Câu hỏi tự luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Câu hỏi tự luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh | Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM1)
Trường: Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích yếu tố quê hương, gia đình ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Truyền thống quê hương – Giàu truyền thống đánh giặc cứu nước
Làng Kim Liên trước đây được gọi là Chung Cự thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An, Có làng Kim Liên quê cha, làng Hoàng Trù quê mẹ của chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng
với năm làng khác là Ngọc Đình, Vân Hội, Tình Lý, Cường Kỵ, Khoa Cử. Cả bảy làng này đều nằm quanh núi Chung.
Núi Chung, 1 thắng cảnh trong vùng này cũng như là một di tích lịch sử. Trên có thờ đền
Nguyên Đắc Đài, một vị tướng tài thời Trần, có công đánh giặc ngoại xâm. Năm 1885, khi thực
dân Pháp xâm lược mảnh đất thiêng liêng này, tú tài Vương Thúc Mậu đã lập “Đội Chung Nghĩa
binh” tại đây để chống giặc bảo vệ quê hương.
Đứng trên Núi Chung có thể thấy được một vùng rộng lớn xung quanh. Phía Tây có thành Vạn
An và đền thờ Mai Hắc Đế - người đứng đầu phong trào quật khởi chống quân xâm lược nhà
Đường. Phía Tây Nam có thành Lục Niên, đại bản doanh của Lê Lợi trong sự nghiệp đánh đuổi
quân Minh. Phía Bắc còn dấu vết thành quách Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương trong cuộc đấu
tranh bảo vệ nền độc lập chống ngọn sóng xâm lăng của phong kiến Phương Bắc. Phía dưới Đại
Huệ là nơi có mộ tổ vua Quang Trung, người anh hùng áo vải. Trong cuộc hành quân cấp tốc từ
kinh đô Phú Xuân tới đất Nghệ Tĩnh, ông dừng lại và chỉ trong mấy ngày đã chiêu mộ được năm
vạn quân làm cánh trung quân, rồi hành quân thần tốc ra Thăng Long đánh tan 29 vạn quân
Thanh cứu nguy cho đất nước.
Bên dòng sông Lam cách Kim Liên 4km là làng Đan Nhiệm – nơi chôn rau cắt rốn của nhà chí sĩ
Phan Bội Châu, người giương cao ngọn cờ chống thực dân Pháp trong 20 năm đầu thế kỉ 20
Từ đó ta có thể thấy được núi sông quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh gắn chặt với lịch sử
chống giặc cứu nước trong tất cả các thời đại.
Gia đình giàu truyền thống yêu nước
Gia đình có vai trò đặc biệt, là cái nôi văn hóa đầu tiên hình thành nhân cách con người, trong
đó, giáo dục và nuôi dưỡng là hai yếu tố then chốt quyết định tạo nên tài năng và tính cách của
mỗi người. Đối với mỗi người, để trở thành một người có nhân cách tốt khi trưởng thành, đều chịu sự tác đô m
ng và ảnh hưởng từ cha mẹ thông qua sự giáo dục bằng những lời dạy bảo và
những công việc cụ thể, bằng hành vi, thái độ, lối sống của cha mẹ. Trong gia đình, người cha là
trụ cột, là biểu hiện của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo; người mẹ
là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, nguồn lửa sưởi ấm yêu thương trong gia đình, nguồn tình cảm vô tận cho các con. Sinh ra trong mô m
t gia đình giàu truyền thống yêu nước, tấm lòng ái quốc của cha, tình cảm nhân
ái, vị tha của mẹ, đức tính thương người, yêu nước, gan dạ từ các thành viên trong gia đình được
truyền dạy đến Chủ tịch Hồ Chí Minh qua tình yêu thương, sự dạy dỗ của đấng sinh thành, góp
phần hình thành nên nhân cách và tư duy của một bậc vĩ nhân, kiến tạo nên mục tiêu, lý tưởng và
con đường cứu dân, cứu nước cao cả của Người.
Lớn lên trong một gia đình mẫu mực, cội nguồn tư tưởng, nhân cách cao đẹp, chí hướng cứu
nước, cứu dân cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ nhân tố gia đình, từ sự ảnh
hưởng mạnh mẽ của đấng sinh thành ra Người. Trong gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
được cha - Cụ Nguyễn Sinh Sắc yêu thương và đặt nhiều hy vọng nhất. Cha là người thầy đầu
tiên dạy chữ, dạy làm người và giáo dục lòng yêu nước cho Người. Định hướng của cha là cho
Người được học với những thầy giáo có lòng yêu nước thương dân; tạo điều kiê m n cho Người
được tiếp xúc với các văn thân sĩ phu ở khắp Trung Kỳ; được theo cha đến những nơi có phong
trào đấu tranh chống Pháp sôi nổi và anh dũng; kết giao với những người có lòng yêu nước, có
chí cứu nước, luôn day dứt trước hiê m
n tình đất nước và số phâ m n của dân tô m c. Những chuyến đi,
những cuộc tiếp xúc đó, là những trải nghiê m
m để Chủ tịch Hồ Chí Minh định hình cho mình con
đường đi riêng, hình thành tư tưởng cứu dân, cứu nước, đem đến kết quả là hạnh phúc của cả
một dân tộc, với một chí hướng rất rõ ràng: “Nhân dân Viê m
t Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra
tôi, lúc này tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi sự thống trị của Pháp. Người này
nghĩ là Anh, người kia lại nghĩ là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem
họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi.
Với tư tưởng tiến bô m và chán ghét chốn quan trường, với lý lẽ: “Muốn đánh kẻ thù phải học tiếng
kẻ thù để hiểu được kẻ thù”, ngay từ khi còn nhỏ, cha đã cho Người học Trường tiểu học Pháp.
Chính tại ngôi trường này, Chủ tịch Hồ Chí Minh được tiếp xúc với văn hoá phương Tây và biết đến kh{u hiê m
u “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” khi mới 13 tuổi, và từ thủa ấy, Người “rất muốn
quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì {n đằng sau những chữ ấy”, muốn cứu dân
thoát khỏi cảnh lầm than, giải thoát dân tô m
c khỏi ách áp bức nô m lê , m
đem lại sự tự do, bình đẳng
cho tất cả mọi người dân Viê m
t...Ngoài thời gian học tâ m
p, Người còn được cha đưa đi thăm các di
tích, miếu thờ, nơi đây đem đến những bài học thực tế bổ ích, quan trọng, mắt thấy, tai nghe, góp
phần hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng, tạo thành ý chí, nghị lực và phong
cách riêng có của Người. Đến thăm cha trước lúc ra đi tìm đường cứu nước, Người còn được cha
tiếp thêm sức mạnh và đô m
ng lực để quyết tâm thực hiện xứ mệnh cao cả giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người với câu nói: “Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng
có ích gì?”. Ở đây, sự giáo dục của cha không chỉ truyền cho Người tư tưởng, trí tuê m , học vấn,
mà còn truyền cho Người đạo đức của người cách mạng, mô m
t tấm lòng trung với nước, hiếu với dân; phong cách của mô m
t vĩ nhân với lòng nhiê m
t huyết, chí khí mạnh mẽ và đô m ng lực để Người
vượt qua mọi gian nan, vươn tới sự nghiê m
p cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tô m c.
Đối với mẹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh được học, rèn và xây dựng nên mô m
t nền tảng đạo đức nhân ái
từ sự nuôi dưỡng, dạy dỗ nhân từ và hiền hâ m
u của mẹ. Đức tính chịu khó, chịu khổ, chấp nhận
cuộc sống vất vả, khó khăn về vật chất để chồng được dùi mài kinh sử, hun đúc tài năng; cố gắng
lao động cật lực để con thơ không quá thiếu thốn; dẫu hoàn cảnh gia đình chật vật, khó khăn,
nhưng mẹ luôn sống một cuộc sống tình cảm vô cùng đẹp đẽ với chồng con... Tất cả những tố
chất này của mẹđã truyền trực tiếp cho Người và hình thành nên tình cảm yêu nước thương dân,
luôn đau đáu nỗi đau của dân tô m c nô lê m
... Bằng cả tấm lòng yêu chồng, thương con, mẹ đã hy sinh
tất cả vì chồng con, vun đắp nên cuộc đời và sự nghiệp đẹp đẽ của họ. Mẹ đã giáo dục Người
ngay từ thủa trong nôi qua những lời ru bằng làn điê m u dân ca xứ Nghê m
, bằng tục ngữ, ca dao; mẹ
đã dùng tính giản dị, khiêm tốn, đức hy sinh, chung thủy, yêu đời, yêu nước để tác động tích cực
đến các con, truyền thụ cho Người những hiểu biết ban đầu về cuộc sống, dạy cho Người biết yêu lao đô m ng, biết làm những viê m
c phù hợp với sức lực và lứa tuổi mô m t cách say mê, chịu khó,
sáng tạo, sau này đã trở thành nếp sống quen thuô m
c hàng ngày của Người. Tấm gương của mẹ đã
đi vào tâm khảm, tạo nên bản lĩnh tự lực cánh sinh trong mọi lúc, mọi nơi của Người... Lúc ra đi
tìm đường cứu nước, trả lời người bạn về viê m
c lấy tiền đâu để đi, Người từng giơ hai bàn tay và
nói: “Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm viê m
c. Chúng ta sẽ làm bất cứ viê m
c gì để sống và để đi”. Đây chính là đức cần kiê m
m, tinh thần lạc quan quý báu được giáo dục từ những đấng sinh thành mẫu
mực và hiền từ, đã góp phần quan trọng hình thành nên nhân cách, hiê m
n thực hóa ước mơ, hoài
bão cứu dân, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kể từ khi bước chân ra đi tìm đường cứu
nước, và cả quá trình bôn ba khắp các đại dương, các châu lục tìm tòi, khảo nghiê m con đường
cứu nước giải phóng dân tô m
c, Người đã luôn tự lao đô m
ng và làm nhiều nghề khác nhau để sống, để học tâ m
p và đấu tranh nhằm mục tiêu cứu nước, cứu dân.
Nguyễn Thị Thanh là người chị cả, có hiệu khác là Bạch Liên nữ sĩ, bà hoạt động tích cực chống
Pháp dưới ngọn cờ yêu nước của chí sĩ Phan Bội Châu. Năm 1918bà Nguyễn Thị Thanh phối
hợp với Nguyễn Kiên tổ chức lấy trộm súng trong doanh trại lính khố xanh đóng tại thành phố
Vinh, bị bắt và nhốt vào nhà tù tra tấn dã man. “Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc
mâm đồng nung đỏ mà chúng bắt O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ da
thịt vào xương tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng đã làm biến dạng cả cơ
thể, xoắn vặn cả tâm hồn O”.
Nguyễn Sinh Khiêm - Ông còn được gọi là Cả Khiêm, tên tự là Tất Đạt. Thời thanh niên, ông
tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân và phong kiến nên từng bị tù đày nhiều nǎm.
Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa lý, ông còn có biệt danh là "Thầy Nghệ". Chịu ảnh hưởng
từ truyền thống gia đình, cô Thanh và anh Đạt đều là những người chăm chỉ lao động và thương
người, yêu nước và căm thù giặc ngoại xâm đã gây nên cảnh ly tán, mất mát đau thương cho gia
đình, cho dân tộc Việt Nam.
Câu 2: Anh (chị) hãy làm rõ những điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền độc lập là truyền thống
quý báu của dân tộc Việt Nam. Phát huy truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, tận mắt
chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, nhân dân đói khổ lầm than, ngày 05-06-1911, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Mang trong
mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng
vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng
dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không
chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kiên trì khắc
phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong
nửa sau những năm 20 và nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo quần
chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm xác định phương
hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh
đó, Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam,
hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ một
nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của
CNXH, mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài,
gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người,
làm cho con người phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc đi tới
CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề đi tới CNXH. Không giành được độc
lập dân tộc sẽ không có gì hết. Độc lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ
nhân dân, chu{n bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải xây
dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra
bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự
phát triển sáng tạo luận điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường của
cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính
theo con đường cách mạng vô sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám
1945 “long trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (02-09-1945).
Trong Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 02-09-1945, Hồ Chí Minh
trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do độc lập”. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về
quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân
tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề,
vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã mở ra một thời
đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Kiên trì với con
đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo
của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến
lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu
tranh trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc và
tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam
được cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh
cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành
công...”. Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ
trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu
của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh, tổ
chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với
cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và
chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh
Chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã
khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại
hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay,
quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao
động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam”. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của
dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác - Lênin; có bản lĩnh chính
trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có ph{m chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi
dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời
đại. Đảng đó phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài,
chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con dân nước Việt, con
Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là: hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng
thành, dày dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng,
xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt Nam không có
một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh
nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa
dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh công nông
Sinh thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân,
trên cơ sở liên minh công nông làm nòng cốt”... Trong đó, “thực hiện cho được liên minh công
nông vì đó là sự bảo đảm chắc chắn nhất những thắng lợi của cách mạng”.
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, nông dân
là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng hóa nên họ luôn có ý thức phản kháng, sẵn
sàng tham gia cách mạng. Do đó, cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp
nông dân và là sự nghiệp của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một lực
lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp công nhân. Muốn kháng
chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của
nông dân. Đồng bào nông dân sẵn có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí
khí kiên quyết đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực chất là
vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đông đảo, nòng cốt, và cũng là đối
tượng vận động của cách mạng.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nông dân, nhưng Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai
cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh
công - nông làm nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động,
tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang phải chịu
thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm huy động sức mạnh của toàn
dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ
sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, đối với cách mạng
Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở
liên minh công - nông đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc.
Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng
bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện
khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn
Vượt lên tư tưởng của các nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh xác định phương pháp
đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo
lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng
phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Trên cơ sở nắm vững những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức
sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo
lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”, “lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa. Càng gần
thất bại thì chúng càng hung ác”. Người khẳng định: “Độc lập tự do không thể cầu xin mà có
được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như cuộc đấu tranh để bảo
vệ độc lập dân tộc, bảo vệ CNXH, tất yếu phải “Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không hề đối lập với tinh thần yêu chuộng hòa
bình và chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của
cha ông ta. Đối với Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa để giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, việc sử dụng bạo lực cũng nhằm mục đích hòa bình: “Dụng việc binh là việc
nhân nghĩa, muốn cứu dân, cứu nước”. Theo Người, hòa bình phải là nền hòa bình thật sự, gắn
liền với độc lập, chủ quyền của Tổ quốc và tự do, dân chủ của nhân dân. Nếu mục tiêu đó không
được đáp ứng, phương thức tiến hành chiến tranh tất yếu là bạo lực cách mạng. Đó chính là nghệ
thuật khéo léo dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng của Người.
Tuy đề cao vai trò của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của
bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách mạng. Với Người, đấu tranh vũ trang chỉ
là một trong những phương pháp để thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần
ấy, sau khi về nước chu{n bị giành chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình
hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập đội “Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân”. Người căn dặn: “Chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền
trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động là kết hợp quân sự với chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Đảng đã chỉ đạo tích cực
xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết
là xây dựng các căn cứ địa, đồng thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ
chức chính trị của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chu{n bị đón chờ thời cơ khởi nghĩa,
tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được ban ra, chỉ trong chưa đầy
nửa tháng, cả nước đã đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kế thừa và phát huy
nghệ thuật lãnh đạo Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam đã tập trung lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang
lớn mạnh, với ba thứ quân và không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật của quân đội
để đánh bại các chiến lược quân sự của kẻ thù; đồng thời, kết hợp với xây dựng lực lượng chính
trị mạnh mẽ của quần chúng để khi thời cơ đến tiến hành tổng tiến công, giành thắng lợi quyết
định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.