









Preview text:
lOMoAR cPSD| 61431571
1. VCB đang sử dụng những phương thức ttqt nào (tra gg có những vấn đề lquan đến ttqt nào)
VCB hiện đang cung cấp 3 phương thức Chuyển tiền
Đây là dịch vụ của Vietcombank đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong việc thanh toán các chi
phí liên quan đến nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ… cho đối tác theo phương thức đơn giản nhất. Các dịch vụ cụ thể:
- Chuyển tiền nhập khẩu theo phương thức T/T (Telegraphic transfer)
- Chuyển tiền nhập khẩu bằng phát hành séc (Bankdraft) Nhờ thu
Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu ủy thác cho ngân
hàng thu hộ tiền từ người nhập khẩu căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo, với điều kiện là
nếu người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng
từ gửi hàng cho người nhập khẩu để nhận hàng.
Khi nhận được bộ chứng từ nhờ thu từ ngân hàng nước ngoài, Vietcombank sẽ thông báo với
doanh nghiệp để yêu cầu thanh toán cho bộ chứng từ hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu khi
đến hạn và giao bộ chứng từ để doanh nghiệp nhận hàng. Các hình thức thu hộ
- D/P (Documents against Payment): Người nhập khẩu phải thanh toán ngay thì ngân hàng
thu hộ mới giao bộ chứng từ giao hàng cho họ.
- D/A (Documents against Acceptance): Người nhập khẩu phải chấp nhận thanh toán trị giá
hối phiếu khi đáo hạn thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho họ. Thư tín dụng Phát hành L/C
Vietcombank thực hiện phát hành L/C (nhập khẩu, nội địa) theo yêu cầu của doanh nghiệp mua
hàng để cam kết thanh toán ngay hoặc thanh toán vào một thời hạn nhất định trị giá của L/C cho
người hưởng lợi khi người hưởng lợi xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện nêu trong L/C.
L/C có thể được phát hành miễn kí quĩ hoặc kí quĩ theo một tỉ lệ nhất định trên tổng trị giá cam
kết của Vietcombank, với tỉ lệ kí quĩ hoặc miễn kí quĩ tùy thuộc vào mức độ tín nhiệm doanh nghiệp. Sửa đổi L/C
Ủy quyền nhận hàng/Ký hậu vận đơn/Bảo lãnh nhận hàng lOMoAR cPSD| 61431571
Vietcombank kí hậu trên vận đơn hoặc phát hành ủy quyền nhận hàng hoặc bảo lãnh nhận hàng
theo L/C để doanh nghiệp làm thủ tục nhận hàng với người vận chuyển Thanh toán L/C
Vietcombank thực hiện cam kết thanh toán theo L/C khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù
hợp với điều kiện của L/C hoặc khi doanh nghiệp chấp nhận thanh toán bộ chứng từ bất hợp lệ.
Thư tín dụng trả chậm được thanh toán trước hạn (UPAS/UPAS PLUS)
UPAS L/C (Usance Payable At Sight Letter of Credit) là thư tín dụng trả chậm đối với người nhập
khẩu nhưng lại có giá trị thanh toán ngay đối với người xuất khẩu. UPAS L/C là sản phẩm mới,
nhưng do đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nên được chấp
nhận sử dụng và phát triển nhanh chóng.
Vietcombank thực hiện phát hành thư tín dụng nhập khẩu trả chậm có điều khoản đặc biệt cho
phép Người hưởng thư tín dụng (bên xuất khẩu) được thanh toán ngay (L/C UPAS) hoặc được
thanh toán vào một ngày cụ thể trước ngày đáo hạn (L/C UPAS Plus) từ ngân hàng chiết khấu
được Vietcombank chỉ định trong khi bên nhập khẩu chỉ phải thanh toán vào thời điểm đáo hạn
hối phiếu/bộ chứng từ theo L/C trả chậm. Lợi ích
- Tháo gỡ khó khăn về nguồn ngoại tệ thanh toán cho đối tác nước ngoài do được tài trợ thanh
toán trả chậm tối đa lên tới 360 ngày nhưng vẫn thỏa mãn yêu cầu thanh toán trước hạn của bên xuất khẩu;
- Nâng cao tính thanh khoản, cải thiện dòng tiền, duy trì, mở rộng mối quan hệ với đối tác nước
ngoài cũng như giảm áp lực về ngoại tệ trong trường hợp không có nguồn thu ngoại tệ để trả nợ vay;
- Mở rộng cơ hội hợp tác với những nhà xuất khẩu uy tín với mức chào giá hết sức cạnh tranh;
- Giảm chi phí tiền hàng do nhập hàng với giá rẻ hơn và có lợi hơn về thuế nhập khẩu;
- Được hưởng mức phí ưu đãi, cạnh tranh, thậm chí thấp hơn lãi suất vay ngoại tệ thông thườngvà
thấp hơn so với chi phí vay VND để thanh toán L/C trả ngay. 2.
Tại sao các dn VN thường xuất fob nhập cif https://xuatnhapkhauleanh.edu.vn/tai-sao-
doanh-nghiep-viet-thuong-xuat-fob-va-nhap-cif.html Như vậy nhìn vào 2 điều kiện giao hàng trên chúng ta có thể thấy:
+ Ở điều kiện FOB: do người bán phải giao hàng cho người chuyên chở (do người mua chỉ định),
và người mua đứng ra thuê, trả phí cho phương tiện chở hàng, mua bảo hiểm. Do vậy, người mua
sẽ phải gánh chịu hầu hết các rủi ro khi nhập khẩu hàng hóa. Đứng ở góc độ người mua hàng, lOMoAR cPSD| 61431571
nếu muốn mua được hàng với giá phải chăng họ sẽ chọn mua theo FOB dù cho trách nhiệm trong
việc vận chuyện quốc tế có nặng nề hơn.
-> Thường thì các doanh nghiệp nước ngoài khi nhập khẩu hàng hóa thường chọn FOB. Tuy nhiên
ở Việt Nam do các công ty thường xuất khẩu hàng nguyên nhiên liệu thô, bán thành phẩm là chủ
yếu, giá trị gia tăng thấp, nhu cầu xoay vòng vốn nhanh, cùng với đó là kinh nghiệm trong làm
hàng xuất khẩu cũng như khả năng giải quyết rủi ro trong quá trình vận chuyển còn kém nên
thường để nhà nhập khẩu có kinh nghiệm trong làm hàng, thuê vận tải và chịu trách nhiệm cho
các vấn đề phát sinh trong quá trình vận chuyển.
+ Ở điều kiện CIF thì ngược lại hoàn toàn, người mua chỉ cần làm thủ tục thông quan nhập khẩu,
còn mọi vấn đề về bảo hiểm rủ ro, giao hàng là trách nhiệm của người bán.
-> Theo đó, người mua sẽ tránh né được tối đa những rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng
hóa, và sẽ thích nhâp CIF hơn. Tuy nhiên họ sẽ phải chấp nhập mức giá cao hơn thông thường (vì
mức giá đó bao gồm chi phí vận tải và bảo hiểm hàng hóa.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường chọn điều kiện CIF khi nhập khẩu hàng hóa
bởi khả năng vận chuyển hàng hóa , làm Logistics của họ vẫn còn non yếu, hơn nữa cũng không
có nhiều kinh nghiệm về vận tải bảo hiểm. Các doanh nghiệp Việt cũng sợ rủi ro trong thuê tàu
chuyên chở và mua bảo hiểm.
Khi nhập CIF các doanh nghiệp Việt Nam không phải thuê tàu và mua bảo hiểm hàng hóa nên có
thể tránh được những rủi ro như: giá cước vận chuyển tăng, phí bảo hiểm tăng, không thuê được
tàu, tàu không phù hợp,…vì vậy, các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam nhượng lại việc thuê tàu và
bảo hiểm cho khách nước ngoài.
Nhập FOB và xuất CIF có lợi ích gì? Giải pháp cho công ty xuất nhập khẩu Việt Nam
Thay vì "xuất FOB và nhập CIF" khi "nhập FOB xuất CIF", quyền chủ động phương tiện thuộc về
nhà kinh doanh xuất khẩu Việt Nam. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ được nhận ưu đãi mà hãng tàu
dành cho, có thể chọn lựa được những hãng tàu rẻ hơn giá đã tính cho nhà nhập khẩu bên kia;
hơn nữa, khi thuê những hãng tàu của Việt Nam, doanh nghiệp sẽ nhanh chóng nhận được các
chứng từ cần thiết để giải quyết nhanh, tiết kiệm thời gian, tăng hiệu quả cho việc giao nhận,
thanh toán tiền hàng; kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp vì thế cũng tăng, giảm được ngoại
tệ chảy ra nước ngoài, tạo điều kiện cho ngành vận tải biển Việt Nam phát triển.
Nói cách khác, khi giao hàng giá CIF, đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp sẽ thu được trị giá
ngoại tệ cao hơn so với việc xuất FOB. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thiếu vốn, có thể dùng thư tín
dụng (L/C) thế chấp tại ngân hàng, sẽ vay được số tiền cao hơn. Doanh nghiệp sẽ rất chủ động
trong việc giao hàng, không phải lệ thuộc vào việc điều tàu (hoặc container) do người nhập khẩu
chỉ định. Đôi khi vì lệ thuộc vào khách nước ngoài, tàu đến chậm làm hư hỏng hàng hoá đã tập
kết tại cảng hoặc trong kho, nhất là hàng nông sản. lOMoAR cPSD| 61431571
Đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tàu (hoặc container): Các công ty này của Việt
Nam rất thiếu việc làm, nếu các DN liên hệ mua bảo hiểm hàng hoá và thuê tàu (container) trong
nước, chắc chắn sẽ làm tăng doanh số cho các doanh nghiệp này, giải quyết thêm việc làm cho
cộng đồng của chúng ta, hơn là để các công ty nước ngoài thu được phí bảo hiểm và cước tàu.
Khi nhập khẩu giá FOB, các doanh nghiệp trả tiền ký quỹ để mở L/C ít hơn, ngoài ra, nếu nhập giá
CIF, khi khách nước ngoài giao hàng, sau khoảng 3 ngày họ đã điện đòi tiền, nhưng nhập FOB thì
khi hàng cập cảng, doanh nghiệp nhập khẩu mới phải trả tiền cước tàu, doanh nghiệp không bị
dồn vốn, hoặc không phải trả lãi vay ngân hàng cho khoản tiền cước tàu, do đó giảm được giá thành hàng nhập khẩu.
Vì vậy, nếu doanh nghiệp Việt chủ động được mọi vấn đề về vận tải quốc tế, bảo hiểm và trau dồi
thêm kinh nghiệm về vận chuyển hàng hóa thì nên nhập FOB và xuất CIF, tránh thói quen như
hiện ta, chúng ta thường xuất FOB và nhập CIF theo mức giá rẻ (FOB) và mức giá cao (CIF).
+ Xuất FOB và nhập CIF là thói quen của DNVN, còn ở những nước phát triển, họ làm ngược lại.
Thói quen này cũng có một vài điểm lợi nhưng có rất nhiều điểm ko lợi. Ý kiến của mình là thế
này: Về lợi: - Bán FOB và mua CIF các doanh nghiệp VN không phải thuê tàu và mua bảo hiểm cho
hàng hóa nên có thể tránh được những rủi ro trong việc thuê tàu và mua bảo hiểm như giá cước
tăng , phí bảo hiểm tăng , không thuê được tàu, tàu không phù hợp ... Nếu ko giỏi về nghiệp vụ
đàm phán ngoại thương, tốt nhất ta cứ mua CIF và bán FOB. - Bán FOB giải quyết được tình trạng
vốn thấp của các DNVN (không đủ vốn để trả trước cho cước phí vận tải và bảo hiểm). - Bán FOB
ít rủi ro hơn về mặt thanh toán so với bán CIF: nếu ta phải bán giá CIF, lô hàng có chi phí cao, một
khi bạn hàng mất khả năng thanh toán, mất mát của ta sẽ lớn hơn. (Phân biệt với "Điểm chuyển
giao rủi ro" theo INCOTERMS - "Điểm chuyển giao rủi ro" là như nhau các điều kiện nhóm C và
nhóm F) Về hại: - Bán FOB thu về lượng ngoại tệ thấp hơn cho đất nước so với bán CIF - Thường
thì exporters sẽ thuê tàu và mua bảo hiểm ở các công ty thuộc nước họ. Vậy nếu mua CIF, bán
FOB DNVN nhường quyền này cho bạn hàng, vô tình khiến các DN bảo hiểm và hãng tàu trong
nước mất đi việc làm - Nếu trực tiếp giao dịch với các công ty bảo hiểm hàng hải và hãng tàu,
người thuê sẽ được hưởng 1 khoản commission. Ta ko giao dịch thì mất đi khoản này vào tay bạn
hàng - Khi mua CIF và xảy ra tổn thất với hàng hóa, DNVN sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải đàm
phán trực tiếp với hãng tàu và bảo hiểm nước ngoài.
3. Vận tải đường biển
Mặc dù chịu tác động lớn từ dịch COVID-19, song tổng khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển
Vi t Nam năm 2021 vẫn đạt hơn 703 triệu tấn, tăng 2% so với năm 2020. Đặc biệt, khối ệ lượng
hàng hóa xuất nhập khẩu vận tải quốc tế của đội tàu biển Việt Nam đạt mức tăng trưởng hiếm
có, tăng tới 54% (đạt gần 5 triệu tấn) so với năm 2020. Các mặt hàng chủ yếu vận tải trên các
tuyến đi: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, khu vực Đông Nam Á và một số tuyến châu Âu…
“Trước đây, nhiều ý kiến cho rằng chúng ta mắc phải ‘hội chứng cảng biển’, địa phương nào cũng
muốn có cảng biển, gây ra tình trạng nhiều cảng manh mún. Thế nhưng, tôi cho rằng, nhờ hệ lOMoAR cPSD| 61431571
thống cảng rộng khắp trải dài dọc đất nước mà chúng ta hình thành được mạng lưới vận tải ven
biển nội địa. Mạng lưới này đã góp phần giảm áp lực cho vận tải đường bộ, phát huy lợi thế vận
tải khối lượng lớn, giá thành rẻ, thân thiện môi trường
Nhờ có sự đột phá về cảng biển, Việt Nam đã có năng lực đón những ‘tàu mẹ’ thuộc hàng lớn
nhất trên thế giới trong năm vừa qua, chúng ta cũng có được tuyến vận tải biển xa từ các cảng
cửa ngõ như: Lạch Huyện, Cái Mép – Thị Vải đi bờ Tây, bờ Đông nước Mỹ, châu Âu… để hàng hóa
Việt Nam được xuất khẩu trực tiếp trên các tuyến vận tải biển đi khắp thế giới” lOMoAR cPSD| 61431571
4. Thanh toán quốc tế - Bài học từ những rủi ro
Tăng trưởng vượt bậc của thương mại quốc tế trong nhiều năm trở lại đây đã kéo theo sự đa
dạng hóa các hình thức thanh toán quốc tế phù hợp với các giao dịch xuất nhập khẩu hàng hóa lOMoAR cPSD| 61431571
của Việt Nam với các quốc gia có giao thương trên thế giới. Tuy nhiên, trong các giao dịch vẫn
luôn tiềm ẩn những rủi ro nhất định có thể gây thiệt hại đến tài chính và uy tín của cả bên bán và
bên mua. Vì vậy, doanh nghiệp cần liên tục trang bị kiến thức, chuẩn bị sẵn phương án đối phó
và tỉnh táo, đề cao cảnh giác trong các thương vụ quốc tế.
Tính đến hết năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện, có
quan hệ ngoại giao với 189/193 nước, có quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ. Với
17 Hiệp định thương mại tự do (FTA), Việt Nam đang bước qua cánh cửa lớn, đa chiều để định
hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu ngày càng
sâu rộng, đầy đủ và hiệu quả hơn, đồng thời phát triển thương mại xuất nhập khẩu lên tầm cao
mới với trị giá ngày càng cao.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2021 của Việt Nam
đạt 668,54 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 336,31 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt
332,23 tỷ USD. 3 tháng đầu năm 2022, hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa có sự phục hồi mạnh
mẽ từ sau những ảnh hưởng của đại dịch với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đạt 176,35
tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 12,9%, nhập khẩu tăng
15,9%. Trị giá của các giao dịch thương mại quốc tế ngày càng tăng cao kéo theo nhu cầu đa dạng
hóa và tiện lợi hóa các hình thức thanh toán cho các giao dịch xuất - nhập khẩu.
Hiện nay, có nhiều hình thức thanh toán trong thương mại quốc tế như: Phương thức chuyển tiền
bằng điện (T/T), phương thức tín dụng chứng từ, phương thức ghi sổ, phương thức nhờ thu hộ,
bảo lãnh và tín dụng dự phòng… với các điều kiện cam kết về: Tiền tệ, địa điểm, phương thức
thanh toán quốc tế, thời gian… Hai hình thức thanh toán phổ biến thời gian qua được các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng là phương thức thanh toán tín dụng thư và phương thức thanh
toán thu hộ kèm chứng từ. Trước đây, đa số các đơn hàng xuất khẩu của Việt Nam sử dụng
phương thức thanh toán bằng tín dụng thư (Letter of Credit – L/C). Với phương thức này, thanh
toán được thực hiện thông qua ngân hàng của cả người mua và người bán. Sau khi xác nhận các
điều khoản và điều kiện thương mại, người mua yêu cầu ngân hàng của mình thanh toán số tiền
đã thỏa thuận của cả 2 bên cho ngân hàng của người bán. Sau đó, ngân hàng của người mua sẽ
gửi L/C làm bằng chứng về số tiền đủ và hợp pháp cho ngân hàng của người bán. Và thanh toán
chỉ được chuyển sau khi cả 2 bên đáp ứng tất cả các điều kiện đã nêu và lô hàng được vận chuyển.
Đây được cho là một trong những phương thức thanh toán quốc tế an toàn nhất cho nhà xuất
nhập khẩu, vì có sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính đã thành lập như ngân hàng làm trung gian
và có mức độ cam kết nhất định của 2 bên. Phương thức L/C cũng cân bằng được lợi ích của cả
đôi bên và giải quyết được mâu thuẫn không tín nhiệm nhau của bên mua và bên bán.
Gần đây, doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng chuyển sang sử dụng phương thức thanh toán thu
hộ kèm chứng từ (Documents against Payment – D/P). Phương thức này cũng khá phổ biến trong
thương mại quốc tế và được doanh nghiệp ở nhiều quốc gia sử dụng do tính linh hoạt và chi phí
thấp hơn nhiều so với phương thức L/C. Theo đó, người bán nộp các chứng từ mà người mua
cần, chẳng hạn như vận đơn cần thiết cho việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho ngân hàng lOMoAR cPSD| 61431571
của họ. Sau đó, ngân hàng của người bán sẽ gửi các chứng từ này đến ngân hàng của người mua
cùng với hướng dẫn thanh toán. Các tài liệu chỉ được phát hành để đổi lấy khoản thanh toán,
khoản tiền này sẽ được chuyển ngay lập tức hoặc vào một ngày cụ thể trong tương lai. Về cơ bản
chính là dùng bộ chứng từ để đổi lấy hàng hóa và người bán đang giao trách nhiệm thu tiền thanh
toán cho ngân hàng của mình.
Tuy nhiên, bất kỳ phương thức thanh toán hàng hóa thương mại quốc tế nào cũng luôn tiềm ẩn
mức độ rủi ro nhất định. Thống kê của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ từ năm 2013-2016, đã có khoảng
22 nghìn vụ lừa đảo, gây thiệt hại trên 3 tỷ USD. Các vụ lừa đảo thương mại này diễn ra ở 79 quốc
gia và tội phạm tham gia chủ yếu đến từ các tổ chức tại Đông Âu, châu Á, châu Phi và Trung Đông,
Mỹ, Hà Lan, Italia... Từ con số vừa nêu có thể thấy, thương mại quốc tế đã và đang đối diện với
nguy cơ bị lừa đảo trong hoạt động thương mại quốc tế và thanh toán điện tử, khi cơ sở pháp lý
bị giới hạn bởi rào cản biên giới của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này có thể gây ra khá
nhiều rủi ro cho doanh nghiệp ở cả bên bán và bên mua.
Trong những năm gần đây, các cơ quan chức năng trong nước và thương vụ nước ngoài liên tục
cảnh báo về hiện tượng lừa đảo trong giao dịch thương mại quốc tế mà không ít doanh nghiệp
Việt Nam đã từng mắc phải. Đặc biệt, trong bối cảnh các thị trường đang bị tác động nặng nề bởi
đại dịch Covid-19, tình trạng lừa đảo trong giao dịch thương mại quốc tế càng có xu hướng tăng
lên với thủ đoạn tinh vi, khó phát hiện. Nhất là đối với nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu của
Việt Nam do chưa nắm vững các kiến thức và hiểu biết pháp lý về thanh toán thương mại quốc
tế. Các rủi ro trong thanh toán thương mại quốc tế cũng khá đa dạng với các điển hình như: Rủi
ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro tỷ giá hối đoái…
Theo Bộ công Thương, các thủ đoạn lừa đảo trong giao thương đã trở nên tinh vi hơn với đa dạng
thức như: Giao hàng không trả tiền; làm giả giấy tờ, thậm chí là giấy tờ ngân hàng để lấy hàng,
cài người lấy chứng từ xuất khẩu; sử dụng hacker xâm nhập địa chỉ email của 2 bên doanh nghiệp
đang có giao dịch, theo dõi tiến trình đàm phán, khi bên mua chuẩn bị chuyển tiền mua hàng hóa
thì “hack” email hoặc tạo tài khoản email giả mạo để gửi thông tin tài khoản, khi bên mua chuyển
tiền vào tài khoản lừa đảo, đối tượng sẽ ngay lập tức rút tiền và biến mất.
Các doanh nghiệp này còn lợi dụng sự bất cẩn, thiếu chuyên nghiệp của các doanh nghiệp trong
nước, như không yêu cầu tổ chức giám định có uy tín kiểm tra hàng trước khi giao hàng, không
thẩm định các thông tin về doanh nghiệp đối tác, không có người của phía Việt Nam sang để làm
việc… để chuyển hàng không giá trị, không đúng hợp đồng, hoặc thông báo hàng hỏng, kém chất
lượng để ép giá, trừ nợ hoặc đòi bồi thường… Ngoài ra, do mong muốn bán được hàng nên doanh
nghiệp thường dành cho đối tác một số lợi thế trong các điều khoản hợp đồng, đặc biệt là điều
khoản về thanh toán. Thêm vào đó, rủi ro lớn nhất doanh nghiệp Việt Nam thường mắc phải là
điều khoản hợp đồng không chặt chẽ, doanh nghiệp khá chủ quan, doanh nghiệp chưa nghiên
cứu kỹ đối tác khi đặt quan hệ làm ăn và tìm đối tác qua Internet nhưng chưa có khâu kiểm tra,
xác thực nguồn thông tin về đối tác nước ngoài. lOMoAR cPSD| 61431571
Khi xảy ra rủi ro trong thanh toán, phần lớn thiệt hại thường ở phía người bán hay chính là các
doanh nghiệp xuất khẩu. Năm 2020, Trung tâm Xúc tiến Thương mại Việt Nam tại New York (Mỹ)
đã phát đi cảnh báo về việc một số doanh nghiệp Việt Nam bị thiệt hại trong việc thực hiện hợp
đồng thương mại với đối tác tại thị trường này, chủ yếu do bị lừa hoặc đối tác phá sản, không có
khả năng thanh toán. Đầu tháng 3/2022, đã xảy ra vụ việc lừa đảo lớn nhất trong lịch sử ngành
Điều và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử 30 năm giao dịch quốc tế có nhiều doanh nghiệp cùng
bị cú lừa lớn như vậy. Theo đó, các doanh nghiệp điều Việt Nam đã ký hợp đồng với một số khách
hàng Ý thông qua 1 công ty môi giới để xuất khẩu hạt điều sang Ý với phương thức thanh toán
D/P – thanh toán nhờ thu kèm chứng từ gốc. Tuy nhiên, bộ chứng từ gốc của các doanh nghiệp
Việt Nam gửi đi đã bị thất lạc và doanh nghiệp có nguy cơ mất trắng số hàng mà chưa nhận được
thanh toán. Với khối lượng 100 container hàng, tổng giá trị thiệt hại đã có thể lên đến gần 1 nghìn
tỷ đồng nếu như doanh nghiệp không sớm phát hiện ra các dấu hiệu của một vụ lừa đảo và kịp thời ngăn chặn.
Từ những rủi ro trong thanh toán các thương vụ quốc tế, các doanh nghiệp cần rút ra bài học để
tránh vướng phải những tình huống tương tự, giảm thiểu những rủi ro trong thương mại quốc tế
nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng. Quan trọng nhất là tránh gây thiệt hại lớn về kinh tế
và ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của mình, doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ đối tác trước khi
giao dịch. Một số giải pháp đặt ra cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nhằm tránh
những rủi ro trong thương mại và thanh toán quốc tế được khuyến cao gồm có:
Đối với việc tìm kiếm đối tác: Cần kiểm tra kỹ thông tin đối tác, nhất là những đối tác giao dịch
lần đầu, yêu cầu cấp các giấy tờ liên quan như: Giấy phép kinh doanh, ID của chủ doanh nghiệp.
Luôn nâng cao cảnh giác với những doanh nghiệp mới quen biết hoặc chưa có giao dịch làm ăn
với nhau, đặc biệt lưu ý kiểm tra độ tin cậy khi có đơn hàng trả giá quá cao hoặc quá thấp so với
mặt bằng chung. Trao đổi trực tiếp với đối tác hoặc thông qua bạn hàng, hiệp hội, công ty tư vấn,
thương vụ, đại sứ quán để sàng lọc đối tác có uy tín. Cần tìm hiểu thị trường, kiểm tra đánh giá,
xếp hạng rủi ro tín dụng, kinh doanh của các đối tác nước ngoài thông qua các nguồn tin công
khai, từ các đơn vị chuyên cung cấp dịch vụ thẩm tra tín dụng, qua Hiệp hội tại các nước nhập
khẩu, cơ quan ngoại giao, Thương vụ tại nước nhập khẩu nhằm xác minh độ tin cậy của đối tác,
nhất là với các đối tác không tiếp xúc trực tiếp hoặc tìm kiếm trên internet. Việc liên hệ với đối
tác cần được tiến hành qua các kênh chính thức của doanh nghiệp như email, fax chính thức.
Với khâu lựa chọn phương thức thanh toán: Doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ trước khi lựa chọn
phương thức thanh toán phù hợp và mua bảo hiểm tỷ giá để phòng trường hợp tỷ giá biến động
phức tạp và khó dự báo. Lưu ý tìm hiểu nguyên tắc, thông lệ quốc tế để nắm rõ vai trò, trách
nhiệm của các bên liên quan, qua đó xem xét lựa chọn các phương thức và điều kiện thanh toán
hợp lý, đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp. Nắm rõ các điều khoản trong hợp đồng và nghiên cứu
bổ sung các điều khoản thanh toán chặt chẽ. Nên đề nghị đối tác sử dụng L/C không hủy ngang
mở tại các ngân hàng uy tín quốc tế, đồng thời hạn chế cho khách hàng trả chậm. Khi đối tác mở
L/C, cần đề nghị ngân hàng Việt Nam kiểm tra tính xác thực của L/C trước khi giao chứng từ. Đối lOMoAR cPSD| 61431571
với thanh toán D/P, doanh nghiệp Việt Nam cần đưa ra các mức % đặt cọc để bảo đảm an toàn
cho các đơn hàng (tốt nhất là 50% trở lên) và có các điều kiện phù hợp đi kèm.
Doanh nghiệp cũng cân nhắc việc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng nhằm tăng khả năng thu hồi
công nợ thông qua ngân hàng cung cấp dịch vụ, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu đánh giá
các thông tin về đối tác nhập khẩu, đơn vị phát hành thư tín dụng.
Với doanh nghiệp Việt: Bên cạnh việc đề cao cảnh giác và thực hiện cẩn trọng từng khâu trong
giao dịch với các đối tác, bản thân doanh nghiệp cũng cần chú trọng nâng cao chất lượng chuyên
môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, kiến thức pháp luật về thương mại quốc tế của đội ngũ nhân lực làm
công tác ngoại thương, phát triển thị trường của doanh nghiệp mình. Việc gặp rủi ro trong thanh
toán thương mại quốc tế là điều không mong muốn nhưng hàng năm vẫn có rất nhiều doanh
nghiệp Việt Nam vướng phải, vì vậy, việc tự thân doanh nghiệp trang bị cho mình kiến thức, nâng
cao cảnh giác, linh hoạt xử lý tình huống, rút kinh nghiệm từ những thương vụ gặp rủi ro ít nhiều
sẽ giúp doanh nghiệp tự tin phát triển sản phẩm, tránh được những thiệt hại không mong muốn,
góp phần tăng trưởng thương mại Việt Nam