











Preview text:
lOMoAR cPSD| 45315597
Câu hỏi: Tồn tại xã hội, Ý thức xã hội là gì? Vai trò quyết
định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội 1. Khái niệm:
a. Tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh
hoạt vật chất, quan hệ vật chất của xã hội.
Những yếu tố cơ bản của đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất bao gồm:
Phương thức sản xuất vật chất
Ví dụ, phương thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản
tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.
Điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý như: các điều kiện khí hậu, đất
đai, sông hồ,… tạo nên đặc điểm riêng có của không gian sinh tồn
của cộng đồng xã hội. bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính
Dân số và mật độ dân số chất lưu dân cư, mô hình tổ chức dân cư,…
Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Trong
các quan hệ vật chất của xã hội thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ
vật chất giữa người với nhau là cơ bản. Ngoài những yếu tố cơ bản trên thì
những yếu tố khác như quan hệ quốc tế, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan
hệ gia đình... cũng đóng vai trò quan trọng trong tồn tại xã hội.
Ví dụ: Phương thức sinh tồn cơ bản và truyền thống của người dân Việt trong
lịch sử là phương thức kĩ thuật canh nông lúa nước với trình độ công cụ và lao
động thủ công (xét về mặt phương thức kĩ thuật).
Thích ứng với phương thức kĩ thuật đó là phương thức tổ chức kinh tế
với quy mô nhỏ và phân tán theo nguyên lí lấy tổ chức kinh tế hộ gia đình cùng
cấu trúc tổ chức “công xã nông thôn” hay làng xã truyền thống làm cơ sở
(phương thức tổ chức kinh tế). Giữa các công xã đó chỉ có sự liên kết không
thường xuyên qua hình thức trao đổi hàng hóa dư thừa tương đối để đảm bảo
sự cân bằng trong sinh hoạt vật chất giữa các cộng đồng người.
Phương thức tổ chức kinh tế ấy là cơ sở trực tiếp quy định tính ổn định
theo nhịp điệu tuần hoàn lặp đi lặp lại giữa các chu kì theo tính chất mùa vụ của lOMoAR cPSD| 45315597
quá trình sản xuất và tái sản xuất trong nền sản xuất nông nghiệp truyền thống.
Trong lịch sử, người Việt Nam về cơ bản là theo phương thức sản xuất đó. b. Ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ
những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng… của những cộng
đồng xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội của họ và phản ánh tồn tại xã hội đó trong
những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển khác nhau của xã hội, bao gồm những trạng thái tâm lý xã hội, những quan
điểm chính trị, tư tưởng triết học, pháp quyền, thẩm mỹ, đạo đức, tôn giáo.
(Tư tưởng Hồ Chí Minh; học thuyết tâm lý học; phong tục tập quán thờ cúng
tổ tiên, ăn trầu, hát quan họ;…)
Theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể phân
biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận:
Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan
niệm…của những con người trong một cộng đồng người nhất định, được
hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được
hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận. Ví dụ:
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm Hoặc
Tháng Bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái
niệm, phạm trù , qui Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực luật .
khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính
xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng. Ý thức
lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
Ví dụ: Học thuyết Lamac và Đacuyn ( học thuyết sinh học về sự hình thành loài hươu cao cổ) lOMoAR cPSD| 45315597 lOMoAR cPSD| 45315597
Cũng có thể phân tích ý thức xã hội theo hai trình độ và hai phương thức phản
ánh đối với tồn tại xã hội, đó là tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. lOMoAR cPSD| 45315597
Tâm lý xã hội là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn
bộ những tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen... của con người, của
một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội được hình thành một cách tự phát
dưới tác động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ, phản ánh điều
kiện sống, cũng như bản thân đời sống đó. Ví dụ: Học thuyết Mác-Lênin
Đặc điểm của tâm lý xã hội:
• Phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sinh sống hàng ngày của con
người, là sự phản ánh có tính chất tự phát, thường ghi lại những mặt bề
ngoài của tồn tại xã hội.
• Nó không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc bản chất các mối
quan hệ xã hội của con người. Những quan niệm ở trình độ tâm lý xã hội
còn ở trình độ kinh nghiệm, những yếu tố trí tuệ, tình cảm đan xen nhau.
Tuy nhiên, tâm lý xã hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống thường ngày của con người.
• Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có điều kiện sinh sống riêng. Do
vậy, tâm lý xã hội của con người trong xã hội có giai cấp cũng mang tính giai cấp.
• Tâm lý xã hội còn mang tính dân tộc. Bởi lẽ, nó không chỉ phản ánh điều
kiện sinh sống của từng cá nhân, của từng giai cấp mà còn của cả dân
tộc. Tính dân tộc trong tâm lý xã hội được hình thành trong quá trình
phát triển lâu dài của mỗi dân tộc. Do vậy, nó có ý nghĩa rất đặc biệt trong tâm lý xã hội.
Hệ tư tưởng xã hội là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa
thành lý luận, thành các học thuyết về xã hội phản ảnh lợi ích của một giai
cấp nhất định như hệ thống quan điểm triết học, chính trị, pháp luật, kinh
tế....là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.
Ví dụ: Truyền thống hiếu học của dân tộc ta
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội là hai trình độ, hai phương thức phản ánh
khác nhau của ý thức xã hội đối với cùng một tồn tại xã hội, chúng có mối quan
hệ biện chứng với nhau, tuy nhiên, không phải tâm lý xã hội tự nó sản sinh ra hệ tư tưởng xã hội.
Với tính cách là hệ thống lý luận về xã hội, hệ tư tưởng có vai trò chỉ đạo thực
tiễn, hoạt động cải tạo xã hội của một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng được hình
thành một cách tự giác. Có hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa lOMoAR cPSD| 45315597
học. Trong xã hội có giai cấp thì hệ tư tưởng của giai cấp thống trị bao giờ cũng
là hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.
Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có quan hệ biện chứng. Tâm lý xã hội và hệ
tư tưởng đều có nguồn gốc chung là tồn tại xã hội, nhưng là hai cấp độ khác
nhau về chất trong trình độ phản ánh và là hai phương pháp phản ánh khác
nhau. Tâm lý xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách tự phát, trực tiếp. Hệ tư
tưởng phản ánh tồn tại xã hội một cách tự giác củng sự kế thừa những tư tưởng
trước đó. Tuy vậy, giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng cũng có quan hệ tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình tác động đến hoạt động thực tiễn của con
người. Tuy nhiên, hệ tư tưởng không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội. Hệ tư
tưởng không phải là “sự cô đặc” của tâm lý xã hội. Do vậy, không được coi nhẹ
hay tuyệt đối hóa hoặc tâm lý xã hội hoặc hệ tư tưởng. Cần xác định đúng vai
trò của cả tâm lý xã hội, của cả hệ tư tưởng phù hợp với mỗi trường hợp, điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
2. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Tồn tại xã hội nào ứng với một ý thức xã hội nhất định: trong đó tồn tại
xã hội quyết định về nguồn gốc, nội dung, bản chất, kết cấu của ý thức xã hội.
Mỗi khi tồn tại xã hội ( nhất là phương thức sản xuất) thay đổi thì ý thức
xã hội sớm muộn gì cũng phải thay đổi theo sao cho phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể lúc đó.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian.
Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ
căn cứ vào ý thức của cả thời đại đó.
Ví dụ: Trong xã hội tâm lý ưa thích nam hơn nữ ( trọng nam khinh nữ ) bắt
nguồn từ nền sản xuất nông nghiệp lúa nước ( phương thức sản xuất) thì phải
làm việc nặng => đề cao vai trò của người đàn ông hơn phụ nữ trên nhiều góc
độ kinh tế, phương thức sx, sx vật chất của xã hội đã sản sinh ra quan niệm, tư
tưởng đó. Ngoài điều kiện đó thì cái tư tưởng này còn ảnh hưởng từ hệ tưởng
nho giáo, các thiết chế về dòng tộc, dòng họ nảy sinh ra tư tưởng gia trưởng, trọng nam khinh nữ này.
Ví dụ: Từ xã hội cộng sản nguyên thủy => xã hội chiếm hữu nô lệ
Trình độ của lực lượng sản xuất còn yếu kém, lao động được diễn ra đồng
nhất, của cải đều được chia đều cho tất cả mọi người.
Còn đến xã hội chiếm hữu nô lệ đã bắt đầu phân chia sự giàu nghèo, mầm
mống sự bóc lột dần được hình thành, kéo theo sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân, lOMoAR cPSD| 45315597
tư tưởng chủ nô. Khi quan hệ sản xuất phong kiến bị quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa dần thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của
hệ tư tưởng phong kiến bị xóa bỏ, được thay thế hoàn toàn bởi hệ tư tưởng tư sản.
(Tồn tại xã hội quyết định đến sự hình thành và phát triển của ý thức xã
hội, tồn tại xã hội có trước rồi ý thức xã hội có sau. Tồn tại xã hội phát triển
theo chiều hướng như thế nào thì ý thức xã hội sẽ phát triển theo chiều hướng
như thế. C.Mác và Ănghen đã chứng minh rằng đời sốn tinh thần của xã hội
hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn
gốc tư tưởng, tâm lý xã hội trong chính bản thân nó.
Những luận điểm của C.Mác đã bác bỏ hoàn toàn những quan điểm sai
lầm của chủ nghĩa duy tâm trước đó là muốn đi tìm ý thức tư tưởng trong bản
thân ý thức tư tưởng, xác định tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của xã hội, quyết
định ý thức xã hội, chính là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn
tại xã hội, ý thức xã hội.
Ngoài ra, giữa hình thái ý thức xã hội và tồn tại xã hội vẫn luôn có sự tác
động quan lại lẫn nhau. Cụ thể trong mỗi thời đại tùy vào từng hoàn cảnh lịch
sử, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu tác động và chi
phối các hình thái ý thức xã hội khác. Điều này nói lên rằng, các hình thái ý
thức xã hội không chỉ chịu sự tác động quyết định của tồn tại xã hội, ngoài ra
còn chịu sự tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này làm cho mỗi hình thái ý
thức xã hội có những tính chất và những mặt không thể giải thích trực tiếp bằng các quan hệ vật chất.)
3. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội (5 khía cạnh)
Theo triết học Mác-Lênin, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn
tại xã hội quyết định. C.Mác đã chỉ rõ: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã
hội của họ quyết định ý thức của họ”. Tuy nhiên, ý thức xã hội không phụ thuộc
vào tồn tại xã hội một cách thụ động. Thông qua hoạt động thực tiễn của con
người, ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội. Hơn nữa, trong quá
trình phát triển của mình, mặc dù chịu sự quy định của các quy luật của tồn tại
xã hội, nhưng ý thức xã hội có những quy luật riêng của mình. Tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội còn thể hiện ở chức năng đặc thù của ý thức xã hội
như một nhân tố sáng tạo tích cực của con người ra đời sống xã hội của chính lOMoAR cPSD| 45315597
mình. Như vậy, triết học Mác-Lênin thừa nhận tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội trong mối quan hệ với tổn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội biểu hiện ở những điểm sau:
1. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội là cái phản ánh của tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội là cái
được phản ánh bởi ý thức xã hội. Do vậy, ý thức xã hội với tư cách là cái phản
ánh bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với tồn tại xã hội - cái được phản ánh.
Điều này thể hiện rất rõ, khi ý thức xã hội không phản ánh kịp sự biến đổi, phát
triển của tồn tại xã hội. Ngay cả ở cấp độ lý luận thì ý thức xã hội cũng không
phải bao giờ cũng phản ánh kịp sự biến đổi của tồn tại xã hội, nhất là trong
những thời điểm có tính chất bước ngoặt của đời sống xã hội.
Ví dụ: Bói toán, Lên đồng,..
Sự lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội có nhiều nguyên nhân khác nhau:
• Thứ nhất, do sức ý của tâm lý xã hội, nhất là của thói quen, phong tục, tập
quán, truyền thống. Khi tâm lý xã hội đã trở thành thói quen, tập quán... thì
nó bám rễ tương đối bền vững ở mỗi người, mỗi nhóm cộng đồng, tầng lớp xã hội.
• Thứ hai, trong ý thức xã hội có những yếu tố bảo thủ, ( tâm lý xã hội, tôn
giáo)chẳng hạn như ý thức tôn giáo phản ánh không đúng và không kịp sự
vận động, biến đổi của tổn tại xã hội.
• Thứ ba, trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những
nhóm xã hội, tập đoàn xã hội, giai cấp xã hội khác nhau. Vì vậy, những quan
điểm, tư tưởng, tâm lý cũ thường được các lực lượng xã hội, các nhóm xã
hội, giai cấp xã hội bảo thủ, phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống
lại những lực lượng xã hội tiến bộ. (nhằm cai trị nd, nô dịch,..)
Chính vì vậy, những tư tưởng, quan điểm, tâm lý cũ không tự động mất đi khi
tồn tại xã hội cũ mà trên đó chúng nảy sinh, tồn tại, phản ánh mất đi, mà phải
thông qua cuộc đấu tranh cải tạo triệt để toàn bộ xã hội cũ, tồn tại xã hội cũ và
xây dựng xã hội mới, tồn tại xã hội mới của các lực lượng xã hội tiến bộ.
2. Ý thức xã hội có thể “vượt trước” tồn tại xã hội a.
Ý thức xã hội nếu phản ánh đúng quy luật vận động của tồn tại xã
hộithì nó có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác-Lênin đã chỉ rõ, trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất
định, ý thức của con người nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của
tồn tại xã hội, thì nó có thể chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của tồn lOMoAR cPSD| 45315597
tại xã hội, trên cơ sở đó có thể dự báo tương lai, góp phần chi đạo tổ chức thực
tiễn đạt hiệu quả cao nhất. Khi nói ý thức xã hội có thể “vượt trước” tồn tại xã
hội không có nghĩa là trong trường hợp này, ý thức xã hội không bị quy định
bởi tồn tại xã hội. Tính vượt trước ở đây là tính vượt trước của sự phản ánh chứ
không phải vượt trước của bản thân ý thức xã hội. Nghĩa là, sự phản ánh của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội là sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn vì
nó chỉ ra được khuynh hướng vận động khách quan của tồn tại xã hội. b.
Phản ánh vượt trước có cơ sở và phản ánh vượt trước không có cơ
sởcủa ý thức xã hội
Sự phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội được coi là sáng tạo
khi nó phản ánh đúng được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính
quy luật của tồn tại xã hội. Nghĩa là ý thức xã hội phản ánh đúng được quy luật
khách quan của sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Khi ấy, sự phản ánh
vượt trước của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội sẽ có cơ sở.
Nếu ý thức xã hội phản ánh không đúng quy luật khách quan của sự vận
động, phát triển của tồn tại xã hội; hơn nữa, nó lại bị chi phối bởi mong muốn
chủ quan, duy ý chí thì khi ấy sự phản ánh vượt trước của ý thức xã hội sẽ là
sự vượt trước không có cơ sở, dễ rơi vào vượt trước ảo tưởng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin tuy ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX từ
trong lòng của chủ nghĩa tư bản, sau được V.I.Lênin bổ sung, phát triển trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa nhưng do
phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của xã hội, vì
vậy đã chỉ ra khuynh hướng vận động tất yếu của xã hội loài người từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, trong thời đại ngày
nay, chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn là thế giới quan, phương pháp luận khoa học
chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ, cho sự nghiệp
cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta.
3. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
a. Do có sự kế thừa trong sự phát triển của nó mà không thể giải thích
ýthức xã hội đơn thuần từ tồn tại xã hội
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội loài người cho thấy, ý
thức xã hội của mỗi thời đại không chỉ phản ánh tồn tại xã hội của thời đại đó
mà còn có cơ sở lý luận của nó nữa. Nói khác đi, ý thức xã hội của mỗi thời đại
không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được xuất hiện trên cơ sở kế
thừa những yếu tố của ý thức xã hội thời đại trước. Điều này thể hiện rõ nhất
trong các quan điểm lý luận. Chẳng hạn, chủ nghĩa Mác không chỉ là sự phản
ánh thực tiễn kinh tế - chính trị, xã hội của thế kỷ XIX ở châu Âu mà còn là sự lOMoAR cPSD| 45315597
kế thừa những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng của nhân loại từ cổ đại đến thời
đại của Mác, trực tiếp nhất là kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội
không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Do ý thức xã hội có tính kế thừa
trong sự phát triển của mình nên không thể giải thích được một quan điểm, tư
tưởng nào đó nếu chỉ dựa đơn thuần vào tồn tại xã hội của thời đại đó. Lịch sử
loài người đã cho thấy, có những giai đoạn hưng thịnh của triết học, nghệ thuật...
không hoàn toàn phù hợp với sự hưng thịnh của đời sống vật chất của xã hội.
Chẳng hạn, những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, đời sống kinh tế
của nước Phổ phong kiến rất lỗi thời, nhưng đây lại là thời kỳ phát triển rực rỡ
của triết học, thơ ca, văn học, nghệ thuật của Phổ khi ấy.
Trong xã hội có giai cấp thì sự kế thừa của ý thức xã hội cũng mang tính
giai cấp. Bởi lẽ, sự kế thừa của ý thức xã hội được thực hiện bởi chủ thể mang
ý thức xã hội. Cũng vì vậy, những giai cấp khác nhau sẽ kế thừa những nội dung
khác nhau của ý thức xã hội thời đại trước. Các giai cấp tiến bộ thường tiếp thu
những di sản tư tưởng tiến bộ của các thời đại trước. Các giai cấp bảo thủ, phản
tiến bộ thường tiếp thu, khôi phục những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, phản tiến
bộ của những thời đại trước.
b. Ý nghĩa rút ra từ tính kế thừa của ý thức xã hội
Quan điểm của triết học Mác-Lênin về tinh kế thừa của ý thức xã hội có
ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng văn hóa tinh thần xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay. Trong quá trình xây dựng văn hóa tinh thần xã hội chủ nghĩa của
xã hội ta hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc tất cả những tinh hoa
văn hóa của nhân loại, trước hết phải biết phát huy những giá trị tinh thần truyền
thống văn hóa cao đẹp của dân tộc.
Trong quá trình tiếp thu, kế thừa những di sản văn hóa tinh thần của nhân
loại, chúng ta phải đứng trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tiếp thu, kế
thừa những giá trị tinh thần phải trên quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm lợi
ích. Đồng thời, chúng ta phải có thái độ đúng với quá khứ, tránh phủ định sạch
trơn cũng như tránh bê nguyên xi những yếu tố tinh thần của các thời đại trước.
Đối với việc tiếp thu văn hóa của nhân loại Đảng ta đề ra nhiệm vụ “tích cực
mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa, chống sự xâm nhập của các
loại văn hóa phẩm độc hại, lai căng…”.
4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
a. Các hình thái ý thức xã hội tác động lẫn nhau lOMoAR cPSD| 45315597
Sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội vừa là sự biểu hiện
của tính tương đối của ý thức xã hội vừa là quy luật phát triển của ý thức xã
hội. Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội theo những phương
thức riêng của mình. Chẳng hạn, triết học phản ánh tồn tại xã hội bằng hệ thống
phạm trù, nguyên lý, quy luật triết học; nghệ thuật phản ánh tồn tại xã hội bằng
những hình tượng nghệ thuật... Chính sự phản ánh theo những cách thức riêng
của mỗi hình thái ý thức xã hội đã làm cho sự phản ánh của ý thức xã hội nói
chung đa dạng, phong phú. Nhưng cũng chính điều đó làm cho mỗi hình thái ý
thức xã hội có “đời sống” riêng và quy luật riêng của mình. Điều này cũng làm
cho các hình thái ý thức xã hội không thể thay thế lẫn nhau, nhưng lại cần đến
nhau, bổ sung cho nhau, ảnh hưỡng lẫn nhau, tác động, thâm nhập lẫn nhau và
cùng nhau tác động đến tồn tại xã hội. Chẳng hạn, triết học ảnh hưởng tới hệ tư
tưởng pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật... về mặt thế giới quan; khoa học ảnh
hưởng tới triết học, ý thức chính trị, pháp quyền...
b. Do điều kiện lịch sử cụ thể mả trong mỗi giai đoạn lịch sử một hìnhthái
ý thức xã hội nào đó nổi trội và đóng vai trò chi phối các hình thái ý thức xã hội khác
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội đã chứng tỏ, ở mỗi giai đoạn lịch sử
cụ thể, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, mà một hình thái ý thức xã hội nào đó
nổi lên hàng đầu và đóng vai trò chi phối các hình thái ỷ thức xã hội khác.
Chẳng hạn, ở Hy Lạp cổ đại, triết học nổi lên hàng đầu thậm chí đóng vai trò là
“khoa học của các khoa học”; ở Tây Âu thời kỳ trung cổ, tôn giáo đóng vai trò
chi phối đời sống tinh thần của xã hội... Trong xã hội có giai cấp, chính trị có
vai trò quan trọng đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Ý thức chính trị tiến
bộ của giai cấp tiến bộ sẽ tác động tích cực, tiến bộ tới nghệ thuật, đạo đức,
pháp quyển. Ý thức chính trị lỗi thời của giai cấp lỗi thời, lạc hậu, bảo thủ sẽ
tác động tiêu cực tới nghệ thuật, pháp quyền, đạo đức.
Ở Việt Nam hiện nay, nếu xa rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng,
nghệ thuật, pháp quyển, triết học... sẽ không tránh khỏi sai lầm trong quá trình phát triển của mình.
5. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
a. Tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Các hình thái ý thức xã hội không chỉ tác động lẫn nhau mà còn tác động
trở lại tồn tại xã hội. Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội theo
hai khuynh hướng cơ bản là tích cực và tiêu cực. Nếu ý thức xã hội phản ánh
đúng quy luật vận động, phát triển của tồn tại xã hội thì thông qua hoạt động
thực tiễn của con người nó có thể tác động tích cực tới tồn tại xã hội. Biểu hiện lOMoAR cPSD| 45315597
của sự tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nó thúc đẩy
phương thức sản xuất phát triển; góp phần cải biến điều kiện tự nhiên, hoàn
cảnh địa lý theo hướng có lợi cho con người và sản xuất vật chất; điều chỉnh
dân số và mật độ dân cư phù hợp với điều kiện kinh tế - địa lý... trên cơ sở đó,
thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ.
Ví dụ Cuộc đấu tranh cách mạng xóa bỏ cái cũ (XH đương thời) để xây dựng
cái mới (XH mới). khi con người ý thức được quy luật phát triển của xã hội loài
người ý thức được chính mình…Nên đã vùng lên phá bỏ xiềng xích, rào
cản…Đấu tranh giải phóng bản thân cũng như đấu tranh giải phóng xã hội. b.
Tác động tiêu cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Nếu ý thức xã hội lạc hậu, phản ánh không đúng quy luật vận động, phát
triển của tồn tại xã hội; hoặc ý thức xã hội phản tiến bộ, nhất là ý thức chính
trị; hoặc là ý thức xã hội phản ánh vượt trước tồn tại xã hội nhưng vượt trước
ảo tưởng, duy ý chí... thì sẽ tác động tiêu cực tới tồn tại xã hội. Biểu hiện của
sự tác động tiêu cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nó cản trở tồn tại
xã hội phát triển. Cụ thể là ý thức xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con
người cần trở sản xuất vật chất phát triển; huỷ hoại môi trường sống tự nhiên;
làm mất cân bằng về dân số và mật độ dân cư... Như vậy là kìm hãm sự phát
triển của xã hội theo hướng tiến bộ.
c. Mức độ, tính chất và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Mức độ, tính chất và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu,
phản động của chủ thể mang ý thức xã hội tức địa vị lịch sử của giải cấp - chủ
thể mang ý thức xã hội; tính khoa học hay không của ý thức xã hội; mức độ
thâm nhập của ý thức xã hội vào quảng đại quần chúng nhân dân; năng lực triển
khai, hiện thực hóa ý thức xã hội vào hoạt động thực tiễn của chủ thể lãnh đạo, quản lý.
Nhận thức sâu sắc sự tác động to lớn của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội trong công cuộc đổi mới hiện nay, tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”.