCN vẫn còn phải đấu
tranh, khác với GCCN ở các nước XHCN. Cho đến hiện nay, các nước TBCN, công nhân họ
vẫn kiên trì đấu tranh với nhiều hình thức và cách thức đa dạng nhằm đòi lại lợi ích,biểu tình cho
sự bất công trong giai cấp của mình.
Các phong trào đấu tranh nổi bật của quần chúng nhân dân lao động đều diễn ra với những
yêu sách đa dạng, không phải chỉ lợi ích kinh tế thuần túy nhưng ít nhiều cũng cũng mang
nặng tính tự phát. Họ đấu tranh trong khuôn khổ chế độ TBCN: thừa nhận sự bóc lột, mong
muốn bán sức lao động, chất xám sao cholợi nhất cho công nhân mà không phải thủ tiêu
bản.
Một trong những cách thức đấu tranh mà PTCN các nước TBPT đang hướng tới trong điều
kiện mới là tăng cường đấu tranh nghị viện, đấu tranh chính trị trên sở đấu tranh giai cấp và
vận động quần chúng bỏ phiếu cho các đại biểu công nhân các lực lượng dân chủ khác vào
nghị viện. Chính việc sử dụng đấu tranh nghị trường, đấu tranh chính trị kết hợp với phong trào
đấu tranh rộng rãi của công nhân lao động, đã tạo ra những áp lực quan trọng đối với các thế lực
trong các cơ quan quyền lực tư sản.
Thông qua hình thức đấu tranh đòi mở rộng tăng cường kết hợp đồng kinh
tế giữa tập thể công nhânchủ bản, quyền hạn của người lao động đã được
mở rộng. Ở các nước TBPT Tây Âu, tỉ lệ người lao động mà tiền lương và những
điều kiện công việc và điều kiện lao động của họ được ấn định thông qua các thỏa
thuận tập thể giữa giới chủ người lao động rất cao (ở phần lớn các nước
TBPT thuộc Liên minh châu Âu, tỉ lệ này là lớn hơn hoặc bằng 80%).
Đấu tranh chính trị, giành dân chủ của GCCN đó đưa đến một xu hướng kép tự
nhiên là tăng cường liên minh giữa PTCN với các phong trào chính trị xã hội tiến
bộ khác trong một nỗ lực nhằm tạo sức mạnh tổng hợp chống kẻ thù chung
CNTB độc quyền.
Phản đối mặt trái tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa ngày nay mối quan tâm
của chính người dân các nước TBPT vàcũng liên quan tới những lợi ích thiết
thực của họ. Một thống gần đây cho biết: 74% người Pháp, 65% người Italia,
59% người Đức, 57% người Mỹ cho rằng quá trình TCH những tác động tiêu
cực đối với vấn đề công ăn việc làm của họ. Về vấn đề việc làm trong toàn cầu
hóa, 49% số người Anh cho rằng việc mở cửa biên giới là tích cực đối với vấn đề
tạo việc làm trong khi 39% cho rằng đây nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất
nghiệp. 80% số người dân EU 82% số người Mỹ cho rằng,c tập đoàn đa
quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất của quá trình tự do hóa thương mại.
Khác với các phong trào quần chúng thời "chiến tranh lạnh", phong trào phản TCH hiện
nay dường như ít gắn với các đảng phái chính trị. Tính nhân dân, tính tự nguyện, ý thức trách
nhiệm công dân (thậm chí có cả những tổ chức theo đuổi lý tưởng "công dân thế giới") và nhất là
những điểm tương đồng về lợi ích... đó tạo nên sự gắn kết mới này. Đặc điểm này không
nghĩa giữa phong trào phản TCH với các tổ chức đảng phái chính trị tích cực khác không có sự
kết hợp hành động. Thực tế đó chứng minh, trong những trường hợp này, kết quả đạt được của
phong trào đó vượt hơn cả sự mong đợi, "bước ngoặt Xiatơn" là một ví dụ.
Nhìn chung, phong trào phản TCH hiện nay đang nhiều chuyển biến mới mang
nhiều sắc thái mới, nhưng tính tích cực vẫn là sắc thái chính. Bằng tính chất này, phong trào đang
góp phần quan trọng vào việc xây dựng một thế giới công bằng, bình đẳng và tốt đẹp hơn.
Phần trả lời câu hỏi cho bạn Nguyễn Ánh Dương:
1.Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thể mang lại
thách thức đối với giai cấp công nhân khi tự động hóa có thể thay thế người lao động bằng
máy móc. Vậy trong thời kỳ công nghiệp 4.0, giai cấp công nhân Việt Nam cần làm để
thích ứng với khó khăn này?
Để thích ứng với những khó khăn trong thời kỳ 4.0, giai cấp công nhân Việt Nam cần:
- Nâng cao trình độ công nghệ thông tin tiếng Anh các bậc học theo hướng hội nhập
quốc tế,
- kỹ năng lao động, tác phong làm việc công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động theo xu
hướng công nghiệp hiện đại.
- Người lao động phải đánh giá trình độ bản thân, phải vừa làm vừa học để không ngừng
nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, giỏi một nghề, biết nhiều nghề, sẵn sàng đáp
ứng yêu cầu công nghiệp, thể làm việc độc lập lại vừa thể làm việc tập thể, thậm
chí thể kết hợp làm việc cùng robot. Bất cứ thời kỳ phát triển hội nào, con người
cũng là yếu tố trung tâm.
2.Hiện nay, _ các nước, trình độ học vấn-chuyên môn- nghề nghiệp- chính trị của giai cấp
công nhân ngày càng được cải thiện, được trí thức hóa. Vậy theo các bạn, công nhân
phải đã tr_ thành trí thức rồi, không còn là công nhân nữa?
Theo nhóm 01 không, bản chất công nhân vẫn công nhân, nhưng vấn đề
trình độ được cải thiện trở thành công nhân trí thức. Công nhân đã được trí thức hóa, với các đặc
trưng: lao động trong các ngành công nghệ cao, được đào tạo kỹ càng, có bằng cấp học vấn cao,
chuyên môn sâu, không chỉ tham gia gia sản xuất và dịch vụ sản xuất vật chất với năng suất lao
động cao mà còn sáng tạo khoa học – nghệ thuật ngày càng đông đảo trong dân cư.
Tthức chủ yếunhững người trình độ học vấn trình độ chuyên môn cao.
Đây là đặc trưng thứ tư, nhưng cần lưu ý thêm: có trình độ học vấn và chuyên môn cao trong
hội, nhưng không phải cứ bằng cấp cao thì trí thức. Bằng cấp cao chỉ một trong những
biểu hiện, dùbiểu hiện đầu tiên. Không phải ai bằng cấp cao sau đại học hay cử nhân đều
được xem là trí thức.
3.Một số quan điểm cho rằng công nhân _ các nước tư bản hiện nay không còn bị bóc lột,
giai cấp công nhân cũng đã được trung lưu hóa, địa vị sự thay đổi căn bản nên không
còn sứ mệnh lịch sử. Bạn nghĩ sao về quan niệm này?
Nhóm chúng mình không đồng tình với quan điểm này, với những lý do như sau:
Trước hết ở nhiều nước tư bản hiện nay đangsự điều chỉnh quan hệ sản xuất thông
qua các chính sách kinh tế, hội. Điều đó đã làm thay đổi, cải thiện đáng kể đời sống vật chất
tinh thần của giai cấp công nhân so với thời kỳ của C.Mác. Giai cấp công nhân ngày nay
không còn hoàn toàn “vô sản”, đã sở hữu thu nhập. Tuy nhiên, cho rằng giai cấp
công nhân ngày nay đã được “thõa mãn nhu cầu”, hết khổ cực, không còn bị bóc lột là hoàn toàn
không đúng. Nhiều công trình nghiên cứu xã hội ở các nước tư bản đã thừa nhận rằng, bên cạnh
sự cải thiện đời sống, thì vẫn còn tình trạng bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân
người lao động, rất nhiều công nhân vẫn phải sống trong cảnh nghèo khổ, túng thiếu; khoảng
cách phân hóa giàu nghèo không những không được rút ngắn mà nó ngày càng doãng ra.
Bên cạnh đó chúng ta cần lưu ý là, chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ cho rằng, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bắt nguồn từ sự nghèo khổ và bần cùng hóa. Sự nghèo khổ,
mức sống thấp kém làm cho công nhân căm thù chế độ đẻ ra tai họa cho người lao động, nhưng
động lực cơ bản thúc đẩy cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân nằm ngay trong bản
chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ mâu thuẫn không thể điều hòa giữa giai cấp
công nhân giai cấp sản. Hơn nữa, cũng không nên quan niệm rằng, một giai cấp khả
năng lãnh đạo cách mạng vì nó là giai cấp nghèo khổ nhất. Trong các xã hội cũ, đã có những giai
cấp hết sức nghèo khổ và phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống giai cấp thống trị, nhưng họ
vẫn không giành và giữ được chính quyền, không trở thành giai cấp làm chủ xã hội, vì họ không
có khả năng tạo ra một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn phương thức sản xuất cũ.
Chính từ những lý do trên nhóm 01 chúng tớ không đồng tình với quan điểm “Công nhân ở
các nước tư bản hiện nay không còn bị bóc lột, giai cấp công nhân cũng đã được trung lưu hóa,
địa vị có sự thay đổi căn bản nên không còn sứ mệnh lịch sử”.
Phần trả lời câu hỏi cho bạn Nguyễn Quang Anh:
1.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Để giành thắng lợi, cách mạng nhất định
phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. giai cấp tiên tiến nhất tổ chức chặt chẽ
nhất”. Song _ thời điểm hiện tại, nhìn vào bộ máy lãnh đạo của nhà nước ta phần đông
xuất thân tri thức. Đơn cử như Chủ tịch nước đương nhiệm ông Văn Thư_ng một
chính trị gia, thạc sĩ triết học. Vậy theo quan điểm của Nhóm, thực tế này có “đi ngược” lại
so với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không? Vì sao?
Về vấn đề này nhóm 01 chúng tớ nghĩ rằng thực tế này không đi ngược” lại so với
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi những lý do sau đây:
Trước hết, trí thức tồn tại với cách không phải một giai cấp, chỉ một đội ngũ hội
đặc biệt. Từ vị trí của mình trong phân công lao động xã hội, trí thức không có quan hệ riêng
trực tiếp với sở hữu liệu sản xuất, không giữ vị trí độc lập trong hệ thống sản xuất, các dấu
hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp; do đó, họ không khả năng đại biểu cho phương
thức sản xuất nào, cho nên họ không phải một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các
giai cấp và tầng lớp xã hội khác. V.I.Lênin chỉ rõ “nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới
trí thức chỉ là một con số không mà thôi”.
Bên cạnh đó, hiện nay, cùng với sự tăng trưởng, phát triển của kinh tế - hội, cuộc sống con
người văn minh hơn nên số người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên trong xã hội cũng tăng theo
là một tất yếu, nhưng phần lớn trong số đó lại là sự bổ sung cho GCCN những lao động có trình độ
cao để đáp ứng yêu cầu của quá trình lao động trong điều kiện cuộc cách mạnh KH-CN phát triển
mạnh mẽ và kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là một trình độ mới của lực lượng sản xuất hiện đại
trong đó vai trò của tri thức, công nghệ ở một số lĩnh vực sản xuất đang tỏ rõ vị thế quan trọng. Xu
thế hướng tới kinh tế tri thức là xu thế chung hiện nay để đổi mới cơ cấu kinh tế từ phát triển theo
bề rộng sang phát triển theo chiều sâu. Năng suất lao động phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ, tri
thức, tay nghề của người lao động. Theo đó, tốc độ “trí thức hóa” công nhân đang diễn ra khá
nhanh và công nhân tri thức đã dần chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động xã hội ở các nước phát
triển và ngay cả ở nước ta. Do vậy, công nhân tri thức là đại biểu tiêu biểu cho giai cấp công nhân
hiện nay. Chính điều này đã làm cho không ít người lầm tưởng rằng trí thức có vị trí chủ đạo trong
phát triển nền sản xuất xã hội và trở thành lực lượng quyết định cải tạo thế giới.
Thực tế hiện nay trí thức đang chiếm một tỷ lệ cao trong tổng số đảng viên của Đảng và
nhiều trí thức là đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Bởi vì,đảng viên của Đảng cộng sản, không nhất thiết đảng viên đó phải là công nhân mà
thể nông dân, trí thức, doanh nhân,… nhưng điều nhất thiết họ phải giác ngộ được SMLS
của GCCN và đứng trên lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp công nhân, tức là mang trong
| 1/23

Preview text:

PHẦN TRẢ LỜI CÂU HỎI CỦA NHÓM 01
Trước hết, Nhóm 01 chúng em xin chân thành cảm ơn sự đóng góp, nhận xét và những câu hỏi
đến từ các nhóm cũng như các cá nhân trong lớp CNXHKH.5. Nhóm chúng em thấy được sự
quan tâm và giúp đỡ đến từ cô và các bạn đã giúp chúng em rất nhiều trong quá trình hoàn thiện
bài thuyết trình của mình.
Và dưới đây sẽ là phần trả lời câu hỏi của Nhóm 01 xin được gửi đến các nhóm cũng như các đại
diện cá nhân trong lớp CNXHKH.5. Trong quá trình theo dõi nếu cảm thấy chưa hài lòng với câu
trả lời hay còn điều gì thắc mắc, Nhóm 01 chúng em rất hy vọng cô và các bạn sẽ nêu lên nhận
xét với nhóm chúng em để chúng em có thể hoàn thiện câu trả lời tốt hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Phần trả lời câu hỏi cho nhóm 02:
1.Tại sao giai cấp công nhân lại đóng vai trò chính trong công cuộc cách mạng mà không
phải là những giai cấp khác chẳng hạn như trí thức hay tư sản?

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, nhân tố quyết định sự phát triển của xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất; trong đó, người lao động là lực lượng sản xuất
hàng đầu. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay trong bất cứ một xã hội nào dựa trên sự phát
triển của nền đại công nghiệp thì lực lượng sản xuất hàng đầu của nó vẫn là người công nhân. 
Thứ hai, trong các giai cấp, tầng lớp xã hội đối lập (mâu thuẫn) giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp công nhân là giai cấp ở vào địa vị mâu thuẫn trực tiếp nhất và có tính đối kháng.
Điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp có tính cách mạng triệt để nhất
trong cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị, áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Trong
cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân dân lao động khỏi ách
thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân (với tư cách là giai cấp
vô sản) không mất gì cả, ngoại trừ mất xiềng xích, còn nếu được thì được cả thế giới. 
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm của nền sản xuất công nghiệp, nhất là nền công nghiệp
hiện đại, khiến cho giai cấp công nhân có được tính tở chức cao với kỷ luật chặt
chẽ.Đồng thời, với sự phát triển mở rộng, có tính xã hội hoá cao của nền sản xuất công
nghiệp khiến cho giai cấp công nhân có được mối quan hệ liên minh mang tính quốc tế
của nó từ cơ sở của nền công nghiệp phát triển và nền kinh tế thị trường mở rộng có xu
hướng quốc tế hoá. Mặt khác, đội ngũ của nó cũng không ngừng lớn mạnh nhờ quá trình
phát triển của công nghiệp hoá ngày càng mở rộng trong phạm vi một quốc gia cũng như
ở nhiều quốc gia khác nhau. 
Thứ tư, giai cấp công nhân là giai cấp thuộc những người lao động, điều đó là cơ sở
khách quan cho sự liên minh vững chắc và lâu dài giữa giai cấp công nhân với các giai
cấp và tầng lớp lao động khác trong toàn xã hội, tạo thành lực lượng cách mạng của công
cuộc cách mạng xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. 
Thứ năm, giai cấp công nhân là giai cấp có được hệ tư tưởng khoa học của nó - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin.
2. Tại sao trong thời kỳ đại công nghiệp, những giai cấp khác như nô lệ, chủ nô,...bị xóa bỏ
trong khi giai cấp công nhân lại được thành lập hay nói cách khác tại sao lại nói giai cấp
công nhân là “ con đẻ “ của nền đại công nghiệp?

Giai cấp công nhân là con đẻ, sản phẩm của nền đại công nghiệp, có tính xã hội hóa
ngày càng cao, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Vì thế, giai cấp
công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại.
Do lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại, giai cấp công nhân là
người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, làm giàu cho xã hội, có vai trò
quyết định sự phát triển của xã hội hiện đại. 
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế quy định giai cấp công nhân là lực lượng
phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay mình, chuyển từ
giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”. Giai cấp công nhân trở thành đại biểu cho sự
tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ chức và lãnh
đạo xã hội, xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ
xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp bức, bóc lột người.
3. Phải làm gì để giai cấp công nhân Việt Nam có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước?

Để thiết thực xây dựng và phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu cấp bách của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, cần đẩy
mạnh việc tuyên truyền và giáo dục về sứ mệnh, vai trò của giai cấp công nhân; chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của công nhân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp, đồng thời, đổi mới phương thức hoạt động của
các tổ chức này phù hợp với tình hình mới.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng kinh tế với tốc độ
cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hòa, lành mạnh; không ngừng nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc biệt là giai cấp công nhân; giữ vững ổn
định chính trị; bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây sẽ là quá trình
phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc tạo ra một thị
trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với phong phú về ngành nghề, đa dạng
về chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công nhân không chỉ về số lượng mà cả chất lượng.
Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
Cần có một chiến dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp trong xã
hội nhằm đề cao, tôn vinh người công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được vai trò và vị trí
quan trọng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế; đồng thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề cho giai
cấp công nhân.
Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát triển giai cấp
công nhân trong tình hình mới. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao động và
việc làm cũng không ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi lực lượng
lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và cơ bản. Do đó, chất lượng lao động,
nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và tăng trưởng cao. Tính cạnh tranh
cao cùng với sự sôi động của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng
nhằm đáp ứng kịp thời và lâu dài nhu cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Trong xã hội
hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo trong xã hội. Đời sống
vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn nghèo nàn. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước
cần cấp thiết có một chiến lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất là đội ngũ
công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó,
trước hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ
sở và chống tham nhũng.

- Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân phải được thực hiện trong một môi
trường kinh tế - xã hội mà mỗi người công nhân luôn có điều kiện phát huy năng lực
của mình và được thụ hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra.
- Cùng với thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ trong các doanh nghiệp, đấu tranh
chống tham nhũng cũng là một vấn đề gây bức xúc trong không ít các doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần. Kiên quyết đấu tranh loại
trừ tệ tham nhũng ra khỏi các doanh nghiệp đó là một việc làm vừa có ý nghĩa phát
triển sản xuất, kinh doanh vừa có ý nghĩa bảo vệ cán bộ và công nhân không bị rơi
vào trạng thái mâu thuẫn trên.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các
doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong các

doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới.
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh
nghiệp được đề cập ở đây là trong các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa.
- Vấn đề đặt ra là, Đảng cần có phương thức lãnh đạo mới, một cơ chế mới để vừa thể
hiện được vai trò lãnh đạo của mình vừa thúc đẩy sự hoạt động một cách có hiệu quả
của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp.
- Sự lãnh đạo sát sao của Đảng đối với tổ chức công đoàn sẽ là một sức mạnh mới
thiết thực góp phần bảo vệ, chăm sóc và phát triển giai cấp công nhân trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. - Bảo vệ quyền lợi chính đáng của công
nhân cũng là một cách xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay.
4.Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, có mối quan hệ biện chứng giữa công nhân, công
nghiệp và chủ nghĩa xã hội (CNXH) (chế độ chính trị). Vậy theo các bạn, ngày nay chế độ
chính trị có còn tác động đến sự phát triển của công nhân và công nghiệp?
Chế độ chính trị ngày nay vẫn luôn và sẽ tác động đến sự phát triển cảu công nhân và
công nghiệp vì: Tư duy mới về chính trị có thể thúc đẩy sự phát triển của GCCN. Chế độ XHCN
đã tạo ra một chất lượng mới, quy mô và tốc độ mới cho công nghiệp hóa. Ngay trong kiểu công
nghiệp hóa này cũng có 2 trình độ là công nghiệp hóa theo mô hình công nghiệp hóa cũ và theo
mô hình công nghiệp hóa mới. Hiện nay, cùng với lý luận công nghiệp hóa mới của thế giới và
xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các nước XHCN có thể thông qua hợp tác - phân công lao
động quốc tế để thực hiện công nghiệp hóa. Chính CNTB cũng cần đến CNXH và tìm đến để
hợp tác trong sản xuất toàn cầu. Đổi mới tư duy chính trị, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, đẩy mạnh hội nhập quốc tế... là xu thế chung của nhiều quốc gia. Giai cấp công nhân đã
xuất hiện với số lượng, chất lượng và diện mạo mới không chỉ từ công nghiệp hóa mà còn từ cải
cách, đổi mới. Nhưng quan trọng hơn, là khả năng phát triển, cơ động xã hội của GCCN và các
giai cấp khác. Trước đây, như nhận định của một tác giả Trung Quốc: “Nhà nước trao cho GCCN
địa vị giai cấp lãnh đạo và thực hiện chính sách phúc lợi toàn xã hội khiến cho GCCN có được
địa vị xã hội và kinh tế “trời phú” rất cao, ở vào vị trí trung tâm trong toàn bộ kết cấu xã hội,
được hưởng một loạt quyền lợi đặc thù, có sự khác biệt với giai cấp nông dân trên nhiều phương
diện và cao hơn nhiều so với nông dân”. Nhưng hiện nay, “thân phận “trời phú” của GCCN
Trung Quốc đương đại bị phá vỡ, chuyển biến từ tượng trưng thân phận sang khái niệm nghề
nghiệp”. “Phương thức hợp đồng hóa nghề nghiệp” thay cho chế độ công nhân, viên chức vĩnh
viễn; quan hệ lợi ích kinh tế thay cho quan hệ hành chính, “từ trạng thái do quá khứ lưu truyền
đến trạng thái do khế ước quy định”. Rõ ràng, công nhân hiện nay không chỉ là sản phẩm của
công nghiệp hóa mà còn là sản phẩm của đổi mới chính trị. Trong một số trường hợp, chính trị,
chính sách đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp và tạo biến đổi sâu sắc đối với GCCN.
5.Những biến động của quá trình toàn cầu hóa tác động như thế nào đến giai cấp công nhân?
Quá trình công nghiệp hóa cùng với cải cách, đổi mới đang tạo ra nhiều đặc điểm mới cho GCCN:
Trước hết quá trình công nghiệp hóa là tác nhân hàng đầu làm biến đổi GCCN hiển nhiên
là các cuộc cách mạng công nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn hơn, yêu cầu đa diện hơn. Trong
hơn 100 năm gần đây nhất người ta đã thấy 3 cuộc cách mạng công nghiệp: lần thứ hai, lần thứ
ba và lần thứ tư. Trong thế kỷ XX, nhân loại cũng đã tiến hành 2 kiểu công nghiệp hóa là công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa (TBCN) và công nghiệp hóa XHCN. Các cuộc cách mạng công
nghiệp với chu kỳ ngày càng ngắn dần: Từ “đại công nghiệp” tức là từ “công nghiệp 1.0” đến
“công nghiệp 2.0” mất gần hai thế kỷ; nhưng từ “công nghiệp 2.0” đến “công nghiệp 3.0” chỉ
khoảng một thế kỷ; còn từ “công nghiệp 3.0” đến “công nghiệp 4.0” chỉ mất 30 năm!
Công nghiệp hóa theo kiểu mới với các đặc trưng: Rút ngắn (diễn ra không tuần tự từ A
đến Z mà phải tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia); gắn với hiện đại hóa (sử dụng thành
tựu khoa học và công nghệ mới, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển bền vững về xã hội và
môi trường, sinh thái...); nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa được chuẩn bị sớm và kỹ hơn; các
yêu cầu ngoài công nghiệp như tính nhân văn, bảo vệ môi trường, sinh thái, tài nguyên cao hơn;
và hội nhập thị trường quốc tế cấp thiết hơn...
Theo đó, lý luận “GCCN là sản phẩm và chủ thể của đại công nghiệp” đã được bổ sung
thêm nhiều nhận thức lý luận mới. Sự phát triển của công nhân gắn liền với hội nhập kinh tế thế
giới, chẳng hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thế và chấp nhận hợp tác, hội nhập
quốc tế. Quá trình sản xuất hàng hóa công nghiệp của công nhân buộc phải đáp ứng các tiêu
chuẩn kỹ thuật quốc tế, đáp ứng những nhu cầu “khó tính” của thị trường... Và kết quả là một sản
phẩm công nghiệp được công nhân tạo ra không chỉ là kết quả của công nghệ - kỹ thuật mà còn
là sự tích hợp những giá trị kinh tế, xã hội, môi trường. Nhiều nước phát triển đã ứng dụng cơ
chế quản lý linh hoạt (FMS) trong công nghiệp để khuyến khích tính linh hoạt, sáng tạo, tối ưu
hóa quá trình sản xuất bằng nhiều nguyên tắc, như thường xuyên đổi mới công nghệ, tiết kiệm
tối đa năng lượng và vật tư, hạn chế thời gian lưu kho bãi, linh hoạt thời gian và địa điểm làm
việc (chế độ làm việc tại nhà). Công nhân hiện đại không còn là “chiếc đinh ốc trong dây chuyền
sản xuất TBCN” mà có tính chủ động hơn, tư duy năng động và đa diện hơn.
Sự phát triển của GCCN ở “các nước đang chuyển đổi” hiện nay còn là kết quả của sự
kết hợp các cơ chế, quy luật của kinh tế thị trường với vai trò của nhà nước và thành phần kinh tế
nhà nước; với chính sách đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ nhân lực, dần chuyển dịch mô
hình kinh tế từ phát triển “bề rộng” là chủ yếu sang phát triển theo “chiều sâu”. Công nhân
không chỉ là sản phẩm của công nghiệp hóa mà còn là kết quả tổng thành của chế độ chính trị và
cơ chế kinh tế thị trường. Trình độ làm chủ và sáng tạo công nghệ, tư duy kinh tế thị trường,
năng lực tổ chức quản lý của GCCN ở các nước cải cách, đổi mới đều đã có bước tiến lớn. Quan
tâm đến lợi ích chính đáng của người lao động, kết hợp hài hòa lợi ích của người lao động với lợi
ích của tập thể và lợi ích của xã hội..., vừa là tư duy kinh tế phù hợp, vừa là sự thể hiện tính chất XHCN trong phát triển.
6.Vì sao trong kinh tế tri thức giai cấp công nhân vẫn là giai cấp quyết định nhất đến tồn
tại và phát triển xã hội?
Trong kinh tế tri thức, GCCN vẫn là giai cấp quyết định nhất đến tồn tại và phát triển xã hội vì:
Một là, thực chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là gì và lực lượng nào là quyết
định nhất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, trong chặng đường trước mắt là chuyển
toàn bộ các ngành sản xuất (công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp...) từ lao động thủ công, nửa cơ
khí và cơ khí với công nghệ lạc hậu, lỗi thời sang sản xuất chủ yếu bằng công cụ cơ khí hiện đại,
công nghệ tiên tiến. Như vậy là cả hai khâu: chế tạo công cụ hiện đại và điều khiển, vận hành
máy móc, công cụ đó, không ai khác là công nhân, trước hết là công nhân cơ khí và công nhân
công nghệ hiện đại. Đành rằng mấy năm lại đây nhằm hiện đại hóa nền sản xuất công nghiệp,
nước ta đã và đang nhập ngày càng nhiều máy móc hiện đại; nhưng cũng chỉ nhập những máy
móc và từng chi tiết máy móc hiện đại mà trong nước chưa sản xuất được; và quan trọng hơn,
công nhân và cán bộ kỹ thuật nước ta đã và đang vươn lên chế tạo máy móc hoặc bộ phận máy
móc thay thế cho nhập ngoại. Còn người điều khiển và vận hành máy móc hiện đại, tuyệt đại bộ
phận là công nhân ta. Trong thực tế, công nhân ta đã và đang làm tốt; và trong không ít ngành
nghề, công nhân ta không kém gì công nhân khu vực mà các sản phẩm đứng vững trong cạnh
tranh thị trường thế giới và hai kỳ thi công nhân kỹ thuật ASEAN là một minh chứng.
Hai là, sự khác biệt cơ bản giữa nền kinh tế công nghiệp với nền kinh tế tri thức là một
đằng, sản phẩm được tạo ra bằng lao động cơ bắp là chủ yếu; một đằng, sản phẩm được tạo ra
bằng lao động trí tuệ là chủ yếu. Như vậy, cho dù đến khi có nền kinh tế tri thức phát triển (hàm
lượng trí tuệ chiếm 70% trở lên trong tổng sản phẩm xã hội), vẫn cần một lực lượng lao động
chân tay và một hàm lượng lao động cơ bắp đáng kể trong lực lượng GCCN và sản phẩm công
nghệ. Hơn thế nữa, cho dù là kinh tế tri thức và công nghệ hiện đại, người công nhân vẫn giữ vai
trò quan trọng cùng trí thức tạo ra sản phẩm trí tuệ, vẫn là lực lượng quyết định vận hành nền
kinh tế tri thức. Tất nhiên, lúc đó phải là tầng lớp công nhân trí thức.
Như vậy, đất nước càng đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước
phát triển nền kinh tế tri thức như Đại hội IX của Đảng đã quyết định, càng làm nổi bật vai trò đi
đầu và quyết định của GCCN và trí thức nước ta; chứ vai trò ấy không hề suy giảm và bị hạ thấp
như không ít người quan niệm. Vấn đề là làm sao để GCCN nhanh chóng vươn lên đảm đương
được sứ mệnh nặng nề và vẻ vang đó. CĐ phải là lực lượng GCCN có tổ chức rộng lớn và chặt
chẽ đủ sức đảm đương sứ mệnh vẻ vang và nặng nề đó.
Phần trả lời câu hỏi cho nhóm 03:
1.Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, địa vị xã hội của giai cấp công nhân biểu hiện như thế nào?
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân về cơ bản là những người không có tư
liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột về giá trị thặng dư
2.Vai trò của giai cấp công nhân trong thời đại 4.0 khi con người dần bị thay thế b_i máy
móc và quá trình tự đô `ng hóa?
Dưới thời đại công nghiệp 4.0, giai cấp công nhân vừa phải đối mặt với không ít những
khó khăn nhưng bên cạnh đó cũng là những cơ hội:  Những cơ hội:
Về chất lượng của giai cấp công nhân, sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 càng làm cho
trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của công nhân được nâng cao. Một điều hiển nhiên là, để
làm chủ những công cụ hiện đại mà cách mạng 4.0 mang lại thì đòi hỏi công nhân phải không
ngừng học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng được đòi hỏi của dây chuyền sản xuất
hiện đại. Ở một khía cạnh khác, khoa học công nghệ ngày càng phát triển, trình độ phát triển của
giáo dục đào tạo cũng ngày càng cao, giúp GCCN hiện đại có đủ tri thức, năng lực sáng tạo và
khả năng làm chủ công nghệ cao để tự giải phóng mình và tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới – xã hội XHCN.
Tuy sẽ có sự đe dọa đến số lượng công nhân do sự ra đời của các máy móc tự động nhưng đây
cũng có thể được xem là 1 cơ hội bởi trong thời gian tới làn sóng công nghệ mới ra đời sẽ tạo ra
những làn sóng kinh doanh mới và việc làm mới. Cuộc cách mạng 4.0 cũng làm cho khả năng
khởi nghiệp của các nhóm nhỏ với các sản phẩm và dịch vụ mới ra đời. Và hệ quả tất yếu sẽ làm
cho GCCN không ngừng tăng lên.  Những khó khăn:
Cách mạng 4.0 sẽ đem lại lợi ích kinh tế nhiều nhất cho những người phát minh, nhà đầu tư
chứ không phải là người lao động thông thường. Bên cạnh đó, khi máy móc tự động hóa dần
thay thế con người trong lao động sản xuất, người lao động sẽ bị mất việc làm, giảm thu nhập.
Từ đó dẫn đến những bất bình đẳng, làm cho những mâu thuẫn trong phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa ngày càng trở nên sâu sắc.
Một bộ phận công nhân sẽ được trả lương cao nhờ có tài năng, tri thức, kỹ năng cao. Và do đó
có cuộc sống trung lưu; có tư liệu sản xuất phụ; một số ít khác có cổ phần cổ phiếu trong các nhà
máy xí nghiệp… Tuy nhiên, mọi tư liệu sản xuất chủ yếu vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản.
Những người hưởng lợi lớn nhất của cuộc cách mạng 4.0 vẫn là các nhà tư bản. Nếu như trước
kia người công nhân chỉ bán sức lao động cơ bắp là chủ yếu, thì ngày nay họ còn bán luôn cả sức
lao động trí óc và cả chất xám cho nhà tư bản. Họ vẫn là giai cấp làm thuê, bị giai cấp tư sản bóc
lột giá trị thặng dư dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Những điều này sẽ thúc đẩy quá trình thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
3.Tại sao nói Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm kết hợp của chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân?
Đảng cộng sản xuất hiện trên cơ s_ phong trào công nhân.
Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là kẻ đào mồ chôn chủ
nghĩa tư bản và xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, nếu được lãnh đạo bởi bộ tham mưu và đội
tiên phong của mình là đảng cộng sản. 
Muốn cho đảng cộng sản có thể ra đời, cần phải có sự tồn tại của học thuyết Mác - Lênin.
Xét về mặt lịch sử, học thuyết vĩ đại này xuất hiện trước khi có sự ra đời của đảng cộng sản,
và ở bên ngoài phong trào tự phát của công nhân
Học thuyết Mác là sản phẩm của những điều kiện phát triển nhất định của chủ nghĩa tư bản
và của phong trào công nhân. Theo Lênin, phong trào công nhân không thể thắng lợi nếu như
không có lý luận cách mạng khoa học “Lý luận này không thể do tưởng tượng mà bịa đặt ra. Lý
luận này được hình thành trên cơ sở tổng hợp kinh nghiệm cách mạng và tư tưởng cách mạng
của tất cả các nước trên trái đất.
V. Lênin nhấn mạnh rằng: Chủ nghĩa xã họi khoa học “chỉ có thể trở nên sức mạnh, khi nó
trở thành mục tiêu của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân. Chỉ trong điều kiện này,
lý luận cách mạng mới trở nên sức mạnh cải tạo, mới được quán triệt vào đời sống, mới được
phát triển sáng tạo và phong phú, trên cơ sở kinh nghiệm đấu tranh mới của giai cấp công nhân và đảng của nó. 
Đảng cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.
Sự kết hợp giữa lý luận cách mạng khoa học và phong trào công nhân, trước hết là một quá
trình tất yếu của việc thành lập đảng. Đó là thời kỳ lịch sử, trong đó từ giai cấp công nhân, đã
xuất hiện đội tiên phong của mình; những phần tử tiên tiến này tập hợp thành tổ chức chính trị, thành đảng cộng sản.
Nhờ được kết hợp với phong trào công nhân, học thuyết mác - xít mà được tiếp thu bởi Đảng
cộng sản đã có cơ sở để gắn liền với thực tiễn, để phát triển không ngừng, và trở nên vũ khí tư
tưởng của phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh giành giải phóng. Bản thân phong trào
công nhân, được chỉ đạo bởi tư tưởng xã hội chủ nghĩa khoa học cũng đổi thay về chất. Phong
trào công nhân vượt ra khỏi giới hạn của chủ nghĩa nghiệp đoàn. Nhờ được kết hợp với chủ
nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp của công nhân đã thật sự mang tính chất chính trị. Theo
V.Lênin, cuộc đấu tranh của công nhân trở nên đấu tranh giai cấp thật sự, khi nào cuộc đấu tranh
ấy được học thuyết mác - xít soi sáng.
4.Thế nào là lực lượng sản xuất hàng đầu? Thế nào là giai cấp tiên phong trong thời kỳ CN
hoá, hiện đại hoá? Làm gì để GCCN - lực lượng sản xuất hàng đầu thực sự phát triển, thực sự tiên phong?

Lực lượng sản xuất hàng đầu là:
Lực lượng sản xuất là tổng hợp toàn bộ những yếu tố vật chất và ý thức tạo thành sức
mạnh cải biến giới tự nhiên theo nhu yếu sống sót và tăng trưởng của con người. Nó được dùng
trong quá trình sản xuất của xã hội qua các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, Lực lượng sản
xuất gồm có hai bộ phận cơ bản đó là tư liệu sản xuất và người lao động.
Và lực lượng sản xuất hàng đầu là những tư liệu sản xuất tiên tiến nhất, đem lại năng
suất cao. Còn với người lao động thì là những người lao động có trình độ cao, đáp ứng được
những yêu cầu của sản xuất, góp phần tạo ra năng suất tối đa cho sản xuất. 
Giai cấp tiên phong trong thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
Ở nước ta, giai cấp công nhân luôn là lực lượng tiên phong của cách mạng Việt Nam,
góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang của dân tộc. Trong công cuộc đổi mới, nhất
là từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công
nhân có vai trò đặc biệt quan trọng. Giai cấp công nhân trực tiếp làm việc trong các công
xưởng, nhà máy, doanh nghiệp, trong các lĩnh vực của ngành kinh tế công nghiệp, trực tiếp
tiếp nhận công nghệ tiên tiến đưa vào sản xuất, cải tiến công cụ, quy trình, quản lý... Đó là
những người chủ trong ngành công nghiệp, người đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay. Đảng đã khẳng định: Giai cấp công
nhân nước ta là “lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” 
Để GCCN trở thành giai cấp thực sự tiên phong, cần:
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng kinh tế
với tốc độ cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hòa, lành mạnh; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc biệt là giai cấp công
nhân; giữ vững ổn định chính trị; bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Một xã hội
ổn định, phát triển toàn diện và hài hòa không chỉ là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của
giai cấp công nhân mà còn của mọi người dân trong xã hội.
Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy hoạch
nền kinh tế, vùng kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp với sự phát triển nền
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu
tư nước ngoài, khuyến khích các tập thể cá nhân phát triển sản xuất - kinh doanh, chủ động và
tích cực tham gia vào thị trường lao động quốc tế, phát triển cảng biển, hệ thống đường giao
thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không, xây dựng những khu công nghiệp, khu chế xuất mới...
Đây sẽ là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại; đồng thời, hướng tới việc
tạo ra một thị trường lao động công nghiệp mới, thu hút nhiều lao động với phong phú về ngành
nghề, đa dạng về chủng loại. Quá trình này sẽ phát triển giai cấp công nhân không chỉ về số
lượng mà cả chất lượng.
Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của người công nhân
còn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của xã hội hiện nay, hình ảnh người công nhân chưa
phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều kiện như thế, để giai cấp công nhân có điều kiện khẳng
định được vai trò, vị trí của mình cũng như hoàn thành được sứ mệnh lịch sử cao quý của mình
cần có một chiến dịch tuyên truyền, vận động rộng khắp trong xã hội nhằm đề cao, tôn vinh
người công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của giai cấp công
nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; đồng
thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay
nghề cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát
triển giai cấp công nhân trong tình hình mới. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một nhu cầu mới về nguồn
nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh tranh cao, lao
động và việc làm cũng không ngoài tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử dụng lao động đòi hỏi
lực lượng lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và cơ bản. Do đó, chất lượng lao
động, nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát triển và tăng trưởng cao. Đối với
người lao động, khi tham gia thị trường lao động nếu chưa được đào tạo cơ bản, đáp ứng nhu cầu
thực tế của thị trường lao động, thì rất khó tìm được việc làm, và nếu có, thì cũng thường là việc
làm không ổn định, lao động giản đơn, nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với
sự sôi động của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng kịp
thời và lâu dài nhu cầu nguồn lực con người cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Trong
xã hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo trong xã hội. Đời
sống vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn nghèo nàn. Đây là một nghịch lý rất
đáng suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến, ưu tú, nắm quyền lãnh đạo xã hội mà lại nghèo. Vì lẽ đó, Đảng
và Nhà nước cần cấp thiết có một chiến lược thiết thực chăm lo đời sống người công nhân, nhất
là đội ngũ công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung đông ở các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trong đó, trước hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà ở và tiền lương. Có như thế, giai cấp
công nhân mới thoát khỏi những bức bách của đời sống, có điều kiện học tập, rèn luyện nâng cao
tay nghề và ý thức xã hội. Chỉ khi đó, đội ngũ công nhân trẻ này mới gắn bó sâu sắc với sự
nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, có ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân
chủ _ cơ s_ và chống tham nhũng. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân phải được thực
hiện trong một môi trường kinh tế - xã hội mà mỗi người công nhân luôn có điều kiện phát huy
năng lực của mình và được thụ hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra. Muốn thế, cần
thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ trong các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một khi
người công nhân được tôn trọng, được thực sự góp phần vào quá trình phát triển doanh nghiệp
thì sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, công nhân yên tâm và hăng say làm việc,
sáng tạo mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và bản thân.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội
trong các doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các
tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp được đề cập ở đây là trong các doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong quá trình chuyển đổi vừa qua, phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với doanh nghiệp cũng như đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong các
doanh nghiệp còn lúng túng, có nhiều bất cập. Chính vì vậy, vị thế, vai trò của Đảng trong các
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp đã cổ phần hóa khá mờ nhạt. Các tổ chức chính trị - xã
hội trong nhiều doanh nghiệp hầu như rất lúng túng trong phương hướng hoạt động, không hoạt
động hoặc hoạt động chỉ mang tính hình thức.
5.GCCN hiện đại ngày nay và GCCN thế kỷ 19 có những điểm khác nhau nào? Những
điểm khác nhau ấy có làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hay không?
-Những điểm khác nhau của giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp công nhân ở thế kỉ XIX:
a.Về số lượng:
Có phân tích cho rằng: “Khi C. Mác viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, năm
1848, trên thế giới chỉ có khoảng 10 - 20 triệu công nhân, tương đương chiếm 2%
- 3% số dân toàn cầu và chỉ trong vài lĩnh vực có máy móc. 
Đến đầu thế kỷ XX, toàn thế giới có 80 triệu công nhân. 
Theo nguồn cung của báo VnExpress thì Hiện nay có khoảng 1,6 tỷ người lao
động ăn lương, tăng thêm 600 triệu kể từ giữa những năm 1990, hơn 1 tỷ trong số đó là công nhân”[1]. 
Số liệu về số lượng công nhân có thể khác nhau đôi chút, nhưng nhận thức chung
là sự tăng lên mạnh mẽ của lao động công nghiệp trên thế giới trong vài thập niên gần đây.
b.Về nguồn gốc xuất thân:
Ở thời C. Mác, giai cấp công nhân giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất
thân chủ yếu từ nông dân, nông thôn. 
Nhưng khoảng từ giữa thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đô thị hóa và đông đảo cư
dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của GCCN khiến cho
quá trình đô thị hóa trên thế giới có sự khác biệt so với những thế kỷ trước. Đô thị
hóa làm xuất hiện ngày một đông đảo hơn đội ngũ lao động làm thuê, làm cho số
lượng của GCCN hiện nay đông đúc hơn, đa dạng hơn với nhiều ngành nghề khác
nhau. GCCN hiện nay bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. c.Về cơ cấu:
Ngày nay, nền kinh tế thị trường làm cho cơ cấu GCCN ngày càng đa dạng hơn.
Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng với cách tổ chức xã hội hiện đại cũng
làm cho cơ cấu của giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó
liên tục phải điều chỉnh theo hướng mở rộng: 
theo lĩnh vực (công nhân làm việc trong lĩnh vực công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ); 
theo trình độ công nghệ (công nhân áo xanh - công nhân của công nghiệp truyền
thống; công nhân áo trắng - công nhân có trình độ đại học, cao đẳng, chủ yếu làm
công việc điều hành, quản lý sản xuất; công nhân áo vàng - công nhân của các
ngành công nghệ mới, công nhân áo tím - công nhân dịch vụ - lao động đơn giản
như gác cầu thang, vệ sinh đô thị...). 
Thêm vào đó là phân loại công nhân theo sở hữu (có cổ phần, có tư liệu sản xuất
và trực tiếp lao động tại nhà để sống và công nhân không có cổ phần, chỉ sống
bằng sức lao động của mình). 
Phân loại công nhân theo chế độ chính trị (công nhân ở các nước phát triển theo
định hướng XHCN; ở các nước G7; ở các nước đang phát triển...). d.Về đặc điểm:
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa dẫn đến sự thay đổi tích cực về đặc điểm
của GCCN. GCCN hiện nay có thể sử dụng thành tựu khoa học và công nghệ
mới, đáp ứng những yêu cầu mới về phát triển bền vững về xã hội và môi trường,
sinh thái…, nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa được chuẩn bị sớm và kỹ hơn và
hội nhập thị trường quốc tế cấp thiết hơn… 
Trong thế kỷ XXI này, sự phát triển của công nhân gắn liền với hội nhập kinh tế
thế giới, chẳng hạn, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu từ lợi thế và chấp nhận
hợp tác, hội nhập quốc tế. Có thể nói, trình độ, tư duy kinh tế thị trường, năng lực
tổ chức quản lý của GCCN ở các nước cải cách, đổi mới đều đã có nhiều sự phát triển vượt bậc. 
Ngoài ra cũng có một số sự khác nhau như điều kiện sống và làm việc, công nghệ
và tổ chức lao động,…
- Những điểm khác biệt ấy không làm thay đổi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Trong xã hội tư bản, các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp; trái lại, GCCN là sản phẩm của nền đại công nghiệp, là LLSX tiên tiến, đại
diện cho PTSX tiên tiến - PTSX cộng sản chủ nghĩa. Đây là điều quyết định GCCN là giai cấp
duy nhất có sứ mệnh thủ tiêu CNTB, xây dựng CNXH, CNCS.
Công nhân hiện nay dù có cổ phiếu, cũng chẳng làm thay đổi được địa vị làm thuê và bị
bóc lột trong xã hội tư bản. Họ không trở thành “nhà tư bản” theo cách tuyên truyền của các lý
luận gia tư sản, mà chỉ là “nhà tư bản” đối với chính mình. Chế độ cổ phiếu thật sự là phương
pháp hữu hiệu cột chặt người lao động và bắt họ lệ thuộc hơn nữa vào giới chủ. trong lòng thế
giới tư bản hiện đại, mâu thuẫn vốn có giữa LLSX hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về TLSX không những vẫn còn tồn tại, mà có mặt còn sâu
sắc hơn và lan ra phạm vi rộng hơn. Cho dù CNTB hiện đại có những biến đổi và phát triển như
thế nào, thì bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Sự phát triển của các tập đoàn tư bản,
các công ty tư bản xuyên quốc gia cùng sự bòn rút tài nguyên và bóc lột nhân dân nhiều nước
thuộc thế giới thứ ba; các cuộc chiến tranh đẫm máu chống các quốc gia có chủ quyền do chủ
nghĩa đế quốc phát động... là nguyên nhân chủ yếu khiến cho hơn 500 triệu người bị đe dọa chết
đói, 1,6 tỷ người sống trong cảnh khốn cùng, 600 triệu người thất nghiệp, hơn 800 triệu người mù chữ...
6.Theo như sứ mệnh lịch sử thì GCCN có trách nhiệm xoá bỏ CNTB, tuy nhiên xét _ nhiều
góc độ CNTB vẫn mang đến cho thế giới những tiến bộ và phát triển mang tính cách mạng.
Liệu sứ mệnh xoá bỏ CNTB này có còn phù hợp hay không ?
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản với mục tiêu chính là giành
lại quyền lợi cho giai cấp công nhân, hay nói cách khác chính là đấu tranh giành quyền lợi cho
giai cấp này. Do đó, khi nào giai cấp tư sản vẫn còn bóc lột, xâm phạm đến quyền lợi của giai
cấp công nhân thì lúc đấy sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vẫn còn và sẽ không bao giờ bị
xóa bỏ.(Các ví dụ cho sự bóc lột của CNTB với giai cấp công nhân có thể thấy ở câu 5)
7.Vì sao nói giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất?
Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để nhất bởi vì lợi ích của họ mâu
thuẫn trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Lợi ích của giai cấp công nhân chỉ
thực sự được đảm bảo khi xoá bỏ triệt để chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
và các hình thức tư hữu khác. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công
nhân chỉ được giải phóng khi đồng thời giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân còn được thể hiện
trong tiến trình cách mạng không ngừng cho tới khi xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới. 
Họ đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại. Được trang bị lý luận khoa học và luôn đi đầu
trong mọi phong trào cách mạng. Bên cạnh đó, họ không gắn với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất Phần
trả lời câu hỏi nhóm 04:
1.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Để giành thắng lợi, cách mạng nhất định
phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ
nhất”. Song _ thời điểm hiện tại, nhìn vào bộ máy lãnh đạo của nhà nước ta phần đông có
xuất thân tri thức. Đơn cử như Chủ tịch nước đương nhiệm ông Võ Văn Thư_ng là một
chính trị gia, thạc sĩ triết học. Vậy theo quan điểm của Nhóm, thực tế này có “đi ngược” lại

so với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không? Vì sao? Trả lời:
Quan điểm của nhóm : Thực tế này không đi ngược lại với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vì: ( cách mạng muốn thành công giai cấp công nhân phải đặt dưới sự lãnh đạo của đảng )
Nhìn nhận từ quá trình hình thành và phát triển của công nhân việt nam họ đi từ bộ phận
bị bóc lột và ít học qua từng giai đoạn giai cấp công nhân việt nam ngày càng một trưởng thành
về tư duy và tư tưởng chính trị .Cho đến nay giai cấp công nhân nước ta đã có những biến đổi vô
cùng to lớn ,từ người làm thuê cho tư bản , đế quốc trở thành người làm chủ đất nước .Giai cấp
công nhân phát triển về cả số lượng , cơ cấu ,trình độ , tay nghề và đặc biệt về bản lĩnh chính trị
….. thể hiện và khẳng định vị thế làm chủ đất nước , đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới và
xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc .
Từ thực tế đó và trên cơ sở chủ tịch hồ chí minh và đảng ta xác định : “Giai cấp công
nhân là một lực lượng xã hội to lớn ,đang phát triển ,bao gồm người lao động và trí óc ( Võ Văn
Thưởng)và người lãnh đạo là phải những người có tri thức mới đề ra được những đường lối phát
triển . Hội nghị trung ương 6 khóa X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân việt nam thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước khẳng định :’ Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch
sử to lớn là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là ĐCSVN, giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội , lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa , hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh ,
lực lượng nòng cốt của liên minh giai cấp công nhân , nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của đảng .
2.Nêu suy nghĩ của nhóm về việc: hiện nay trong xã hội, một số bộ phận trong giai cấp công
nhân có biểu hiện “phai nhạt” về chính trị, quan tâm chủ yếu về những lợi ích kinh tế, ít
quan tâm đến những vấn đề lâu dài có tính chiến lược như bản lĩnh chính trị, trách nhiệm,
vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vậy, Nhà nước nên có biện pháp như thế

nào để giải quyết, khắc phục tình trạng này. Và, vấn đề nổi bật nhất đối với việc thực hiện
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là gì? Tại sao?
Trả lời :
Hiện nay trong xã hội, một số bộ phận trong giai cấp công nhân có biểu hiện “phai nhạt”
về chính trị, quan tâm chủ yếu về những lợi ích kinh tế, ít quan tâm đến những vấn đề lâu dài có
tính chiến lược như bản lĩnh chính trị, trách nhiệm, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân( đây chỉ là một bộ phận nhỏ và không chỉ dừng lại ở đấy Ở Việt Nam, đấu tranh trong giai
đoạn quá độ là tất yếu. Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay còn có những lực lượng đi ngược lại lợi ích của
dân tộc, của nhân dân, của cách mạng, của Đảng. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong đó có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, cái cách mạng, tiến bộ và cái bảo
thủ, trì trệ, v.v. nên đấu tranh giai cấp là tất yếu( nhưng đây chỉ là một bộ phận nhỏ bởi nhà nước
ta là một nhà nước do dân và vì dân nên mọi người có quyền và nghĩa vụ phát triển đất nước .
Trước tiên muốn thay đổi điều này phải xuất phát từ nội tại của mỗi bản thân công nhân
bác hồ đã từng có 6 điều dạy đối với giai cấp công nhân từ thay đổi nhận thức chính trị và nhận
thức rõ nhiệm vụ của mình . Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có người xã hội chủ nghĩa
công nhân phải trở thành người xã hội chủ nghĩa . Muốn thành người xã hội chủ nghĩa phải có tư
tưởng xã hội chủ nghĩa phải chống chủ nghĩa cá nhân phải có tinh thần làm chủ đất nước . phải
đặt lợi ích dân tộc và giai cấp lên lợi ích cá nhân , chống thói kèn cựa , suy bì ích kỷ làm trọn
nhiệm vụ của đảng và nhà nước giao cho phải đẩy mạnh phát triển sản xuất phát triển kinh tế .
Đảng và nhà nước có vai trò lãnh đạo , nhiệm vụ xây dựng đội ngũ công nhân tiến bộ
theo định hướng XHCN . làm cho người dân tin tưởng vào bộ máy lãnh đạo .
Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ thực chất “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng
lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng”; Nội dung chủ yếu
cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và
hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá các thế
lực thù địch; bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Những nội dung của cuộc đấu tranh giai cấp trên đây là rất lớn lao và phức tạp. Để thực
hiện được nhiệm vụ đó, chúng ta phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, vừa mềm
dẻo, vừa kiên quyết, bao gồm cả đấu tranh trực diện bằng bạo lực, trấn áp đối với thế lực thù
địch trong nước và trên thế giới luôn tìm cách ngăn cản, phá hoại cuộc cách mạng của nhân dân
ta, đấu tranh bằng giáo dục, tuyên truyền, vận động, cả hành chính và đấu tranh chống khuynh
hướng bảo thủ, tiêu cực của tầng lớp tư sản nói riêng.
Đấu tranh ở đây không có nghĩa là phá hoại sự ổn định xã hội mà chính là thông qua đấu
tranh để ngăn chặn, loại trừ những phần tử bảo thủ, thoái hóa, biến chất và chống đối nhằm củng
cố, tăng cường và phát huy vai trò của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân.
Hiện nay, cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta vẫn đang tiếp tục diễn ra một cách khá gay
gắt và phức tạp. Sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đang đứng trước nhiều thách
thức, khó khăn mới. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ ý đồ phá hoại, lật đổ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp gây bạo
loạn lật đổ, với những âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đặc biệt, chúng đang ra
sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và những yếu kém, sự suy thoái, biến
chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; xuyên tạc đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; chia rẽ các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra mâu thuẫn,
xung đột trong xã hội để làm suy yếu và lật đổ chế độ ta. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chúng ta cần
tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc đồng thời tiếp tục nghiên cứu để thấy rõ đặc điểm, nội
dung, hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực trong điều kiện mới.
3.Trong “Giáo trình CNXHKH” (NXB Chính trị quốc gia sự thật - 2021), nhóm tác giả đã
viết “Cũng giống như thế kỷ XIX, _ các nước TBCN hiện nay, công nhân vẫn bị giai cấp tư
sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư.” (tr66). Tuy nhiên, một số người khác cho
rằng, “học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác đã lỗi thời, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã thay

đổi bản chất, không còn là chế độ bóc lột nữa” ... Nêu ý kiến của nhóm bạn về vấn đề trên. Trả lời:
Nhóm mình không đồng ý với quan điểm trên. Vì các lý do sau:
Trước tiên phải hiểu giá trị thặng dư là gì ? Giá trị thặng dư mức độ dôi ra khi lấy
mức thu của một đầu vào nhân tố trừ đi phần giá cung của nó .ví dụ như về việc nộp tô cho chủ
sở hữu những miếng đất màu mỡ . Mác đã nghiên cứu giá trị thặng dư dưới giác độ hao phí lao
động , trong đó công nhân sản xuất ra nhiều hơn chi phí trả cho họ - yếu tố quy định bởi mức tiền
lương tối thiểu chỉ đảm bảo cho họ tồn tại với tư cách người lao động . Theo Mác sự bóc lột công
nhân chỉ có thể được loại trừ nếu nhà tư bản trả cho họ toàn bộ giá trị mới được tạo ra .
Đã gọi là giai cấp tư bản dù trước hay hiện nay bản chất vẫn không thay đổi . Bản
chất của chủ nghĩa tư bản chính là quan hệ bóc lột của tư bản đối với công nhân làm thuê dưới
hình thức giá trị thặng dư .Quá trình sản xuất tư bản là sự thống nhất giữa quá trình lao động tạo
ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Nhà tư bản dùng tiền mua tư liệu sản
xuất , sức lao động và tiến hành sản xuất . quá trình sản xuất có đặc trưng là công nhân lao động
dưới sự kiểm soát của tư bản sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của tư bản .Nhìn vào thực tế tập
đoàn Amazon hay phong trào công nhân áo vàng ở pháp nếu chủ nghĩa tư bản thay đổi thì đã
không có những phong trào này xảy ra. Như vậy học thuyết giá trị thặng dư của Mác không hề
lỗi thời và vẫn có giá trị có đến thời điểm hiện tại.
Phần trả lời câu hỏi nhóm 07:
1. Giai cấp công nhân _ Việt Nam có những điểm mạnh và hạn chế như thế nào? Liệu giai
cấp công nhân _ Việt Nam có thể tiếp thu được những gì từ giai cấp công nhân trên toàn thế giới?
- Điểm mạnh và hạn chế của giai cấp công nhân ở VN: + Điểm mạnh: 
Qua 35 năm đổi mới giai cấp công nhân Việt Nam đã tăng về số lượng, trưởng thành về
chất lượng và khẳng định, và giai cấp công nhân ngày càng phát huy vai trò, địa vị của
mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. 
Công nhân lao động Việt Nam ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành nghề, trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp nhanh chóng tiếp thu những thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại và đã bắt đầu hình thành ý thức về giá trị của bản thân thông qua lao động. 
Đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận CN trí thức (có trình độ ĐH, CĐ trở lên) làm
công tác quản lý, nghiên cứu và quản lý khoa học kỹ thuật gắn với sản xuất kinh doanh. 
Hằng năm đóng góp trên 50% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 60% ngân sách nhà
nước. Đó là những giá trị thực không thể phủ nhận. 
Độ tuổi bình quân của công nhân nước ta nhìn chung trẻ, nhóm công từ 18 đến 30 tuổi
chiếm 36,4%, hầu hết công nhân được tiếp cận với kinh tế thị trường nên năng động,
thích ứng nhanh với công nghệ hiện đại. + Hạn chế: 
Giai cấp công nhân Việt Nam chiếm tỷ lệ không lớn so với dân số cả nước. 
Trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động còn thấp so với yêu
cầu phát triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật
giữa các bộ phận công nhân. Trình độ nghề nghiệp của công nhân tuy đã được nâng cao,
nhưng nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. 
Đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được đảm bảo, môi trường làm việc độc
hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng 
Ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân còn yếu. Ý
thức chính trị, nhận thức về luật pháp của công nhân còn hạn chế. Tỷ lệ đảng viên, đoàn
viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp. 
Vai trò của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa đáp ứng được sự
phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu của GCCN. Công tác phát triển đảng trong công nhân chậm.
-Liệu giai cấp công nhân VN có thể tiếp thu những gì từ giai cấp công nhân trên thế giới: 
Công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa, thực hiện chủ trương vừa "đi sau", "đi
cùng", vừa "đón đầu" những thành tựu KHCN mới nhất của nhân loại theo kế hoạch và
mục tiêu của đất nước ta; tránh "tụt xa hơn nữa" về kinh tế - kỹ thuật so với khu vực và
thế giới. Đó là cơ sở vật chất - kỹ thuật trực tiếp nhất để hình thành GCCN hiện đại Việt Nam thực sự lớn mạnh. 
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập kinh tế, nhiều vấn đề phải được làm sáng tỏ như: sự trí thức hoá
GCCN, về việc công nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp, về mối quan hệ giữa GCCN
với các giai cấp khác trong xã hội, về sự phân tầng mối quan hệ trong nội bộ GCCN, về
các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp, quan hệ giữa người sử dụng lao
động và người lao động, về mối quan hệ giữa GCCN Việt Nam và GCCN các nước trong
điều kiện toàn cầu hoá v.v. 
Tăng cường củng cố, xây dựng GCCN Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển chung của
GCCN thế giới nói chung và GCCN Việt Nam nói riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. 
Từ thực trạng của GCCN các nước tư bản phát triển và GCCN nước ta hiện nay có thể
đưa ra một số xu hướng phát triển của GCCN Việt Nam trong giai đoạn tới. 
Thứ nhất, GCCN sẽ tiếp tục có sự thay đổi lớn về cơ cấu, số lượng, chất lượng và quyền sở hữu tài sản. 
Thứ hai, trí tuệ hoá, tri thức hoá GCCN sẽ là xu hướng tất yếu khi nước ta đẩy
mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cho đến khi về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. 
Thứ ba, sự phân tầng trong GCCN do trình độ học vấn, trình độ chuyên môn và
mức độ sở hữu tài sản sẽ dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích, khoảng cách giàu nghèo
trong nội bộ GCCN và sự không đồng nhất về nhiều mặt. Sự hình thành các tầng
lớp khác nhau trong nội bộ GCCN sẽ dẫn đến những lợi ích khác nhau và do đó ý
thức cũng khác nhau. Chính sự khác nhau này sẽ sinh ra không ít nguy cơ về tư
tưởng, nhận thức, ý thức tổ chức từ đó giảm sức mạnh đoàn kết của GCCN. Đây
là một trong những hệ quả gây nhiều rắc rối nhất cho PTCN và công đoàn cho sự
lãnh đạo của Đảng đối với GCCN và công đoàn.
Nhận thức đầy đủ các xu hướng này để có những đối sách thích hợp nhằm làm cho GCCN dù
trong hoàn cảnh nào cũng giữ được vai trò tiên phong của mình.
Câu 2: Từ cuộc biểu tình của công nhân áo vàng _ pháp, nhà nước Việt Nam đã rút ra
được những bài học gì?
- Những diễn biến ở Pháp đã cho thấy điều người dân quan tâm trước nhất là giá cả, chi phí sinh
hoạt, phúc lợi xã hội nên mục tiêu của mỗi quốc gia bao giờ cũng là bảo đảm và nâng cao đời
sống vật chất của người dân.
- Nhưng trong dài hạn, để đất nước phát triển ổn định thì cần phải hạn chế tối đa được sự bất
bình đẳng, giải quyết được những mâu thuẫn kéo dài trong lòng xã hội.
- Người ta cũng lại một lần nữa chứng kiến sức mạnh của mạng xã hội và các phương tiện thông
tin truyền thông khi phong trào “áo vàng” ở Pháp khởi nguồn chỉ từ một đoạn phim trên mạng.
Do đó, trong thời buổi phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, không gian mạng sẽ là một
kênh quan trọng làm cầu nối giữa người dân và chính phủ, là một công cụ đắc lực phục vụ cho
công tác quản lý nhà nước.
- Cuối cùng, trong giải quyết các vấn đề xã hội, cần luôn cảnh giác và có biện pháp ngăn chặn
không để các phần tử, thế lực thù địch lợi dụng cơ hội để lôi kéo, kích động người dân có những
hành vi vi phạm pháp luật, gây mất ổn định an ninh trật tự.
Câu 3: Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về sứ mệnh của giai
cấp công nhân trong việc xây dựng CNXH _ Việt Nam hiện nay như thế nào?

Thực hiện từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội: Hiện nay, Việt Nam đang
có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao không chỉ ở khu vực Đông Nam Á mà còn trên thế giới,
có thể trở thành hình mẫu để các nước noi theo và học tập kinh nghiệm. Có thể kể đến
một số thành tựu kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây như: Về các dự án đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam, năm 2022 có 1.107 lượt dự án đăng ký điều chỉnh tăng vốn
đầu tư với tổng số vốn đăng ký tăng thêm đạt gần 10,12 tỷ USD; vốn FDI thực hiện đạt
22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm 2021, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 đã
lập kỳ tích, đạt 8,02%, vượt khá nhiều mục tiêu kế hoạch,...Về khía cạnh văn hóa xã hội:
Đảng & Nhà nước luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt tới giai cấp công nhân và
người lao động: tổ chức "Tết Sum vầy" cho người lao động; xây dựng các thiết chế công
đoàn, góp phần tháo gỡ những vấn đề bức xúc về nhà ở, nhà trẻ, nơi sinh hoạt văn hóa ở địa phương,... 
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa 
Mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia trên thế giới: Đến nay, nước ta có quan hệ
ngoại giao với 189 quốc gia, quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh
thổ, có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 30 quốc gia. 
Đặc biêt, trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sứ mệnh lịch sử của công nhân
được C.Mác phát hiện và luận chứng từ cuộc Cách mạng CN lần thứ nhất càng được thể
hiện rõ và trong bối cảnh này vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng Cộng Sản là rất cần thiết
bởi để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, thích ứng cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, cần thực hiện tốt một số giải pháp yêu cầu đến năng lực
lãnh đạo của Đảng: nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động; nâng
cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình độ cao, ngày càng làm
chủ được khoa học - công nghệ; có kỹ năng lao động, tác phong công nghiệp, ý thức kỷ
luật, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân và tăng cường vai trò của các
cấp uỷ đảng, Công đoàn và các đoàn thể nhân dân trong việc xây dựng tổ chức đảng và
phát triển đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Câu 4: Có hay không sự khác biệt giữa địa vị xã hội của giai cấp công nhân trong xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa?

Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân đều là bộ phận quan trọng nhất của lực
lượng sản xuất, là lực lượng sản xuất chủ yếu tạo ra của cải vật chất cho xã hội; là Lực lượng gắn
với khoa học và công nghệ hiện đại, có những đặc điểm chính trị và xã hội giống nhau. Thế
nhưng họ vẫn có những sự khác nhau làm nên nét riêng của giai cấp công nhân ở các khối xã hội
này; không thể không nhắc đến sự chênh lệch lớn về địa vị xã hội ở các nhóm nước này.
-Giai cấp công nhân ở các nước Tư bản chủ nghĩa: 
Kinh tế: Về cơ bản giai cấp công nhân vẫn là người không có tư liệu sản xuất, bị
bóc lột. Chính vì vậy họ đấu tranh xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN và xác lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu,... 
Chính trị: giai cấp công nhân vẫn chưa giành được chính quyền, phải tiếp tục đấu
tranh trước mắt để chống lại bất công,.. tiếp tục giữ vững vai trò của Đảng cộng sản.
-Giai cấp công nhân ở các nước Xã hội chủ nghĩa: 
Kinh tế: Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đã làm chủ những tư
liệu sản xuất, xuất phát điểm thấp trong Công nghiệp hóa – hiện đại hóa… 
Chính trị: Đã giành chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt củng cố vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng cộng sản, xây dựng nhà
nước phân quyền xã hội chủ nghĩa…..
Câu 5: Những hình thức hoạt động và phản kháng mới nào đang nổi lên trong giai cấp
công nhân để đối phó với những thách thức của thế kỷ 21?

Vì chưa giành được chính quyền nên hiện nay GCCN ở các nước TBCN vẫn còn phải đấu
tranh, khác với GCCN ở các nước XHCN. Cho đến hiện nay, ở các nước TBCN, công nhân họ
vẫn kiên trì đấu tranh với nhiều hình thức và cách thức đa dạng nhằm đòi lại lợi ích,biểu tình cho
sự bất công trong giai cấp của mình.
Các phong trào đấu tranh nổi bật của quần chúng nhân dân lao động đều diễn ra với những
yêu sách đa dạng, không phải chỉ vì lợi ích kinh tế thuần túy nhưng ít nhiều cũng cũng mang
nặng tính tự phát. Họ đấu tranh trong khuôn khổ chế độ TBCN: thừa nhận sự bóc lột, mong
muốn bán sức lao động, chất xám sao cho có lợi nhất cho công nhân mà không phải thủ tiêu tư bản.
Một trong những cách thức đấu tranh mà PTCN các nước TBPT đang hướng tới trong điều
kiện mới là tăng cường đấu tranh nghị viện, đấu tranh chính trị trên cơ sở đấu tranh giai cấp và
vận động quần chúng bỏ phiếu cho các đại biểu công nhân và các lực lượng dân chủ khác vào
nghị viện. Chính việc sử dụng đấu tranh nghị trường, đấu tranh chính trị kết hợp với phong trào
đấu tranh rộng rãi của công nhân lao động, đã tạo ra những áp lực quan trọng đối với các thế lực
trong các cơ quan quyền lực tư sản. 
Thông qua hình thức đấu tranh đòi mở rộng và tăng cường ký kết hợp đồng kinh
tế giữa tập thể công nhân và chủ tư bản, quyền hạn của người lao động đã được
mở rộng. Ở các nước TBPT Tây Âu, tỉ lệ người lao động mà tiền lương và những
điều kiện công việc và điều kiện lao động của họ được ấn định thông qua các thỏa
thuận tập thể giữa giới chủ và người lao động là rất cao (ở phần lớn các nước
TBPT thuộc Liên minh châu Âu, tỉ lệ này là lớn hơn hoặc bằng 80%). 
Đấu tranh chính trị, giành dân chủ của GCCN đó đưa đến một xu hướng kép tự
nhiên là tăng cường liên minh giữa PTCN với các phong trào chính trị xã hội tiến
bộ khác trong một nỗ lực nhằm tạo sức mạnh tổng hợp chống kẻ thù chung là CNTB độc quyền. 
Phản đối mặt trái tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa ngày nay là mối quan tâm
của chính người dân các nước TBPT và nó cũng liên quan tới những lợi ích thiết
thực của họ. Một thống kê gần đây cho biết: 74% người Pháp, 65% người Italia,
59% người Đức, 57% người Mỹ cho rằng quá trình TCH có những tác động tiêu
cực đối với vấn đề công ăn việc làm của họ. Về vấn đề việc làm trong toàn cầu
hóa, 49% số người Anh cho rằng việc mở cửa biên giới là tích cực đối với vấn đề
tạo việc làm trong khi 39% cho rằng đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất
nghiệp. 80% số người dân EU và 82% số người Mỹ cho rằng, các tập đoàn đa
quốc gia được hưởng lợi nhiều nhất của quá trình tự do hóa thương mại.
Khác với các phong trào quần chúng thời "chiến tranh lạnh", phong trào phản TCH hiện
nay dường như ít gắn với các đảng phái chính trị. Tính nhân dân, tính tự nguyện, ý thức trách
nhiệm công dân (thậm chí có cả những tổ chức theo đuổi lý tưởng "công dân thế giới") và nhất là
những điểm tương đồng về lợi ích... đó tạo nên sự gắn kết mới này. Đặc điểm này không có
nghĩa giữa phong trào phản TCH với các tổ chức đảng phái chính trị tích cực khác không có sự
kết hợp hành động. Thực tế đó chứng minh, trong những trường hợp này, kết quả đạt được của
phong trào đó vượt hơn cả sự mong đợi, "bước ngoặt Xiatơn" là một ví dụ.
Nhìn chung, phong trào phản TCH hiện nay đang có nhiều chuyển biến mới và mang
nhiều sắc thái mới, nhưng tính tích cực vẫn là sắc thái chính. Bằng tính chất này, phong trào đang
góp phần quan trọng vào việc xây dựng một thế giới công bằng, bình đẳng và tốt đẹp hơn. Phần
trả lời câu hỏi cho bạn Nguyễn Ánh Dương:
1.Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể mang lại
thách thức đối với giai cấp công nhân khi tự động hóa có thể thay thế người lao động bằng
máy móc. Vậy trong thời kỳ công nghiệp 4.0, giai cấp công nhân Việt Nam cần làm gì để
thích ứng với khó khăn này?

Để thích ứng với những khó khăn trong thời kỳ 4.0, giai cấp công nhân Việt Nam cần: -
Nâng cao trình độ công nghệ thông tin và tiếng Anh ở các bậc học theo hướng hội nhập quốc tế, -
Có kỹ năng lao động, tác phong làm việc công nghiệp, ý thức kỷ luật lao động theo xu
hướng công nghiệp hiện đại. -
Người lao động phải đánh giá trình độ bản thân, phải vừa làm vừa học để không ngừng
nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, giỏi một nghề, biết nhiều nghề, sẵn sàng đáp
ứng yêu cầu công nghiệp, có thể làm việc độc lập lại vừa có thể làm việc tập thể, thậm
chí có thể kết hợp làm việc cùng robot. Bất cứ thời kỳ phát triển xã hội nào, con người
cũng là yếu tố trung tâm.
2.Hiện nay, _ các nước, trình độ học vấn-chuyên môn- nghề nghiệp- chính trị của giai cấp
công nhân ngày càng được cải thiện, được trí thức hóa. Vậy theo các bạn, công nhân có
phải đã tr_ thành trí thức rồi, không còn là công nhân nữa?

Theo nhóm 01 là không, vì bản chất công nhân vẫn là công nhân, nhưng vấn đề
trình độ được cải thiện trở thành công nhân trí thức. Công nhân đã được trí thức hóa, với các đặc
trưng: lao động trong các ngành công nghệ cao, được đào tạo kỹ càng, có bằng cấp học vấn cao,
chuyên môn sâu, không chỉ tham gia gia sản xuất và dịch vụ sản xuất vật chất với năng suất lao
động cao mà còn sáng tạo khoa học – nghệ thuật ngày càng đông đảo trong dân cư.
Trí thức chủ yếu là những người có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn cao.
Đây là đặc trưng thứ tư, nhưng cần lưu ý thêm: có trình độ học vấn và chuyên môn cao trong xã
hội, nhưng không phải cứ có bằng cấp cao thì là trí thức. Bằng cấp cao chỉ là một trong những
biểu hiện, dù là biểu hiện đầu tiên. Không phải ai có bằng cấp cao sau đại học hay cử nhân đều được xem là trí thức.
3.Một số quan điểm cho rằng công nhân _ các nước tư bản hiện nay không còn bị bóc lột,
giai cấp công nhân cũng đã được trung lưu hóa, địa vị có sự thay đổi căn bản nên không

còn sứ mệnh lịch sử. Bạn nghĩ sao về quan niệm này?
Nhóm chúng mình không đồng tình với quan điểm này, với những lý do như sau:
Trước hết ở nhiều nước tư bản hiện nay đang có sự điều chỉnh quan hệ sản xuất thông
qua các chính sách kinh tế, xã hội. Điều đó đã làm thay đổi, cải thiện đáng kể đời sống vật chất
và tinh thần của giai cấp công nhân so với thời kỳ của C.Mác. Giai cấp công nhân ngày nay
không còn hoàn toàn “vô sản”, mà đã có sở hữu và có thu nhập. Tuy nhiên, cho rằng giai cấp
công nhân ngày nay đã được “thõa mãn nhu cầu”, hết khổ cực, không còn bị bóc lột là hoàn toàn
không đúng. Nhiều công trình nghiên cứu xã hội ở các nước tư bản đã thừa nhận rằng, bên cạnh
sự cải thiện đời sống, thì vẫn còn tình trạng bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân và
người lao động, rất nhiều công nhân vẫn phải sống trong cảnh nghèo khổ, túng thiếu; khoảng
cách phân hóa giàu nghèo không những không được rút ngắn mà nó ngày càng doãng ra.
Bên cạnh đó chúng ta cần lưu ý là, chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ cho rằng, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bắt nguồn từ sự nghèo khổ và bần cùng hóa. Sự nghèo khổ,
mức sống thấp kém làm cho công nhân căm thù chế độ đẻ ra tai họa cho người lao động, nhưng
động lực cơ bản thúc đẩy cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân nằm ngay trong bản
chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ mâu thuẫn không thể điều hòa giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản. Hơn nữa, cũng không nên quan niệm rằng, một giai cấp có khả
năng lãnh đạo cách mạng vì nó là giai cấp nghèo khổ nhất. Trong các xã hội cũ, đã có những giai
cấp hết sức nghèo khổ và phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh chống giai cấp thống trị, nhưng họ
vẫn không giành và giữ được chính quyền, không trở thành giai cấp làm chủ xã hội, vì họ không
có khả năng tạo ra một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn phương thức sản xuất cũ.
Chính từ những lý do trên nhóm 01 chúng tớ không đồng tình với quan điểm “Công nhân ở
các nước tư bản hiện nay không còn bị bóc lột, giai cấp công nhân cũng đã được trung lưu hóa,
địa vị có sự thay đổi căn bản nên không còn sứ mệnh lịch sử”.
Phần trả lời câu hỏi cho bạn Nguyễn Quang Anh:
1.Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Để giành thắng lợi, cách mạng nhất định
phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ
nhất”. Song _ thời điểm hiện tại, nhìn vào bộ máy lãnh đạo của nhà nước ta phần đông có
xuất thân tri thức. Đơn cử như Chủ tịch nước đương nhiệm ông Võ Văn Thư_ng là một
chính trị gia, thạc sĩ triết học. Vậy theo quan điểm của Nhóm, thực tế này có “đi ngược” lại
so với quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh hay không? Vì sao?

Về vấn đề này nhóm 01 chúng tớ nghĩ rằng thực tế này không “ đi ngược” lại so với
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi những lý do sau đây:
Trước hết, trí thức tồn tại với tư cách không phải là một giai cấp, mà chỉ là một đội ngũ xã hội
đặc biệt. Từ vị trí của mình trong phân công lao động xã hội, trí thức không có quan hệ riêng và
trực tiếp với sở hữu tư liệu sản xuất, không giữ vị trí độc lập trong hệ thống sản xuất, các dấu
hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp; do đó, họ không có khả năng đại biểu cho phương
thức sản xuất nào, cho nên họ không phải là một lực lượng kinh tế, chính trị độc lập trước các
giai cấp và tầng lớp xã hội khác. V.I.Lênin chỉ rõ “nếu không nhập cục với một giai cấp thì giới
trí thức chỉ là một con số không mà thôi”.
Bên cạnh đó, hiện nay, cùng với sự tăng trưởng, phát triển của kinh tế - xã hội, cuộc sống con
người văn minh hơn nên số người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên trong xã hội cũng tăng theo
là một tất yếu, nhưng phần lớn trong số đó lại là sự bổ sung cho GCCN những lao động có trình độ
cao để đáp ứng yêu cầu của quá trình lao động trong điều kiện cuộc cách mạnh KH-CN phát triển
mạnh mẽ và kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là một trình độ mới của lực lượng sản xuất hiện đại
trong đó vai trò của tri thức, công nghệ ở một số lĩnh vực sản xuất đang tỏ rõ vị thế quan trọng. Xu
thế hướng tới kinh tế tri thức là xu thế chung hiện nay để đổi mới cơ cấu kinh tế từ phát triển theo
bề rộng sang phát triển theo chiều sâu. Năng suất lao động phụ thuộc chủ yếu vào công nghệ, tri
thức, tay nghề của người lao động. Theo đó, tốc độ “trí thức hóa” công nhân đang diễn ra khá
nhanh và công nhân tri thức đã dần chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động xã hội ở các nước phát
triển và ngay cả ở nước ta. Do vậy, công nhân tri thức là đại biểu tiêu biểu cho giai cấp công nhân
hiện nay. Chính điều này đã làm cho không ít người lầm tưởng rằng trí thức có vị trí chủ đạo trong
phát triển nền sản xuất xã hội và trở thành lực lượng quyết định cải tạo thế giới.
Thực tế hiện nay trí thức đang chiếm một tỷ lệ cao trong tổng số đảng viên của Đảng và
nhiều trí thức là đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Bởi vì, là đảng viên của Đảng cộng sản, không nhất thiết đảng viên đó phải là công nhân mà có
thể là nông dân, trí thức, doanh nhân,… nhưng điều nhất thiết là họ phải giác ngộ được SMLS
của GCCN và đứng trên lập trường, quan điểm, lợi ích của giai cấp công nhân, tức là mang trong