Câu hỏi tự luận - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam

Câu hỏi tự luận - Quan hệ quốc tế | Học viện Ngoại giao Việt Nam được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1: Hãy phân tích tác động của sự phát triển khoa học công nghệ đối với thương mại
quốc tế. Trong thời đại CMCN 4.0, thương mại quốc tế sẽ có những xu hướng lớn nào?
1. TÁC ĐỘNG
Thứ nhất, khoa học kỹ thuật công nghệ tác động đến tốc độ tăng trưởng và quy mô của
thương mại quốc tế. Từ CMCN lần thứ 3, sự xuất hiện của công nghệ số, công nghệ thông tin
cơ bản đã giúp tình hình thương mại bắt đầu tăng trưởng nhưng chỉ dao động ở mức nhỏ. Tuy
nhiên, tới CMCN lần thứ 4 đã tạo ra một bước nhảy vọt đáng kể với sự thay đổi về khối lượng
và giá trị thương mại thế giới kể từ CMCN lần thứ 3 đến nay đã tăng gần 347 lần so với mức
năm 1950. Khoa học kỹ thuật công nghệ đã góp phần thay đổi cơ cấu hàng hóa và có sự dịch
chuyển tích cực hướng vào lõi công nghiệp hóa giúp đa dạng hóa hàng hóa, dịch vụ, tạo ra
nhiều mặt hàng mới đáp ứng nhu cầu đời sống ngày càng nâng cao của con người. Khoa học
kỹ thuật công nghệ đã mở rộng khả năng liên lạc, trao đổi thông tin giữa các nước, có thể giải
quyết các vấn đề về thuế quan, việc cung ứng dịch vụ, hàng hóa diễn ra một cách dễ dàng hơn,
dẫn tới thương mại quốc tế trở thành mũi nhọn trong phát triển kinh tế với quy rộng mở
trên toàn cầu.
Thứ hai, khoa học công nghệ tác động đến sự phát triển của các quốc gia. Cách mạng
khoa học công nghệ đang thực hiện việc hiện đại hóa hạ tầng sở của nền kinh tế: hệ thống
giao thông, mạng lưới liên lạc viễn thông, làm rút ngắn khoảng cách không gian, thời gian.
đã tạo ra cuộc cách mạng thông tin, cách mạng số được xem quan trọng nhất, đại nhất
trong lịch sử cách mạng thông tin (mạng 5G) dẫn tới xu hướng áp dụng chính phủ điện tử, cổng
thông tin đa quốc gia, tiến tới trí tuệ hóa quá trình lao động bằng việc áp dụng tin học quá trình
sản xuất.
Thứ 3, khoa học công nghệ tác động đến sự phát triển của thương mại dịch vụ. Sự phát
triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã biến thế giới sang kỷ nguyên kinh tế số, tạo ra
ngày càng nhiều loại hình và mô hình kinh doanh dịch vụ mới, có sự phối hợp của nhiều loại
dịch vụ. Nhiều dịch vụ được thương mại hóa trên phạm vi toàn cầu bằng hình thức trực tuyến
giúp cho việc cung ứng và tiêu dùng dịch vụ quốc tế diễn ra hiệu quả hơn.
Thứ 4, khoa học công nghệ tác động đến sự cạnh tranh thương mại giữa các quốc gia.
Sự gia tăng cả về quy tốc độ của thương mại quốc tế dưới tác động của khoa học kỹ
thuật công nghệ khiến cạnh tranh thương mại giữa các quốc gia diễn biến đa dạng và phức tạp
hơn. Nhiều cuộc chiến tranh thương mại đã xảy ra, kéo theo đó là những hệ lụy tác động đến
chuỗi thương mại khu vực toàn cầu. Tiêu biểu nhất cuộc chiến tranh thương mại Mỹ
Trung vì vấn đề được cho rằng là hành vi không công bằng khi trộm cắp tài sản trí tuệ.
Thứ 5, Khoa học kỹ thuật công nghệ tác động tới vấn đề sở hữu trí tuệ. Tiến bộ nhanh
chóng trong khoa học kỹ thuật công nghệ là chất xúc tác mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế dẫn
đến cạnh tranh giữa các chủ thể sáng chế và doanh nghiệp trong và ngoài nước dẫn đến sự xuất
hiện của sở hữu trí tuệ giúp nhà phát minh bảo vệ phát minh của họ. Đây là yếu tố quan trọng
đối với sự thành công của hoạt động kinh doanh của các công ty trên thị trường quốc tế.
2. XU HƯỚNG
Thứ nhất, thương mại dịch vụ sẽ tiếp tục phát triển chiếm tỷ trọng ngày càng cao
trong thương mại quốc tế. Tỷ trọng dịch vụ không ngừng tăng lên hiện nay dựa trên hai nền
tảng chính là toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Được thúc đẩy bởi những thành tựu của tiến bộ
khoa học kỹ thuật, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức làm thay xu hướng kinh doanh và chính sách
của chính phủ đối với ngành kinh tế dịch vụ. Ngành dịch vụ tri thức phát triển dựa vào khoa
học kỹ thuật mà hạt nhân là công nghệ thông tin. Hàm lượng công nghệ và tri thức ngày càng
cao hơn trong các sản phẩm dịch vụ giúp cho nhiều loại dịch vụ, kể cả những dịch vụ truyền
thống, được cung cấp và tiêu dùng hiệu quả hơn rất nhiều. Dịch vụ thông tin chủ yếu là dịch
vụ viễn thông, dịch vụ tin học kim ngạch buôn bán lớn nhất, vượt qua các dịch vụ truyền
thống. Xu hướng kinh doanh cũng thay đổi để đáp ứng các nhu cầu nói trên. Các công ty ngày
nay tập trung nhiều hơn vào việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao như
phần mềm máy tính, phát minh máy móc tự động và chăm sóc phần tâm hồn của con người.
Thứ hai, tự do hoá sẽ là xu thế chủ yếu trong sự phát triển thương mại dịch vụ thông
qua việc ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại tự do.
Thứ ba, xu thế hội tụ với sự hội tụ giữa thương mại dịch vụ và thương mại hàng hoá,
sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên khiến đường ranh giới giữa tm dịch vụ và tm hàng
hóa ngày càng mờ nhạt.
Câu 2: Hãy trình bày một số đặc điểm của thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời
gian gần đây. Đâu là những thành tựu nổi bật và những hạn chế còn tồn tại?
1. Một số đặc điểm thương mại quốc tế của Việt Nam gần đây
- Kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn từ 2018 đến 2021 liên tục tăng trưởng
kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn này biến động những vẫn giữ xu hướng tăng
trưởng liên tiếp trong 5 năm Việt Nam xuất siêu .Quy mô xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng
cao trong bối cảnh kinh tế thế giới nhiều rủi ro, bất ổn, thương mại toàn cầu giảm sút,
xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so với cùng kỳ năm trước.
- Tỷ trọng xuất khẩu hàng nguyên liệu thô giảm, trong khi đó dầu mỏ, khí đốt và các sản
phẩm công nghệ chế biến tăng nhưng vẫn còn chậm .
- Phạm vi xuất khẩu nước ta càng ngày phong phú đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ,
Trung quốc, EU, ASEan, Nhật Bản, Hàn quốc .,..... Mỹ tiếp tục . Về xuất khẩu, năm 2021,
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 28,6% tổng kim ngạch xuất khẩu
(96,3 tỷ USD) có mức tăng trưởng xuất khẩu lớn nhất trong tốp các thị trường xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam (tăng 24,9% so với năm trước). Thêm vào đó, Mỹ cũng là thị trường mà
Việt Nam xuất siêu lớn nhất với thặng thương mại đạt 81 tỷ USD (kim ngạch xuất khẩu
gấp hơn 6 lần kim ngạch nhập khẩu). T rung Quốc vẫn giữ vị trí thị trường nhập khẩu
lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 33,1% tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam năm
2021 (109,9 tỷ USD) và tăng 30,5% so với năm trước. Sau Trung Quốc, Hàn Quốc nguồn
nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam với 56,2 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng nhập khẩu hàng hóa
vào Việt Nam. Có thể thấy, phân nửa hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam năm 2021 là từ hai
thị trường nhập khẩu này.
- Chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng rút ngắn lại, hàng hóa có hàm lượng KHCN đang
có xu hướng cao
- Nước ta đảm bảo cả hai khía cạnh , một mặt phải tự do hóa thương mại, mặt khác thực
hiện bảo hmậu dịch một cách hợp mặc trong giai đoạn vừa qua gặp phải nhiều
biến động về kinh tế.
2. Thành tựu nổi bật và hạn chế tồn tại
2.1 Thành tựu
Từ khi là thành viên của Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới WTO, Việt Nam chính
thức bước chân vào quá trình thương mại trên phạm vi thế giới thu được nhiều thành tựu
đáng kể.
Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện;
quan hệ ngoại giao với 189/193 nước. Đặc biệt, có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA)
mà Việt Nam tham gia là những cánh cửa lớn, đa chiều để Việt Nam tự tin hội nhập toàn cầu
ngày càng sâu, rộng, đầy đủ, hiệu quả hơn.. Trong năm 2021, mặcdịch Covid 19 đang diễn -
biến phức tạp nhưng vốn FDI vào Việt Nam đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9.2% so với năm 2020 .
Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn vào môi trường đầu tư
Việt Nam.
Các thủ tục phiền hà, hệ thống thuế còn nhiều bất cập, hiệu quả thực thi pháp luật
chưa cao,... là những vấn đề đang gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
FDI tại Việt Nam... Và kết quả thu được là nguồn vốn đầu tư cũng được cải thiện đáng kể.
trực tiếp FDI vào Việt Nam biến đổi tích cực qua các năm và có sự tham gia của nhiều quốc
gia lớn trên phạm vi thế giới.
Làn sóng bảo hộ mậu dịch nổi lên với sự xuất hiện của nhiều các nguyên tắc rào cản
mới được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu . Đứng trước những công cụ bảo hộ mới như:
Những quy định về hạn chế xuất khẩu, thủ tục hải quan rườm rà, giảm giá tiền tệ, nâng cao một
số tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn, ... Đây là cơ sở để Việt Nam duy trì sự phát triển
kinh tế ổn định, đồng thời đảm bảo hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam ngày càng
được mở rộng và có giá trị lớn.
Dấu ấn được ghi nhận rõ nét trong việc đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ
mở cao, kể từ 2016 đến nay. Theo Tổng chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu 6 năm liên tục
cục Thống kê, Tính chung cả năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt
732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước ( 2021 ) . Từ năm 2018 đến nay, cán cân thương
mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm, đến năm 2022 cán cân thương
mại ghi nhận xuất siêu 11,2 tỷ USD Như vậy, mức xuất siêu của năm nay gấp gần 3 lần
so với năm 2021.
Những thành tựu đó là kết quả của quá trình nỗ lực, bền bỉ và kiên định thực hiện đồng
bộ nhiều chính sách đổi mới, cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đã
tạo sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế
theo tinh thần của WTO và các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia.
2.2 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được thì vẫn tồn tại những hạn chế nhất
định trong quá trình tham gia hoạt động Thương mại Quốc tế. Mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có
sự thay đổi theo hướng tích cực trong thời gian qua nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng
đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng
hàng thô, sơ chế vẫn còn cao. Cụ thể, theo báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2018-
2021 của Bộ Công Thương, tình hình xuất khẩu dầu thô cả năm sự biến động. Mặc dù sản
xuất xăng dầu trong nước những năm trở lại đây khá ổn định, tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa tận
dụng triệt để nguồn dầu thô trong nước hạn chế công nghệ, đồng thời phải nhập thêm các
sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài nên lợi ích đem lại chưa cao.
Không chỉ xăng dầu, Việt Nam cũng còn hạn chế trong vấn đxuất khẩu các sản
phẩm thô với giá thành thấp, nhưng lại nhập khẩu các sản phẩm đã chế biến với mức giá
cao. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn tài nguyên quốc gia mà còn gây ảnh hưởng đến
sự phát triển của nước ta. Vấn đề chuyển dịch cấu xuất khẩu chưa thật bền vững còn chứa
nhiều yếu tố rủi ro. Đây là một trong những hạn chế lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu hiện nay.
Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến, xét về dài hạn tăng trưởng xuất khẩu sẽ
rất khó khăn. Việc tập trung quá lớn và một số mặt hàng đã làm suy giảm khả năng mở rộng
thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự đánh mất thị trường, khó phát triển bền vững và duy trì tốc
độ tăng trưởng cao.
Ngoài các nhóm hàng thô, sơ chế, các nhóm hàng chế biến công nghệ vẫn chiếm tỷ
trọng thấp. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn còn phụ thuộc
quá nhiều vào các sản phẩm công nghệ, các nguyên vật liệu thiết bị nhập khẩu từ nước ngoài.
Những sản phẩm từ thị trường nước ngoài này chủ yếu đều mang giá trị lớn nên việc Việt Nam
nhập khẩu các sản phẩm đó để áp dụng cho quá trình sản xuất trong nước mặc dù đem lại
sự thay đổi tích cực trong quá trình vận hành và sản xuất xuất khẩu nhưng giá trthực sự
đem lại còn ở mức thấp.
Hạn chế của Việt Nam còn nằm những tiêu chuẩn, yêu cầu, điều kiện về hình
thức và chất lượng sản phẩm thị trường xuất khẩu đề ra. Đặc biệt đối với các mặt
hàng nông sản, thuỷ sản. Các sản phẩm nông sản của nước ta còn hạn chế trong bảo quản, nên
việc vận chuyển thông thường sẽ làm giảm đi chất lượng cũng như mẫu sản phẩm. Bên
cạnh đó, vấn đề xây dựng thương hiệu Việt cũng chưa thực sự được đảm bảo nên sẽ khó khăn
hơn cho Việt Nam trong quá trình xuất khẩu các sản phẩm trong nước ra thị trường thế giới.
Câu 3: Chiến tranh thương mại Mỹ Trung có tác động như thế nào đến nền kinh tế toàn -
cầu? Việt Nam có những cơ hội và thách thức gì trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ
- Trung?
1. TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU
Cuộc chiến thương mại Mỹ Trung nổ ra không chỉ gây tổn hại cho các nước trong -
cuộc mà những tranh cãi thương mại xung quanh cũng ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn thế giới.
Xung đột thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới nổ ra thể làm suy yếu đầu tư,
làm giảm chi tiêu, làm xáo trộn thị trường tài chính làm chậm đi tăng trưởng của kinh tế
toàn cầu.
Tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ Trung đối với nền kinh tế thế giới thể hiện -
rõ qua các góc độ cụ thể là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu.
Những thay đổi trong chính sách thương mại trở thành nguy lớn nhất đối với
tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Theo OECD, cuộc chiến thương mại Mỹ Trung gây sức ép lớn -
lên hoạt động đầu tư và niềm tin của các doanh nghiệp, khiến tăng trưởng kinh tế thế giới nguy
cơ chạm đáy 1 thập kỷ. nền kinh tế thế giới s Trong báo cáo ngày 19/9/2018, OECD dự báo
chỉ tăng trưởng 2,9% trong năm 2019, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2009; IMF cũng dự báo
kinh tế toàn cầu chỉ đạt mức tăng trưởng từ 3% trở xuống, đây được coi là mức “suy thoái”.
Tỷ giá là nhân tố thứ hai của nền kinh tế phải chịu ảnh hưởng từ cuộc chíến tranh
của hai cường quốc này. Thị trường tài chính thế giới trong phiên đầu tuần ngày 26.8 đã phản
ánh mối quan ngại sâu sắc của giới đầu tư. Đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc đã xuống
mức thấp nhất. Tại Tokyo, đồng Yên đã tăng giá mạnh so với USD, do các nhà đầu tư đẩy mạnh
mua vào đồng bản tệ của Nhật Bản để tích trữ.
Bên cạnh đó, có thể thấy rõ cuộc chiến thương mại Mỹ Trung còn làm ảnh hưởng -
tới xuất nhập khẩu. Chuỗi cung ứng toàn cầu dường như bị phá vỡ, ảnh hưởng xấu đến việc
cung ứng hàng a và dịch vụ, từ đó gây ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế toàn
cầu. Tính trên toàn cầu, theo số liệu của WTO năm 2017, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
tăng 11% lên 17.200 tỷ USD. Việc này kéo theo tăng trưởng toàn cầu mất 0,1%. Lạm phát
cũng tăng 0,1% - 0,3%.
2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO VIỆT NAM
Trong bối cảnh đó, cần nhìn nhận ra rằng, cuộc chiến sinh tử giữa 2 nền kinh tế hàng
đầu thế giới này đã mang đến cho nền kinh tế Việt Nam cả những cơ hội và thách thức.
2.1. CƠ HỘI CHO VIỆT NAM
Việt Nam có quan hệ thương mại sâu rộng với cả Mỹ và Trung Quốc chính vì vậy khi
chiến tranh thương mại xảy ra, cả Mỹ và Trung Quốc buộc lựa chọn chuyển hướng đầu tư, để
khi xuất khẩu từ c nước vai trò trung gian như Việt Nam sang nước kia sẽ không phải
chịu mức áp thuế cao.
Chiến tranh thương mại Mỹ Trung nếu tiếp tục sẽ mở ra những cơ hội về thị trường -
mới cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam có thể gia tăng
xuất khẩu sang thị trường Mỹ và nhập khẩu hàng công nghệ cao của Trung Quốc trên cơ sở
lợi thế so sánh.
Một số sản phẩm Việt Nam xuất sang Mỹ như gỗ đồ nội thất, các mặt hàng nông
thủy sản, thiết bị điện tử, túi xách, nhựa cao su, linh kiện, lắp ráp điện thoại, dệt may, da giày
và bất động sản công nghiệp là những ngành có thể được hưởng lợi từ chiến tranh thương mại
Mỹ Trung nhờ đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam.-
Trong bối cảnh ấy, Việt Nam có cơ hội thu hút thêm vốn đầu tư của các công ty lớn như
Samsung bởi công ty này có kế hoạch cắt giảm sản lượng tại Trung Quốc bởi giá nhân công
cao kết hợp với nguy cơ chiến tranh thương mại leo thang, đchuyển hướng đầu tư sang các
nước khác.
Ngành dệt may và da giày cũng được hưởng lợi do đồng trong chiến tranh thương mại
CNY mất giá so với VND giúp các doanh nghiệp nhập được nguyên liệu đầu vào với giá rẻ
hơn. Mặt khác, các ngành này của Việt Nam thể lấy thêm được thị phần của Trung Quốc
tại thị trường Mỹ cũng như thu hút được thêm vốn đầu tư FDI, từ đó giúp xuất khẩu tăng, tạo
việc làm, giảm thất nghiệp
Chiến tranh thương mại leo thang khiến bất động sản công nghiệp Mỹ, Trung giảm tốc
khiến Việt Nam được hưởng lợi. Sự tăng trưởng giá thuê đất công nghiệp tại Trung Quốc sẽ
thúc đẩy Việt Nam trở thành một trong những điểm đến tiếp theo cho các nhà đầu tư, nhờ vào
vị trí địa kinh tế thuận lợi với Trung Quốc và chi phí lao động lại ở mức phải chăng.-
Thách thức đối với Việt Nam
Ngoài những cơ hội, những cánh cửa thị trường mới, kinh tế Việt Nam cũng sẽ phải đối
mặt với các thách thức bởi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung.
Trong ngắn hạn, thương mại của Việt Nam dự báo tuy không bị ảnh hưởng nhiều, nhưng
khi Mỹ gia tăng áp đặt một số biện pháp hạn chế với hàng Trung Quốc khiến một số hàng hóa
cùng chủng loại của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Theo dự báo, cuộc chiến tranh
thương mại sẽ làm giảm GDP của Việt Nam trung bình khoảng 0,03% 0,12% trong vòng 5 -
năm, ước tính khoảng 6.000 tỷ đồng/năm.
Việt Nam sẽ phải chịu sức ép ngày càng lớn để ổn định kinh tế vĩ mô, giữ tỷ giá và kiểm
soát lạm phát; trong khi đó, lực đẩy từ khu vực FDI giảm dần. Ngoài ra còn có chính sách bảo
hộ thương mại của Mỹ các nước khác. Biến động của giá hàng hóa bản giá năng
lượng trên thị trường quốc tế cũng là một thách thức không nhỏ.
Khi Trung Quốc không xuất khẩu được hàng hóa sang Mỹ, nhập siêu của Việt Nam từ
Trung Quốc lại có nguy cơ gia tăng. Nguyên nhân là do Trung Quốc phải thúc đẩy tiêu dùng
nội địa, giảm nhu cầu nhập khẩu. Đồng thời khi hàng Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ bị áp thuế,
Trung Quốc đưa ra những chính sách phá giá, đẩy hàng hóa sang các nước xung quanh, trong
đó có Việt Nam.
Ngoài ra, chiến tranh thương mại Mỹ Trung tiếp diễn còn gây tác động mạnh tới tỷ -
giá giữa đồng CNY và đồng USD, tỷ giá Việt Nam đồng theo đó cũng sẽ bị tác động do vẫn
phụ thuộc vào tỷ giá của 2 đồng tiền nêu trên.
Câu 4: Anh/Chị ủng hộ thương mại tự do hay bảo hộ thương mại? Hãy đưa ra các lập luận
để bảo vệ ý kiến của mình. Theo anh/chị, Việt Nam nên theo đuổi chính sách thương mại tự
do hay bảo hộ thương mại?
Trong thương mại quốc tế tự do thương mại một kiểu thị trường tưởng thường
được xem như là một mục tiêu chính trị mà sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nước được
thực hiện không sự kiểm soát bằng những chính sách nhập khẩu. Về học thuật thương mại
tự do được ủng hộ bởi những người theo trường phái kinh tế học tân cổ điển và kinh tế học vi
mô. Họ cho rằng lợi ích của thương mại chính là giá trị thực có được của cả hai phía
Trong một nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng hiện nay, các nhà hoạch
định chính sách có thể bị gây sức ép phải bảo hộ thị trường trong nước trước sự cạnh tranh với
nước ngoài và dựng lên giao cảm thương mại mới để bảo vệ lợi ích cho một nhóm nhỏ nhưng
lại gây tổn hại cho tuyệt đại đa số các nhà sản xuất công nhân và người tiêu dùng. Cả lý thuyết
và thực tiễn đều chỉ ra một con đường phát triển sản xuất hơn tự do thương mại đã đang và sẽ
là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế sự thịnh vượng nâng cao mức sống và cải thiện cuộc sống
cho hàng triệu người khắp nơi trên thế giới.
Về mặt kinh tế: tự do thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường xuất nhập khẩu
doanh nghiệp trong nước có cơ hội nhập khẩu nguyên nhiên liệu vật liệu trong nước chưa
hoặc chi phí cao. Thứ hai đó là hội học hỏi tiếp thu phương thức sản xuất tiên tiến và hiện
đại. Sự tham gia liên doanh liên kết trong hoạt động khoa học công nghệ với các đối tác
nước ngoài mang lại hội tiếp cận với khoa học công nghệ cao đồng thời thì cũng từng
bước thu hẹp khoảng cách về kiến thức kỹ năng nghiên cứu phát triểnng như nâng cao
năng lực sáng tạo áp dụng khoa học công nghệ góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo
bồi dưỡng tiếp cận trình độ quản chất lượng cao trong nhiều lĩnh vực. Thứ ba là thỏa mãn
tối đa nhu cầu tiêu dùng như hàng hóa đa dạng được sử dụng những hàng hóa cao cấp
trong nước chưa sản xuất được. Tiếp theo đó sự cạnh tranh với nước ngoài ngày càng gay
gắt làm thúc đẩy sản xuất phát triển. Tự do hóa thương mại đồng nghĩa với việc kinh tế của
một quốc gia phải chịu sự cạnh tranh cao từ thị trường vì vậy các công ty trong nước phải học
cách điều chỉnh. Những công ty tại các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng lợi thế của họ
để cạnh tranh trên thị trường quốc tế đặc biệt là trong sản xuất. Ngoài ra thương mại tự do thúc
đẩy thương mại quốc tế phát triển và góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại tự
do kích thích các nguồn đầu tư từ nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ đổ vào các quốc
gia đang cần vốn giúp cải thiện năng suất và thúc đẩy tăng trưởng ở các nước đang phát triển.
Cuối cùng thương mại tự do vì giá thấp. Tham gia hội mang lại lợi ích cho người tiêu dùng
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng mở ra cơ hội tiếp cận những sản phẩm dịch vụ tốt cho người
tiêu dùng với giá hợp lý nhưng ngược lại đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh, cạnh tranh bằng
chất lượng
Về mặt chính trị hội. Toàn cầu hóa kinh tế được chứng minh là sẽ giảm tỷ lệ tử vong
của trẻ em kéo dài tuổi thọ như tăng thu nhập thông tin tốt hơn. Thêm vào đó một số
nghiên cứu cho rằng thương mại tự do tốt trong môi trường. Tự do thương mại cũng được chứng
minh là tạo ra nhiều việc làm hơn cho phụ nữ giảm tình trạng phân biệt đối xử trong công việc
và cải thiện tình trạng nhân quyền. Tự do thương mại tạo ra sức ép xã hội để người dân được
hưởng những quyền tự do khác làm đổi mới bầu không khí chính trị văn hóa xã hội mà kết quả
là các quốc gia đang phát triển ngày càng có tiếng nói quan trọng hơn trên trường quốc tế
Về mặt văn hóa. Tự do thương mại khuyến khích phát triển một nền văn hóa mới. Tự
do thương mại thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa về văn hóa, góp phần khắc phục những yếu tố lạc
hậu trong văn hóa của thế giới thứ ba. Đặc trưng lớn nhất của quá trình toàn cầu hóa về văn hóa
lịch sử hình thành đặc tính văn hóa mới của thời đại, văn hóa công dân thế giới. Đó là nền văn
hóa mới, thu nhận mọi giá trị phù hợp với tự nhiên và phát triển
Việt Nam nên theo đuổi chính sách thương mại tự do. Bởi tự do hóa thương mại được
xem là một hướng đổi mới quan trọng trong chính sách và cơ chế quản lý thương mại và kinh
tế đối ngoại. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tự do hóa thương mại là
một xu thế khách quan, không thể đảo ngược, cần được thúc đẩy mạnh mẽ, song phải có bước
đi phù hợp với đặc điểm, điều kiện nước ta và yêu cầu hội nhập với bên ngoài, bảo đảm lợi ích
quốc gia. Trong việc xác định bước đi của quá trình tự do hóa thương mại, cần phải tính toán,
cân nhắc nhiều yếu tố như bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; bảo đảm cán cân ngoại thương
hợp lý; bảo đảm xuất, nhập khẩu cân bằng trong một thời gian xác định; yêu cầu hội nhập với
khu vực và thế giới;... Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, quá trình tự do hóa được thực hiện từng
bước với việc giảm chỉ tiêu pháp lệnh từ bên trên, mở rộng quyền tự chủ cho địa phương và cơ
sở trong xuất, nhập khẩu; trong định giá và gần đây là hạn chế đến mức tối thiểu danh mục mặt
hàng khống chế hạn ngạch.
Câu 5: Hãy trình bày về sự kiện Hoa Kỳ kiện chống bán phá giá đối với cá ba sa của Việt
Nam. Tác động của vụ kiện đối với ngành cá basa của Việt Nam là gì? Việt Nam có thể làm
gì để khắc phục vấn đề này?
1. Khái quát diễn biến
Trong những năm 2000, khi Việt Nam gia nhập khối Hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC), thuế nhập khẩu cá da trơn vào Hoa Kỳ giảm xuống còn 4,4 cent/kg. Đây
cơ hội để sản phẩm cá tra, basa tiến thẳng vào thị trường “số 1 thế giới” với sản lượng
lớn. Sự phát triển “quá nóng” đã đưa đến nhiều hệ lụy khó lường, buộc Hiệp hội Chủ trại
nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA) chính thức khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam lên Ủy ban
Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) vào ngày 28-6-2002. Lúc đó, CFA cáo buộc 53 doanh
nghiệp Việt Nam bán phá giá tra, basa tại thị trường Hoa Kỳ. “Từ cuối năm 2000, CFA
tung lên báo chí Hoa Kỳ những thông tin thất thiệt, bôi xấu hình nh tra, basa Việt
Nam. Tháng 6-2001, Chủ tịch CFA gửi thư yêu cầu đến Tổng thống Bush đề nghị Chính phủ
Hoa Kỳ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về catfish. Ngày 5-10-2001, Hạ viện Hoa
Kỳ thông qua dự luật HR.2964 chỉ cho riêng loài thuộc họ cho phép sử dụng tên catfish
Ictaluridae (họ nheo Mỹ) cuối cùng ngày 28-6-2002, CFA chính thức khởi kiện các
doanh nghiệp chế biến bán phá giá cá tra, basa trên thị trường Hoa Kỳ.
2. Tác động
Nhờ những tiếng tăm tới từ vụ kiện, da trơn xuất khẩu của Việt Nam đã được
nhiều bạn trên toàn thế giới biết tới hơn. Sau nhiều lần chịu cảnh “thăng trầm”, người
nuôi các DN đã “bắt tay” liên kết chặt hơn để cân đối “cung cầu” hợp cho thị -
trường. Mặt khác, mặt hàng tra Việt Nam đã từng bước khẳng định được sức sống mãnh
liệt của nó. Theo thống của Hiệp hội Chế biến Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep),
xuất khẩu cá tra 2 tháng đầu năm 2021 đạt 214 triệu USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cũng theo thống kê trên của Tổng cục thống kê, hiện Việt Nam có khoảng 200 doanh nghiệp
xuất khẩu cá tra đến khoảng 138 thị trường trong đó có các thị trường lớn như: Hoa Kỳ, Mexico,
Australia, Canada; cùng các thị trường tiềm năng khác như Brazil, Colombia, Anh, Nga… Đây
cũng là một trong những động lực to lớn giúp những người nuôi cá da trơn cải thiện chất
lượng của cá, đồng thời tạo cho ngành xuất khẩu cá da trơn Việt Nam một chỗ đứng chắc chắn
về thương hiệu trên thị trường quốc tế.
Theo quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) về chống bán phá giá
cá tra, basa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, cá da trơn của Việt Nam bị áp dụng
mức thuế chống phá giá rất cao. Chính vụ kiện này đã ảnh hưởng trực tiếp đến những ngư
dân, những người nuôi cá, thuế cao, luật nghiêm ngặt khiến họ giảm bớt định hướng mở rộng
thị trường cá da trơn sang hoa kỳ một trong những thị trường lớn và tiềm năng nhất.-
Bên cạnh đó, thương hiệu và sự tín nhiệm của các thị trường nhập khẩu dành cho
cá tra, cá basa của Việt Nam cũng bị sụt giảm. Đây là một hệ quả vô cùng nghiêm trọng của
vụ kiện, tạo ra những rào cản thương mại và có thể các thị trường tiềm năng sẽ mang theo
“đôi mắt nghi hoặc” khi quyết định có nhập khẩu cá da trơn của nước ta. Việc bị áp đặt
thuế chống bán phá giá ở mức cao đối với xuất khẩu cá basa, cá tra của Việt Nam sẽ ảnh hưởng
rất lớn tới thu nhập chính của các hộ gia đình thuộc khu vực này. Cũng như nếu phải chuyển
đổi một bộ phận lớn người dân nơi đây sẽ không có ngành nghề ổn định để kiếm sống. Điều
này không chỉ ảnh hưởng các gia đình quy vi còn gây c động lớn tới các hộ
nghèo doanh nghiệp, hay quy mô hơn thì còn ảnh hưởng tới GDP xuất khẩu, tới
phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
3. Giải pháp
Chính phủ cần tiếp tục kêu gọi các nước trên thế giới công nhận Việt Namnền
kinh tế thị trường. Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đến
nay, Việt Nam đã được 90 quốc gia trên thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường. Điều này
có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi Việt Nam được coi là nền kinh tế có giá cả thị trường được
quyết định bởi sự cạnh tranh cởi mở, chứ không phải bởi sự can thiệp của nhà nước. Hơn nữa
cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký thương hiệu hoàn thiện Luật Bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ cho các thương hiệu Việt Nam. Khuyến khích các doanh nghiệp không xuất khẩu
hàng hoá dưới thương hiệu của nước ngoài, nhằm tránh việc cạnh tranh trực tiếp với các sản
phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Tích cực tuyên truyền về luật pháp các nước đối tác, cung
cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp để họ am hiểu hơn về môi trường kinh doanh quốc
tế.
Doanh nghiệp Việt Nam phải chiến lược đa dạng hsản phẩm thị trường
xuất khẩu, nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm hoạt động sản xuất, “không nên bỏ tất cả trứng vào
một giỏ”. Không nên tập trung xuất khẩu một vài mặt hàng với khối lượng lớn vào một nước,
vì đây có thể là cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá. Bên cạnh đó, để đối phó các vụ kiện
CBPG thì sự minh bạch trong các tài liệu ghi chép, sổ sách kế toán là điều cần được đặc biệt
chú ý. Hơn nữa các doanh nghiệp cũng nên triển khai hình thức nhật ký hành chính ghi lại
những sự kiện, giá cả hàng ngày giúp dễ dàng hơn trong việc điều tra. Các doanh nghiệp
cũng có thể cạnh tranh trực tiếp với các mặt hàng cá da trơn Mỹ bằng chất lượng. Chúng
ta có thể nâng cao giá thành để không bị coi là chống phá giá, song song với đó là nỗ lực cải
tiến kỹ thuật, chăm chút về mặt nhân công để nâng cao chất lượng cá giúp thu hút khách ngoại.
Câu 6: Hãy trình bày một số đặc điểm của dòng vốn đầu trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam trong thời gian qua. Đâu là những thành tựu nổi bật và những hạn chế còn tồn tại?
FDI hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác, bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ trực tiếp nắm
quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Về mặt tích cực, FDI giúp giải quyết vấn đề thiếu vốn để phát triển kinh tế.Tiếp nhận
nguồn vốn FDI cũng là con đường hiệu quả nhất để tiếp cận công nghệ mới, kỹ năng và kinh
nghiệm quản lý của nước ngoài. FDI góp phần phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nâng cao thu nhập quốc dân và tăng thu ngân sách.
Ngược lại, dòng vốn FDI cũng những tác động tiêu cực. Nước nhận đầu dễ rơi
vào tình trạng phụ thuộc; phải chia sẻ lợi ích với quốc gia khác, ví dụ trong khai thác tài nguyên
thiên nhiên...; nền kinh tế có thể phát triển lệch lạc, mất cân đối phải đối mặt với nguy
trở thành bãi thải công nghệ. Nước đi đầu tư thể gặp rủi ro khi các nước nhận FDI có hệ
thống pháp luật chưa ổn định; tình hình chính trị còn nhiều biến động, đơn cử như vấn nạn
tham nhũng, tạo nên những rào cản nhất định cho nhà đầu tư...Các nhân tố ảnh hưởng tới FDI
có thể kể đến: xu hướng đầu tư FDI của thế giới, và các nhân tố bên trong của các nước được
nhận đầu tư như: điều kiện xã hội, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế…
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua:
Trước hết, có thể nói, Việt Nam là một đất nước đổi mới thành công. Những cải cách
kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu hóa thuận lợi đã nhanh chóng giúp
Việt Nam phát triển trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng 20 năm.
Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được thể hiện qua số
dự án đầu tư, tổng số vốn thực hiện và đăng ký được phân tích trong ba giai đoạn: 2010-2015,
2016- -20212019 và 2020 như sau:
Thứ nhất trong giai đoạn 2010 015, xu hướng tăng số dự án đầu trực tiếp vào -2
Việt Nam khá rõ rệt trong giai đoạn này. Cụ thể: năm 2010, số dự án đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam là 1237 dự án (Tổng cục Thống kê, 2010). Năm 2011, con số này giảm 4.12% so với năm
2010 (Tổng cục Thống kê, 2011). Tuy nhiên, từ năm 2011 2015, số dự án tăng dần qua các -
năm, trung bình 15.72%/ năm đạt 2120 dự án vào năm 2015 (Tổng cục Thống kê, 2015).
Tổng số vốn thực hiện trong giai đoạn này sự biến động giữa các năm nhưng không đáng
kể. Ngược lại, tổng số vốn đăng trong giai đoạn này sự biến động lớn khi tổng số vốn
đăng ký giảm vào năm 2014 và tăng trở lại khi bước sang năm 2015, với tổng số vốn đăng ký
đạt 24115 triệu USD. thể thấy được xu hướng đầu FDI vào Việt Nam trong giai đoạn
2010-2015 sự biến động đáng kể về tổng số vốn đăng số dự án đầu và có chiều
hướng tăng qua các năm.
Thứ hai, bước sang giai đoạn 2016 2019, tiếp tục đánh dấu sự tăng trưởng số dự án -
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Năm 2016, số dự án đầu tư vào Việt Nam đạt 2613 dự án, tăng
23.25% so với năm 2015 (Tổng cục Thống kê, 2016). Sdự án tăng trung bình trong giai đoạn
2017-2019 là 21.4%, trong đó, đỉnh điểm là năm 2019 với tổng số 4028 dự án (Tổng cục Thống
kê, 2019). Về tổng số vốn thực hiện, tăng trung bình 8.86%/ năm và cuối cùng đạt tổng số vốn
thực hiện cao nhất trong giai đoạn vào năm 2019 với 20380 triệu USD. Trái ngược với xu
hướng tăng dần qua các năm của tổng số vốn thực hiện, giai đoạn 2016 2019 thể hiện sự biến -
động liên tục về tổng số vốn đăng ký. Khi năm 2018 đánh dấu sự sụt giảm của tổng số vốn
đăng ký, giảm gần 2% so với năm trước thì năm 2019 tổng số vốn đăng ký tăng trở lại và đạt
38951.69 triệu USD. Như vậy, giai đoạn 2016 2019 thể hiện xu hướng tiếp tục tăng cao của -
tổng số dự án và vốn thực hiện. Tổng số vốn đăng ký có sự biến động, có thời điểm giảm nhưng
nhìn chung vẫn là xu hướng tăng, thể hiện sự năng động của nền kinh tế.
Cuối cùng, giai đoạn 2020 2021, Trước tác động nặng nề của đại dịch COVID 19, hoạt - -
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nên số dự án đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng trong giai đoạn 2020 2021.Tổng số dự án đầu tư vào -
Việt Nam năm 2020 2610, giảm 35.2% so với năm 2019. Năm 2021, số dự án đầu tiếp
tục giảm sâu, còn 1818 dự án, giảm 30.34% so với năm 2020.Như vậy,trước tác động của đại
dịch Covid 19, số dự án đầu trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam xu hướng giảm mạnh.
Bên cạnh đó, Trong khi tổng số vốn đăng ký tăng thì tổng số vốn thực hiện trong giai đoạn này
lại giảm. Nguyên nhân dẫn tới tổng số vốn đăng ký tăng là do độ trễ từ năm trước, nhưng trên
thực tế, đại dịch Covid 19 bùng phát làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế, dẫn tới thu
hút vốn đầu thực chất bgiảm,Như vậy, giai đoạn 2020 2021 với tác động của đại dịch Covid -
19 đã cho thấy FDI vào Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng.
Ngoài ra, theo Cục Đầu tư nước ngoài, đã có 103 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại
Việt Nam trong 10 tháng năm 2022; trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 5,34
tỷ USD, chiếm 23,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng thứ hai với trên hơn 4,19
tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ ba với tổng vốn đầu đăng ký trên hơn 3,9 tỷ USD. Vốn điều
chỉnh và vốn góp mua cổ phần của nhà đầu tư ngoại tiếp tục xu hướng tăng và có 880 lượt dự
án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư - tăng 13,4% so với cùng kỳ, với tổng vốn đăng ký tăng thêm
đạt hơn 8,74 tỷ USD, tăng 23,3%; có 2.997 lượt góp vốn mua cổ phần nhà đầu tư nước ngoài,
giảm 2,2% với tổng giá trị vốn góp đạt hơn 3,79 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ.
Thành tựu nổi bật: trong giai đoạn 2010 2021, các nhà đầu tư nước-
ngoài đã đầu tư vào tất cả 19 ngành kinh tế tại Việt Nam. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhất
về số dự án và tổng vốn đăng ký với 15571 dự án và 248652.86 triệu USD, chiếm 40 60% tổng -
số dự án và tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Ngoài ra, một số lĩnh vực như bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy và động cơ khác; ngành
xây dựng; lĩnh vực sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không
khí cũng thu hút được nhiều dự án và tổng số vốn đăng ký từ các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc
biệt, giai đoạn 2016 2021 cho thấy số lượng đối tác nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam -
ngày càng tăng. Bên cạnh đó, sự tham gia của FDI vào nền kinh tế Việt Nam cũng giúp giải
quyết hàng triệu việc làm cho người lao động.
Hạn chế: chính vì những đóng góp đáng kể của FDI vào tăng trưởng
kinh tế mà xu hướng phụ thuộc vào FDI hay nguồn lực từ bên ngoài của nền kinh tế Việt Nam
ngày càng lớn. Điều này, một mặt gây lầm tưởng trong đánh giá nội lực của nền kinh tế, mặt
khác khiến cho nền kinh tế trở n thụ động hơn và phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn, đặc biệt
khi FDI sụt giảm mạnh do sự cố của nước đầu tư.
Câu 7: Hãy trình bày một số đặc điểm về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian
qua. Đâu là những thành tựu nổi bật và những hạn chế còn tồn tại?
1. Đặc điểm về XKLĐ của Việt Nam thời gian qua
Về số lượng, xu hướng xuất khẩu lao động
Lao động Việt xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài ngày càng tăng cao. Trong
giai đoạn 2006 2021, đã có hơn 1 triệu lao động việc nam làm việc tại nước ngoài.-
Hiện nay, khoảng 95% lao động Việt chọn đi các nước châu Á, đa số lao động Việt xuất
khẩu sang các nước phát triển hoặc các nước đang phát triển khác. Đặc biệt là những quốc
gia trong khu vực , nhờ vào sự thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015 Đông Nam Á
cũng như việc mở rộng thị trường của nhiều công ty trong khu vực đã thúc đẩy làn sóng xuất
khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với sự hợp tác về chính trị, sự tương đồng về văn hóa và tiền
công lao động cao, các nước ( ĐL, NB, HQ) cũng thị trường hấp dẫn thu hút Đông Bắc Á
ngày càng nhiều lao động Việt Nam. Theo thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, 11
tháng năm 2022, các doanh nghiệp đã đưa hơn 122.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng - Nhật Bản và Đài Loan 2 thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt nhất. Điểm
tích cực phải kể đến là, xuất khẩu lao động không chỉ ổn định thị trường truyền thống,
còn có xu hướng mở rộng sang những thị trường mới đặc biệt là thị trường Châu Âu.-
Thời gian qua, lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tập trung nhiều vào các nh
vực như: Sản xuất chế tạo, nhà máy, công xưởng - (chiếm trên 80% số lượng người đi làm
việc tại nước ngoài hàng năm). Ngoài ra, ngành nghề đưa đi XK dần được mở rộng, trong đó
có nhiều ngành nghề mới như (điều dưỡng, hộ làm việc tại bệnh viện, chăm sóc sức khỏe
sở chăm sóc người cao tuổi), nông nghiệp, xây dựng…. cũng những ngành nghề
nhiều lao động VN tham gia.
Về chất lượng xuất khẩu lao động:
Cùng với số lượng, chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng không ngừng
được nâng cao, lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật đã qua đào tạo, bằng cấp
chứng chỉ của Việt Nam có xu hướng tăng lên hằng năm.
Tuy nhiên, nhìn chung thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam chủ yếu là cho đối tượng
lao động phổ thông, phần lớn lao động tay nghề thấp hoặc làm các công việc “tay chân”;
còn đối với về ngành nghề lẫn số lượng(lao động kỹ lao động chất lượng cao còn hạn hẹp
thuật bậc cao, chuyên gia không quá 10%). Có một thực tế là lao động trình độ cao hiện lại yếu
ngoại ngữ, thiếu những kỹ năng để làm việc độc lập và nâng cao năng suất. Điều này dẫn đến
việc dù nguồn cử nhân trong nước nhiều nhưng lại chưa đáp ứng được nhu cầu lao động chất
lượng cao của thị trường ngoài nước.
2. Những thành tựu nổi bật và hạn chế còn tồn tại
2.1. Thành tựu
Hoạt động XKLĐ đã đem lại nhiều hội việc làm tốt cho lao động Việt Nam, từ đó
có đóng góp tích cực đối với kinh tế xã hội.-
Thứ nhất, đối với Nhà nước, xã hội.
Đối với một nước gần 100 triệu dân, với trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động
như Việt Nam, XKLĐ giúp giải quyết được phần nào tình trạng thất nghiệp trong nước,
nhờ đó cũng giảm bớt được tình trạng tệ nạn do lao động thất nghiệp gây ra.
Xuất khẩu lao động đem lại giá trị và nguồn thu nhập ngoại tệ, tiết kiệm chi phí
đầu giải bài toán kinh tế cho đất nước. Mỗi năm hàng nghìn người lao động đi làm
việc thời hạn tại nước ngoài đã gửi về nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Sự gia tăng số
lượng lao động làm việc ở các thị trường có thu nhập cao đưa Việt Nam trở thành một trong số
những nước . Vì vậy, ngành xuất khẩu lao động không những trở thành có lượng kiều hối lớn
ngành kinh tế đối ngoại mang lại lợi ích to lớn về kinh tế, còn giải pháp tạo việc làm
trong chính sách của Đảng, Nhà nước ta.
XKLĐ đã giúp VN Quan hệ mở rộng các mối quan hệ quốc tế, quan hệ đối ngoại.
giữa quốc gia cung ứng lao động và quốc gia tiếp nhận lao động sẽ trở nên gắn bó hơn, tạo mối
quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Từ đó, tăng cường mối quan hệ hợp c quốc tế giữa nước ta với
các nước trên thế giới.
Thứ hai, đối với riêng các cá nhân
XKLĐ giúp cho . Nguồn thu nhập người lao động VN hội tăng cao thu nhập
cao từ hoạt động xuất khẩu lao động của người lao động đã góp phần cải thiện đời sống gia
đình và thân nhân của họ, giúp nhiều gia đình trở lên khá giả, nhiều lao động sau khi về nước
đã trở thành các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác,
đóng góp và sự phát triển kinh tế và ổn định của xã hội, từ đó cũng làm thay đổi bộ mặt kinh
tế xã hội nước ta.-
Xuất khẩu lao động đã giúp một bộ phận người lao động thay đổi tư duy, nhận thức và
nâng cao kỹ năng, trình độ làm việc. Xuất khẩu lao động tại các nước tiên tiến, phát triển
hơn đã giúp người lao động Việt tiếp cận với máy móc và công nghệ tiên tiến, cơ chế quản lý
hiện đại, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ và tay nghề. Đồng thời, nâng cao vốn ngoại
ngữ, trau dồi hiểu biết và văn hóa, kiến thức và thay đổi thái độ, thói quen, hành vi theo hướng
tích cực hơn nhờ quá trình làm việc trong môi trường năng động, chuyên nghiệp tại nước ngoài.
2.2. Những hạn chế
Thứ nhất, về quản lý Nhà nước, công tác quản lí XKLĐ còn yếu kém
Hệ thống các văn bản pháp luật còn thiếu một số chính sách, chế cụ thể để điều chỉnh
quản lý chặt chẽ xuất khẩu lao động. Hiện tượng lao động bị cưỡng bức, lạm dụng còn tồn tại
mà chưa có những biện pháp xử lý kịp thời.
Thứ hai, chất lượng lao động VN khi xuất khẩu còn kém, chưa được cải thiện nhiều.
Phần lớn chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của ta còn thấp so với yêu cầu của chủ sử dụng
lao động, nhất ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất hiện đại. Tác
phong, ý thức kỷ luật lao động và chấp hành hợp đồng đã ký kết kém, nhiều trường hợp đã vi
phạm hợp đồng lao động, lao động bất hợp pháp, sa vào tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến uy tín
lao động và thị trường lao động của Việt Nam.
Thứ ba, xuất khẩu lao động dấy lên lo ngại về hiện tượng chảy máu chất xám. “Chảy
máu chất xám” là một cụm từ ngụ ý cho việc thất thoát nguồn nhân lực giỏi trong nước ra nước
ngoài làm việc. Ở Việt Nam, số du học sinh sau khi tốt nghiệp các trường đại học ở nước ngoài
thì đến 70% không quay về nước. Khi đó chúng ta đã đánh mất đi lực lượng lao động
trình độ cao, cần thiết cho sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, Hiện nay số nước thị trường xuất khẩu lao động của VN còn nghèo nàn.
tiếp nhận lao động Việt Nam đã lên tới gần 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu lại là
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á, Trung Bắc Á, Trung Đông, một số nước ở
Bắc Phi. Thị trường châu Âu và châu Mỹ là những thị trường rất hấp dẫn song chúng ta chưa
tiếp cận được nhiều nếu không nói là quá ít. Trong khi đây mới chính là những thị trường đem
về cho Việt Nam nguồn ngoại tệ lớn.
Thứ năm, người lao động bị phân biệt chủng tộc, làm tăng tình trạng bất đồng về
văn hóa và tôn giáo. Hiện nay, vẫn có tình trạng nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp
vừa và nhỏ đối xử bất công, ngược đãi đối với người lao động VN, khiến lao động nước ta bị
ảnh hưởng lớn về sức khỏe thể lực cũng như tinh thần.
Câu 8: Hãy phân tích tác động của việc tham gia vào WTO đối với sự phát triển kinh tế của
Việt Nam.
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có ý nghĩa quan trọng đặc biệt
sự phát triển kinh tế của VN
Khái niệm: WTO có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)
Tổ chức này được thành lập và hoạt động từ 01/01/1995 với mục tiêu thiết lập và duy trì một
nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch
VN gia nhập WTO:
Ngày 11/1/2007 tại Geneva, tại đây Việt Nam chính thức được Tổ chức Thương mại
thế giới WTO tiến hành nghi lễ trao thẻ thành viên chính thức. Cùng với việc được gia
nhập vào tổ chức thành viên của WTO thì Việt Nam cũng chính thức phải thực hiện
những cam kết do chính WTO đưa ra.
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức WTO, đây được coi một bước
ngoặt trọng đại và một khởi đầu đầy tốt đẹp từ năm 2007, mặc dù sự kiện này đã được
biết trông đợi từ trước (năm 1995, Việt Nam đã chính thức xin gia nhập vào Tổ chức
mậu dịch Thế Giới, hay còn được gọi với tên theo Anh ngữ là WTO).
* Những tác động của việc tham gia WTO đối với sự phát triển kinh tế của VN
Tác động tích cực
Nhằm hội nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế toàn cầu: Đây cơ hội cho
Việt Nam thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu một cách ổn định
dễ dự đoán hơn, từ đó, số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu sẽ tăng
theo.
Thúc đẩy quá trình tự do hóa nhập khẩu: cho phép tiếp cận với các đầu vào nhập
khẩu (công nghệ, trang thiết bị phương pháp quản lý hiện đại) cũng như hàng hóa
tiêu dùng đa dạng và rẻ hơn; các đầu vào nhập khẩu rất quan trọng đối với một nền kinh
tế đang hiện đại hóa nhanh chóng như Việt Nam.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Gia nhập WTO sẽ khiến các
doanh nghiệp tin tưởng hơn vì Việt Nam sẽ được coi là một điểm đến an toàn cho các
nhà đầu tư.
Khuyến khích sử dụng nhiều hơn các tài sản thuộc sở hữu trí tuệ: có các điều kiện
tốt hơn để đạt được thành công về kinh tế thông qua chất lượng sản phẩm cao hơn, sự
sáng tạo và kỹ năng tiếp thị hiện đại (xây dựng thương hiệu, cấp phép, nhượng quyền
và các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm tốt hơn).
Tăng cường mối quan hệ Của VN của các cường quốc thương mại :các mối quan
hệ sẽ được bảo vệ bởi các quy tắc và thủ tục của hệ thống thương mại đa phương.
Duy trì được chính sách thương mại minh bạch và tự do nhờ vào vai trò nội địa của
hệ thống thương mại đa phương, hệ thống này đẩy mạnh các lợi ích xuất khẩu nhiều
hơn so với lợi ích thu được từ các ngành thay thế nhập khẩu.
Đảm bảo thực hiện các bước tự do hóa cơ chế thương mại thông qua chấp nhận các
nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lý đối với các mức thuế, loại bỏ các hạn chế định lượng
hoặc loại bỏ trợ cấp.
Thể hiện cam kết của nước gia nhập trong việc hòa nhập các nền kinh tế theo định
hướng thị trường vào cộng đồng quốc tế, một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển
thương mại quốc tế.
Tác động tiêu cực
Một : Cạnh tranh diễn gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, bình diện rộng hơn
sâu hơn trước rất nhiều. Sản phẩm của Vn đứng trước sự sự cạnh tranh với nhiều sản phẩm
từ nước ngoài, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài
bởi thuế nhập khẩu giữa các thành viên bị cắt giảm, điều này khiến nhiều mặt hàng của nước
ngoài dễ dàng tiếp cận thị trường VN
Thêm vào đó, sự cạnh tranh không chỉ diễn ra trên phương diện hàng hóa sản phẩm,
doanh nghiệp còn trên khía cạnh nhà nước với việc hoạch định các chính sách chiến
lược quản lý để phát triển nội lực, thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Hai : các nước nền kinh tế phát triển kém thường được hưởng ít lợi hơn do sự
“ phân phối” lợi ích của toàn cầu hóa không đồng đều . Trong chính mỗi quốc gia cũng
sự phân phối không đồng đều về lợi ích của các thành phần kinh tế. Điều này khiến nguy
phá sản của các doanh nghiệp không sức cạnh tranh tốt sẽ cao hơn từ đó dẫn đến nguy
tăng tỷ lệ thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo.Chính phủ sẽ phải đưa ra các chính sách phúc
lợi và an sinh đúng đắn để đảm bảo phát triển công bằng xã hội
Ba : sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên do hội nhập kinh tế quốc tế trong
xu hướng toàn cầu hóa. Sự biến động nền kinh tế của các nước sẽ khiến nền kinh tế trong nước
có những biến động theo, từ đó đòi hỏi phải xây dựng một chính sách vĩ mô thực sự đúng đắn,
hiệu quả. Đưa được đội ngũ có năng lực trong việc phân tích tình hình, dự báo để có 1 cơ chế
quản lý hiệu quả, phản ứng tích cực với những biến đổi tác động từ bên ngoài. Để làm được
điều đó thực sự là khó khăn với nhiều đất nước còn nhiều hạn chế về hệ thống pháp luật, kinh
nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường
Bốn : Hội nhập kinh tế quốc tế đặt vấn đviệc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn sắc văn hố truyền thống tốt đẹp dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy
theo đồng tiền
Thách thức của VN khi gia nhập WTO tuy là sức ép trực tiếp nhưng nếu biết vận dụng
các khnăng từ hội nội lực của nước nhà sẽ tạo những động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển hiệu quả hơn, đưa nền kinh tế vươn cao trên trường quốc tế.
| 1/14

Preview text:

Câu 1: Hãy phân tích tác động của sự phát triển khoa học công nghệ đối với thương mại
quốc tế. Trong thời đại CMCN 4.0, thương mại quốc tế sẽ có những xu hướng lớn nào? 1. TÁC ĐỘNG
Thứ nhất, khoa học kỹ thuật công nghệ tác động đến tốc độ tăng trưởng và quy mô của
thương mại quốc tế. Từ CMCN lần thứ 3, sự xuất hiện của công nghệ số, công nghệ thông tin
cơ bản đã giúp tình hình thương mại bắt đầu tăng trưởng nhưng chỉ dao động ở mức nhỏ. Tuy
nhiên, tới CMCN lần thứ 4 đã tạo ra một bước nhảy vọt đáng kể với sự thay đổi về khối lượng
và giá trị thương mại thế giới kể từ CMCN lần thứ 3 đến nay đã tăng gần 347 lần so với mức
năm 1950. Khoa học kỹ thuật công nghệ đã góp phần thay đổi cơ cấu hàng hóa và có sự dịch
chuyển tích cực hướng vào lõi công nghiệp hóa giúp đa dạng hóa hàng hóa, dịch vụ, tạo ra
nhiều mặt hàng mới đáp ứng nhu cầu đời sống ngày càng nâng cao của con người. Khoa học
kỹ thuật công nghệ đã mở rộng khả năng liên lạc, trao đổi thông tin giữa các nước, có thể giải
quyết các vấn đề về thuế quan, việc cung ứng dịch vụ, hàng hóa diễn ra một cách dễ dàng hơn,
dẫn tới thương mại quốc tế trở thành mũi nhọn trong phát triển kinh tế với quy mô rộng mở trên toàn cầu.
Thứ hai, khoa học công nghệ tác động đến sự phát triển của các quốc gia. Cách mạng
khoa học và công nghệ đang thực hiện việc hiện đại hóa hạ tầng cơ sở của nền kinh tế: hệ thống
giao thông, mạng lưới liên lạc viễn thông, làm rút ngắn khoảng cách không gian, thời gian. Nó
đã tạo ra cuộc cách mạng thông tin, cách mạng số được xem là quan trọng nhất, vĩ đại nhất
trong lịch sử cách mạng thông tin (mạng 5G) dẫn tới xu hướng áp dụng chính phủ điện tử, cổng
thông tin đa quốc gia, tiến tới trí tuệ hóa quá trình lao động bằng việc áp dụng tin học quá trình sản xuất.
Thứ 3, khoa học công nghệ tác động đến sự phát triển của thương mại dịch vụ. Sự phát
triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã biến thế giới sang kỷ nguyên kinh tế số, tạo ra
ngày càng nhiều loại hình và mô hình kinh doanh dịch vụ mới, có sự phối hợp của nhiều loại
dịch vụ. Nhiều dịch vụ được thương mại hóa trên phạm vi toàn cầu bằng hình thức trực tuyến
giúp cho việc cung ứng và tiêu dùng dịch vụ quốc tế diễn ra hiệu quả hơn.
Thứ 4, khoa học công nghệ tác động đến sự cạnh tranh thương mại giữa các quốc gia.
Sự gia tăng cả về quy mô và tốc độ của thương mại quốc tế dưới tác động của khoa học kỹ
thuật công nghệ khiến cạnh tranh thương mại giữa các quốc gia diễn biến đa dạng và phức tạp
hơn. Nhiều cuộc chiến tranh thương mại đã xảy ra, kéo theo đó là những hệ lụy tác động đến
chuỗi thương mại khu vực và toàn cầu. Tiêu biểu nhất là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ
Trung vì vấn đề được cho rằng là hành vi không công bằng khi trộm cắp tài sản trí tuệ.
Thứ 5, Khoa học kỹ thuật công nghệ tác động tới vấn đề sở hữu trí tuệ. Tiến bộ nhanh
chóng trong khoa học kỹ thuật công nghệ là chất xúc tác mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế dẫn
đến cạnh tranh giữa các chủ thể sáng chế và doanh nghiệp trong và ngoài nước dẫn đến sự xuất
hiện của sở hữu trí tuệ giúp nhà phát minh bảo vệ phát minh của họ. Đây là yếu tố quan trọng
đối với sự thành công của hoạt động kinh doanh của các công ty trên thị trường quốc tế. 2. XU HƯỚNG
Thứ nhất, thương mại dịch vụ sẽ tiếp tục phát triển và chiếm tỷ trọng ngày càng cao
trong thương mại quốc tế. Tỷ trọng dịch vụ không ngừng tăng lên hiện nay dựa trên hai nền
tảng chính là toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Được thúc đẩy bởi
những thành tựu của tiến bộ
khoa học kỹ thuật, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức làm thay xu hướng kinh doanh và chính sách
của chính phủ đối với ngành kinh tế dịch vụ. Ngành dịch vụ tri thức phát triển dựa vào khoa
học kỹ thuật mà hạt nhân là công nghệ thông tin. Hàm lượng công nghệ và tri thức ngày càng
cao hơn trong các sản phẩm dịch vụ giúp cho nhiều loại dịch vụ, kể cả những dịch vụ truyền
thống, được cung cấp và tiêu dùng hiệu quả hơn rất nhiều. Dịch vụ thông tin chủ yếu là dịch
vụ viễn thông, dịch vụ tin học có kim ngạch buôn bán lớn nhất, vượt qua các dịch vụ truyền
thống. Xu hướng kinh doanh cũng thay đổi để đáp ứng các nhu cầu nói trên. Các công ty ngày
nay tập trung nhiều hơn vào việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao như
phần mềm máy tính, phát minh máy móc tự động và chăm sóc phần tâm hồn của con người.
Thứ hai, tự do hoá sẽ là xu thế chủ yếu trong sự phát triển thương mại dịch vụ thông
qua việc ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại tự do.
Thứ ba, xu thế hội tụ với sự hội tụ giữa thương mại dịch vụ và thương mại hàng hoá,
sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên khiến đường ranh giới giữa tm dịch vụ và tm hàng hóa ngày càng mờ nhạt.
Câu 2: Hãy trình bày một số đặc điểm của thương mại quốc tế của Việt Nam trong thời
gian gần đây. Đâu là những thành tựu nổi bật và những hạn chế còn tồn tại?
1. Một số đặc điểm thương mại quốc tế của Việt Nam gần đây
- Kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn từ 2018 đến 2021 liên tục tăng trưởng
kim ngạch xuất nhập khẩu trong giai đoạn này biến động những vẫn giữ xu hướng tăng
trưởng liên tiếp trong 5 năm Việt Nam xuất siêu .Quy mô xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng
cao trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều rủi ro, bất ổn, thương mại toàn cầu giảm sút,
xuất khẩu của các nước trong khu vực đều giảm so với cùng kỳ năm trước.
- Tỷ trọng xuất khẩu hàng nguyên liệu thô giảm, trong khi đó dầu mỏ, khí đốt và các sản
phẩm công nghệ chế biến tăng nhưng vẫn còn chậm .
- Phạm vi xuất khẩu nước ta càng ngày phong phú đặc biệt là các thị trường lớn như Mỹ,
Trung quốc, EU, ASEan, Nhật Bản, Hàn quốc .,...... Về xuất khẩu, năm 2021, Mỹ tiếp tục
là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm 28,6% tổng kim ngạch xuất khẩu
(96,3 tỷ USD) và có mức tăng trưởng xuất khẩu lớn nhất trong tốp các thị trường xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam (tăng 24,9%
so với năm trước). Thêm vào đó, Mỹ cũng là thị trường mà
Việt Nam xuất siêu lớn nhất với thặng dư thương mại đạt 81 tỷ USD (kim ngạch xuất khẩu
gấp hơn 6 lần kim ngạch nhập khẩu). Trung Quốc vẫn giữ vị trí là thị trường nhập khẩu
lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 33,1% tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam năm
2021 (109,9 tỷ USD) và tăng 30,5% so với năm trước. Sau Trung Quốc, Hàn Quốc là nguồn
nhập khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam với 56,2 tỷ USD, chiếm 16,9% tổng nhập khẩu hàng hóa
vào Việt Nam. Có thể thấy, phân nửa hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam năm 2021 là từ hai
thị trường nhập khẩu này.
- Chu kỳ sống của sản phẩm ngày càng rút ngắn lại, hàng hóa có hàm lượng KHCN đang có xu hướng cao
- Nước ta đảm bảo cả hai khía cạnh , một mặt phải tự do hóa thương mại, mặt khác thực
hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lý mặc dù trong giai đoạn vừa qua gặp phải nhiều biến động về kinh tế.
2. Thành tựu nổi bật và hạn chế tồn tại 2.1 Thành tựu
Từ khi là thành viên của Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới WTO, Việt Nam chính
thức bước chân vào quá trình thương mại trên phạm vi thế giới và thu được nhiều thành tựu đáng kể.
Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện;
có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước. Đặc biệt, có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA)
mà Việt Nam tham gia là những
cánh cửa lớn, đa chiều để Việt Nam tự tin hội nhập toàn cầu
ngày càng sâu, rộng, đầy đủ, hiệu quả hơn.. Trong năm 2021, mặc dù dịch Covid -19 đang diễn
biến phức tạp nhưng vốn FDI vào Việt Nam đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9.2% so với năm 2020 .
Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn vào môi trường đầu tư Việt Nam.
Các thủ tục phiền hà, hệ thống thuế còn nhiều bất cập, hiệu quả thực thi pháp luật
chưa cao,... là những vấn đề đang gây cản trở đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
FDI tại Việt Nam... cũng được cải thiện đáng kể. Và kết quả thu được là nguồn vốn đầu tư
trực tiếp FDI vào Việt Nam biến đổi tích cực qua các năm và có sự tham gia của nhiều quốc
gia lớn trên phạm vi thế giới.
Làn sóng bảo hộ mậu dịch nổi lên với sự xuất hiện của nhiều các nguyên tắc rào cản
mới được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu . Đứng trước những công cụ bảo hộ mới như:
Những quy định về hạn chế xuất khẩu, thủ tục hải quan rườm rà, giảm giá tiền tệ, nâng cao một
số tiêu chuẩn về chất lượng vệ sinh an toàn, ... Đây là cơ sở để Việt Nam duy trì sự phát triển
kinh tế ổn định, đồng thời đảm bảo hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam ngày càng
được mở rộng và có giá trị lớn.
Dấu ấn được ghi nhận rõ nét trong việc đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ
mở cao, chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu 6 năm liên tục kể từ 2016 đến nay. Theo Tổng
cục Thống kê, Tính chung cả năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt
732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước ( 2021 ) . Từ năm 2018 đến nay, cán cân thương
mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm, đến năm 2022 cán cân thương
mại ghi nhận xuất siêu 11,2 tỷ USD Như vậy, mức xuất siêu của năm nay gấp gần 3 lần so với năm 2021.
Những thành tựu đó là kết quả của quá trình nỗ lực, bền bỉ và kiên định thực hiện đồng
bộ nhiều chính sách đổi mới, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đã
tạo sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế
theo tinh thần của WTO và các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia.
2.2 Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được thì vẫn tồn tại những hạn chế nhất
định trong quá trình tham gia hoạt động Thương mại Quốc tế. Mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có
sự thay đổi theo hướng tích cực trong thời gian qua nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng
đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng
hàng thô, sơ chế vẫn còn cao. Cụ thể, theo báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2018-
2021 của Bộ Công Thương, tình hình xuất khẩu dầu thô cả năm có sự biến động. Mặc dù sản
xuất xăng dầu trong nước những năm trở lại đây khá ổn định, tuy nhiên Việt Nam vẫn chưa tận
dụng triệt để nguồn dầu thô trong nước vì hạn chế công nghệ, đồng thời phải nhập thêm các
sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài nên lợi ích đem lại chưa cao.
Không chỉ xăng dầu, Việt Nam cũng còn hạn chế trong vấn đề xuất khẩu các sản
phẩm thô với giá thành thấp, nhưng lại nhập khẩu các sản phẩm đã chế biến với mức giá
cao. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn tài nguyên quốc gia mà còn gây ảnh hưởng đến
sự phát triển của nước ta. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu chưa thật bền vững còn chứa
nhiều yếu tố rủi ro. Đây là một trong những hạn chế lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu hiện nay.
Nếu không tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến, xét về dài hạn tăng trưởng xuất khẩu sẽ
rất khó khăn. Việc tập trung quá lớn và một số mặt hàng đã làm suy giảm khả năng mở rộng
thị trường mới, dẫn tới nguy cơ tự đánh mất thị trường, khó phát triển bền vững và duy trì tốc độ tăng trưởng cao.
Ngoài các nhóm hàng thô, sơ chế, các nhóm hàng chế biến công nghệ vẫn chiếm tỷ
trọng thấp. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn còn phụ thuộc
quá nhiều vào các sản phẩm công nghệ, các nguyên vật liệu và thiết bị nhập khẩu từ nước ngoài.
Những sản phẩm từ thị trường nước ngoài này chủ yếu đều mang giá trị lớn nên việc Việt Nam
nhập khẩu các sản phẩm đó để áp dụng cho quá trình sản xuất trong nước mặc dù có đem lại
sự thay đổi tích cực trong quá trình vận hành và sản xuất và xuất khẩu nhưng giá trị thực sự
đem lại còn ở mức thấp.
Hạn chế của Việt Nam còn nằm ở những tiêu chuẩn, yêu cầu, điều kiện về hình
thức và chất lượng sản phẩm mà thị trường xuất khẩu đề ra. Đặc biệt là đối với các mặt
hàng nông sản, thuỷ sản. Các sản phẩm nông sản của nước ta còn hạn chế trong bảo quản, nên
việc vận chuyển thông thường sẽ làm giảm đi chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm. Bên
cạnh đó, vấn đề xây dựng thương hiệu Việt cũng chưa thực sự được đảm bảo nên sẽ khó khăn
hơn cho Việt Nam trong quá trình xuất khẩu các sản phẩm trong nước ra thị trường thế giới.
Câu 3: Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có tác động như thế nào đến nền kinh tế toàn
cầu? Việt Nam có những cơ hội và thách thức gì trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ - Trung?
1. TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung nổ ra không chỉ gây tổn hại cho các nước trong
cuộc mà những tranh cãi thương mại xung quanh cũng ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn thế giới.
Xung đột thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới nổ ra có thể làm suy yếu đầu tư,
làm giảm chi tiêu, làm xáo trộn thị trường tài chính và làm chậm đi tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
Tác động của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đối với nền kinh tế thế giới thể hiện
rõ qua các góc độ cụ thể là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu.
Những thay đổi trong chính sách thương mại trở thành nguy cơ lớn nhất đối với
tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Theo OECD, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung gây sức ép lớn
lên hoạt động đầu tư và niềm tin của các doanh nghiệp, khiến tăng trưởng kinh tế thế giới nguy
cơ chạm đáy 1 thập kỷ. Trong báo cáo ngày 19/9/2018, OECD dự báo nền kinh tế thế giới sẽ
chỉ tăng trưởng 2,9% trong năm 2019, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2009; IMF cũng dự báo
kinh tế toàn cầu chỉ đạt mức tăng trưởng từ 3% trở xuống, đây được coi là mức “suy thoái”.
Tỷ giá là nhân tố thứ hai của nền kinh tế phải chịu ảnh hưởng từ cuộc chíến tranh
của hai cường quốc này. Thị trường tài chính thế giới trong phiên đầu tuần ngày 26.8 đã phản
ánh mối quan ngại sâu sắc của giới đầu tư. Đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc đã xuống
mức thấp nhất. Tại Tokyo, đồng Yên đã tăng giá mạnh so với USD, do các nhà đầu tư đẩy mạnh
mua vào đồng bản tệ của Nhật Bản để tích trữ.
Bên cạnh đó, có thể thấy rõ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung còn làm ảnh hưởng
tới xuất nhập khẩu. Chuỗi cung ứng toàn cầu dường như bị phá vỡ, ảnh hưởng xấu đến việc
cung ứng hàng hóa và dịch vụ, từ đó gây ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế toàn
cầu. Tính trên toàn cầu, theo số liệu của WTO năm 2017, tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
tăng 11% lên 17.200 tỷ USD. Việc này kéo theo tăng trưởng toàn cầu mất 0,1%. Lạm phát
cũng tăng 0,1% - 0,3%.
2. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO VIỆT NAM
Trong bối cảnh đó, cần nhìn nhận ra rằng, cuộc chiến sinh tử giữa 2 nền kinh tế hàng
đầu thế giới này đã mang đến cho nền kinh tế Việt Nam cả những cơ hội và thách thức. 2.1. CƠ HỘI CHO VIỆT NAM
Việt Nam có quan hệ thương mại sâu rộng với cả Mỹ và Trung Quốc chính vì vậy khi
chiến tranh thương mại xảy ra, cả Mỹ và Trung Quốc buộc lựa chọn chuyển hướng đầu tư, để
khi xuất khẩu từ các nước có vai trò trung gian như Việt Nam sang nước kia sẽ không phải chịu mức áp thuế cao.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nếu tiếp tục sẽ mở ra những cơ hội về thị trường
mới cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Theo đó, Việt Nam có thể gia tăng
xuất khẩu sang thị trường Mỹ và nhập khẩu hàng công nghệ cao của Trung Quốc trên cơ sở lợi thế so sánh.
Một số sản phẩm Việt Nam xuất sang Mỹ như gỗ và đồ nội thất, các mặt hàng nông
thủy sản, thiết bị điện tử, túi xách, nhựa cao su, linh kiện, lắp ráp điện thoại, dệt may, da giày
và bất động sản công nghiệp là những ngành có thể được hưởng lợi từ chiến tranh thương mại
Mỹ - Trung nhờ đơn hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Trong bối cảnh ấy, Việt Nam có cơ hội thu hút thêm vốn đầu tư của các công ty lớn như
Samsung bởi công ty này có kế hoạch cắt giảm sản lượng tại Trung Quốc bởi giá nhân công
cao kết hợp với nguy cơ chiến tranh thương mại leo thang, để chuyển hướng đầu tư sang các nước khác.
Ngành dệt may và da giày cũng được hưởng lợi trong chiến tranh thương mại do đồng
CNY mất giá so với VND giúp các doanh nghiệp nhập được nguyên liệu đầu vào với giá rẻ
hơn. Mặt khác, các ngành này của Việt Nam có thể lấy thêm được thị phần của Trung Quốc
tại thị trường Mỹ cũng như thu hút được thêm vốn đầu tư FDI, từ đó giúp xuất khẩu tăng, tạo
việc làm, giảm thất nghiệp
Chiến tranh thương mại leo thang khiến bất động sản công nghiệp Mỹ, Trung giảm tốc
khiến Việt Nam được hưởng lợi. Sự tăng trưởng giá thuê đất công nghiệp tại Trung Quốc sẽ
thúc đẩy Việt Nam trở thành một trong những điểm đến tiếp theo cho các nhà đầu tư, nhờ vào
vị trí địa - kinh tế thuận lợi với Trung Quốc và chi phí lao động lại ở mức phải chăng.
Thách thức đối với Việt Nam
Ngoài những cơ hội, những cánh cửa thị trường mới, kinh tế Việt Nam cũng sẽ phải đối
mặt với các thách thức bởi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung.
Trong ngắn hạn, thương mại của Việt Nam dự báo tuy không bị ảnh hưởng nhiều, nhưng
khi Mỹ gia tăng áp đặt một số biện
pháp hạn chế với hàng Trung Quốc khiến một số hàng hóa
cùng chủng loại của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Theo dự báo, cuộc chiến tranh
thương mại sẽ làm giảm GDP của Việt Nam trung bình khoảng 0,03% - 0,12% trong vòng 5
năm, ước tính khoảng 6.000 tỷ đồng/năm.
Việt Nam sẽ phải chịu sức ép ngày càng lớn để ổn định kinh tế vĩ mô, giữ tỷ giá và kiểm
soát lạm phát; trong khi đó, lực đẩy từ khu vực FDI giảm dần. Ngoài ra còn có chính sách bảo
hộ thương mại của Mỹ và các nước khác. Biến động của giá hàng hóa cơ bản và giá năng
lượng trên thị trường quốc tế cũng là một thách thức không nhỏ.
Khi Trung Quốc không xuất khẩu được hàng hóa sang Mỹ, nhập siêu của Việt Nam từ
Trung Quốc lại có nguy cơ gia tăng. Nguyên nhân là do Trung Quốc phải thúc đẩy tiêu dùng
nội địa, giảm nhu cầu nhập khẩu. Đồng thời khi hàng Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ bị áp thuế,
Trung Quốc đưa ra những chính sách phá giá, đẩy hàng hóa sang các nước xung quanh, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung tiếp diễn còn gây tác động mạnh tới tỷ
giá giữa đồng CNY và đồng USD, tỷ giá Việt Nam đồng theo đó cũng sẽ bị tác động do vẫn
phụ thuộc vào tỷ giá của 2 đồng tiền nêu trên.
Câu 4: Anh/Chị ủng hộ thương mại tự do hay bảo hộ thương mại? Hãy đưa ra các lập luận
để bảo vệ ý kiến của mình. Theo anh/chị, Việt Nam nên theo đuổi chính sách thương mại tự
do hay bảo hộ thương mại?
Trong thương mại quốc tế tự do thương mại là một kiểu thị trường lý tưởng thường
được xem như là một mục tiêu chính trị mà sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nước được
thực hiện không có sự kiểm soát bằng những chính sách nhập khẩu. Về học thuật thương mại
tự do được ủng hộ bởi những người theo trường phái kinh tế học tân cổ điển và kinh tế học vi
mô. Họ cho rằng lợi ích của thương mại chính là giá trị thực có được của cả hai phía
Trong một nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng hiện nay, các nhà hoạch
định chính sách có thể bị gây sức ép phải bảo hộ thị trường trong nước trước sự cạnh tranh với
nước ngoài và dựng lên giao cảm thương mại mới để bảo vệ lợi ích cho một nhóm nhỏ nhưng
lại gây tổn hại cho tuyệt đại đa số các nhà sản xuất công nhân và người tiêu dùng. Cả lý thuyết
và thực tiễn đều chỉ ra một con đường phát triển sản xuất hơn tự do thương mại đã đang và sẽ
là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế sự thịnh vượng nâng cao mức sống và cải thiện cuộc sống
cho hàng triệu người khắp nơi trên thế giới.
Về mặt kinh tế: tự do thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường xuất nhập khẩu
doanh nghiệp trong nước có cơ hội nhập khẩu nguyên nhiên liệu vật liệu mà trong nước chưa
có hoặc chi phí cao. Thứ hai đó là cơ hội học hỏi tiếp thu phương thức sản xuất tiên tiến và hiện
đại. Sự tham gia liên doanh liên kết trong hoạt động khoa học và công nghệ với các đối tác
nước ngoài mang lại cơ hội tiếp cận với khoa học và công nghệ cao đồng thời thì cũng từng
bước thu hẹp khoảng cách về kiến thức kỹ năng nghiên cứu phát triển cũng như là nâng cao
năng lực sáng tạo áp dụng khoa học và công nghệ góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo
bồi dưỡng tiếp cận trình độ quản lý chất lượng cao trong nhiều lĩnh vực. Thứ ba là thỏa mãn
tối đa nhu cầu tiêu dùng như là hàng hóa đa dạng được sử dụng những hàng hóa cao cấp mà
trong nước chưa sản xuất được. Tiếp theo đó là sự cạnh tranh với nước ngoài ngày càng gay
gắt làm thúc đẩy sản xuất phát triển. Tự do hóa thương mại đồng nghĩa với việc kinh tế của
một quốc gia phải chịu sự cạnh tranh cao từ thị trường vì vậy các công ty trong nước phải học
cách điều chỉnh. Những công ty tại các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng lợi thế của họ
để cạnh tranh trên thị trường quốc tế đặc biệt là trong sản xuất. Ngoài ra thương mại tự do thúc
đẩy thương mại quốc tế phát triển và góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thương mại tự
do kích thích các nguồn đầu tư từ nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ đổ vào các quốc
gia đang cần vốn giúp cải thiện năng suất và thúc đẩy tăng trưởng ở các nước đang phát triển.
Cuối cùng thương mại tự do mang lại lợi ích cho người tiêu dùng vì giá thấp. Tham gia hội
nhập kinh tế ngày càng sâu rộng mở ra cơ hội tiếp cận những sản phẩm dịch vụ tốt cho người
tiêu dùng với giá hợp lý nhưng ngược lại đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh, cạnh tranh bằng chất lượng
Về mặt chính trị xã hội. Toàn cầu hóa kinh tế được chứng minh là sẽ giảm tỷ lệ tử vong
của trẻ em và kéo dài tuổi thọ như tăng thu nhập và thông tin tốt hơn. Thêm vào đó một số
nghiên cứu cho rằng thương mại tự do tốt trong môi trường. Tự do thương mại cũng được chứng
minh là tạo ra nhiều việc làm hơn cho phụ nữ giảm tình trạng phân biệt đối xử trong công việc
và cải thiện tình trạng nhân quyền. Tự do thương mại tạo ra sức ép xã hội để người dân được
hưởng những quyền tự do khác làm đổi mới bầu không khí chính trị văn hóa xã hội mà kết quả
là các quốc gia đang phát triển ngày càng có tiếng nói quan trọng hơn trên trường quốc tế
Về mặt văn hóa. Tự do thương mại khuyến khích phát triển một nền văn hóa mới. Tự
do thương mại thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa về văn hóa, góp phần khắc phục những yếu tố lạc
hậu trong văn hóa của thế giới thứ ba. Đặc trưng lớn nhất của quá trình toàn cầu hóa về văn hóa
lịch sử hình thành đặc tính văn hóa mới của thời đại, văn hóa công dân thế giới. Đó là nền văn
hóa mới, thu nhận mọi giá trị phù hợp với tự nhiên và phát triển
Việt Nam nên theo đuổi chính sách thương mại tự do. Bởi tự do hóa thương mại được
xem là một hướng đổi mới quan trọng trong chính sách và cơ chế quản lý thương mại và kinh
tế đối ngoại. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tự do hóa thương mại là
một xu thế khách quan, không thể đảo ngược, cần được thúc đẩy mạnh mẽ, song phải có bước
đi phù hợp với đặc điểm, điều kiện nước ta và yêu cầu hội nhập với bên ngoài, bảo đảm lợi ích
quốc gia. Trong việc xác định bước đi của quá trình tự do hóa thương mại, cần phải tính toán,
cân nhắc nhiều yếu tố như bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; bảo đảm cán cân ngoại thương
hợp lý; bảo đảm xuất, nhập khẩu cân bằng trong một thời gian xác định; yêu cầu hội nhập với
khu vực và thế giới;... Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, quá trình tự do hóa được thực hiện từng
bước với việc giảm chỉ tiêu pháp lệnh từ bên trên, mở rộng quyền tự chủ cho địa phương và cơ
sở trong xuất, nhập khẩu; trong định giá và gần đây là hạn chế đến mức tối thiểu danh mục mặt
hàng khống chế hạn ngạch.
Câu 5: Hãy trình bày về sự kiện Hoa Kỳ kiện chống bán phá giá đối với cá ba sa của Việt
Nam. Tác động của vụ kiện đối với ngành cá basa của Việt Nam là gì? Việt Nam có thể làm
gì để khắc phục vấn đề này?
1. Khái quát diễn biến
Trong những năm 2000, khi Việt Nam gia nhập khối Hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương (APEC), thuế nhập khẩu cá da trơn vào Hoa Kỳ giảm xuống còn 4,4 cent/kg. Đây
là cơ hội để sản phẩm cá tra, basa tiến thẳng vào thị trường “số 1 thế giới” với sản lượng
lớn. Sự phát triển “quá nóng” đã đưa đến nhiều hệ lụy khó lường, buộc Hiệp hội Chủ trại
nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA) chính thức khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam lên Ủy ban
Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) vào ngày 28-6-2002. Lúc đó, CFA cáo buộc 53 doanh
nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, basa tại thị trường Hoa Kỳ. “Từ cuối năm 2000, CFA
tung lên báo chí Hoa Kỳ những thông tin thất thiệt, bôi xấu hình ảnh cá tra, basa Việt
Nam. Tháng 6-2001, Chủ tịch CFA gửi thư yêu cầu đến Tổng thống Bush đề nghị Chính phủ
Hoa Kỳ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về catfish. Ngày 5-10-2001, Hạ viện Hoa
Kỳ thông qua dự luật HR.2964 chỉ cho phép sử dụng tên catfish cho riêng loài cá thuộc họ
Ictaluridae (họ cá nheo Mỹ) và cuối cùng ngày 28-6-2002, CFA chính thức khởi kiện các
doanh nghiệp chế biến bán phá giá cá tra, basa trên thị trường Hoa Kỳ. 2. Tác động
Nhờ những tiếng tăm tới từ vụ kiện, cá da trơn xuất khẩu của Việt Nam đã được
nhiều bạn bè trên toàn thế giới biết tới hơn. Sau nhiều lần chịu cảnh “thăng trầm”, người
nuôi và các DN đã “bắt tay” liên kết chặt hơn để cân đối “cung - cầu” hợp lý cho thị
trường. Mặt khác, mặt hàng cá tra Việt Nam đã từng bước khẳng định được sức sống mãnh
liệt của nó. Theo thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep),
xuất khẩu cá tra 2 tháng đầu năm 2021 đạt 214 triệu USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước.
Cũng theo thống kê trên của Tổng cục thống kê, hiện Việt Nam có khoảng 200 doanh nghiệp
xuất khẩu cá tra đến khoảng 138 thị trường trong đó có các thị trường lớn như: Hoa Kỳ, Mexico,
Australia, Canada; cùng các thị trường tiềm năng khác như Brazil, Colombia, Anh, Nga… Đây
cũng là một trong những động lực to lớn giúp những người nuôi cá da trơn cải thiện chất
lượng của cá, đồng thời tạo cho ngành xuất khẩu cá da trơn Việt Nam một chỗ đứng chắc chắn
về thương hiệu trên thị trường quốc tế.
Theo quyết định cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) về chống bán phá giá
cá tra, cá basa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, cá da trơn của Việt Nam bị áp dụng
mức thuế chống phá giá rất cao. Chính vụ kiện này đã ảnh hưởng trực tiếp đến những ngư
dân, những người nuôi cá, thuế cao, luật nghiêm ngặt khiến họ giảm bớt định hướng mở rộng
thị trường cá da trơn sang hoa kỳ - một trong những thị trường lớn và tiềm năng nhất.
Bên cạnh đó, thương hiệu và sự tín nhiệm của các thị trường nhập khẩu dành cho
cá tra, cá basa của Việt Nam cũng bị sụt giảm. Đây là một hệ quả vô cùng nghiêm trọng của
vụ kiện, tạo ra những rào cản thương mại và có thể các thị trường tiềm năng sẽ mang theo
“đôi mắt nghi hoặc” khi quyết định có nhập khẩu cá da trơn của nước ta. Việc bị áp đặt
thuế chống bán phá giá ở mức cao đối với xuất khẩu cá basa, cá tra của Việt Nam sẽ ảnh hưởng
rất lớn tới thu nhập chính của các hộ gia đình thuộc khu vực này. Cũng như nếu phải chuyển
đổi một bộ phận lớn người dân nơi đây sẽ không có ngành nghề ổn định để kiếm sống. Điều
này không chỉ ảnh hưởng các gia đình ở quy mô vi mô mà còn gây tác động lớn tới các hộ
nghèo và doanh nghiệp, hay ở quy mô vĩ mô hơn thì còn ảnh hưởng tới GDP xuất khẩu, tới
phát triển của nền kinh tế Việt Nam. 3. Giải pháp
Chính phủ cần tiếp tục kêu gọi các nước trên thế giới công nhận Việt Nam là nền
kinh tế thị trường. Kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đến
nay, Việt Nam đã được 90 quốc gia trên thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường. Điều này
có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi Việt Nam được coi là nền kinh tế có giá cả thị trường được
quyết định bởi sự cạnh tranh cởi mở, chứ không phải bởi sự can thiệp của nhà nước. Hơn nữa
cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký thương hiệu và hoàn thiện Luật Bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ cho các thương hiệu Việt Nam. Khuyến khích các doanh nghiệp không xuất khẩu
hàng hoá dưới thương hiệu của nước ngoài, nhằm tránh việc cạnh tranh trực tiếp với các sản
phẩm tương tự của nước nhập khẩu. Tích cực tuyên truyền về luật pháp các nước đối tác, cung
cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp để họ am hiểu hơn về môi trường kinh doanh quốc tế.
Doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và thị trường
xuất khẩu, nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm hoạt động sản xuất, “không nên bỏ tất cả trứng vào
một giỏ”. Không nên tập trung xuất khẩu một vài mặt hàng với khối lượng lớn vào một nước,
vì đây có thể là cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá. Bên cạnh đó, để đối phó các vụ kiện
CBPG thì sự minh bạch trong các tài liệu ghi chép, sổ sách kế toán là điều cần được đặc biệt
chú ý. Hơn nữa các doanh nghiệp cũng nên triển khai hình thức nhật ký hành chính ghi lại
những sự kiện, giá cả hàng ngày giúp dễ dàng hơn trong việc điều tra. Các doanh nghiệp
cũng có thể cạnh tranh trực tiếp với các mặt hàng cá da trơn Mỹ bằng chất lượng. Chúng
ta có thể nâng cao giá thành để không bị coi là chống phá giá, song song với đó là nỗ lực cải
tiến kỹ thuật, chăm chút về mặt nhân công để nâng cao chất lượng cá giúp thu hút khách ngoại.
Câu 6: Hãy trình bày một số đặc điểm của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam trong thời gian qua. Đâu là những thành tựu nổi bật và những hạn chế còn tồn tại?
FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác, bằng
cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ trực tiếp nắm
quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Về mặt tích cực, FDI giúp giải quyết vấn đề thiếu vốn để phát triển kinh tế.Tiếp nhận
nguồn vốn FDI cũng là con đường hiệu quả nhất để tiếp cận công nghệ mới, kỹ năng và kinh
nghiệm quản lý của nước ngoài. FDI góp phần phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nâng cao thu nhập quốc dân và tăng thu ngân sách.
Ngược lại, dòng vốn FDI cũng có những tác động tiêu cực. Nước nhận đầu tư dễ rơi
vào tình trạng phụ thuộc; phải chia sẻ lợi ích với quốc gia khác, ví dụ trong khai thác tài nguyên
thiên nhiên...; nền kinh tế có thể phát triển lệch lạc, mất cân đối và phải đối mặt với nguy cơ
trở thành bãi thải công nghệ. Nước đi đầu tư có thể gặp rủi ro khi các nước nhận FDI có hệ
thống pháp luật chưa ổn định; tình hình chính trị còn nhiều biến động, đơn cử như vấn nạn
tham nhũng, tạo nên những rào cản nhất định cho nhà đầu tư...Các nhân tố ảnh hưởng tới FDI
có thể kể đến: xu hướng đầu tư FDI của thế giới, và các nhân tố bên trong của các nước được
nhận đầu tư như: điều kiện xã hội, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế…
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua:
Trước hết, có thể nói, Việt Nam là một đất nước đổi mới thành công. Những cải cách
kinh tế từ năm 1986 kết hợp với những xu hướng toàn cầu hóa thuận lợi đã nhanh chóng giúp
Việt Nam phát triển trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp chỉ trong vòng 20 năm.
Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được thể hiện qua số
dự án đầu tư, tổng số vốn thực hiện và đăng ký được phân tích trong ba giai đoạn: 2010-2015,
2016-
2019 và 2020-2021 như sau:
Thứ nhất là trong giai đoạn 2010-2015, xu hướng tăng số dự án đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam khá rõ rệt trong giai đoạn này. Cụ thể: năm 2010, số dự án đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam là 1237 dự án (Tổng cục Thống kê, 2010). Năm 2011, con số này giảm 4.12% so với năm
2010 (Tổng cục Thống kê, 2011). Tuy nhiên, từ năm 2011-2015, số dự án tăng dần qua các
năm, trung bình 15.72%/ năm và đạt 2120 dự án vào năm 2015 (Tổng cục Thống kê, 2015).
Tổng số vốn thực hiện trong giai đoạn này có sự biến động giữa các năm nhưng không đáng
kể. Ngược lại, tổng số vốn đăng ký trong giai đoạn này có sự biến động lớn khi tổng số vốn
đăng ký giảm vào năm 2014 và tăng trở lại khi bước sang năm 2015, với tổng số vốn đăng ký
đạt 24115 triệu USD. có thể thấy được xu hướng đầu tư FDI vào Việt Nam trong giai đoạn
2010-2015 có sự biến động đáng kể về tổng số vốn đăng ký và số dự án đầu tư và có chiều hướng tăng qua các năm.
Thứ hai, bước sang giai đoạn 2016-2019, tiếp tục đánh dấu sự tăng trưởng số dự án
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Năm 2016, số dự án đầu tư vào Việt Nam đạt 2613 dự án, tăng
23.25% so với năm 2015 (Tổng cục Thống kê, 2016). Số dự án tăng trung bình trong giai đoạn
2017-2019 là 21.4%, trong đó, đỉnh điểm là năm 2019 với tổng số 4028 dự án (Tổng cục Thống
kê, 2019). Về tổng số vốn thực hiện, tăng trung bình 8.86%/ năm và cuối cùng đạt tổng số vốn
thực hiện cao nhất trong giai đoạn vào năm 2019 với 20380 triệu USD. Trái ngược với xu
hướng tăng dần qua các năm của tổng số vốn thực hiện, giai đoạn 2016-2019 thể hiện sự biến
động liên tục về tổng số vốn đăng ký. Khi năm 2018 đánh dấu sự sụt giảm của tổng số vốn
đăng ký, giảm gần 2% so với năm trước thì năm 2019 tổng số vốn đăng ký tăng trở lại và đạt
38951.69 triệu USD. Như vậy, giai đoạn 2016-2019 thể hiện xu hướng tiếp tục tăng cao của
tổng số dự án và vốn thực hiện. Tổng số vốn đăng ký có sự biến động, có thời điểm giảm nhưng
nhìn chung vẫn là xu hướng tăng, thể hiện sự năng động của nền kinh tế.
Cuối cùng, giai đoạn 2020-2021, Trước tác động nặng nề của đại dịch COVID-19, hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề nên số dự án đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng trong giai đoạn 2020-2021.Tổng số dự án đầu tư vào
Việt Nam năm 2020 là 2610, giảm 35.2% so với năm 2019. Năm 2021, số dự án đầu tư tiếp
tục giảm sâu, còn 1818 dự án, giảm 30.34% so với năm 2020.Như vậy,trước tác động của đại
dịch Covid 19, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng giảm mạnh.
Bên cạnh đó, Trong khi tổng số vốn đăng ký tăng thì tổng số vốn thực hiện trong giai đoạn này
lại giảm. Nguyên nhân dẫn tới tổng số
vốn đăng ký tăng là do độ trễ từ năm trước, nhưng trên
thực tế, đại dịch Covid 19 bùng phát làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế, dẫn tới thu
hút vốn đầu tư thực chất bị giảm,Như vậy, giai đoạn 2020-2021 với tác động của đại dịch Covid
19 đã cho thấy FDI vào Việt Nam sụt giảm nghiêm trọng.
Ngoài ra, theo Cục Đầu tư nước ngoài, đã có 103 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại
Việt Nam trong 10 tháng năm 2022; trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 5,34
tỷ USD, chiếm 23,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng thứ hai với trên hơn 4,19
tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký trên hơn 3,9 tỷ USD. Vốn điều
chỉnh và vốn góp mua cổ phần của nhà đầu tư ngoại tiếp tục xu hướng tăng và có 880 lượt dự
án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư - tăng 13,4% so với cùng kỳ, với tổng vốn đăng ký tăng thêm
đạt hơn 8,74 tỷ USD, tăng 23,3%; có 2.997 lượt góp vốn mua cổ phần nhà đầu tư nước ngoài,
giảm 2,2% với tổng giá trị vốn góp đạt hơn 3,79 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ.
Thành tựu nổi bật: trong giai đoạn 2010-2021, các nhà đầu tư nước
ngoài đã đầu tư vào tất cả 19 ngành kinh tế tại Việt Nam. Trong đó, ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài nhất
về số dự án và tổng vốn đăng ký với 15571 dự án và 248652.86 triệu USD, chiếm 40-60% tổng
số dự án và tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam.
Ngoài ra, một số lĩnh vực như bán buôn bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy và động cơ khác; ngành
xây dựng; lĩnh vực sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không
khí cũng thu hút được nhiều dự án và tổng số vốn đăng ký từ các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc
biệt, giai đoạn 2016-2021 cho thấy số lượng đối tác nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
ngày càng tăng. Bên cạnh đó, sự tham gia của FDI vào nền kinh tế Việt Nam cũng giúp giải
quyết hàng triệu việc làm cho người lao động.
Hạn chế: chính vì những đóng góp đáng kể của FDI vào tăng trưởng
kinh tế mà xu hướng phụ thuộc vào FDI hay nguồn lực từ bên ngoài của nền kinh tế Việt Nam
ngày càng lớn. Điều này, một mặt gây lầm tưởng trong đánh giá nội lực của nền kinh tế, mặt
khác khiến cho nền kinh tế trở nên thụ động hơn và phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn, đặc biệt
khi FDI sụt giảm mạnh do sự cố của nước đầu tư.
Câu 7: Hãy trình bày một số đặc điểm về xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian
qua. Đâu là những thành tựu nổi bật và những hạn chế còn tồn tại?
1. Đặc điểm về XKLĐ của Việt Nam thời gian qua
Về số lượng, xu hướng xuất khẩu lao động
Lao động Việt xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài ngày càng tăng cao. Trong
giai đoạn 2006-2021, đã có hơn 1 triệu lao động việc nam làm việc tại nước ngoài.
Hiện nay, khoảng 95% lao động Việt chọn đi các nước châu Á, đa số lao động Việt xuất
khẩu sang các nước phát triển hoặc các nước đang phát triển khác. Đặc biệt là những quốc
gia trong khu vực Đông Nam Á, nhờ vào sự thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015
cũng như việc mở rộng thị trường của nhiều công ty trong khu vực đã thúc đẩy làn sóng xuất
khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với sự hợp tác về chính trị, sự tương đồng về văn hóa và tiền
công lao động cao, các nước Đông Bắc Á( ĐL, NB, HQ) cũng là thị trường hấp dẫn thu hút
ngày càng nhiều lao động Việt Nam. Theo thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước, 11
tháng năm 2022, các doanh nghiệp đã đưa hơn 122.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng - Nhật Bản và Đài Loan là 2 thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt nhất. Điểm
tích cực phải kể đến là, xuất khẩu lao động không chỉ ổn định ở thị trường truyền thống, mà
còn có xu hướng mở rộng sang những thị trường mới - đặc biệt là thị trường Châu Âu.
Thời gian qua, lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tập trung nhiều vào các lĩnh
vực như: Sản xuất - chế tạo, nhà máy, công xưởng (chiếm trên 80% số lượng người đi làm
việc tại nước ngoài hàng năm). Ngoài ra, ngành nghề đưa đi XK dần được mở rộng, trong đó
có nhiều ngành nghề mới như chăm sóc sức khỏe (điều dưỡng, hộ lý làm việc tại bệnh viện,
cơ sở chăm sóc người cao tuổi), nông nghiệp, xây dựng…. cũng là những ngành nghề mà
nhiều lao động VN tham gia.
Về chất lượng xuất khẩu lao động:
Cùng với số lượng, chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng không ngừng
được nâng cao, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đã qua đào tạo, có bằng cấp
chứng chỉ của Việt Nam có xu hướng tăng lên hằng năm.
Tuy nhiên, nhìn chung thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam chủ yếu là cho đối tượng
lao động phổ thông, phần lớn là lao động tay nghề thấp hoặc làm các công việc “tay chân”;
còn đối với lao động chất lượng cao còn hạn hẹp về ngành nghề lẫn số lượng(lao động kỹ
thuật bậc cao, chuyên gia không quá 10%). Có một thực tế là lao động trình độ cao hiện lại yếu
ngoại ngữ, thiếu những kỹ năng để làm việc độc lập và nâng cao năng suất. Điều này dẫn đến
việc dù nguồn cử nhân trong nước nhiều nhưng lại chưa đáp ứng được nhu cầu lao động chất
lượng cao của thị trường ngoài nước.
2. Những thành tựu nổi bật và hạn chế còn tồn tại 2.1. Thành tựu
Hoạt động XKLĐ đã đem lại nhiều cơ hội việc làm tốt cho lao động Việt Nam, từ đó
có đóng góp tích cực đối với kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, đối với Nhà nước, xã hội.
Đối với một nước gần 100 triệu dân, với trên một nửa là số người trong độ tuổi lao động
như Việt Nam, XKLĐ giúp giải quyết được phần nào tình trạng thất nghiệp trong nước,
nhờ đó cũng giảm bớt được tình trạng tệ nạn do lao động thất nghiệp gây ra.
Xuất khẩu lao động đem lại giá trị và nguồn thu nhập ngoại tệ, tiết kiệm chi phí
đầu tư giải bài toán kinh tế cho đất nước. Mỗi năm có hàng nghìn người lao động đi làm
việc có thời hạn tại nước ngoài đã gửi về nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Sự gia tăng số
lượng lao động làm việc ở các thị trường có thu nhập cao đưa Việt Nam trở thành một trong số
những nước có lượng kiều hối lớn. Vì vậy, ngành xuất khẩu lao động không những trở thành
ngành kinh tế đối ngoại mang lại lợi ích to lớn về kinh tế, mà còn là giải pháp tạo việc làm
trong chính sách của Đảng, Nhà nước ta.
XKLĐ đã giúp VN mở rộng các mối quan hệ quốc tế, quan hệ đối ngoại. Quan hệ
giữa quốc gia cung ứng lao động và quốc gia tiếp nhận lao động sẽ trở nên gắn bó hơn, tạo mối
quan hệ tốt đẹp giữa hai nước. Từ đó, tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với
các nước trên thế giới.
Thứ hai, đối với riêng các cá nhân
XKLĐ giúp cho người lao động VN có cơ hội tăng cao thu nhập. Nguồn thu nhập
cao từ hoạt động xuất khẩu lao động của người lao động đã góp phần cải thiện đời sống gia
đình và thân nhân của họ, giúp nhiều gia đình trở lên khá giả, nhiều lao động sau khi về nước
đã trở thành các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp, tạo việc làm cho một bộ phận lao động khác,
đóng góp và sự phát triển kinh tế và ổn định của xã hội, từ đó cũng làm thay đổi bộ mặt kinh
tế - xã hội nước ta.
Xuất khẩu lao động đã giúp một bộ phận người lao động thay đổi tư duy, nhận thức và
nâng cao kỹ năng, trình độ làm việc. Xuất khẩu lao động tại các nước tiên tiến, phát triển
hơn đã giúp người lao động Việt tiếp cận với máy móc và công nghệ tiên tiến, cơ chế quản lý
hiện đại, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ và tay nghề. Đồng thời, nâng cao vốn ngoại
ngữ, trau dồi hiểu biết và văn hóa, kiến thức và thay đổi thái độ, thói quen, hành vi theo hướng
tích cực hơn nhờ quá trình làm việc trong môi trường năng động, chuyên nghiệp tại nước ngoài. 2.2. Những hạn chế
Thứ nhất, về quản lý Nhà nước, công tác quản lí XKLĐ còn yếu kém
Hệ thống các văn bản pháp luật còn thiếu một số chính sách, cơ chế cụ thể để điều chỉnh và
quản lý chặt chẽ xuất khẩu lao động. Hiện tượng lao động bị cưỡng bức, lạm dụng còn tồn tại
mà chưa có những biện pháp xử lý kịp thời.
Thứ hai, chất lượng lao động VN khi xuất khẩu còn kém, chưa được cải thiện nhiều.
Phần lớn chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của ta còn thấp so với yêu cầu của chủ sử dụng
lao động, nhất là ngoại ngữ, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất hiện đại. Tác
phong, ý thức kỷ luật lao động và chấp hành hợp đồng đã ký kết kém, nhiều trường hợp đã vi
phạm hợp đồng lao động, lao động bất hợp pháp, sa vào tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến uy tín
lao động và thị trường lao động của Việt Nam.
Thứ ba, xuất khẩu lao động dấy lên lo ngại về hiện tượng chảy máu chất xám. “Chảy
máu chất xám” là một cụm từ ngụ ý cho việc thất thoát nguồn nhân lực giỏi trong nước ra nước
ngoài làm việc. Ở Việt Nam, số du học sinh sau khi tốt nghiệp các trường đại học ở nước ngoài
thì đến 70% là không quay về nước. Khi đó chúng ta đã đánh mất đi lực lượng lao động có
trình độ cao, cần thiết cho sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, thị trường xuất khẩu lao động của VN còn nghèo nàn. Hiện nay số nước
tiếp nhận lao động Việt Nam đã lên tới gần 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu lại là
các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á, Trung Bắc Á, Trung Đông, một số nước ở
Bắc Phi. Thị trường châu Âu và châu Mỹ là những thị trường rất hấp dẫn song chúng ta chưa
tiếp cận được nhiều nếu không nói là quá ít. Trong khi đây mới chính là những thị trường đem
về cho Việt Nam nguồn ngoại tệ lớn.
Thứ năm, người lao động bị phân biệt chủng tộc, làm tăng tình trạng bất đồng về
văn hóa và tôn giáo. Hiện nay, vẫn có tình trạng nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp
vừa và nhỏ đối xử bất công, ngược đãi đối với người lao động VN, khiến lao động nước ta bị
ảnh hưởng lớn về sức khỏe thể lực cũng như tinh thần.
Câu 8: Hãy phân tích tác động của việc tham gia vào WTO đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có ý nghĩa quan trọng đặc biệt là
sự phát triển kinh tế của VN
Khái niệm: WTO có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization)
Tổ chức này được thành lập và hoạt động từ 01/01/1995 với mục tiêu thiết lập và duy trì một
nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch VN gia nhập WTO:
Ngày 11/1/2007 tại Geneva, tại đây Việt Nam chính thức được Tổ chức Thương mại
thế giới WTO tiến hành nghi lễ trao thẻ thành viên chính thức. Cùng với việc được gia
nhập vào tổ chức thành viên của WTO thì Việt Nam cũng chính thức phải thực hiện
những cam kết do chính WTO đưa ra.
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức WTO, đây được coi là một bước
ngoặt trọng đại và một khởi đầu đầy tốt đẹp từ năm 2007, mặc dù sự kiện này đã được
biết trông đợi từ trước (năm 1995, Việt Nam đã chính thức xin gia nhập vào Tổ chức
mậu dịch Thế Giới, hay còn được gọi với tên theo Anh ngữ là WTO).
* Những tác động của việc tham gia WTO đối với sự phát triển kinh tế của VN
Tác động tích cực
Nhằm hội nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế toàn cầu: Đây là cơ hội cho
Việt Nam có thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu và nhập khẩu một cách ổn định và
dễ dự đoán hơn, từ đó, số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu sẽ tăng theo.
Thúc đẩy quá trình tự do hóa nhập khẩu: cho phép tiếp cận với các đầu vào nhập
khẩu (công nghệ, trang thiết bị và phương pháp quản lý hiện đại) cũng như hàng hóa
tiêu dùng đa dạng và rẻ hơn; các đầu vào nhập khẩu rất quan trọng đối với một nền kinh
tế đang hiện đại hóa nhanh chóng như Việt Nam.
Tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: Gia nhập WTO sẽ khiến các
doanh nghiệp tin tưởng hơn vì Việt Nam sẽ được coi là một điểm đến an toàn cho các nhà đầu tư.
Khuyến khích sử dụng nhiều hơn các tài sản thuộc sở hữu trí tuệ: có các điều kiện
tốt hơn để đạt được thành công về kinh tế thông qua chất lượng sản phẩm cao hơn, sự
sáng tạo và kỹ năng tiếp thị hiện đại (xây dựng thương hiệu, cấp phép, nhượng quyền
và các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm tốt hơn).
Tăng cường mối quan hệ Của VN của các cường quốc thương mại :các mối quan
hệ sẽ được bảo vệ bởi các quy tắc và thủ tục của hệ thống thương mại đa phương.
Duy trì được chính sách thương mại minh bạch và tự do nhờ vào vai trò nội địa của
hệ thống thương mại đa phương, hệ thống này đẩy mạnh các lợi ích xuất khẩu nhiều
hơn so với lợi ích thu được từ các ngành thay thế nhập khẩu.
Đảm bảo thực hiện các bước tự do hóa cơ chế thương mại thông qua chấp nhận các
nghĩa vụ ràng buộc về mặt pháp lý đối với các mức thuế, loại bỏ các hạn chế định lượng
hoặc loại bỏ trợ cấp.
Thể hiện cam kết của nước gia nhập trong việc hòa nhập các nền kinh tế theo định
hướng thị trường vào cộng đồng quốc tế, một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển thương mại quốc tế.
Tác động tiêu cực
Một là: Cạnh tranh diễn gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, bình diện rộng hơn
và sâu hơn trước rất nhiều. Sản phẩm của Vn đứng trước sự sự cạnh tranh với nhiều sản phẩm
từ nước ngoài, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài
bởi thuế nhập khẩu giữa các thành viên bị cắt giảm, điều này khiến nhiều mặt hàng của nước
ngoài dễ dàng tiếp cận thị trường VN
Thêm vào đó, sự cạnh tranh không chỉ diễn ra trên phương diện hàng hóa sản phẩm,
doanh nghiệp mà còn trên khía cạnh nhà nước với việc hoạch định các chính sách và chiến
lược quản lý để phát triển nội lực, thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài.
Hai là: các nước có nền kinh tế phát triển kém thường được hưởng ít lợi hơn do sự
“ phân phối” lợi ích của toàn cầu hóa là không đồng đều . Trong chính mỗi quốc gia cũng có
sự phân phối không đồng đều về lợi ích của các thành phần kinh tế. Điều này khiến nguy cơ
phá sản của các doanh nghiệp không có sức cạnh tranh tốt sẽ cao hơn từ đó dẫn đến nguy cơ
tăng tỷ lệ thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo.Chính phủ sẽ phải đưa ra các chính sách phúc
lợi và an sinh đúng đắn để đảm bảo phát triển công bằng xã hội
Ba là: sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên do hội nhập kinh tế quốc tế trong
xu hướng toàn cầu hóa. Sự biến động nền kinh tế của các nước sẽ khiến nền kinh tế trong nước
có những biến động theo, từ đó đòi hỏi phải xây dựng một chính sách vĩ mô thực sự đúng đắn,
hiệu quả. Đưa được đội ngũ có năng lực trong việc phân tích tình hình, dự báo để có 1 cơ chế
quản lý hiệu quả, phản ứng tích cực với những biến đổi tác động từ bên ngoài. Để làm được
điều đó thực sự là khó khăn với nhiều đất nước còn nhiều hạn chế về hệ thống pháp luật, kinh
nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt vấn đề việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ gìn sắc văn hố truyền thống tốt đẹp dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền
Thách thức của VN khi gia nhập WTO tuy là sức ép trực tiếp nhưng nếu biết vận dụng
các khả năng từ cơ hội và nội lực của nước nhà sẽ tạo những động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển hiệu quả hơn, đưa nền kinh tế vươn cao trên trường quốc tế.