Câu hỏi tự luận ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội
Câu hỏi tự luận ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mac - Lenin (ĐHKS)
Trường: Đại Học Kiểm sát Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Nguyễn Văn Nghiệp – K7L
Đề cương triết học Mác Lenin.
Câu 1. Vì sao nói sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là một tất yếu lịch sử?
* Khái niệm triết học mác leenin: “Triết học mác Lenin là hệ thống quan điểm DVBC
về TN, XH và TD – Thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của GCCN
và NDLĐ để nhận thức và cải tạo thế giới”
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp:
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện
và lan rộng ra các nước Tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với
chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước
hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập:
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp
vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản với tư
sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản
không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội. Đến những năm 40 của thế kỷ
XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội độc lập
và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản. 1
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được soi
sáng bằng lý luận khoa học. Mác và Ăng ghen sáng lập Chủ nghĩa Mác là lời giải đáp
cho yêu cầu xã hội đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
- Sự phát triển của CNTB làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB bộc lộ gay gắt
giữa LLSX có tính XHH ngày càng cao với QHSX mang tính tư nhân TBCN dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX.
1.2. Tiền đề lý luận.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và Phoiơbắc,
là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng
duy tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép
biện chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.
Kinh tế chính trị học Anh, với những đại biểu xuất sắc là A.Xmit và Đ.Ricacđô, mà
đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở của hệ thống
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh Ximông
và Sáclơ Phuriê và những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử loài người là một
quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; rằng sự xuất hiện
các giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán
chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới
dân nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà trong đó,
công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những
điều kiện vật chất cho cuộc sống,... là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học. 2
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát
triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và
thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn
bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
Thuyết tiến hoá: đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật
không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở
khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do
nhu cầu nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành
tựu trong lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản
thân sự phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó.
Bởi vậy, chủ nghĩa Mác “Cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân,
những công cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
Câu 2. Phân tích điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác. Thực chất và ý nghĩa
cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện?
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày
nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết
học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn của con người.
Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác nhìn chung, có hai nguồn
gốc ra đời của triết học là nguồn gốc tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối với triết học Mác
thì nguồn gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:
2.1. Điều kiện, tiền đề hình thành chủ nghĩa Mác.
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội. 3
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
cách mạng công nghiệp:
Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện
và lan rộng ra các nước Tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với
chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước
hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Sự xuất hiện giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập:
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến. Giai cấp
vô sản cũng đã đi theo giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản với tư
sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư sản
không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội. Đến những năm 40 của thế kỷ
XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị - xã hội độc lập
và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản.
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản đặt ra yêu cầu khách quan là nó phải được soi
sáng bằng lý luận khoa học. Mác và Ăng ghen sáng lập Chủ nghĩa Mác là lời giải đáp
cho yêu cầu xã hội đứng trên lập trường của giai cấp vô sản.
- Sự phát triển của CNTB làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của CNTB bộc lộ gay gắt
giữa LLSX có tính XHH ngày càng cao với QHSX mang tính tư nhân TBCN dựa trên chế
độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX.
2.1.2. Điều kiện về mặt lý luận.
- Triết học cổ điển Đức
- Kinh tế chính trị học Anh
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
2.1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều
phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương 4
- Thuyết tế bào
- Thuyết tiến hoá
Từ những điều kiện trên, chủ nghĩa Mác - Lênin được ra đời.
Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử, không những vì nó là sự phản ảnh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiển cách mạng
của giai cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
2.2. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện
Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã được thừa nhận
là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học. Cuộc cách mạng này đã đưa triết học nhân
loại từ thời kỳ chủ yếu là “giải thích thế giới” sang thời kỳ không chỉ “giải thích thế giới”,
mà còn “cải tạo thế giới”. Rõ ràng là, với sự ra đời của triết học Mác, lịch sử triết học của
nhân loại đã chuyển sang một thời kỳ mới về chất. Thực chất của cuộc cách mạng này
được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng trong lịch sử triết học trước đó, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất hữu cơ không thể
tách rời giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trước khi triết học Mác ra đời, trong suốt chiều dài lịch sử triết học, chủ nghĩa duy
vật thường tách khỏi phương pháp biện chứng. Trong triết học Hy Lạp cổ đại, có thể nói,
đã có sự thống nhất nhất định giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng ở một
số nhà triết học duy vật. Sự thống nhất này được thể hiện rõ nhất trong triết học của
Hêraclít. Tuy nhiên, sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng
trong triết học của Hêraclít còn
ở trình độ thấp. Hơn nữa, cả chủ nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng của Hêraclít
đều còn ở trình độ thô sơ, chất phác, đúng như Ph.Ăngghen đã đánh giá: "Cái thế giới
quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi
vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không
ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong". 5
Ở thời kỳ Phục hưng và Cận đại, chủ nghĩa duy vật đã có bước phát triển về chất so
với chủ nghĩa duy vật thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật thời kỳ này, về cơ
bản, vẫn là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nghĩa là chủ nghĩa duy vật vẫn tách rời phương
pháp biện chứng. Các nhà triết học cổ điển Đức, nhất là Hêghen, đã đối lập phương pháp
biện chứng với phương pháp siêu hình, tạo ra một giai đoạn phát triển về chất trong
phương pháp nhận thức. Tuy nhiên, phương pháp biện chứng của Hêghen lại dựa trên nền
thế giới quan duy tâm. Nói khác đi, phương pháp biện chứng của Hêghen không gắn kết
hữu cơ với chủ nghĩa duy vật, mà gắn kết hữu cơ với chủ nghĩa duy tâm. Cho nên,
phương pháp biện chứng đó không thực sự trở thành khoa học, mặc dù nó có đóng góp
nhất định cho sự phát triển tư duy nhân loại. Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật trước Mác là
chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Phoiơbắc. Nhưng, chủ nghĩa duy vật nhân bản của
L.Phoiơbắc lại là chủ nghĩa duy vật siêu hình, nghĩa là nó vẫn tách khỏi phương pháp biện chứng.
Trong triết học của C.Mác, chủ nghĩa duy vật gắn kết, thống nhất hữu cơ với phương
pháp biện chứng. Chủ nghĩa duy vật được C.Mác làm giàu bằng phương pháp biện chứng,
còn phương pháp biện chứng được ông đặt trên nền chủ nghĩa duy vật. Đồng thời, cả chủ
nghĩa duy vật lẫn phương pháp biện chứng đều được C.Mác phát triển lên một trình độ
mới về chất. Do vậy, sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng trong triết học Mác hơn hẳn về chất so với sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại. Vì vậy, đây chính là bước phát
triển cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc
cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện.
Chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã đóng một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã
hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, đó là chủ nghĩa duy vật không triệt để. Nghĩa là
nó chỉ duy vật trong giải thích thế giới tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích xã
hội, lịch sử, tinh thần. Do vậy, chủ nghĩa duy vật trước C.Mác đã không đánh đổ được
chủ nghĩa duy tâm một cách hoàn toàn. Chủ nghĩa duy tâm vẫn còn nơi ẩn trú của nó là
lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần. Chủ nghĩa duy vật của C.Mác đã giải thích một cách
duy vật, khoa học không chỉ thế giới tự nhiên, mà cả lĩnh vực xã hội, lịch sử, tinh thần.
Do vậy, chủ nghĩa duy vật của C.Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất.
Không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin đã khẳng định: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa
duy vật triết học hoàn bị”. Rằng, “chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay
cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử
và chính trị”. Như vậy, với quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác đã kết thúc thời kỳ
nghiên cứu xã hội, lịch sử một cách tùy tiện, lộn xộn, mở ra một thời kỳ mới trong nghiên 6
cứu xã hội, lịch sử bằng việc chỉ ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của xã hội,
của lịch sử. Ph.Ăngghen đã so sánh phát minh này của C.Mác như phát minh của Đácuyn
trong khoa học tự nhiên: “Giống như Đácuyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới
hữu cơ, Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người”. Chủ nghĩa duy vật lịch
sử của C.Mác “chỉ cho ta thấy rằng, do chỗ lực lượng sản xuất lớn lên, thì từ một hình
thức tổ chức xã hội này, nảy ra và phát triển lên như thế nào một hình thức tổ chức đời
sống xã hội khác, cao hơn; chẳng hạn, chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh ra như thế nào từ chế
độ phong kiến”. Về bản chất, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác - quan niệm duy vật về
lịch sử - cũng là chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng thể hiện được tính đặc thù của lĩnh
vực lịch sử – lĩnh vực hoạt động của con người. Chính chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã trở thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho
C.Mác nghiên cứu kinh tế, phát hiện ra học thuyết giá trị thặng dư, hiểu được sự phát
sinh, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy,
sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là biểu hiện vĩ đại nhất của cuộc cách mạng trong
triết học do C.Mác thực hiện.
Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con
người. Trên cơ sở đó, triết học của ông đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế
giới của nhân loại tiến bộ.
Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà triết học thường tập trung chủ yếu vào giải
thích thế giới, mà ít chú ý tới cải tạo thế giới. Đúng như C.Mác đã từng nhận định: “Các
nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới”. Cũng đã có một số nhà triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại bằng con
đường không tưởng - dựa vào các lực lượng siêu nhiên, bằng “khai sáng”, mở mang dân
trí, bằng con đường giáo dục đạo đức,v.v.. Có thể nói, không một nhà triết học nào trước
C.Mác hiểu được thực tiễn và vai trò của nó đối với cải tạo thế giới. Các nhà triết học
Khai sáng Pháp muốn thay thế các quan hệ xã hội phong kiến lạc hậu, lỗi thời bằng các
quan hệ xã hội tiến bộ hơn cũng không hiểu được rằng, phải thông qua hoạt động thực
tiễn của đông đảo quần chúng mới thực hiện được điều này. Ngay cả L.Phoiơbắc - đại
biểu lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác - “cũng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt
động đích thực của con người, còn thực tiễn thì chỉ được ông xem xét và xác định trong
hình thức biểu hiện Do Thái bẩn thỉu của nó mà thôi”. Không phải ngẫu nhiên mà sau
này, C.Mác đã nhận định: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước
đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được,
chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực ,
quan chứ không được
nhận thức là hoạt động cảm giác của con là người, thực tiễn”. 7
Trung tâm chú ý của triết học Mác không chỉ là giải thích thế giới, mà quan trọng hơn là
cải tạo thế giới. Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác đã chỉ ra rằng, chỉ có thể cải
tạo được thế giới thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Với việc đưa phạm trù
thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng, vào triết học nói chung, C.Mác đã làm cho triết
học của ông hơn hẳn về chất so với toàn bộ triết học trước đó. Trong triết học Mác, không
có sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là hoạt động
thực tiễn của giai cấp vô sản. Hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản được soi đường, dẫn
dắt, chỉ đạo, định hướng bởi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngược lại, hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản lại là cơ sở, động lực cho sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Giữa triết học Mác với
hoạt động thực tiễn của giai cấp vô sản có sự thống nhất hữu cơ với nhau. Đúng như
C.Mác đã khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của
mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của
mình”. Do vậy, triết học
Mác đã trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản và của toàn thể nhân loại tiến bộ.
Thứ tư, với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, C.Mác đã khắc phục được sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể.
Trước khi triết học Mác ra đời, triết học hoặc là hòa tan, ẩn giấu đằng sau các khoa
học khác, hoặc đối lập với chúng. Chẳng hạn, ở phương Đông cổ đại, triết học thường ẩn
giấu đằng sau các học thuyết về chính trị, tôn giáo, đạo đức,v.v.. Ở Hy Lạp cổ đại, triết
học được coi là “khoa học của các khoa học”. Trong thời kỳ Trung cổ, triết học được coi
là “bộ môn” của thần học, có nhiệm vụ chứng minh sự tồn tại của Thượng đế. Ở thời kỳ
Cận đại, triết học được coi là mêthaphisica với nghĩa là nền tảng thế giới quan của con
người, như quan niệm của R.Đêcáctơ; hoặc triết học được coi là tổng thể tri thức của con
người trong quan niệm của Ph.Bêcơn, v.v.. Trong triết học cổ điển Đức, triết học lại được
coi là “khoa học của các khoa học”. Quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể
là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết
học Mác các tư liệu, dữ kiện, thông số khoa học để triết học Mác khái quát. Ngay sự ra
đời của triết học Mác cũng không thể thiếu những tiền đề khoa học tự nhiên. Chính những
thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX đã làm bộc lộ những hạn chế, sự bất
lực của phương pháp siêu hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở khoa
học cho sự ra đời của phương pháp biện chứng. Trong quan hệ với các khoa học cụ thể,
triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất. Thực tiễn phát
triển mạnh mẽ của các khoa học cụ thể càng làm tăng vai trò thế giới quan, phương pháp 8
luận của triết học Mác. Đúng như một nhà khoa học tự nhiên ở thế kỷ XX đã nhận xét:
“Các khái quát hóa triết học cần dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một khi đã
xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng thường rất ảnh hưởng đến sự phát triển tiếp
tục của tư tưởng khoa học, khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương hướng phát triển
có thể có”. Như vậy, sự ra đời của triết học Mác đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học
với các khoa học cụ thể.
Cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác thực hiện có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
vô cùng to lớn đối với thời đại. Chính cuộc cách mạng này đã làm cho chủ nghĩa xã hội
không tưởng có cơ sở để trở thành khoa học. Cuộc cách mạng này cũng làm cho triết học
thay đổi cả về vai trò, chức năng và nhiệm vụ. Triết học Mác đã trở thành công cụ nhận
thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ.
Câu 3: Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Nội dung vấn đề cơ bản của triết học?
* Khái niệm: Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại là vấn đề
về mối quan hệ giữa tồn tại với tư duy, giữa ý thức với vật chất. * Đặc điểm:
- Đó là vấn đề rộng nhất, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định hướng để giải quyết những vấn đề khác
- Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học như thế nào không chỉ thể hiện được lập
trường, thế giới quan của các nhà triết học mà còn là cơ sở tạo ra phương hướng nghiên
cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học
* Nội dung vấn đề cơ bản của triết học:
- Mặt thứ nhất: Vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa ý thức với
vật chất. Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào. Vật chất có trước và quyết định ý thức hoặc ngược lại ý thức có trước và quyết định
vật chất. Giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học như thế nào là cơ sở
phân chia các nhà triết học và các học thuyết của họ thành 2 trường phái đối lập nhau là
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy vật: Học thuyết cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người là chủ nghĩa duy vật
+ Chủ nghĩa duy tâm: Học thuyết cho rằng ý thức, tinh thần, ý niệm, cảm giác là cái
có trước và quyết định thế giới tự nhiên là chủ nghĩa duy tâm 9
- Mặt thứ hai: Vấn đề cơ bản của triết học giải quyết mối quan hệ giữa khách thể với
chủ thể nhận thức hay trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay ko? Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học như nào là cơ sở phân chia
các nhà triết học và học thuyết của họ thành phái khả tri và bất khả tri.
+ Thuyết khả tri: Học thuyết khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế
giới vật chất và sự vật hiện tượng.
Học thuyết khẳng định khả năng nhận thức của con người, con người về nguyên tắc
có thể hiểu được bản chất của sự vật hay nói cách khác ý thức của con người có được về
sự vật về nguyên tắc là phù hợp với bản thân sự vật.
+ Thuyết bất khả tri: Học thuyết khẳng định con người không có khả năng nhận thức
được thế giới vật chất và sự vật hiện tượng.
Học thuyết phủ nhận khả năng nhận thức của con người, con người về nguyên tắc
không thể hiểu được bản chất của đối tượng. Các hình ảnh tính chất đặc điểm của đối
tượng mà các giác quan con người thu được trong quá trình nhận thức chỉ là hình thức
bên ngoài hạn hẹp và cắt xén đối tượng cho dù có tính xác thực cúng ko cho phép con
người đồng nhất chúng với đối tượng vì đó ko phải là cái tuyệt đối đáng tin cậy. Học
thuyết phủ định khả năng vô hạn của nhận thức
Câu 4. Trình bày định nghĩa phạm trù vật chất của Lenin và ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa 4.1. Khái niệm:
“Vật chất Là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác.”
4.2. Nội dung cơ bản của định nghĩa
- Vật chất là thực tại khách quan cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức và ko lệ thuộc vào ý thức.
+ Vật chất là 1 phạm trù của triết học ý muốn nói phạm trù này là sản phẩm của sự
trửu tượng hóa ko có sự tồn tại cảm tính
+ Vật chất là tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức con
người và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải chủ quan
+ Mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô từ những cái chưa biết đến những cái đã biết, từ
những sự vật đơn giản nhất đến những hiện tượng vô cùng kì lạ dù tồn tại trong tự nhiên
hay xã hội cũng đều là những đối tượng tồn tại khách quan độc lập với ý thức nghĩa là
đều thuộc phạm trù vật chất 10
+ Cả con người và xã hội đều là một dạng của vật chất
- Vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan của con người thì đem lại cho
con người cảm giác
+ Vật chất luôn biểu hiện sự tồn tại của mình dưới dạng các thực thể
+ Các thực thể này khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào các giác quan sẽ đem lại
cho con người những cảm giác. Mặc dù ko phải mọi sự vật hiện tượng khi tác động lên
giác quan đều được giác quan con người nhận biết song nếu nó tồn tại khách quan độc lập
với ý thức con người thì nó vẫn là vật chất
+ Trả lời cho câu hỏi trong mặt thứ nhất của các vấn đề cơ bản của triết học
- Vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó
+ Vật chất luôn tồn tại khách quan không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần còn
hiện tượng tinh thần lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện tượng vật chất và những gì có
được trong các hiện tượng tinh thần ấy chẳng qua cũng chỉ là chép lại chụp lại, là bản sao
của các sự vật hiện tượng đang tồn tại hay còn gọi là hiện thực khách quan
+ Về nguyên tắc con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Trong thế giới
vật chất ko có cái gì là ko thể biết chỉ có cái đã biết và cái chưa biết do hạn chế trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định
+ Bác bỏ thuyết bất khả tri (mặt thứ 2 vấn đề cơ bản)
4.3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Định nghĩa vật chất của lenin đã giải quyết 2 mặt vấn đề cơ bản của triết học
- Định nghĩa đấu tranh chống thuyết ko thể biết, chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy
vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học hiện đại về phạm trù này
- Định nghĩa này đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy vật lịch
sử thành 1 thể thống nhất
- Mở đường cổ vũ cho các nhà khoa học đi sâu khám phá tìm hiểu về thế giới vật chất
- Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực XH
Câu 5. Tại sao nói định nghĩa vật chất của Lênin ra đời là bước ngoặt trong lịch sử triết học?
*Khái niệm: (phần trên).
*Giải thích câu hỏi: 11
Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ănghen thực
hiện. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự lệch rời giữa thế giới quan duy vật và
phép biện chứng tạo ra hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy vật đó là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và hình thức cao nhất của phép biện chứng là biện chứng duy vật.
- Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những phát hiện vĩ đại trong
cuộc cách mạng do Mác và Ănghen thực hiện trong triết học.
- Triết học Mác ra đời đã làm cho vai trò, vị trí của triết học là quan hệ giữa triết học
với các khoa học khác có sự thay đổi.
- Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là để cải tạo thế giới.
- Triết học Mác còn là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, nó chỉ ra cho
giai cấp công nhân con đường đấu tranh để giải phóng Mác nói "Giống như triết học thấy
ở giai cấp vô sản mới vũ khí vật chất thì giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học một vũ khí tinh thần".
- Triết học Mác có sự gắn bó giữa tính khoa họcvà tính cách mạng giữa lý luận với
thực tiễn. Đó là triết học sáng tạo.
Câu 6. Trình bày quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vận động của vật
chất và ý nghĩa phương pháp luận của nó. Thế nào là hiện tượng đứng im tương đối?
6.1. Khái niệm vận động và các hình thức vận động của vật chất:
* Khái niệm vận động:
“Vận động là 1 phương thức tồn tại của vật chất, là 1 thuộc tính cố hữu của vật
chất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ kể cả sự thay
đổi đơn giản cho đến tư duy”
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất
- Vật chất và vận động không tách rời nhau. Ở đâu có vật chất thì ở đó có vận động,
và ở đâu có vận động thì ở đó phải có vật chất. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào, dù trong tự
nhiên hay xã hội, dù vô cùng lớn hay vô cùng nhỏ, dù thuộc giới vô sinh hay hữu sinh đều
ở trong trạng thái biến đổi không ngừng. Vật chất chỉ có thể tồn tại được bằng cách vận
động và thông qua sự vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Vì vậy, nhận thức sự
vận động của sự vật cũng chính là nhận thức bản thân sự vật.
- Vận động của vật chất là tự thân vận động và mang tính phổ biến. Vận động tồn tại
vĩnh viễn ko thể tạo ra cũng ko thể bị tiêu diệt điều này đã được chứng minh bằng quy
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng do đó vận động của một vật thể cụ thể có thể
tăng, giảm, nhưng vận động của toàn thế giới vật chất bao giờ cũng là một số không thay 12
đổi. Định luật chuyển hóa và bảo toàn năng lượng đã cho thấy, nếu một hình thức vận
động nào đó của sự vật mất đi thì tất yếu nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế.
Các hình thức vận động có thể chuyển hóa lẫn nhau, nhưng vận động của vật chất luôn
luôn được bảo toàn cả về mặt chất và lượng.
* Các hình thức vận động cơ bản của vật chất (5 hình thức)
- Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian)
- Vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, từ,...).
- Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ
trong những quá trình hóa hợp và phân giải).
- Vận động sinh học (sự biến đổi của các cơ thể sống, sự trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường...).
- Vận động xã hội (quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội; sự
biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v. của đời sống xã hội).
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, có quy luật vận động riêng.
Song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiêt với nhau, trong đó hình
thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao hàm trong đó
những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có
nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi
hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Ví dụ, đối với động vật thì vận động sinh học là vận động đặc trưng, mặc dù trong
cơ thể động vật còn có các vận động cơ học, vật lý và hóa học. Không thấy được điều đó
sẽ không phản ánh được bản chất của sự vật.
6.2. Đứng im tương đối
Thế giới vật chất bao giờ cũng ở trong quá trình vận động không ngừng. Nhưng điều
đó ko những không loại trừ mà còn bao hàm trong đó hiện tượng đứng im tương đối.
- Đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật hiện tượng trong những mối quan
hệ điều kiện cụ thể (sự vật hiện tượng chưa thay đổi căn bản về chất nó còn là nó chứ
chưa biến đổi thành cái khác).
- Đứng im là 1 dạng vận động, là hình thức chứng thực sự tồn tại thực sự của vật
chất, là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.
- Vận động là tuyệt đối còn đứng im là tương đối.
*Hiện tượng đứng im chỉ là tương đối và tạm thời, sở dĩ như vậy là vì: 13
- Thứ nhất, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định, chứ ko
phải trong mọi mối quan hệ cùng 1 thời điểm. Ví dụ, con tàu đứng im so với bến cảng,
còn so với mặt trời thì nó đang vận động theo sự vận động của trái đất.
- Thứ hai, hiện tượng đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động nhất định
trong một lúc nào đó, chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng
một lúc. Ví dụ, con tàu đứng im xét về hình thức vận động cơ học, trong khi đó các hình
thức vận động lý, hóa không ngừng diễn ra trong bản thân nó.
- Thứ ba, hiện tượng đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động - vận
động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Chính nhờ trạng thái ổn định này mà
vật chất biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng cụ thể và qua đó sự vật mới có điều kiện
để thực hiện sự phân hóa tiếp theo. Bởi vậy, trạng thái đứng im tương đối biểu hiện như
một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định; nó còn là nó, chứ
chưa chuyển thành cái khác. Nhưng trạng thái thăng bằng, ổn định này sẽ bị sự vận động
là tuyệt đối phá vỡ.
Tóm lại: Trong quan hệ giữa vận động và đứng im, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn,
đứng im là tương đối, tạm thời; vận động là tuyệt đối không hề loại trừ mà còn hàm chứa
cả sự đứng im, còn sự đứng im không phải là một trạng thái cố định mà là một dạng của vận động.
Câu 7. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nguồn gốc và bản chất
của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này.
7.1. Khái niệm. “ Ý thức
là sự phản ánh năng động sáng tạo hình ảnh khách quan của thế giới VC
vào bộ óc người và được bộ óc người cải biến đi.”
7.2. Nguồn gốc của ý thức.
a. Nguồn gốc tự nhiên (Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức). * Bộ óc người:
-Ý thức là 1 thuộc tính của 1 dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc người,
là chức năng của bộ óc người hoạt động bình thường, là kết quả hoạt động sinh lý thần
kinh trong bộ óc người. ( phải là bộ óc còn sống và hđ bình thường )
- Điều này lý giải vì sao những người bị tổn thương não thì ý thức tinh thần của họ bị
rối loạn, thất thường.
* Thế giới khách quan: 14
- TGKQ được phản ánh vào bộ óc người thông qua hoạt động của các giác quan,
giúp hình thành nên ý thức ở con người. phản ảnh
- Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại, tái hiện
của hệ thống vật chất này, những đặc điểm của hộ thống vật chất khác trong quá trình tác
động qua lại. Định nghĩa vật chất của Lênin
- Cùng với sự tiến hoá của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Trong đó ý thức là hình thức phản ánh
cao nhất của thế giới vật chất.
b. Nguồn gốc xã hội (Vai trò của lao động và ngôn ngữ trong sự hình thành và phát
triển của ý thức). * Lao động:
– Khái niệm: Lao động là hoạt động có mục đích của con người, là quá trình con
người sử dụng CCLĐ tác động vào thế giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thỏa mãn nhu cầu con người. - Vai trò của lao động:
+ Giúp con người cải tạp TG và hoàn thiện bản thân. (từ dáng đi khom chuyển thành
đi thẳng giải phóng 2 chi trước).
+ Hoàn thiện dần chức năng của bộ óc, tư duy phát triển, nhận thức sự vật có hệ thống và sâu sắc hơn.
+ Lao động có tác dụng “nối dài giác quan” của con người trong khám phá nhận thức thế giới.
+ Lao động sản xuất còn là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn ngữ. * Ngôn ngữ:
- Khái niệm: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. nó trở
thành “vỏ vật chất” của tư duy; là hiện thực trực tiếp của ý thức; là phương thức để ý thức
tồn tại và thể hiện ra bên ngoài. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện. - Vai trò của ngôn ngữ
+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu cầu cần
trao đổi kinh nghiệm. Từ đó nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau một cái gì đấy”. Vì 15
vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
Lao động và ngôn ngữ, đó chính là nguồn gốc xã hội quyết định sự hình thành và phát triển ý thức.
7.3. Bản chất của ý thức.
Trong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thể độc lập, là
thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra
vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não con người thông qua thực tiễn, nên: bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
- Ý thức là sự phản ảnh thế giới vào bộ óc người trên cơ sở lao động và ngôn ngữ.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung
của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình
ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.
- Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cùng có nghĩa là ý
thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định.
Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiệu được cái được phản ánh. Trên cơ sở đó
hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn
hơn hiện thực khách quan, Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dự trên hoạt động thực
tiễn và là sản phẩn của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất
của ý thức là có tính xã hội.
* Sự phản ánh của ý thức là qtrình thống nhất của 3 mặt.
- Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là qtrình mang tính 2 chiều, có định
hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
- Mô hình hóa đối tượng trong tư duy. Thực chất là qtrình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức.
Mã hóa các đối tượng vchất thành các ý tưởng phi vchất.
- Hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hđ thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến ý
tưởng phi vchất thành vchất ngoài hiện thực
Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn toàn
đối lập với chủ nghĩa duy tâm khi chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, 16
sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng vật chất hoặc coi
ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động về thế giới vật chất.
7.4. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí.
- Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ
động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.
Câu 8. Trình bày nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức? Tại sao nó,
bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?
* Khái niệm – nguồn gốc ý thức: mục 7.1- 7.2
* Tại sao nó, bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan?
- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt
động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc
thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể
tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất
năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo
ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái
quát bản chất, qui luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế
giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về hình
thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến
thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất
được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các qui luật sinh học mà
chủ yếu là của các qui luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt
hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo
nhu cầu của thực tiễn xã hội. 17
Câu 9: Phân tích luận điểm: “Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Làm tương tự câu 8
Câu 10: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa của vấn
đề này trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
10.1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. a. Khái niệm.
- “Vật chất: Là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, pháp ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
- “Ý thức: là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hay ý thức chỉ chẳng qua
là hình ảnh của thế giới khách quan được di chuyển vào trong bộ óc người và cải biến đi.”
b. Mối quan hệ biện chứng giũa vật chất và ý thức.
Triết học Mác – Lênin khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật
chất quyết định ý thức và ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
* Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa Mác Leenin khẳng định vật chất có trước ý thức, quyết định ý thức, ý
thức là cái phản ánh, cho nên là cái có sau, là cái bị quyết định. Ý thức là thuộc tính của
một dạng vật chất sống có tổ chức cao, tổ chức đặc biệt. Đó là bộ óc người. Do vậy,
không có bộ óc người thì không thể có ý thức. Hơn nữa, ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt
động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
- Vật chất là nhân tố quyết định phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn.
- Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức.
- Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó.
- Vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để biến ý thức thành hiện thực
* Vai trò của ý thức đối với vật chất. 18
Nhờ có ý thức, con người nhận thức đựơc quy luật vận động, phát triển của thế giới
khách quan. Mặc dù vật chất quyết định ý thức, nhưng ý thức cũng có tính năng động,
sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể tác động trở lại vật
chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nào đó các điều kiện vật chất, góp
phần cải biến thế giới khách quan.
- Ý thức tác động lại vật chất theo hai chiều hướng:
+ Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực phát triển cuả vật chất.
+ Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất
khi ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc các quy luật vận động khách quan của vật chất.
c. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn trọng tính khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động, chủ quan của mình.
- Ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi
phản ánh đúng đắn, sâu sắc thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm
cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan.
=> Vì vậy, phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức đồng thời khắc phụ
bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại hoặc bênh chủ quan duy ý chí.
- Đảng ta đã chỉ rõ: Mọi đường lối chủ chương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan.
* Đối với hoạt động thực tiễn của bản thân:
- Phát huy năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác.
- Chống bệnh chủ quan duy ý chí, có thái độ tích cực trong học tập và công tác,...
Câu 11: Trình bày nội dung “Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến” và ý nghĩa phương
pháp luận của nguyên lý này? Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam hiện nay.
* Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến A. Khái niệm 19
- Mối liên hệ là 1 phạm trù của triết học dùng để chỉ các mối quan hệ rằng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yêu tố, bộ phận trong 1 đối tượng
hoặc giữa các đối tượng với nhau.
- Liên hệ là quan hệ giữa 2 đối tượng nếu sự thay đổi của 1 trong chúng nhất định
làm đối tượng kia thay đổi
- Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối liên hệ chung nhất phổ biến nhất có ở mọi sự
vật hiện tượng diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên xã hội tư duy
- Những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới
- Cô lập (tách rời) là trạng thái của đối tượng khi sự thay đổi của đối tượng này ko
ảnh hưởng đến các đối tượng khác ko làm chúng thay đổi B. Tính chất
- Mọi đối tượng đều trong trạng thái vừa cô lập vừa liên hệ quy định và chuyển hóa lẫn
nhau (vd: quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường)
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật: các mối liên
hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự
quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện
tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ
thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên
hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ: Thể hiện ở chỗ bất kì nơi đâu trong tự nhiên hay
trong xã hội tư duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng. Mối liên hệ qua lại, quy định,
chuyển hóa lẫn nhau ko những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng tự nhiên xã hội tư duy mà
còn diễn ra giữa các mặt các yếu tố các quá trình của mỗi SV HT.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị
trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất
định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác
nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
C. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
- Đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự vật trong
mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính 20