Câu hỏi tự luận - Môn chủ nghĩa xã hội khoa học| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.

Đề 2: Phân tích tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH? Anh (chị)
hiểu thế nào là quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB? Chứng minh rằng Việt Nam quá độ
lên CNXH bỏ qua CNTB là tất yếu khách quan.
Bài làm
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế
giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ hoàn toàn những
luận điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của
thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm
90 thế kỷ XX, một chiến dịch công kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội
(CNXH) và chủ nghĩa Mác - Lênin được dấy lên trên khắp thế giới bởi các thế lực thù địch
với CNXH. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ hội “ngàn năm có một” này để tổng tấn công
hòng “chôn vùi vĩnh viễn” chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng, phong trào cách mạng thế giới
đứng trước những thử thách đầy cam go, những người hoang mang, dao động về lý tưởng
đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường
đi lên CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của
CNXH hùng mạnh như Liên bang Xô Viết mà còn không đứng vững, thì một đất nước nhỏ
bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam làm sao có thể đi lên CNXH được(?). Một số người
thậm chí cho rằng, giá như vào nửa đầu thế kỷ XX, nếu lựa chọn đi con đường khác thì
biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được
mấy cuộc kháng chiến gian khổ, hao tổn xương máu.v.v..
Một câu hỏi đặt ra: Có thật là như vậy?
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các
nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử,
loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”(1). Trong xu thế vận động chung đó của thế giới,
thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái
mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết
phải trải qua một TKQĐ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội đan xen”(2). Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, l ch s phát tri n c a xã h i loài ng i là l ch s phát tri n và thay thếế nhau c a các ườ
hình thái kinh tếế - xã h i (HTKTXH). Song, không ph i HTKTXH này kếết thúc hoàn toàn rôồi HTKTXH
tếếp sau m i ra đ i. Gi a HTKTXH cũ b thay thếế và HTKTXH m i sẽẽ thay thếế nó bao gi cũng có
m t giai đo n chuy n tếếp, đó là TKQĐ. Xây d ng xã h i c ng s n ch nghĩa v i giai đo n đâồu là
CNXH, m t chếế đ xã h i m i hoàn toàn vếồ châết so v i các chếế đ xã h i tr c đó l i càng đòi h i ướ
ph i tr i qua m t TKQĐ lâu dài, đâồy khó khăn, th thách, khó tránh kh i nh ng va vâếp, đ v t m
th i. Trong “Phế phán C ng lĩnh Gô-ta”, các nhà sáng l p ch nghĩa Mác đã ch rõ “Gi a xã h i t ươ ư
b n ch nghĩa và c ng s n ch nghĩa là m t th i kỳ c i biếến cách m ng t xã h i n sang xã h i
kia. Thích ng v i th i kỳ âếy là m t TKQĐ chính tr ...”(3)
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể
nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và
thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi
phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao
theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào
đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng
nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu
khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
1) Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng
sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình
xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực
để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Trong điều kiện kinh
tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát
triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri
thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau
CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự lựa chọn của
Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được độc lập dân tộc, có chính
quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được
trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30
năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc
tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là
điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
2) Sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ
nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh
một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản
xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện
đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân
hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành
CNTB, dẫn đến những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và
chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực
hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân ch , công băồng, văn minh. Chúng ta không đi thẽo con đ ng TBCN vì th i ườ
đ i ngày nay không ph i là th i đ i c a CNTB, m c dù CNTB đang có s Đ ng l c ch yếếu đ phát
tri n đâết n c là đ i đoàn kếết toàn dân trến c s liến minh gi a công nhân v i nông dân và trí ướ ơ
th c do Đ ng lãnh đ o, kếết h p hài hòa các l i ích cá nhân, t p th và xã h i, phát huy m i tếồm
năng và nguôồn l c c a các thành phâồn kinh tếế, c a toàn xã h i...” điếồu ch nh đ thích nghi v i cu c
cách m ng khoa h c - công ngh , nh ng CNTB vâẽn không th khăếc ph c đ c nh ng mâu thuâẽn, ư ượ
bâết công xã h i thu c vếồ b n châết c a chếế đ TBCN. Thẽo quy lu t phát tri n c a l ch s thì CNTB
không th không b ph đ nh. Vì thếế, Đ ng ta đã l a ch n h ng đi phù h p v i l ch s c th c a ướ
Vi t Nam là th c hi n quá đ lến CNXH b qua chếế đ TBCN d a trến c s c ng côế chính quyếồn ơ
c a nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; d a vào khôếi liến minh công - nông - trí th c đ t
ch c và huy đ ng m i tếồm l c c a các tâồng l p nhân dân, tếến hành CNH, HĐH đâết n c, phát ướ
tri n nếồn kinh tếế th tr ng đ nh h ng XHCN, t o l p c s v t châết - kyẽ thu t cho CNXH. Con ườ ướ ơ
đ ng này hoàn toàn m i m và không ít khó khăn, nh ng gi m b t đ c đau kh cho nhân dân ườ ư ượ
lao đ ng. “Đ ng l c ch yếếu đ phát tri n đâết n c là đ i đoàn kếết toàn dân trến c s liến minh ướ ơ
gi a công nhân v i nông dân và trí th c do Đ ng lãnh đ o, kếết h p hài hòa các l i ích cá nhân, t p
th và xã h i, phát huy m i tếồm năng và nguôồn l c c a các thành phâồn kinh tếế, c a toàn xã
h i...”(4).
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là đúng
hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy
luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực
tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo
những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự
nhiên của xã hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể
trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước
ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất
TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ,
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(5). Con đường đi
lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái
xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó
nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng
cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình
phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối
quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi
quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản
xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những
tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta chứng
minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào đấu tranh chống
Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất
bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án
chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những
đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo
nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng
gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không
ngừng phát triển đi lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng
lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến hành 9 năm kháng chiến trường kỳ,
gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với
chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ
xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm nghiêm
trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh khoa học, Đảng ta đã
nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do
chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng. Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng
thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con
đường quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng đã
xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và đã
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo
tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên
CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của
lịch sử”(6). Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của
lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử
đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại,
với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân
dân ta.
| 1/4

Preview text:

Đề 2: Phân tích tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH? Anh (chị)
hiểu thế nào là quá độ lên CNXH bỏ qua CNTB? Chứng minh rằng Việt Nam quá độ
lên CNXH bỏ qua CNTB là tất yếu khách quan.
Bài làm
Lịch sử vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam, thực tiễn phát triển của thế
giới suốt thế kỷ XX, cũng như thập niên đầu thế kỷ XXI đã bác bỏ hoàn toàn những
luận điệu xuyên tạc, đồng thời chứng minh rằng, nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua
chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế vận động tiến bộ của
thời đại và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.

Sau những biến động chính trị ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những năm
90 thế kỷ XX, một chiến dịch công kích, phê phán, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa xã hội
(CNXH) và chủ nghĩa Mác - Lênin được dấy lên trên khắp thế giới bởi các thế lực thù địch
với CNXH. Họ nhanh chóng chớp lấy cơ hội “ngàn năm có một” này để tổng tấn công
hòng “chôn vùi vĩnh viễn” chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng, phong trào cách mạng thế giới
đứng trước những thử thách đầy cam go, những người hoang mang, dao động về lý tưởng
đã “khuyến cáo” Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường
đi lên CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Bởi theo họ, đến thành trì của
CNXH hùng mạnh như Liên bang Xô Viết mà còn không đứng vững, thì một đất nước nhỏ
bé, nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam làm sao có thể đi lên CNXH được(?). Một số người
thậm chí cho rằng, giá như vào nửa đầu thế kỷ XX, nếu lựa chọn đi con đường khác thì
biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế, văn hóa vẫn phát triển, lại tránh được
mấy cuộc kháng chiến gian khổ, hao tổn xương máu.v.v..
Một câu hỏi đặt ra: Có thật là như vậy?
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH (bổ sung, phát
triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các
nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử,
loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”(1). Trong xu thế vận động chung đó của thế giới,
thì việc Việt Nam “đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử… Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái
mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết
phải trải qua một TKQĐ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
xã hội đan xen”(2). Điều đó được lý giải bởi những lẽ sau: Thứ nhất, l ch s ị phát tri ử n c ể a xã h ủ i loài n ộ g i là l ườ ch s ị phát tri ử n v
ể à thay thếế nhau c a các ủ
hình thái kinh tếế - xã h i (HTKTXH). Song, không ph ộ i HTKTXH nà ả
y kếết thúc hoàn toàn rôồi HTKTXH tếếp sau m i r ớ a đ i. Gi ờ a
ữ HTKTXH cũ b thaịy thếế và HTKTXH m i sẽẽ tha ớ
y thếế nó bao gi cũng có ờ m t giai đo ộ n chuy ạ n tếếp, đó là TK ể QĐ. Xây d ng xã h ự i c ộ ng s ộ n ch ả nghĩa v ủ i giai đo ớ n đâồu là ạ CNXH, m t chếế đ ộ xã h ộ i m ộ i hoàn toàn vếồ ớ
châết so v i các chếế đ ớ x ộ ã h i tr ộ c đó l ướ i c ạ àng đòi h i ỏ ph i tr ả i qua m ả t TK ộ
QĐ lâu dài, đâồy khó khăn, th thách, khó tr ử ánh kh i nh ỏ ng va v ữ âếp, đ v ổ t ỡ m ạ th i. T ờ rong “Phế phán C ng lĩnh Gô-ta” ươ , các nhà sáng l p ch ậ nghĩa Mác đã ch ủ rõ ỉ “Gi a xã h ữ i t ộ ư b n ch ả nghĩa và c ủ ng s ộ n ch ả nghĩa là m ủ t th ộ i kỳ c ờ i biếến cách m ả ng t ạ xã h ừ i n ộ sang x ọ ã h i ộ kia. Thích n ứg v i th ớ i kỳ âếy là m ờ t TK ộ QĐ chính tr ... ị ”(3)
Thứ hai, học thuyết Mác - Lênin chứng minh rằng, loài người với tính cách một chỉnh thể
nhất thiết phải trải qua 5 HTKTXH. Nhưng, do đặc điểm lịch sử - cụ thể về không gian và
thời gian, do những điều kiện đặc thù khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong chi
phối, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các HTKTXH từ thấp đến cao
theo một trình tự sơ đồ chung. Có những nước có thể bỏ qua một hoặc vài HTKTXH nào
đó trong tiến trình phát triển của mình tùy thuộc điều kiện lịch sử cụ thể đặc thù của từng
nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp quy luật khách quan.
Thứ ba, cũng như lịch sử xã hội loài người nói chung, trong thời đại ngày nay, việc bỏ qua
giai đoạn phát triển TBCN quá độ lên CNXH ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu
khách quan của nền kinh tế. Điều đó được quy định bởi:
1) Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực lượng
sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới của quá trình
xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo điều kiện hiện thực
để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Trong điều kiện kinh
tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã hội loài người đòi hỏi phát
triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó là nền văn minh của kinh tế tri
thức. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau
CNTB nhất định phải là một chế độ xã hội tốt đẹp hơn - chế độ XHCN mà sự lựa chọn của
Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta là nước đã giành được độc lập dân tộc, có chính
quyền dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã giành được
trong hơn 80 năm qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của hơn 30
năm đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan hệ quốc
tế rộng rãi, có vị thế quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là
điều kiện tiên quyết, quyết định con đường quá độ lên CNXH ở nước ta.
2) Sự lựa chọn xu hướng phát triển. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ
nền nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nền kinh tế nước ta nảy sinh
một yêu cầu khách quan là: chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và thúc đẩy sản
xuất hàng hóa nhỏ phát triển lên thành sản xuất lớn dựa trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện
đại. Nếu để nền kinh tế phát triển tự phát chuyển thành nền kinh tế TBCN, trên cơ sở phân
hóa những người sản xuất hàng hóa nhỏ, do tác động của quy luật giá trị thì sẽ hình thành
CNTB, dẫn đến những hậu quả như: Chính quyền do chính nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phải tốn bao xương máu mới giành được, sẽ bị mất; và
chính nhân dân lao động lại rơi xuống địa vị người làm thuê, bị bóc lột và khó có thể thực
hiện được mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hướng tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân ch , công băồng, v ủ
ăn minh. Chúng ta không đi thẽo con đ ng TBCN vì th ườ i ờ đ i ngà ạ y nay không ph i là th ả i đ ờ i c ạ a CNTB, m ủ c dù CNTB đang có s ặ Đ ự ng ộ l c ch ự yếếu đ ủ phát ể tri n đâết n ể c là đ ướ i đoàn k ạ ếết toàn dân trến c s ơ liến minh gi ở a công nhân v ữ i nông dân v ớ à trí th c do Đ ứ ng lãnh đ ả o, k ạ
ếết hợ p hài hòa các lợ i ích cá nhân, tậ p thể và xã hộ i, phát huy mọ i tếồm năng và nguôồn l c c ự a các thành ủ phâồn kinh tếế, c a t ủ oàn xã h i... ộ ” điếồu ch nh đ ỉ thích nghi v ể i cu ớ c ộ cách m ng khoa h ạ c - công ngh ọ , nh ệ ng CNTB vâẽ ư n không th khăếc ph ể c đ ụ c nh ượ ng mâu thuâẽn, ữ bâết công xã h i thu ộ c vếồ b ộ n châết c ả a chếế đ ủ TBCN. Thẽo quy lu ộ t phát tri ậ n c ể a l ủ ch s ị thì CNTB ử không th không b ể ph ị đ ủ nh. V ị ì thếế, Đ ng ta đã l ả a ch ự n h ọ ng đi phù h ướ p v ợ i l ớ ch s ị c ử th ụ c ể a ủ Vi t Nam là th ệ c hi ự n quá đ ệ lến CNXH b ộ qua chếế đ ỏ TBCN d ộ a trến c ự s ơ c
ở ng côế chính quyếồn ủ
c a nhân dân, do nhân dân v ủ
à vì nhân dân; d a vào khôếi liến minh c ự ông - nông - trí th c đ ứ t ể ổ ch c v ứ à huy đ ng m ộ i tếồm l ọ c c ự a các t ủ
âồng l p nhân dân, tếến hành CNH, HĐ ớ H đâết n c, phá ướ t tri n nếồn kinh tếế th ể trị ng đ ườ nh h ị ng X ướ HCN, t o lạ p c
ậ sơ vởt châết - kyẽ thu ậ t cho CNXH. Con ậ đ ng nà ườ y hoàn toàn m i m ớ v
ẻ à không ít khó khăn, nh ng gi ư m b ả t đ ớ ư c đau kh ợ cho nhân dân ổ lao đ ng. “Đ ộ ng l ộ c ch ự yếếu đ ủ phát tri ể n đâết n ể c là đ ướ i đoàn k ạ ếết toàn dân trến c s ơ liến minh ở gi a công nhân v ữ i nông dân và ớ trí th c do Đ ứ ng lãnh đ ả o, k
ạ ếết h p hài hòa các l ợ i ích cá nhân, t ợ p ậ th và x ể ã h i, phát huy m ộ i tếồm năng v ọ à nguôồn l c c ự
a các thành phâồn kinh tếế, c ủ a toàn xã ủ h i... ộ ”(4).
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là đúng
hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, phù hợp
với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: quy
luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản. Và trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực
tinh thần, mà còn là sức mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo
những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự
nhiên của xã hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể
trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước
ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất
TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống
trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ,
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(5). Con đường đi
lên CNXH ở nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái
xã hội mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó
nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng
cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể “rút ngắn” quá trình
phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối
quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi
quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản
xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những
tính quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Thứ tư, lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta chứng
minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào đấu tranh chống
Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất
bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và như vậy, tất cả các phương án
chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, đến những
đường lối theo lập trường nông dân, lập trường tiểu tư sản, tư sản, đều được lịch sử khảo
nghiệm nhưng rốt cuộc đều thất bại. Trong bối cảnh đó, Đảng ta ra đời, nhanh chóng
gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đưa sự nghiệp Cách mạng Việt Nam không
ngừng phát triển đi lên.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã tiến hành thắng
lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; tiến hành 9 năm kháng chiến trường kỳ,
gian khổ chống thực dân Pháp và 20 năm hy sinh đầy xương máu chống đế quốc Mỹ. Với
chiến thắng oanh liệt mùa Xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất, bước vào thời kỳ
xây dựng, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình xây dựng đất nước quá độ lên CNXH, có lúc Đảng ta đã phạm sai lầm nghiêm
trọng về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, nhưng với bản lĩnh khoa học, Đảng ta đã
nhận thức rõ những sai lầm khuyết điểm do nguyên nhân thiếu kinh nghiệm và nhất là do
chủ quan duy ý chí, vi phạm những quy luật khách quan, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng. Qua kiểm điểm, Đảng đã rút ra những bài học kinh nghiêm sâu sắc, đồng
thời, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước xác định rõ hơn con
đường quá độ lên CNXH; quá trình đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế, Đảng đã
xác định rõ hơn phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt và đã
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc XHCN, như Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo
tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên
CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của
lịch sử”(6). Như vậy, cả từ phương diện lý luận, cả từ phương diện thực tiễn vận động của
lịch sử nhân loại suốt thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI và đặc biệt từ thực tiễn lịch sử
đấu tranh giải phóng, xây dựng đất nước ở Việt Nam, việc nước ta quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan, là hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại,
với đặc điểm lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân ta.