



















Preview text:
lO M oARcPSD| 45467232 lO M oARcPSD| 45467232
-Câu hỏi ôn tập thi học kỳ
1. CHƯƠNG I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ VĂN MINH
Nắm hai khái niệm, so sánh hai khái niệm, mối quan hệ giữa hai khái niệm
2. CHƯƠNG II, HỌC ĐỊNH VỊ VĂN HOÁ VIỆT NAM
So sánh sự khác nhau giữa hai loại hình văn hóa chăn nuôi du mục và nông nghiệp trồng trọt => văn hóa VN
3. CHƯƠNG III, HỌC VĂN HOÁ VẬT CHẤT, VĂN HOÁ TINH THẦN, VĂN HOÁ XÃ HỘI
VĂN HOÁ VẬT CHẤT (ĂN, MẶC, Ở, ĐI LẠI): học hết, mối quan hệ qua lại, thay đổi và quan niệm hiện nay VĂN HOÁ TINH THẦN.
- ÂM DƯƠNG – NGŨ HÀNH: mối quan hệ, ảnh hưởng đến triết lí sống của ng dân vn,
các mối quan hệ trong cuộc sống như cách làm nhà, hôn nhân…
- TÔN GIÁO (NHO GIÁO, PHẬT GIÁO) - GIAO TIẾP ỨNG XỬ
VĂN HOÁ XÃ HỘI (NHÀ – LÀNG – NƯỚC): mối quan hệ, ảnh hưởng đến tính cách, lối sống của ng dân vn
VĂN HOÁ VIÊT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
VĂN HOÁ VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HOÁ.
Chương 1. Khái quát về văn hoá Việt Nam
Câu 1. Phân tích sự khác nhau giữa loại hình văn hoá gốc chăn nuôi du
mục và văn hoá gốc nông nghiệp trồng trọt. Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau đó.
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng của mình, đó là tiêu chí quan trọn để
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tuy nhiên, các nền văn hóa của mỗi dân tộc dù
phong phú và đa dạng đến mấy cũng đều có nguốn gốc xuất phát từ một trong hai loại
hình văn hóa gốc là văn hóa gốc chăn nuôi du mục và văn hóa gốc nông nghiệp trồng lO M oARcPSD| 45467232
trọt. Giữa hai loại hình văn hóa gốc này có sự khác nhau mang tính tương đối căn cứ vào yếu tố trội như sau:
Về điều kiện tự nhiên và môi trường:
Loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục là loại hình văn hóa gốc hình thành ở
phương Tây, bao gồm toàn bộ châu Âu, do điều kiện khí hậu lạnh khô, địa hình
chủ yếu là thảo nguyên, xứ sở của những đồng cỏ, thích hợp chăn nuội vì vậy nghề
truyền thống của cư dân phương Tây cổ xưa là chăn nuôi.
Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt là nói đến văn hóa phương
Đông gồm Châu Á và Châu Phi, điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có những
con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển. Về đặc trưng:
Đặc điểm đầu tiên là về lối sống, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục
ở phương Tây phổ biến với nghề chăn nuôi gia súc, đến mức trong Kinh Thánh từ
cừu được nhắc tới 5.000 lần, tín đồ được gọi là con chiên, Chúa là người chăn
chiên. Lịch sử cho biết người phương Tây xưa chủ yếu nuôi bò, cừu, dê, ăn thịt và
uống sữa bò, áo quần dệt bằng lông cừu hoặc làm bằng da thú vật. Như vậy, vì là
loại hình chăn nuôi gia súc đòi hỏi họ phải sống du cư, nay đây mai đó, tạo thành
thói quen, lối sống thích di chuyển, trọng động, hướng ngoại. Còn loại hình văn hóa
gốc nông nghiệp ở phương Đông do thuận lợi về điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa
nhiều, có những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì nhiêu, thích hợp
cho nghề trồng trọt phát triển. Do nghề trồng trọt buộc con người phải sống định cư
để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến
cư dân nông nghiệp phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển,
thích ổn định, trọng tĩnh, hướng nội.
Ở đặc điểm thứ hai về cách ứng xử với môi trường tự nhiên, đối với loại hình văn
hóa gốc chăn nuôi du mục vì luôn di chuyển nên cuộc sống của dân du mục không
phụ thuộc vào thiên nhiên, nảy sinh tâm lý coi thường thiên nhiên và có tham vọng
chinh phục, chế ngự tự nhiên. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở
phương Đông, do nghề trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân rất tôn
trọng và sùng bái thiên nhiên, với mong muốn sống hòa hợp với thiên nhiên. Đối
với đặc điểm thứ ba về tính chất xã hội, vì sống du cư nên tính gắn kết cộng đồng lO M oARcPSD| 45467232
của dân du mục không cao, đề cao tính cá nhân dẫn đến tâm lý ganh đua, cạnh
tranh, hiếu thắng, lối sống độc tôn, độc đoán trong tiếp nhận, cứng rắn trong đối
phó. Trong khi loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông lại đề cao tính
cộng đồng do cuộc sống nông nghiệp, phụ thuộc vào tự nhiên, buộc cư dân phải
sống định cư, tính cộng đồng gắn kết, liên kết sức mạnh.
Xét về nguyên tắc tổ chức cộng đồng, do cuộc sống du cư nên cần đến sức mạnh
để bảo vệ dân cư trong bộ tộc chống lại sự xâm chiếm của các bộ tộc khác nên
người đàn ông có vai trò quan trọng, tư tượng trọng sức mạnh, trọng nam giới
trong khi loại hình văn hóa phương Đông lại trọng tình nghĩa, trọng văn, trọng phụ
nữ, vai trò của người phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ giữ vai trò quan trọng
trong gia đình, chăm lo vun vén cho gia đình và làmcác công việc đồng án. Về
lối nhận thức tư duy, đối với loại hình văn hóa gốc chăn nuôi du mục thiên về tư
duy phân tích, coi trọng vai trò của các yếu tố khách quan, vì nghề chăn nuôi du
mục đòi hỏi sự khẳng định vai trò cá nhân, đối tượng tiếp xúc hành ngày là đàn gia
súc với từng cá thể độc lập, từ đó hình thành kiểu tư duy phân tích chú trọng vào
từng yếu tố. Còn loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở phương Đông thì thiên về tư
duy tổng hợp – biện chứng, coi trọng các mối qua hệ, thiên về kinh nghiệm chủ
quan cảm tính hơn là coi trọng khách quan và khoa học thực nghiệm do trồng trọt
của cư dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trời, đất, nắng, mưa…
Và ở đặc điểm cuối cùng về cách thức ứng xử trong cộng đồng, loại hình văn hóa
gốc chăn nuôi du mục có lối sống trọng lí, ứng xử theo nguyên tắc, thói quen tôn
trọng pháp luật khác với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp do cuộc sống cộng
đồng, gắn kết với nhau nên sống trọng tình, thái độ ứng xử mềm dẻo, linh hoạt.
Trên đây là sự nhận diện khái quát hai loại hình văn hóa gốc với những đặc trưng nổi bật
khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó. Tuy
nhiên, trong thực tế thường không có nền văn hóa nào chỉ thuần túy mang tính chất nông
nghiệp trồng trọt hay tính chất chăn nuôi du mục, bởi vậy, sự phân biệt hai loại hình văn
hóa này mang tính tương đối và căn cứ vào các yếu tố, đặc điểm có tính trội. Câu 2.
Hãy chứng minh rằng văn hoá Việt Nam thuộc loại hình văn hoá gốc nông nghiệp
trồng trọt điển hình.
Việt Nam có vị trí nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á. Với điều kiện về vị trí địa lí,
khu vực địa hình chịu tác động của gió mùa, điều kiện tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận lO M oARcPSD| 45467232
cùng phía Đông – Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như
sông Hồng, sông Mekong… nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ. Và cây lúa là một
trong những cây nông nghiệp chính có từ rất lâu đời ở Việt Nam, cũng chính cây lúa cùng
với địa hình thổ nhưỡng của đất nước ta đã tạo nên là điều kiện thuận lợi để phát triển
nông nghiệp lúa nước. Căn cứ vào những yếu tố trên, có thể thấy rằng nền văn hóa Việt
Nam thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc
trưng văn hóa Việt Nam đều thể hiện một cách rõ nét nhất loại hình văn hóa gốc nông
nghiệp trồng trọt ở Việt Nam:
Đầu tiên là đặc trưng về lối sống, ở Việt Nam, do thuận lợi về điều kiện khí hậu
nóng ẩm, mưa nhiều, có những con sông lớn, những vùng đồng bằng trù phú, phì
nhiêu, thích hợp cho nghề trồng trọt phát triển mà nổi tiếng nhất là nền văn minh
lúa nước. Do nghề trồng trọt buộc người Việt phải sống định cư để chờ cây cối lớn
lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Và với lối sống định cư dẫn đến cư dân Việt Nam
phải lo tạo dựng cuộc sống lâu dài, không thích di chuyển, thích ổn định, trọng
tĩnh, tình cảm luôn gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước… qua đó hình
thành lối sống đặc trưng ổn định, trọng tĩnh, tự trị, kép kín, hướng nội.
Cư dân Việt Nam do sống bằng nghề nông nghiệp nên sự gắn bó, phụ thuộc vào
tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt, dẫn đến người dân Việt Nam có ý thức tôn
thờ, sùng bái và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Thực vật được tôn sùng
nhất là cây lúa, có Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,... đôi khi ta thấy còn thờ Thần Cây
Đa, Cây Cau,.. Người Việt Nam mở miệng là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời…”
Đó chính là nguyên nhân sự ra đời của nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên
phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước như tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ là hình thức thờ cúng Tam vị Thánh Mẫu cai quản các yếu tố tự nhiên
quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa
nước; tín ngưỡng Phồn Thực - loại tín ngưỡng tôn thờ sự giao phối - nguồn gốc
của sự sinh sôi nảy nở và vì là Việt Nam có nền văn hóa gốc nông nghiệp, mùa
màng tươi tốt và muôn loài sinh sôi (hai vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với đời sống cư dân) nên tín ngưỡng Phồn Thực phát triển mạnh và bảo tồn lâu dài;
các lễ hội tín ngưỡng nông nghiệp gồm hội Cầu mưa, hội Xuống đồng, hội Đâm trâu, hội Cơm mới,… lO M oARcPSD| 45467232
Về mặt tổ chức cộng đồng, cuộc sống định cư tạo cho người Việt ưa sống theo
nguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một
cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: “Bán anh em xa mua láng
giềng gần”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “lụt thì lút cả làng”, …
Từ đặc trưng sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ
ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử văn hóa, nhân ái, không thích sức mạnh,
bạo lực. Vì sống theo tình cảm, người Việt có lối sống tôn trọng và cư xử bình
đẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ
phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng tình
và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Cư dân Việt
Nam làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
Trong truyền thống Việt Nam, vì lối sống định căn định cư ổn định cần đến vai
trò chăm lo thu vén của người phụ nữ. Thêm nữa, nghề trồng trọt, đồng áng cũng là
công việc phù hợp với người phụ nữ, do đó vai trò của người phụ nữ cũng được tôn
trọng, đề cao. Đặc trưng này là hoàn toàn nhất quán và rõ nét. Phụ nữ Việt Nam là
người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa.
Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi “Nhất vợ nhì trời”; “Lệnh ông không bằng
cồng bà…; còn theo kinh nghiệm dân gian thì “ruộng sâu trâu nái, không bằng con
gái đầu lòng”. Phụ nữ Việt Nam cũng chính là người có vai trò quyết định trong
việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan trọng của
người mẹ cho nên trong tiếng Việt, từ cái với nghĩa là “mẹ” đã mang thêm nghĩa
“chính, quan trọng”: sông cái, đường cái, đũa cái, ngón tay cái,… Không phải ngẫu
nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được nhiều học giả phương Tây gọi
là “xứ sở Mẫu hệ” (le Pays du Matriarcat). Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít
chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn không chịu ảnh
hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên (Êđê, Giarai…), vai trò của người phụ nữ
vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt
tên theo họ mẹ… Cũng không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay, người Khmer vẫn
gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê phum, mê sóc (mê=mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất
cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trông đất, trông mây; Trông mưa, trông lO M oARcPSD| 45467232
gió, trông ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy
tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng – cái mà người nông nghiệp quan tâm
không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối
quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong
phú về các loại quan hệ này: “Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa”; “Được mùa lúa
thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa”…
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng cũng là nguyên nhân dẫn đến lối ứng xử mềm
dẻo, linh hoạt. Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người
làm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt thích
hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”;
“Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy”…Tuy nhiên, lối tư duy tổng hợp
– biện chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính cũng thể hiện rõ trong văn
hóa nhận thức, ứng xử của người Việt, coi trọng kinh nghiệm chủ quan hơn là cơ
sở khách quan và tri thức khoa học. Kiểu tư duy thiên về chủ quan, cảm tính kêt
hợp lối sống trọng tình đã tạo nên thói quen tư duy, ứng xử tùy tiện.
->Như vậy, với những đặc trưng đã phân tích trên, loại hình văn hóa Việt Nam được xem
là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình, đều được thể hiện rõ nét trong
cách tổ chức đời sống phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt và được xem là nét
đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
Câu 3. Hãy nêu khái quát đặc điểm chính của các giai đoạn văn hoá và vai trò
của mỗi giai đoạn trong tiến trình văn hoá Việt Nam. (không có trong đề cương)
Sự hình thành các đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam là kết quả của một quá trình
lịch sử lâu dài, đồng hành cùng với tiến trình lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc. trong cuộc hằng trình hàng nghìn năm ấy, văn hóa dân tộc đã trải qua
những bước thăng trầm cùng lịch sử. Có thể khái quát tiến trình định hình nền văn hóa
truyền thống Việt Nam qua 5 giai đoạn chính sau đây: -
Tầng văn hóa bản địa (nội sinh) hình thành từ thời tiền sử và sơ sử, nằm trong cơ
tầngvăn hóa Đông Nam Á – trên nền tảng của nền văn minh lúa nước. Thời tiền sử còn
gọi là thời kỳ đồ đá, được chia ra hai giai đoạn: thời đại Đá cũ và thời đại Đá mới. Đây là
giai đoạn hình thành những nền tảng đầu tiên của văn hóa khu vực Đông Nam Á. Các di lO M oARcPSD| 45467232
chỉ khảo cổ học tìm được ở khu vực đã cho thấy, vào thời tiền sử, cũng như các khu vực
khác trên thế giới, cư dân khu vực Đông Nam Á đã trải qua một tiến trình lịch sử từ thời
đại Đá cũ (chế tác công cụ lao động bằng việc ghè, đẽo đá) sang thời đại Đá mới (chế tác
công cụ bằng cách mài đá). Trong đó, các cộng đồng cư dân bản địa sinh sống trên những
địa bàn mà ngày nay thuộc lãnh thổ Việt Nam đã bước vào cuộc hành trình sáng tạo văn
hóa, với sự tồn tại các nền văn hóa tiêu biểu như: văn hóa Núi Đọ, văn hóa Sơn Vi, văn
hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn,…Còn thời sơ sử là thời kỳ hình thành nhà nước sơ khai
đầu tiên của Việt Nam – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, kéo dài trong khoảng 2.000 năm
trước Công nguyên, tương ứng với thời đại văn minh đồ đồng. Trên nền tảng của nền văn
minh lúa nước và văn minh đồ đồng, cùng với sự hình thành và phát triển của nhà nước
Văn Lang – Âu Lạc, đã định hình và phát triển rực rỡ một nền văn hóa dân tộc trong buổi
đầu dựng nước. Như vậy, tầng văn hóa nội sinh là giai đoạn định hình những nền tảng
đầu tiên của văn hóa bản địa Việt Nam, làm tiền đề cho sự hình thành bản sắc văn hóa
Việt Nam với sự kế tục, tiếp nối ở các giai đoạn sau -
Tầng văn hóa ngoại sinh (văn hóa tiếp thu văn hóa đầu Công Nguyên) gồm những
yếutố văn hóa được tiếp nhận qua quá trình tiếp xúc và giao lưu với hai nền văn hóa lớn
của phương Đông là Trung Hoa và Ấn Độ trong mười thế kỷ đầu Công Nguyên. Mười
thế kỷ đầu Công Nguyên là thời kỳ quốc gia Âu Lạc bị đô hộ bởi các triều đại phong kiến
Trung Hoa nên còn gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Trong mười thế kỷ Bắc thuộc, nền văn hóa
bản địa vùng châu thổ Bắc Bộ đã được làm phong phú thêm bởi sự tiếp nhận nhiều yếu tố
văn hóa mới từ Trung Hoa. Về văn hóa vật chất, trong phương thức sản xuất nông nghiệp
có du nhập các giống cây trồng mới và tiếp thu một số kỹ thuật làm nông nghiệp mới. Về
văn hóa tinh thần, theo bước chân quân xâm lược là sự du nhập của Nho giáo, Đạo giáo
và Phật giáo. Về văn hóa xã hội, từ thế kỷ IV trở đi, xã hội Việt Nam bắt đầu chuyển
sang chế độ phong kiến theo mô hình của chế độ phong kiến Trung Hoa, chế độ gia đình
mẫu quyền bị thay thế hoàn toàn bởi chế độ gia đình phụ quyền. Tuy nhiên, dù tiếp nhận
thêm nhiều yếu tố văn há mới như là một qui luật tất yếu trong quá trình tiếp xúc, giao
thoa văn hóa nhưng với lòng tự tôn dân tộc và ý thức liên kế cộng đồng bền chặt, trong
suốt mười thế kỷ tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, người Việt không đánh mất bản sắc
văn hóa mà vẫn cố gắng để gìn giữ và bảo tồn các đặc trưng văn hóa dân tộc. Như vậy,
đặc trưng cơ bản của văn hóa giai đoạn này là quá trình du nhập và các yếu tố văn hóa
phương Đông (Trung Hoa và Ấn Độ), dẫn đến sự thay đổi cấu trúc văn hóa bản địa thời lO M oARcPSD| 45467232
sơ sử, làm tiền đề để hình thành cấu trúc văn hóa truyền thống Việt Nam thời phong kiến
Đại Việt. - Từ giữa thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX là thời kỳ định hình các đặc trưng bản
sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam. Về bối cảnh lịch sử, đây là thời kỳ tự chủ của
quốc gia phong kiến Đại Việt kéo dài gần mười thế kỷ, bắt đầu từ năm 938, khi Ngô
Quyền chiến thắng quân Nam Hán bằng trận thủy chiến nổi tiếng trên song Bạch Đằng, chấm dứt
1.000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc. Đây là một giai đoạn quan trọng trong lịch
sử dân tộc với sự hình thành của nhà nước phong kiến Việt Nam, và theo đó là sự định
hình những đặc trưng bản sắc của nền văn hóa truyền thống. Gần mười thế kỷ thời phong
kiến Đại Việt là giai đoạn định hình những đặc trưng bản sắc văn hóa truyền thống trên
cơ sở sự dung hợp giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại sinh, trên nền tảng của sự cộng
hưởng bởi ba yếu tố văn hóa hạt nhân: văn hóa nông nghiệp lúa nước – Nho giáo – Phật giáo. -
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây
dựngquốc gia phong kiến tự chủ, với ý chí tự lực tự cường và truyền thống lao động cần
cù, cha ông ta đã xây dựng được một nền văn hóa truyền thống với những nét bản sắc
riêng về cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần. Nền văn hóa vật chất dựa trên nền tảng nền văn
minh nông nghiệp lúa nước. Các đặc trưng văn hóa về lao động, sản xuất, sinh hoạt –
những yếu tố mang đậm dấu ấn của loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt, đồng thời
cũng thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt của người Việt đối với
môi trường tự nhiên vùng song nước và xứ sở thực vật. trong nền tảng đặc trưng văn hóa
tinh thần Việt Nam, các hệ tư tưởng và tôn giáo có ảnh hưởng, chi phối sâu sắc như Phật
giáo, Nho giáo, Đạo giáo và đều được du nhập từ Trung Hoa, cùng tồn tại và dung hòa
với nhau trong văn hóa truyền thống Việt Nam, trong đó “Nho trị thế”, “Phật trị tâm”,
“Đạo trị thân”. Ngoài ra, về tín ngưỡng, phong tục, lễ tết và lễ hội cũng mang đậm bản
sắc văn hóa truyền thống Việt Nam. Văn hóa truyền thống Việt Nam là những giá trị cốt
lõi định hướng, chi phối hoạt động của các chủ thể và toàn xã hội trong mọi lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái, là cơ sở để xác lập các giá trị cốt lõi của mô
hình con đường - thể chế phát triển của một quốc gia - dân tộc, xác lập các giá trị cốt lõi
của thể chế chính trị thực sự, các giá trị xã hội, lối sống xã hội, nền đạo đức xã hội
thượng tôn pháp luật, nhân văn, nhân ái, tôn trọng quyền con người, quyền công dân và
là cơ sở để tạo nên “sức mạnh mềm” trong phát triển. lO M oARcPSD| 45467232 -
Văn hóa hiển nhiên là không thể ổn định, bất biến khi xã hội có những thay đổi
mangtính bước ngoặt. Sự thay đổi có tính bước ngoặt của xã hội Việt Nam sau mấy mươi
thế kỷ tồn tại của xã hội phong kiến, trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước –
đó là cuộc tiếp xúc, giao lưu với phương Tây, khởi đầu từ văn hóa Pháp (1858 – 1945),
sau đó là tiếp xúc với văn hóa Mỹ ở miền Nam (1954 – 1975) và cuộc giao lưu văn hóa
với các nước XHCN Đông Âu diễn ra ở miền Bắc XHCN. Cùng với sự thay đổi nền tảng
kinh tế - xã hội của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, các cuộc
tiếp xúc giao lưu văn hóa này là những tác nhân trực tiếp dẫn đến quá trình chuyển đổi
cấu trúc văn hóa Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại. -
Sau 1975, hai miền thống nhất, xã hội Việt Nam được qui về một mối, giao lưu
văn hóađược mở rộng. Qúa trình hội nhập giữa Việt Nam với thế giới đã khẳng định thái
độ của Việt Nam là nhận toàn cầu hóa từng bước: tham gia hiệp hội các nước Đông Nam Á
(khối ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thông qua các tổ chức quốc tế và khu vực này,
nước ta đã chủ động tạo quan hệ để liên kết các giá trị khu vực, từng bước hội nhập thế
giới. Văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa góp phần kích thích sự cạnh tranh thúc đẩy sự
phát triển khoa học kỹ thuật, làm tang tốc độ phát triển kinh tế, tăng mức sống của cư
dân, rút ngắn thời gian để theo kịp sự phát triển của thế giới nhờ việc áp dụng kinh
nghiệm và khoa học công nghệ hiện đại của thế giới. Đồng thời qua giao lưu văn hóa với
thế giới, nền văn hóa truyền thống Việt Nam sẽ được bổ sung, làm giàu thêm bởi những
giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại
Chương II. Đặc trưng văn hóa truyền thống Việt Nam
Câu 4. Hãy chỉ ra sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự
nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha
ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng
của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự tận dụng, thích nghi
và ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Qua quá trình lao động sản xuất, cha ông ta đã rút gọn được một hệ thống kinh nghiệm
của nghệ thuật trồng lúa nước. Kinh nghiệm sản xuất không được lưu truyền trong dân lO M oARcPSD| 45467232
gian, mà vẫn được tập hợp lại, chỉnh sửa thành sách để phổ biến rộng rãi cho nông dân
(Vi dụ: cuốn sách Minh nông phả của Trần Cánh đời Lê; Nông gia thuật sử dụng kinh
nghiệm quyết định của Trần Ngọc Trác; Nông toàn đồ của Lê Thúc Hoạch đời Nguyễn).
Để phục vụ cho nông nghiệp, cha ông ta cũng đã sáng tạo ra một hệ thống nông cụ truyền
thông rất phong phú, đa dạng, gồm hàng tram kiểu loại khác nhau.
Tất cả những kinh nghiệm được kết hợp và những thành tựu được tạo ra từ phương
thức sản xuất nông nghiệp lúa nước đã phản ánh khả năng tận dụng, thích nghi và ứng
phó với sự ưu tiên của người Việt đối với môi trường tự nhiên.
Sự tận dụng, thích nghi và ứng phó với môi trường tự nhiên của người Việt cũng được
thể hiện rõ nét trong văn hóa ẩm thực qua lối ứng xử mêm déo, linh hoạt của cư dân nông
nghiệp Việt Nam. Trước hết ở việc ăn uông theo mùa, theo vùng miền, đó là một biểu
hiện của lối ứng xử thích nghi với môi trường tự nhiên cũng vừa là một cách tự thích nghi
của nên kinh tế tiểu nông tư túc tự cấp. Tính linh hoạt cũng thế hiện ở việc chế biến và
lựa chọn thế (điều hòa âm - dương, nóng - lạnh), giữa cơ thể với môi các món ăn để điều
chỉnh, làm cân bằng các trạng thái của cơ trường để đối phó với thời tiết.
Trong văn hóa trang phục Việt Nam, người Việt thường sử dụng các chất liệu có sẵn
trong tự nhiên, mỏng, nhẹ và có nguồn gốc từ thực vật, mang đậm dấu ấn nông nghiệp
trồng trọt, sống ở xứ nóng nên chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng mát như: tơ tằm, sợi bông, sợi
đay, sợi gai… Màu sắc trang phục truyền thống của người Việt là màu nâu (màu đất) và
màu đen (màu bùn). Điều đó cũng phản ánh phong cách truyền thống của người VN là ưa
sự kín đaó, giản dị, đồng thời cũng thể hiện sự thích nghi với môi trường sống và sinh
hoạt của nghề nông trồng lúa nước. Ngoài ra chiếc nón lá cũng là một bộ phận kèm theo
không thể thiếu trong trang phục của phụ nữ VN truyền thống. Nón có vành rộng và có
mái dốc do đặc thù khí hậu nắng lắm mưa nhiều. Trang phục truyền thống của nam giới
thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với khí hậu nóng bức và công việc đồng áng.
Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the, quần ống sớ.
Về văn hóa ở và sinh hoạt, vật liệu làm nhà có sẵn trong tự nhiên như gỗ, tre, nứa… thể
hiện khả năng sáng tạo trọng việc thích nghi và tận dụng các ĐKTN. Mang đậm dấu ấn
của vùng sông nước với nhà sàn là kiểu nhà phổ biến, thích hợp cho cả miền sông nước
lẫn miền núi để ứng phó với những tác động xấu của môi trường (tránh côn trùng, thú dữ,
lũ, ngập lụt…). Sang thời phong kiến thì nhà đất bằng là phổ biến, song dấu ấn văn hóa lO M oARcPSD| 45467232
song nước còn thể hiện ở kiểu nhà mái cong mô phỏng mũi thuyền, thậm chí cư dân sông
nước còn dùng thuyền làm nhà ở hình thành nên các xóm chài. Không gian ngôi nhà Việt
là không gian mở, có cửa rộng, thoáng mát, giao hoà vs tự nhiên, xung quanh có cây xanh
bao bọc che chở. Về việc chọn hướng nhà và chọn đất làm nhà, hướng nhà ưa thích của
người Việt là hướng nam hoặc đông nam, các hướng này sẽ tận dụng được gió mát từ
biển thổi vào và tránh được nắng nóng.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư dân ít
có nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán
giữa các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân
chủ yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu.
Giao thông đường thủy do địa hình nhiều sông ngòi, bờ biển kéo dài từ Bắc chí Nam nên
người Việt đi lại chủ yếu bằng thuyền, ghe, xuồng,đò...Vì đường thủy chiếm ưu thế nên
phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển (Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc
sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào
trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái theo chồng; Thuyền về có nhớ bến
chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo cách của người đi trên sông nước
như lặn lội, quá giang, xe đò..
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu
cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người
với môi trường tự nhiên. Qua đó, thể hiện rõ nét dấu ấn loại hình văn hóa nông nghiệp
trồng trọt, đồng thời thể hiện khả năng tận dụng, thích nghi và ứng phó linh hoạt với môi
trường sông nước và xứ sở thực vật.
Câu 5. Hãy phân tích sự ứng xử văn hoá của người Việt với môi trường xã hội thể
hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Trải qua trường kỳ lịch sử từ buổi đầu dựng nước, đặc biệt là qua mười thế kỷ xây dựng
quốc gia phong kiến tự chủ, với ý tự lực tự cường và truyền thống lao động cần cù, cha
ông ta xây dựng được một nền văn hóa vật chất với những nét bản riêng, trên nền tảng
của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, đồng thời cũng phản ánh sự ứng xử văn hoá của
người Việt với môi trường xã hội thể hiện ở lĩnh vực văn hoá vật chất.
Về văn hóa lao động sản xuất, nghề nông trồng lúa nước theo phương thức sản xuất tiêu
nông tự túc tự cấp là phương thức sản xuất chủ đạo, chi phối toản bộ nền tảng kinh tế của
hội Việt Nam truyền thống. Tiếp tục truyền thống nông nghiệp lúa nước đã được định lO M oARcPSD| 45467232
hình từ thời Văn Lang - Âu Lạc và duy trì trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, trong quá trình
xây dựng quốc gia tự chủ, các triều đại phong kiến đều rất coi trọng việc canh nông và có
các chính sách khuyến nông tích cực. Bằng những công cụ dệt thủ công, với các loại
nguyên liệu phong phú trong tự nhiện như: tơ chuối, sợi đay, sợi gai, tơ tăm và sợi bông,
những người thợ thủ công đã dệt ra nhiều loại vải, lụa rất phong phú, không chỉ đáp ứng
được nhu câu may mặc trong nước mà còn bán nước ngoài. Như vậy, từ thời Hùng
Vuơng dựng nước cho đến suốt thời phong kiến Đại Việt, phương thức sản xuất nông
nghiệp lúa nước được duy trì và phát triển với vai trò kinh tế chủ đạo. Cùng với nghề
nông là sự mở rộng và phát triển các làng nghề thủ công phục vụ cho các nhu cầu sản
xuất và sinh sống hàng ngày. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi phương thức sản xuất nông
nghiệp tiêu nông tự cung tự cấp, các quan hệ giao luu bị hạn chể, do đó sản xuất nông
nghiệp và thủ công nghiệp chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ của nên kinh tế tiêu nông đáp ứng
các nhu cầu tiêu dùng chứ không thế vuơn tâm phát triển thành nền kinh tế hàng hóa, thương mại
Trong văn hóa ẩm thực, bữa ăn của người Việt là ăn chung, các thành viên trong bữa ăn
liên quan và phụ thuộc nhau (chung nồi cơm, chung chén nước chấm…). Vì mang tính
cộng đồng nên trong bữa ăn của người Việt rất thích trò chuyện. Do lối sống cộng đồng
cùng với sự chi phối của quan niệm Nho giáo coi trọng tôn ti, thứ bậc nên người Việst rất
coi trọng nghi lễ và thái độ ứng xử, ý tứ trong bữa ăn (Ăn trông nồi, ngồi trông hướng).
Trong nền văn hóa trang phục của Việt Nam, người Việt thường chú trọng tính bền
chắc “ăn chắc, mặc bền”, thích trang phục kín đáo, giản dị, ưa các màu sắc âm tính: nâu,
đen, chàm…phù hợp với môi trường sông nước, lao động. Các màu sắc dương tính (đỏ,
vàng…) chỉ mặc vào dịp lễ hội và người Việt rất có ý thức về việc làm đẹp (Người đẹp vì
lụa, lúa tốt vì phân). Trang phục truyền thống của phụ nữ thời phong kiến gồm: váy, yếm,
áo tứ thân, quần lĩnh, khăn chít đầu, thắt lưng. Trong đó chiếc váy được bảo tồn như là
một trong những nét bản sắc văn hóa dân tộc để phân biệt với trang phục người Tàu.
Trong các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài (tứ thân hoặc năm thân với nhiều màu sắc).
Trang phục truyền thống của nam giới thường ngày là áo cánh, quần lá tọa phù hợp với
khí hậu nóng bức và công việc đồng áng. Ngày lễ tết, lễ hội thì đội khăn xếp, mặc áo the,
quần ống sớ. Trong sự ứng xử với môi trường xã hội, trang phục của người Việt thể hiện
quan niệm thẩm mỹ về vẻ đẹp kín đáo, giản dị lO M oARcPSD| 45467232
Về văn hóa ở và sinh hoạt, ngôi nhà là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho
cuộc sống định cư ổn định (an cư lạc nghiệp). Kiến trúc nhà của người Việt mang tính
cộng đồng. Nếu như kiểu kiến trúc nhà phương Tây được chia thành nhiều phòng biệt lập
thì nhà Việt truyền thống là 1 không gian sinh hoạt cộng đồng giữa các thành viên trong
gia đình, các gian nhà thường để thông nhau, không có vách ngăn. Ranh giới giữa các
nhà hàng xóm cũng thường chỉ được ngăn cách tượng trưng bằng một hàng cây (râm bụt,
ruối, mồng tơi..) được xén thấp để dễ qua lại.
Về văn hóa đi lại, giao thông đường bộ kém phát triển vì lối sống định cư nên cư ân ít có
nhu cầu đi lại, do nền kinh tế tự cung tự cấp nên hạn chế nhu cầu trao đổi, mua bán giữa
các vùng và do sông ngòi dày đặc. Do đó, chỉ mới có những con đường nhỏ, cư dân chủ
yếu là đi bộ, vận chuyển nhờ ngựa, voi, trâu; quan lại đi bằng cáng, kiệu. Ở giao thông
đường thủy vì đường thủy chiếm ưu thế nên phần lớn đô thị là các cảng sông, cảng biển
(Vân Đồn, Thăng Long, Phố Hiến...). Cuộc sống sinh hoạt gắn liền với sông nước nên hình
ảnh dòng sông, con đò đã ăn sâu vào trong tư duy, trong cách nghĩ (Thuyền theo lái, gái
theo chồng; Thuyền về có nhớ bến chăng...). Ngay khi đi trên bộ, người Việt vẫn nói theo
cách của người đi trên sông nước: lặn lội, quá giang, xe đò...
Tóm lại, lao động sản xuất, ăn, mặc, ở và đi lại là những hoạt động để đáp ứng các nhu
cầu cần thiết của con người, đồng thời cũng thể hiện sự ứng xử văn hóa của con người
với môi trường xã hội
Câu 6. Hãy chỉ ra mối liên hệ giữa thuyết Âm dương Ngũ hành với sự hình thành các
triết lý sống của người Việt.
Nền tảng nhận thức của người Việt dựa trên thuyết âm dương – ngũ hành, đây là hệ tư
tưởng triết học Trung Hoa cổ đại, phản ánh về bản chất và qui luật tồn tại của vạn vật
trong vũ trụ bao gồm nhận thức về tự nhiên về đời sống xã hội con người. Do có sự giao
hòa giữa các mặt đối lập (âm – dương) trong vũ trụ và con người nên mới tạo ra những sự
vật mới. Trang văn hóa bản địa của người Việt cổ, cũng đã có sẵn ý niệm về sự tồn tại
các cặp đôi, các hiện tượng như trời/đất, nóng/lạnh, sự đối ngẫu âm/dương, ý niệm về sự
đối xứng, các tín ngưỡng nghi lễ, các câu chuyện thần thoại. Là cơ sở để thuyết âm
dương ngũ hành ăn sau trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, trở thành cơ sở
nhận thức, từ đó người Việt hình thành triết lí sống cho mình và truyền bá cho thế hệ sau
thể hiện qua các mối liên hệ với: Mối quan hệ giữa thuyết âm dương ngũ hành với triết lí
về sự cân xứng, cặp đôi: trong tâm thức của người Việt, âm dương luôn tồn tại trong sự lO M oARcPSD| 45467232
cặp đôi, tương ứng, cân bằng ân dương thì sự vật mới hoàn thiện trọn vẹn, bền vững hợp
qui luật. Các cặp âm dương thường được sử dụng cặp đôi như cha/mẹ, ông/bà, trời/đất,
đất/nước… Mối quan hệ âm dương ngũ hành với triết lý sống quân bình, hài hòa âm
dương: từ triết lí âm dương người Việt quan niệm mọi sự vật tồn tại trong trạnh thái cân
bằng, hài hòa âm dương thì mới bền vững, không bị biến đổi trạng thái. Người Việt sống
theo triết lí quân bình, duy trì trạng thái âm dương bù trừ nhau từ việc ăn uống tời việc
làm nhà ở, cho đếm việc ứng xử hài hòa trong quan hệ với người khác để không làm mất
lòng ai khiến cho người Việt tự bằng lòng, an phận với những gì mình đang có, không
hiếu thắng, do đó thường phê phán thái độ sống cực đoan. Như vậy, về mối quan hệ giữa
âm dương ngũ hành với triết lí sống lạc quan của người Việt do nhận thức được qui luật
bù trừ âm dương, vận hành vào cuộc sống nên người Việt thường có cái nhìn bình tĩnh,
lạc quan trước mọi sự biến, trong rủi có may, trong hỏa có phúc, nhận thức được qui luật
chuyển hóa âm dương nên có cái nhìn biện chứng về cuộc sống. Thuyết âm dương ngũ
hành giúp cho con người có một triết lý sống lạc quan, tuy nhiên nếu lạc quan thái quá sẽ
dẫn đến tiêu cực, tự bằng lòng và an bài với cuộc sống hiện tại, không nỗ lực cố gắng
Câu 7. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Phật giáo ở Việt Nam và vai trò của
Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay (ảnh hưởng đến Pháp luật).
Phật giáo Việt Nam đã có hơn 2.000 năm lịch sử. từ khi du nhập, Phật giáo đã được
người Việt bản địa hóa, khiến nó nhanh chóng cộng sinh để hòa mình trong dòng chảy
của văn hóa dân tộc, tạo nên sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam với các đặc điềm nổi bật như sau:
Về khuynh hướng nhập thế, giáo lý của Phật giáo là cứu khổ cứu nạn, phổ độ chúng
sinh, luôn đồng hành với cuộc sống chúng sinh bằng những việc làm thiết thực, tham gia
các hoạt động XH: nhà chùa mở trường dạy học, tham gia đào tạo tri thức, nhiều nhà sư
đồng thời nhà sư đồng thời là thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Giáo lý Phật giáo được
người Việt cụ thể hóa trong các mối liên hệ đời thường.
Tính tổng hợp là một trong những đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, chi phối đến thái
độ ứng xử với Phật giáo làm nền sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo dung
hợp các tín ngưỡng và truyền thống văn hóa bản địa; dung hợp với tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên, với tín ngưỡng thờ Mẫu giữa việc thờ Phật với thờ các vị thần, Thánh, Mẫu, Thành
Hoàng, Thổ địa…; dung hợp giữa các tong phái Phật giáo. Việc dung hợp giữa Phật giáo lO M oARcPSD| 45467232
với các tôn giáo khác như nho giáo, đạo giáo và bổ sung cho nhau để cùng hướng về một
mục đích vì cuộc sống tốt đẹp cho con người.
Với tất cả những đặc điểm trên, Phật giáo đã bén rễ sâu vào truyền thống tín ngưỡng và
văn hóa dân gian của quần chúng, khẳng định sự hiện diện qua hàng ngàn ngôi chùa trên
khắp mọi miền đất nước. Với người dân Việt, giáo lý phật giáo đã thấm sâu vào triết lí
sống, ngôi chùa là nơi giáo dục đạo đức và lòng hướng thiện, nơi an cư của tâm hồn là
trung tâm sinh hoạt cộng đồng và cũng là nơi ẩn chứa các giá trị văn hóa truyền thống đã
có lịch sử từ lâu “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống ngàn năm của tổ tiên”. Và đến
ngày nay, trong số các tôn giáo có mặt ở Việt Nam, Phật giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất, có
ảnh hưởng sâu sắc và rộng rãi nhất. Hiện nay, số lượng người đi chùa ngày càng đông, có
niềm tin vào thuyết nhân quả, luân hồi. Ăn chay vào các ngày rằm, mồng một, có treo
ảnh phật và bàn thờ Phật trong nhà. Qua đó ta thấy được vai trò của Phật giáo trong đời
sống văn áo tinh thần của người Việt từ xưa đến nay
Về vai trò của Phật giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay (
ảnh hưởng đến Pháp luật ) gồm những tác động tích cực như trong việc điều chinh ý
thức và hành vi của con người theo triết lý sống từ bi bác ái, nhẫn nhịn, vị tha, “khuyến
thiện tử ác" đã giúp hạn chế sự xung đột, tranh chấp, kiện tụng, góp phần dem Tư tưởng,
giáo lý của Phật giáo đã góp phần quan trọng lại sự bình yên, hòa mục cho cuộc sống.
Tuy nhiên vẫn có những tác động tiêu cực như việc khuyên con người tự tiết chế các
hành vi của mình mình bằng thái độ nhường nhịn, cam chịu, thậm chi cà nhẫn nhục, Phật
giáo đã góp phần làm hạn chế, thui chột khả năng hành động và đầu tranh của con người
khi cần phải bào vệ công lý, lẽ phải. Do ảnh hưởng bởi thuyết "luân hoi", "quả báo" của
Phật giáo, nhiều người Việt thường không chủ động sử dụng luật pháp là công cụ bảo vệ
mình khi quyền loi bị xâm hai, mà chon phương pháp im lặng trông chờ vào quả báo, tin
vào sự trừng phạt của luật Trời hơn là luật pháp, vì vậy từ đây cung không hình thành
thói quen sử dụng công cu luật pháp trong đời sống dân sự.
Câu 8. Trình bày những hiểu biết của anh / chị về Nho giáo ở Việt Nam và vai trò của
Nho giáo đối với đời sống văn hoá tinh thần của người Việt xưa và nay (ảnh hưởng đến Pháp luật
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, một hệ thống quan niệm tư tưởng – giáo
lý nhằm tổ chức, duy trì sự ổn định của trật tự xã hội bằng biện pháp nhân trị - đức trị. Du
nhập vào VN từ thời Bắc thuộc, nhưng do xu hướng cưỡng bức văn hóa nên suốt 1.000 lO M oARcPSD| 45467232
năm, Nho giáo chưa có được chỗ đứng trong cư dân Việt. Sang thời Đại Việt, Nho giáo là
nội dung chủ yếu được giảng dạy trong nhà trường nên càng được phổ biến rộng rãi. Từ
đó Nho giáo chiếm lĩnh dần luôn cả lĩnh vực chính trị và tư tưởng và văn hóa tinh thần,
ảnh hưởng về Pháp luật của người Việt xưa và nay.
Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác những
yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ chức và quản lý đất nước. Trước
hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê, Nguyễn đã học tập rất nhiều ở
cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật, hệ thống thi cử để chọn người tài bổ dụng,
trong bộ máy cai trị đã được triều đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời
Lý hoàn thiện dần ở thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Thời Tây Sơn vua Quang
Trung đã mở rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính và giáo dục. Có rất nhiều
yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù hợp với truyền thống của văn
hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”. Về chữ
Trung và Hiếu, trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn giữa Vua
và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được đặt lên trên hết.
Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam tiếp thu trên cơ sở tinh thần
yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó đã bị biến đổi, “Trung quân” gắn liền
với “Ái quốc”. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn toàn: Không
phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với nội dung được mở rộng
đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ không còn hạn hẹp như khái niệm của Nho giáo
xưa kia. Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ còn con
không được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”. Tức là: Có ba tội bất hiếu, tội
không có con nối dõi là tội nặng nhất. Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dòng
dõi Nho gia như Hồ Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia. Vì tổ quốc vì dân
tộc, người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi tìm
đường cứu nước. Người không lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước, non sông. Như
vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của Nho giáo, hoà với
chữ Trung là một, và chữ Trung cũng mang một nội dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy
của Bác đối với quân đội cách mạng.
Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi trọng người hiền tài”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta, ngay từ những năm
sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đã có một tầm nhìn rộng lớn, đề ra và lO M oARcPSD| 45467232
giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại. Người thấu hiểu vai trò của trí thức, đã trân
trọng mời nhiều trí thức việt kiều về xây dựng đất nước. Ngay từ năm 1946 Người nói
đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi tuyên bố độc lập 4/10/1945. Người phát động
phong trào “Bình dân học vụ” nhằm chống nạn thất học. Vì vậy việc coi trọng giáo dục,
đào tạo nhân tài cho đất nước chính là một trong những mục tiêu quan trọng và cấp thiết
mà Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm. Hiện nay Đảng và nhà nước ta, ngay cả các
địa phương, đã lập ra các quỹ học bổng, quỹ khuyến học, các giải tài năng trẻ…để giúp
đở học sinh, sinh viên nghèo hiếu học, và đó cũng chính là thể hiện sự ưu ái, coi trọng
người hiền tài trong xã hội ngày nay.
“Nguyên khí mạnh thì quốc gia thịnh…”
Đó không chỉ là quy luật muôn đời đúng với từng dân tộc, từng quốc gia, mà còn luôn
luôn mới và đúng trong phạm vi hẹp hơn là ở mỗi địa phương, mỗi tổ chức,thậm chí đúng
cả ở phạm vi gia đình là tế bào của xã hội. Một thực tế mà chúng ta đã biết Bình Dương
xưa vốn là một tỉnh giàu tìm năng về mọi mặt, nhưng do cơ chế cũ, nên nghèo nàn lạc
hậu chậm phát triển. Từ khi có chủ trương “Chiêu hiền đãi sĩ” “Trãi chiếu hoa mời gọi
đầu tư” đã trở thành một tỉnh công nghiệp phát triển giàu và mạnh.
Về chữ Nhân trong triết học Khổng Tử: Tinh thần chủ yếu của chữ Nhân chính là lòng
thương người, là cách sống đối với mình, đối với người cũng giúp cho người thành đạt,
những gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người (kỷ sở bất dục, vật thị ư nhân) …
Khi Nho giáo du nhập vào Việt Nam chữ Nhân được người Việt Nam rất tâm đắc và nó
trở thành truyền thống tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Trong xã hội ngày nay nó vẫn
được coi trọng và thể hiện qua cách hiểu và cách sống: “Mình vì mọi người, mọi người vì
mình” Các phong trào thực hiện nếp sống văn minh, văn hoá, phong trào đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn thực hiện gia đình văn hoá “Ông bà, cha mẹ mẫu mực con
cháu thảo hiền”…Các nghĩa cử tương thân tương ái trong xã hội như “ Lá lành đùm lá
rách”… Xưa kia theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì người quân tử, người cai trị phải
có đầy đủ các đức tính như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Dũng… Chữ Nhân phải gắn liền
với chữ Lễ trong việc tu thân, học đạo để sửa mình để trị nước, muốn đạt được đức Nhân
thì cần phải rất mực chú trọng đến chữ Lễ. Lễ và Nhân là hai yếu tố có quan hệ mật thiết
không thể tách rời nhau; Nhân là chất, là nội dung là linh hồn của lễ, lễ là hình thức biểu
hiện của Nhân. Nhờ có Trí con người mới sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét lO M oARcPSD| 45467232
đoán được sự vịêc, phân được phải trái, thiện ác để trao dồi đạo đức và hành động hợp lý
với thiên lý. Nhưng muốn đạt được chữ Nhân, có trí thôi chưa đủ mà cần phải có Dũng,
Dũng không phải ỷ vào sức mạnh, chỉ biết vì lợi ích cá nhân mà suy nghĩ và hành động
bất chấp cả đạo lý. Người Nhân có Dũng phải là: “Người có thể tỏ rõ ý kiến mình một
cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao khi vận nước loạn lạc, khi người đời
gặp phải hoạn nạn…”
Cùng với Nhân, Trí, Dũng, thì Nhạc, Thi, Thư cũng là phương tiện để giáo hóa con người
góp phần ổn định và phát triển xã hội. Nhạc chính trực. trang nghiêm, hoà nhã có tác dụng
di dưỡng tính tình cảm hoá lòng người, hướng tâm người ta tới cái chân, thiện, mỹ do sự
ứng cảm trong tâm tư với sự hài hoà của âm nhạc. Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách
khái quát: Người cai trị, người quân tử phải là người có một vốn văn hoá toàn diện.
Ngày nay, những điều đó được thể hiện ở quan điểm toàn diện trong giáo dục và đào tạo.
Trong đạo đức của xã hội, và nó được thể hiện rất đầy đủ trong chữ Tài và Đức, Hồng và
Chuyên. Hồ chủ tịch dạy. Để được cái tài và đức ấy, mỗi con người cần phải được rèn
luyện ngay từ khi còn nhỏ, khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Chúng ta đã bắt gặp câu
khẩu hiệu: “Tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học, cùng với năm điều Bác dạy
thiếu niên nhi đồng. Đối với người cán bộ, người lãnh đạo trước hết phải tu thân, để trở
thành con người toàn diện phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Hồ chủ Tịch dạy phải cần
kiệm liêm chính, phải chí công vô tư, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân. Nho
giáo cũng ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam cũng như cách ứng xử của người Việt đối
với Pháp luật VN. Từ xưa, truyền thông luật pháp của các châu Á như Việt Nam, Trung
Quốc, Nhật Bản, Cộng hòa dân chủ Triều Tiên, Hàn Quốc về cơ bản có những điều đặc
biệt giống nhau. Đó là ảnh hưởng của Nho giáo và quan niệm chung về pháp luật nặng
về pháp luật và hành chính, nhẹ về dân luật. Đê trị nước, theo Nho giáo cần có bốn
yếu tố là: lễ, nhạc, hình, chính. Lễ để hòa âm của dân, nhạc để hòa âm của dân, chính trị
để làm việc, pháp luật ngăn điều xấu. Một trong những nền tảng nền tảng của Đạo luật
Không là khái niệm về hài hòa trong vũ trụ. Các cá nhân có thể nói về phiên bản là một
bộ phận trong sự hài hòa đó, nên luôn luôn phải tự do nhường, giữ cho mình và tuân thủ
các quy tắc xử lý theo quan điểm đạo đức trong xã hội. Các quy tắc dựa trên những tập
quán lâu đời, tuy nhiên phức tạp nhưng cân đối, chặt chẽ và thay đổi theo mối quan hệ
giữa các cá thể. Như vậy, hệ tư tưởng của Nho giáo là hệ tư tưởng đề cao vai trò của đạo
đức và lễ nghĩa trong quản lý xã hội, đồng thời nhấn mạnh rằng người làm vua muốn cai lO M oARcPSD| 45467232
trị xã hội lâu dài thì phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc là nguyên tắc cơ bản trong tư
tưởng chính trị và pháp luật của người cai trị
Ngày nay, trong mỗi con người Việt Nam, trong mỗi gia đình Việt Nam, trong mỗi làng
xã Việt Nam, trong sinh hoạt cộng đồng, trong tô chức và hoạt động của bộ máy nhà
mước, trong tinh thần của dân tộc vẫn côn thẩm đượm những tư tưởng của Nho giáo. Tuy
nhiên, trong phạm vi quốc gia, nếu không có một định hướng đúng đắn thì những giá trị
tích cực của Nho giáo sẽ bị mai một, di sản quý báu đó trong văn hoá dân tộc sẽ không
được phát huy, lớp bụi thời gian ngày càng phủ dày và dần dần sẽ vùi lấp nó. Trách
nhiệm của những người nghiên cứu văn hoá nói chung và văn hoá pháp luật nói riêng là
phải bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Tinh thần của
Nho giáo trong cai trị xã hội là phải biết kết hợp “lễ, nhạc, hình, chính" trong quản lý và
xây dựng xã hội. Điều này cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Nhờ có “lễ" mà con
người Việt Nam thường sống điều độ biết “kính trên, nhường dưới", biết “ăn trông nồi,
ngồi trông hướng", biết sống “có trước, có sau". Từ cách ăn, mặc, đi, đứng, nằm, ngồi,
đến nói, cười, nhày, múa, ca hát người Việt Nam thường chừng mực mà không thái quá.
Chính sự chừng mực, điều độ như uống không quá say, ăn không quá no, nói không quá
lời, áo không quá hở, váy không quá ngắn, tóc không quá dài mà trật tự xã hội được thiết
lập. Như vậy, trong xã hội hiện đại ngày nay, vai trò của pháp luật được để cao, không
những pháp luật hình sự như thời xa xưa mà cả pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân
và gia đình... Tuy nhiên, điều đó không hề làm giảm vai trò của đạo đức và các thuần
phong, mỹ tục mà người Việt Nam đã xây dựng hàng nghìn năm nay. Nếp sống hiền hòa,
nhân hậu, lưrơng thiện của người Việt Nam trong con mắt người nước ngoài chính là sản
phẩm văn hóa được hun đúc từ hàng nghìn năm mới có được, trong đó tư tưởng Nho giáo
đóng góp một phần không nhỏ. Sự hòa quyện của những quy tắc pháp luật, đạo đức, tôn
giáo, phong tục tập quán đã tạo nên một trật tự xã hội mà người Việt Nam nhiều khi chỉ
cảm nhận được bằng linh cảm hoặc bằng kinh nghiệm sống của mình. Văn hóa pháp luật
Việt Nam như một tàng băng, phần nổi chỉ là rất ít, chủ yếu là phần không nhìn thấy dưới
tầng sâu, đôi hỏi phải nghiên cứu, khám phá để có thể đưa ra những phương hướng, giải
pháp đúng đắn nhằm làm cho nó ngày càng phong phú và giàu có hơn trong đời sống pháp lý.
Tuy nhiên, vẫn có những mặt hạn chế như việc tuyệt đối hóa tính tôn ti, thứ bậc là nguyên
nhân làm hạn chế ý thức về quyền cả nhân, mà hệ quả trực tiếp là sự triệt tiều ý thức phản lO M oARcPSD| 45467232
biện/ phản kháng của con người, đó cũng là nguyễn nhân làm hạn chế việc sử dụng công
cụ pháp luật để bảo vệ quyền cá nhân. Vi chủ trương đề cao đức trị hơn pháp trị nên Nho
giáo khuyên khích "vô tụng". Khổng Tử cho rằng: “Xét xử việc kiện tụng, ta cũng như
người. Tất phải làm cho dân không có việc kiện tụng". Việc kết hợp, lồng ghép giữa đức
trị với pháp trị khiến cho sự phân cách giữa đạo lý và pháp lý là một ranh giới mờ, nhập
nhằng, khó phân định. Bằng chứng là, trong các bộ luật thời phong kien Việt Nam, "Tam
cương", "Ngũ thường" là đạo ly nhưng cũng đồng thời là pháp lý. Điều này dẫn đến hệ quả là
Như vậy, trong quá trình tiếp nhận Nho giáo, giữa văn hóa Việt Nam và Nho giáo đã bộc
lộ những nét tương đồng và dị biệt, và nó đã được Việt Nam hóa, làm cho Nho giáo ở
Việt Nam không còn trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà phù hợp với đời sống tư tưởng
và văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay. việc xét xử các vụ án thường khó tránh
khỏi hiện tượng “tội đồng luận dị" (tội giống nhau nhưng phán xử lại khác nhau) do tính
chất chủ quan, cảm tính, tùy tiện, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với pháp luật.
Tóm lại, trong nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam, Nho giáo đã ảnh hưởng và chi
phối sâu sắc và toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, xét cả hai mặt tích cực và tiêu
cực. Câu 9. Hãy chỉ ra dấu ấn của văn hoá nông nghiệp ảnh hưởng đến văn hóa giao
tiếp ứng xử của người Việt, theo các bạn những đặc điểm giao tiếp ứng xử nào cần
được giữ gìn và phát huy.
Giao tiếp và ứng xử là một hình thức biểu đạt văn hóa của cá nhân, cộng đồng khá rõ nét.
Do sự chi phối của lối sống nông nghiệp và tư tưởng Nho giáo nên văn hóa giao tiếp, ứng
xử của người Việt có những đặc điểm cơ bản sau đây -
Do nền văn hóa nông nghiệp sống quần cư, sự gắn kết cộng đồng cao nên người
Việt coi trọng việc giao tiếp và thích giao tiếp. Chào hỏi nhau được xem là một nghi thức
ứng xử văn hóa quan trọng của người Việt “lời chào cao hơn mâm cổ”, thích thăm viếng
nhau, coi việc thăm viếng như biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, để thắt chặt thêm quan
hệ và giàu tính hiểu khách (khách đến nhà thường được đón tiếp niềm nở, chu đáo, tận tình). -
Về cách ứng xử trong giao tiếp của người Việt, người dân Việt Nam thường thích
tìmhiểu, quan sát, đảnh giá đối tượng giao tiếp, quan tâm đến những thông tin cá nhân
của đôi tượng giao tiếp (tuổi tác, quê quán, nghề nghiệp, địa vị, hoản cảnh gia đình...).
Đặc điểm này cũng có nguyên nhân từ tính cong đông và lôi sống trọng tinh (quan tâm