Câu hỏi tự luận tôn giáo - Lịch sử văn minh thế giới | Đại Học Hà Nội
Câu hỏi tự luận tôn giáo - Lịch sử văn minh thế giới | Đại Học Hà Nội được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử văn minh thế giới (lsvmtg)
Trường: Đại học Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
CÂU 1. TÔN GIÁO 1. Đạo Hồi
- Đạo Hồi ra đời vào năm 622 và là một tôn giáo nhất thần tuyệt đối. Vị thần duy
nhất mà đạo Hồi tôn thờ là chúa Ala. Tín đồ Hồi giáo tin rằng ngoài chúa Ala
không có vị thần nào khác. Tất cả những gì ở trên trời dưới đất đều thuộc về Ala.
- Còn Môhamet là người được Ala giao cho sứ mệnh truyền bá tôn giáo nên chỉ là
sứ giả của Ala và là tiên tri của tín đồ.
- Đạo Hồi cũng tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác, nhất là của đạo Do
Thái nhờ truyền thuyết về sáng tạo thế giới, thiên đường, địa ngục, cuộc phán xét
cuối cùng thiên thần, quỷ Satăng... Đạo Hồi còn bắt chước một số nghi thức và tục
lệ của đạo Do Thái như trước khi cầu nguyện phải rửa mặt và tay chân; khi cầu
nguyện phải hướng về thánh địa Mecca và phải phủ phục trán chạm đất; cấm ăn
thịt heo, thịt chó, thịt các con vật bị chết vì bệnh, thịt đã cúng thần và cấm uống rượu.
- Đạo Hồi chỉ có một điều quan trọng không giống các tôn giáo khác là tuyệt đối
không thờ ảnh tượng vì họ quan niệm rằng Ala tỏa khắp mọi nơi, không có một
hình tượng nào có thể thể hiện được Ala. Bởi vậy trong thánh thất Hồi giáo chỉ
trang trí bằng chữ Arập chứ không có tượng và tranh ảnh.
- Về quan hệ gia đình, đạo Hồi thừa nhận chế độ đa thê nhưng chỉ cho lấy nhiều
nhất là 4 vợ. Đàn ông Hồi giáo cũng có thể lấy người theo đạo Do Thái hoặc đạo
Kitô làm vợ nhưng không được cưới người theo đa thần giáo. Tuy cho lấy nhiều vợ
nhưng đạo Hồi lại cấm việc lấy nàng hầu.
- Thánh địa của đạo Hồi là Mecca, nơi có ngôi đền Caaba. Học thuyết của đạo Hồi
được tập trung trong bộ kinh Koran, buổi đầu gồm 30 cuốn, 114 chương, được ghi
chép lại bởi các đệ tử của Mohamed.
- Kinh Côran đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, do đó, đối với người
Arập, kinh Côran ngoài những nguyên tắc tôn giáo còn là một bản tổng hợp mọi tri
thức khoa học, mọi nguyên tắc pháp luật và đạo đức. + Cầu nguyện, bố thí, nhịn ăn
và hành hương là 4 bổn phận của Hồi giáo. Thêm lòng tin vào Ala và vị tiên tri nữa
thành năm cái trụ cột của Hồi giáo.
- Thời Môhamet, đạo Hồi chỉ mới truyền bá ở bán đảo Arập. Sau đó cùng với quá
trình chinh phục của Arập, đạo Hồi đã truyền bá khắp Tây Á, Trung Á, Bắc Phi và
Tây Ban Nha. Trong quá trình ấy, đạo Hồi đã chia thành hai giáo phái chính là phái Sânny và Si - ai
- Ngày nay đạo Hồi đ ợc ƣ
truyền bá rộng rãi trên thế giới, đã thành quốc giáo của
24 nước như: Inđônêxia, Malaixia, Ápganixtan, Bănglađét, Pakixtan, Iran, Irắc, các
nước Arập Thổ Nhĩ Kì, Xiri, Ai Cập, Libi, Angiêri, Marốc...
* Ảnh hưởng của đạo Hồi tới Việt Nam
Hồi giáo du nhập vào Việt Nam qua các thời điểm khác nhau. Theo Tống sử Trung
Quốc thì thế kỷ X đã thấy người Chăm khi giết trâu để cúng, họ đều cầu nguyện
câu kinh đề cao Thượng đế Allah của người Hồi giáo, điều này có thể giả định từ
thế kỷ thứ X, Hồi giáo đã được truyền vào đất Chiêm Thành.
Vậy có thể nói: Từ thế kỷ X, tín ngưỡng Hồi giáo đã manh nha ở Vương quốc
Chămpa thông qua các thương nhân từ Trung Cận Đông đem vào, gây ảnh hưởng
nhất định trong đời sống tâm linh người Chămpa.
Sau năm 1470, một bộ phận cư dân Chămpa lưu tán đã tiếp xúc với người
Malaysia, Indonesia, Campuchia... và họ bắt đầu tìm hiểu Hồi giáo ở các nước đó,
nhiều người Chăm bỏ tôn giáo truyền thống (đạo Bàlamôn) để theo Hồi giáo.
Những người Chăm khi tiếp thu được tôn giáo mới, họ quay về nước để truyền lại
cho đồng bào mình. Từ đó Hồi giáo có chỗ đứng đáng kể trong cộng đồng cư dân
Chămpa và chính thời điểm này sự giao hoà giữa đạo Islam và đạo Bàlamôn đã sản
sinh ra một tôn giáo mới của người Chăm, đó là đạo Bàni tại miền Nam Trung bộ.
Vào năm 1840, dưới triều Nguyễn, quan bảo hộ Chân Lạp là Trương Minh
Giảng bị quân của An Dương - Campuchia đánh bại phải rút chạy về vùng thượng
nguồn sông Tiền (Châu Đốc - An Giang ngày nay) mang theo quân lính và người
Chàm, người Mã lai theo Hồi giáo, lúc đó nhà Nguyễn dựa vào lực lượng này lập
các đội quân để giữ biên giới. Từ đó hình thành vùng thứ hai theo Hồi giáo chính
thống của người Chăm - đạo Islam.
Những năm cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, vùng Sài Gòn - Gia Định mở
rộng giao lưu buôn bán với một số quốc gia phương tây, từ đó trở thành trung tâm
buôn bán của Nam bộ. Các thương nhân đã thu nhận người Malaysia, Indonesia,
Ấn Độ theo Hồi giáo. Tuy nhiên, cho mãi đến cuối thế kỷ XIX khi Nam bộ bị Pháp
chiếm đóng, quá trình giao thương với bên ngoài ngày càng phát triển, là môi
trường và điều kiện để cho người Malaysia và Indonesia nhập cư vào đất này đông
hơn. Ngoài ra, trong khoảng thời gian từ năm 1880 - 1890, ở Gia Định cũng xuất
hiện một bộ phận người Ấn Độ, Pakistan có tín ngưỡng Hồi giáo là những thương
nhân làm nghề buôn bán tơ lụa, đồ gia vị cho những tiệm buôn, quán ăn. Đó là
nguồn gốc hình thành cộng đồng cư dân ngoại lai theo Hồi giáo ở TP. Hồ Chí Minh cho tới ngày nay. 2. Đạo Hindu
- Khoảng thế kỉ VIII, IX đạo Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối
tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ... Từ đó, đạo Bàlamôn được gọi là
đạo Hinđu, trước đây ta hay gọi là Ấn Độ giáo.
- Là một tôn giáo đa thần, không có người sáng tạo. Đối tượng sùng bái chủ yếu
của đạo Hinđu vẫn là ba thần Brama (thần sáng tạo), Siva (thần bảo tồn) và Visnu (thần hủy diệt)
- Ngoài các vị thần nói trên, các loài động vật như khỉ, bò, rắn, hổ, cá sấu, chim
công, vẹt, chuột v.v... cũng là các thần đạo Hindu, trong đó được tôn sùng hơn cả là thần khỉ và thần bò.
- Tín đồ đạo Hinđu không những kiêng ăn thịt bò mà còn không dùng những đồ dùng làm bằng da bò.
- Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva. * Giáo lý:
- Đạo Hinđu chú trọng thuyết luân hồi, cho rằng con người sau khi chết, linh hồn
sẽ đầu thai nhiều lần. Mỗi lần đầu thai như vậy con người sẽ sung sướng hơn hay
khổ cực hơn kiếp trước là tùy thuộc vào những việc làm của kiếp trước tức là quả báo (Karma).
- Kinh thánh của đạo Hinđu, ngoài các tập Vêđa và Upanisát còn có Mahabharata,
Bhagavad Gita, Ramayana và Purana.
- Sau khi phục hưng, đạo Hinđu được các vương công Ấn Độ hết sức ủng hộ, do
đó đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa nguy nga và ban cấp cho rất nhiều ruộng đất,
có khi lên đến hàng nghìn làng.
- Khỉ tế lễ, các tu sĩ thường xoa dầu, xức nước hoa cho tượng, dùng thịt dê cùng
các thức ăn uống khác để cúng thần. Trong khi cử hành lễ cúng, các thầy tu đọc
kinh, còn các vũ nữ thì múa những điệu múa tôn giáo.
- Về tục lệ, đạo Hinđu cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Đến thời kì
này, do sự phát triển của các ngành nghề, trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ (varna) đã xuất
hiện rất nhiều đẳng cấp nhỏ mới gọi là jati.
- Đạo Hinđu còn duy trì lâu dài nhiều tục lệ lạc hậu như tảo hôn, vợ góa phải hỏa
táng theo chồng. Nếu không tuẫn tiết thì phải cạo trọc đầu và ở vậy suốt đời không
được tái giá. Ngày nay các tục lệ đó đều đã bãi bỏ.
- Trong suốt chiều dài lịch sử, từ thời kì đạo Phật thịnh hành, đạo Hinđu là tôn giáo
chủ yếu ở Ấn Độ. Tôn giáo này còn truyền bá sang một số nước Đông Nam Á, đặc
biệt là Campuchia từ thời Ăngco về trước.
- Ngày nay, ở Ấn Độ có khoảng 84% tổng số cư dân theo đạo Hinđu. Ngoài Ấn
Độ, đa số dân Nêpan và đảo Bali ở Inđônêxia, gần 20% dân Bănglađét và Xri
Lanca vẫn theo đạo Hinđu.
* Sự ảnh hưởng của đạo Hindu tới Việt Nam A. Kiến trúc
- Những đền tháp Chăm đều có đặc điểm chung là một cụm kiến trúc bao gồm một
tháp trung tâm hình vuông, mái thôn nhọn. Tháp còn có một đặc điểm chung là xây
bằng gạch, có 4 mặt hình vuông đối xứng nhau. Tháp Chăm thường có 3 tầng được
cấu trúc như nhau, mỗi tầng càng lên cao càng thu nhỏ dần và kết thúc bằng một
Linga bằng đá trên nóc tháp B. Điêu khắc
- Điêu khắc Chămpa khá đa dạng và độc đáo. Những đề tài điêu khắc Chăm là
những tượng thờ Siva, Visnu, Brahma. Ngoài ra, vật thờ ở tháp Chăm phổ biến là cặp Linga - Yoni
- Ngoài tượng thờ các vị thần chính, điều khắc ở đền tháp Chăm còn trang trí bằng
tượng thờ vũ nữ, những con vật huyền thoại như bò Nandin
- Những cảnh chạm khắc trang trí ở các bệ thờ, điêu khắc Chăm phần lớn ảnh
hướng văn hóa Ấn Độ như bệ thờ Mỹ Sơn diễn tả cảnh sinh hoạt lễ nghi tôn giáo
của đạo sĩ Ấn và những cảnh trầm tư, giảng đạo múa hát,...
- Tuy có ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, kiến trúc Chăm không tiếp thu, sao chép
một cách nguyên vẹn mà luôn cải biến trên cơ sở văn hóa bản địa
- Tháp Chăm luôn hướng về tiểu phẩm cân xứng, đẹp mắt, vừa độc đáo vừa có cá
tính, kỹ thuật, bí quyết riêng mà đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Đó là thành tựu
rực rỡ, là nét bản sắc riêng biệt, “thể hiện sự sáng tạo tài ba độc đáo của những nhà
kiến trúc, điêu khắc Chăm thời xa xưa” 3. Đạo Phật a. Sự hình thành:
- Đạo Phật ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỉ I TCN do thái tử Xitđacta Gôtama,
hiệu là Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) khởi xướng. b. Học thuyết Phật giáo
- Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo là chân lí về nỗi đau khổ và sự giải
thoát khỏi nỗi đau khổ được thể hiện trong thuyết "tứ thánh đế" hoặc còn gọi "tứ
diệu đế", "tứ chân đế", "tứ đế", nghĩa là 4 chân lí thánh. Đó là: khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế.
+ Khổ đế là chân lí về các nỗi khổ. Theo Phật, con người có tám nỗi khổ (bát khổ):
sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không được,
giữ lấy 5 uẩn (thủ ngũ uẩn).
+ Tập đế là chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ. Nguyên nhân chủ yếu là luân
hồi, mà nguyên nhân của luân hồi là nghiệp, sở dĩ có nghiệp là do lòng ham muốn
như ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang... Ham muốn không dứt thì nghiệp
không dứt, nghiệp không dứt thì luân hồi mãi mãi.
+ Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ. Nguyên nhân của khổ đau là luân
hồi, vì vậy muốn diệt khổ thì phải chấm dứt luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi thì
phải chấm dứt nghiệp. Đó là một món nợ truyền từ kiếp này sang kiếp khác do
lòng ham muốn tạo nên, do đó nói vắn tắt muốn chấm dứt luân hồi thì phải trừ bỏ hết mọi ham muốn.
+ Đạo đế là chân lí về con đường diệt khổ tức là phương pháp thực hiện việc diệt
khổ. Con đường đó gọi là "bát chính đạo" (8 con đường đúng đắn), gồm: chính
kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tịnh tiến, chính niệm, chính định
- Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết duyên khởi.
- Do quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương "vô tạo giả"
tức là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là một nội dung cơ bản mà
đạo Phật nêu ra để chống lại đạo Bàlamôn và cũng là một sự khác biệt quan trọng
giữa đạo Phật với nhiều tôn giáo khác.
- Bên cạnh thuyết "vô tạo giả", đạo Phật còn nêu ra các thuyết "vô ngã", "vô thường".
+ Vô ngã là không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định.
+ Vô thường là mọi sự vật đầu ở trong quá trình sinh ra, biến đổi, tiêu diệt chứ
không bao giờ được ổn định.
- Như vậy, về thế giới quan, tuy đạo Phật ban đầu chủ trương vô thần (vô tạo giả)
nhưng chung quy vẫn là duy tâm chủ quan.
- Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, vì đạo Phật cho
rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để đ ợc cứu ƣ vớt.
Mọi người, dù thuộc đẳng cấp nào một khi đã tu hành theo học thuyết của Phật thì
đều trở thành những thành viên bình đẳng của một Tăng đoàn.
Như vậy, đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta phải từ bỏ ham
muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt chứ không thừa nhận thượng
đế và các vị thần bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp thầy cúng. c.
Sự phát triển của đạo Phật ở Ấn Độ
- Sau khi Phật tịch, đạo Phật được truyền bá nhanh chóng ở miền Bắc Ấn Độ. Để
soạn thảo giáo lí, quy chế và chấn chỉnh về tổ chức, từ thế kỉ V-III TCN, đạo Phật
đã triệu tập 3 cuộc đại hội ở nước Magađa, quốc gia lớn nhất ở Ấn Độ lúc bấy giờ.
Từ nửa sau thế kỉ III TCN, tức là sau đại hội lần thứ ba, đạo Phật trước tiên được
truyền sang Xri Lanca, sau đó truyền đến các nước khác như Myanma, Thái Lan, Inđônêxia...
- Khoảng năm 100 sau CN đạo Phật triệu tập đại hội lần 4 ở Cusan, Đại hội đã
thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách, xuất hiện phái phật giáo mới gọi là phái
Đại thừa để phân biệt với phật giáo cũ là phái Tiểu thừa
+ Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): chỉ có người xuất gia tu hành mới rũ bỏ mọi ham muốn
+ Đại thừa (cỗ xe lớn): mọi người sống theo giáo lý Đạo Phật đều có thể giác ngộ và tới cõi niết bàn
- Sau Đại hội lần 4 ở Cusan các nhà sư càng được khuyến khích ra nước ngoài
truyền Đạo, do đó đạo Phật càng được truyền bá mạnh mẽ sang các nước Trung Á,
Trung Quốc. Những thế kỷ tiếp sau đó Phật giáo suy dần ở Ấn Độ song lại phát
triển mạnh ở các nước và nó đã trở thành quốc giáo của một số nước: Xrilanca, Thái Lan, Campuchia, Lào... C.
Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đến xã hội Việt Nam hiện nay.
- Với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình, Phật giáo trở
thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng.
- Các chuẩn mực của đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi, nhân cách
con người, ảnh hưởng tích cực đến quần chúng.
- Với tư tưởng từ bi, cứu khổ cùng với các giá trị đạo đức của Phật giáo đã có ảnh
hưởng không ít tới môi trường sống của người dân, bởi vì đạo Phật là tiếng nói của
một con người gửi tới những con người khác, để cùng giúp nhau vượt qua những
khó khăn trong cuộc sống. Vì thế, đạo Phật mang tính xã hội và đạo đức rất cao.
- Phật giáo không chỉ dừng lại ở công việc chia sẻ những khó khăn của xã hội như
hòa bình, thịnh vượng, công bằng, mà còn hướng mọi người lấy điều thiện làm
chuẩn mực sống, làm phương tiện và mục đích để đạt tới hạnh phúc cho con người.
Như hiện nay trong làm ăn kinh tế, một số người vì sự lôi cuốn của đồng tiền muốn
làm ít hường nhiều, muốn làm giàu nhanh chóng, đã bất chấp thủ đoạn, coi thường
pháp luật chà đạp nghiêm trọng tới đạo đức, lối sống truyền thống.
Với quan niệm tiêu dùng của cải vật chất hợp lý, không quá coi trọng tài sản đến
mức trở thành nô lệ của nó, không ăn của người, cuộc sống an vui giải thoát chỉ đạt
được khi con người đạt được chân thiện mỹ, hạnh phúc của người này có được
không phải bằng cách giẫm đạp lên hạnh phúc của người khác, phải đem an vui
đến cho mọi người, Phật giáo đã phần nào tác động tốt tới nhân cách, lối sống các tín đồ
- Cũng có thể thấy rằng những giáo lý của phật giáo khá đồng thuận với tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, nên việc phật giáo được Đảng và nhà nước quan tâm là điều tất yếu. 4. Đạo Kitô
- Cho đến đầu công nguyên, người La Mã vẫn tin đa thần. Tuy nhiên, từ năm 63
TCN, La Mã thôn tính vùng Palextin, nơi mà từ thế kỉ VI TCN, cư dân đã theo một
tôn giáo nhất thần gọi là đạo Do thái.
- Chính giáo lí của đạo Do thái, tư tưởng của phái khắc kỉ và đời sống cực khổ
không có lối thoát của nhân dân bị áp bức là những yếu tố dẫn đến sự ra đời của đạo Kitô.
- Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là chúa Giêxu Crit con của chúa
Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria và được sinh ra ở Bétlêem vùng
Palextin vào khoảng năm 5 hoặc 4 TCN.
- Đến năm 30 tuổi, chúa Giêxu vừa truyền đạo, vừa chữa bệnh, có thể làm cho
người chết sống lại. Trong khi truyền đạo, chúa Giêxu khuyên mọi người phải nhẫn
nhục chịu đựng mọi đau khổ ở đời, sau khi chết sẽ được
hưởng hạnh phúc vĩnh viễn ở thiên đường. Đồng thời chúa Giêxu lên án sự giàu
có, cho rằng người giàu muốn lên nước chúa cũng khó như con lạc đà muốn chui qua lỗ kim.
- 3 năm sau đó, Giuđa, một trong 12 tông đồ của chúa đã bán chúa để lấy 12 đồng
bạc trắng. Chúa Giêxu bị đưa đến trước Đại giáo trưởng Do thái Caiphơ rồi đưa
đến tòa án La Mã ở Do thái do Pôngxơ Pilát làm đại diện. Tòa án La Mã xử tử
chúa Giêxu bằng cách đóng đinh lên thập giá ở núi Canve
- Sau khi chôn được 3 ngày, chúa Giêxu sống lại, tiếp tục thuyết giáo, 40 ngày sau, chúa bay lên trời.
- Đạo Kitô cho rằng chúa trời sáng tạo ra tất cả kể cả loài người. Song họ lại đưa ra
thuyết tam vị nhất thể tức là chúa Trời (chúa cha) chúa Giêxu
(chúa con) và Thánh thần tuy là ba nhưng vốn là một.
- Kinh thánh của đạo Kitô gồm 2 phần là Cựu ước và Tân ước. Cựu ước là kinh
thánh của đạo Do thái mà đạo Kitô tiếp nhận, còn Tân ước là kinh thánh thực sự
của đạo Kitô. Kinh Tân ước viết bằng tiếng Hy Lạp.
- Về nhân sinh quan: Kito giáo cho rằng: Con người do Thiên Chúa tạo nên theo
hình ảnh của Thiên Chúa, con người có 2 phần thể xác và linh hồn và loài người
sinh ra phải chịu tội tổ tông
- Ban đầu, Đạo Kito du nhập vào La Mã, chính quyền La Mã tàn sát nhất là cuộc
tàn sát năm 64 dưới thời hoàng đế Nêrôn. Đến năm 311, các hoàng đế La Mã đã ra
lệnh ngừng sát hại tín đồ đạo Kitô. Năm 313 hai hoàng đế Cônxtantinút và Lixiniút
ban hành sắc lệnh Milanô, chính thức công nhận địa vị hợp pháp của đạo Kitô. Đến
cuối thế kỉ IV đạo Kitô chính thức được thừa nhận là quốc giáo của đế quốc La Mã.
CÂU 2. CHỮ VIẾT, KIẾN TRÚC CỦA VĂN MINH AI CẬP * Chữ viết
- Từ khi xã hội có giai cấp bắt đầu hình thành, chữ viết ở Ai Cập đã ra đời. Chữ
viết của Ai Cập cổ đại lúc đầu là chữ tượng hình, tức là muốn viết chữ để biểu thị
một vật gì thì vẽ hình thù của vật ấy. ..
- Đối với các khái niệm trừu tượng hoặc phức tạp thì phải dùng phương pháp mượn ý.
- Tuy nhiên, hai phương pháp ấy chưa đủ để ghi mọi khái niệm, vì vậy dần dần
xuất hiện những hình vẽ biểu thị âm tiết.
- Dần dần, những chữ chỉ âm tiết biến thành chữ cái, ví dụ, hòn núi nhỏ đọc là ca
được dùng để biểu thị phụ âm k. Tổng số chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại có
khoảng 1000 chữ, trong đó số chữ cái có 24 chữ.
- Chữ viết cổ của Ai Cập thường được viết trên đá, gỗ, đồ gốm, vải gai, da... nhưng
chất liệu dùng để viết phổ biến nhất là giấy papyrus. Để viết trên các loại giấy đó,
người Ai Cập cổ dùng bút làm bằng thân cây sậy, còn mực thì làm bằng bồ hóng.
- Loại chữ tượng hình này được dùng trong hơn 3000 năm, sau đó, không còn ai
biết đọc loại chữ này nữa.
- Mãi đến năm 1822, Champollion, một nhà ngôn ngữ học người Pháp 32 tuổi mới
tìm được cách đọc thứ chữ này.
- Học giả nhiều nước, như Pháp, Đức, Anh... đã nghiên cứu ngôn ngữ Ai Cập, biên
soạn sách tiếng Ai Cập cổ, đặc biệt biên soạn cuốn Từ điển chữ tượng hình Ai Cập.
Nhờ đọc được chữ Ai Cập cổ, người ta mới biết được nhiều tư liệu quý giá thuộc
các lĩnh vực như lịch sử, văn học, thiên văn, toán học... của Ai Cập cổ đại.
* Ý nghĩa của chữ viết Ai Cập đối với văn minh nhân loại
- Chữ viết đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đế chế Ai Cập, và đọc và viết
là đặc quyền của nhóm người được giáo dục để ghi chép và giữ gìn văn bản. Chỉ
những người với xuất thân nhất định mới được đào tạo để trở thành người ghi chép
và giữ gìn văn bản. Họ phục vụ trong đền thờ, quân đội và hệ thống hành chính của
nhà vua (Pharaon). Hệ thống chữ viết tượng hình Ai Cập luôn phức tạp, khó học,
nhưng trong nhiều thế kỷ sau khi ra đời, chúng còn trở nên khó học hơn nhiều. Chủ
ý của thực tế này là nhằm duy trì đặc quyền của những người ghi chép và giữ gìn văn bản
- .Vào cuối thế kỷ 20, các nhà khoa học đã truy ra mẫu tự Phoenix được biến tấu từ
văn tự Ai Cập cổ. Các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La tinh đã dựa theo mẫu
tự này để tạo nên chữ viết của riêng mình. Có thể nói, ngôn ngữ của chúng ta dùng
ngày nay đều thừa hưởng di sản từ chữ viết Ai Cập cổ. * Kiến trúc A. Kim tự tháp
- Kim tự tháp là những ngôi mộ của các vua Ai Cập thuộc vương triều III và vương
triều IV thời Cổ vương quốc. Các ngôi mộ ấy được xây ở vùng sa mạc ở Tây Nam Cairô ngày nay.
- Thời kì Kim tự tháp được xây dựng nhiều nhất và đồ sộ nhất là thời vương triều
IV. Vua đầu tiên của vương triều này là Xnêphru, đã xây cho mình hai Kim tự tháp,
cái thứ nhất cao 36,5m; cái thứ hai cao 99m. Các vua kế tiếp như Kêốp, Kêphren,
Mikêrin đều xây dựng những Kim tự tháp rất lớn: Kim tự tháp Kêốp (tên Ai Cập)
là Hufu cao 146,5m; Kim tự tháp Kêphren cao 137m; Kim tự tháp Mikêrin cao 66m.
- Nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối óc của mình, đã để lại cho nền văn
minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá. Trải qua gần 5000 năm, các Kim
tự tháp hùng vĩ vẫn đứng sừng sững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp thời gian và
mưa nắng. Vì vậy, từ lâu người Arập có câu: "Tất cả đều sợ thời gian, nhưng thời
gian sợ Kim tự tháp".
- Và cũng chính vì vậy, từ thời cổ đại, ng ời
ƣ ta đã xếp Kim tự tháp Kêốp là kì
quan số một trong bảy kì quan thế giới. Đến nay, trong bảy kì quan ấy, cũng chỉ
còn lại mỗi Kim tự tháp mà thôi b) Tượng Xphanh (Nhân sư)
- Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại cũng có những thành tựu rất lớn biểu
hiện ở hai mặt tượng và phù điêu. Từ thời Cổ vương quốc về sau, các vua Ai Cập
thường sai tạc tượng của mình và những người trong vương thất. Tượng thường tạc
trên đá, gỗ hoặc đúc bằng đồng. Trong số các tượng của Ai Cập cổ đại, đẹp nhất là
tượng bán thân hoàng hậu Nêféctiti, vợ của vua Ichnatôn. Tuy nhiên, độc đáo nhất
trong nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại là tượng Xphanh.
- Trong số các tượng Xphanh của Ai Cập cổ đại, tiêu biểu nhất là tượng Xphanh ở
gần Kim tự tháp Kêphren ở Ghidê. Đó chính là tượng của vua Kêphren. Thể hiện
vua dưới hình tượng đầu người mình sư tử là muốn ca ngợi vua không những có trí
tuệ của loài người mà còn có sức mạnh như sư tử.
3. KIẾN TRÚC, LUẬT PHÁP CỦA VĂN MINH HI - LA A. Kiến trúc * Kiến trúc
- Trong các thành bang Hy Lạp, Aten là nơi có nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu:
đền miếu, rạp hát, sân vận động...
+ Trong các công trình ấy tiêu biểu nhất, đẹp nhất là đền Páctênông xây dựng vào
thời Pêriclét (thế kỉ VI CN) dưới sự chỉ đạo kĩ thuật của kiến trúc sư Ichtinút và nhà điêu khắc Phiđiát.
- Ngoài Aten, ở các nơi khác cũng có những công trình kiến trúc đẹp như đền thần
Dớt ở Ôlempi, các đền thờ ở một số thành phố Hy Lạp trên đảo Xixin.
- Thành tựu về kiến trúc của La Mã lại càng rực rỡ. Về mặt này, người La Mã đã có
rất nhiều sáng tạo. Các công trình kiến trúc của La Mã bao gồm tường thành, đền
miếu, cung điện, rạp hát, khải hoàn môn, cột kỉ niệm, cầu đường, ống dẫn nước,...
Những công trình này từ thời cộng hòa đã có, nhưng đặc biệt phát triển từ thời Ôctaviút.
- Trong số các công trình kiến trúc ở La Mã nổi tiếng nhất là đền Păngtênông, rạp hát, các khải hoàn môn.
+ Đền Păngtênông bắt đầu xây dựng từ thời Ôgút. Đền xây hình tròn, mái tròn, hết sức mĩ quan và hùng vĩ.
+ Các khải hoàn môn do các hoàng đế La Mã xây để ăn mừng chiến thắng, cũng xây theo kiểu cửa vòm.
* So sánh thức cột Hi Lạp và La Mã: Thời kỳ Hi Lạp chủ yếu sử dụng 3 thức cột
cổ điển: Doric, Lonic và cột Corinthian HY LẠP 1. Thức cột Doric
- Thức cột Doric, có hậu thân là thức cột Toscan, là thức cột cổ nhất và đơn giản
nhất trong hệ thống các thức cột cổ điển. Thức này được hình thành từ một trụ
thẳng đứng phình to ở đáy. Nói chung, thức cột này không có phần đế cột lẫn
không có phần đầu cột. Nó được sử dụng ở tầng dưới cùng của đấu trường
Coliseum và có khả năng chịu lực cao nhất 2. Thức cột Lonic
- Thức cột Ionic mang dáng dấp nữ tính, mảnh dẻ và giàu tính trang trí hơn cột
Doric. Nguồn gốc cột Ionic là Ionia, thuộc địa của Hy Lạp. Ngoài ra, cột này có
thêm đế cột ở phía dưới và đầu cột có hình đệm nhỏ, phía trên có hình xoắn ốc loe
ra rồi cuộn vào trong. Các ngôi đền có cột này là đền Artemis ở Ephesus, đền thờ Apollo ở Bassae 3. Thức cột Corinthian
- Thức cột Corinthian ra đời sau hai cột trên, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công
nguyên, có đường nét mảnh mai, giàu trang trí, đầu cột có nhiều chi tiết hoa lệ. Cột
này có ưu điểm hơn hai cột trên là đối xứng nhiều chiều và có thể cảm nhận được
trong không gian. Có thể thấy công trình sử dụng loại cột này tại đền Olympeion ở
Athena và đền Apollo ở Bassae. LA MÃ 1. Thức cột Toscan - Đặc điểm
+ Được hình thành và sáng tạo từ thức cột Doric nhưng có những ưu thế được xem
là phù hợp hơn với các công trình bình thường và có thể áp dụng rộng rãi hơn:
khỏe khoắn, bình dị, đơn giản.
+ Toscan được xây dựng và thiết kế mảnh mai hơn, nhỏ hơn cột Doric. Ngoài ra
trục cột Toscan thường trơn tru, nhẵn bóng chứ không có các đường sáo (rãnh) như thức cột Doric 2. Thức cột Composite - Đặc điểm
+ Cột Composite là một kiểu cột được thiết kế theo kiểu La Mã kết hợp giữa thức
cột Lonic và Corithian Hi Lạp.
+ Hiện nay thức cột Composite có lẽ là chi tiết kiến trúc phổ biến nhất khi thiết kế
và xây dựng các công trình kiến trúc cổ điển, những công trình cổ điển càng lớn
như lâu đài, cung điện thường sử dụng thức cột phức hợp này để tăng sự sang trọng và đẳng cấp.
* Nhân loại thế kỷ 21 kế thừa gì của văn minh Hy - La
- Mái vòm là phát minh kiến trúc vĩ đại của người La Mã. Ngày nay, các công trình
kiến trúc như: nhà thờ Hồi giáo Lotfollah ở Iran, tòa nhà Reichstag ở Đức cũng
được thiết kế theo kiểu mái vòm và cải biến để phù hợp với thẩm mỹ của mỗi quốc gia
- Các thức cột cơ bản trong kiến trúc Hy Lạp cổ điển vẫn còn được ứng dụng rộng
rãi trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Tại Việt Nam, thức cột cơ bản xuất hiện
nhiều trong các công trình cổ điển, Tân cổ điển với quy mô lớn, bề thế. Nhưng để
phù hợp với kiến trúc, văn hóa và đặc trưng của người Việt, mà những chi tiết đã
được giản lược đi rất nhiều.
* Những công trình kiến trúc còn tồn tại đến ngày nay
- Hy Lạp: Parthenon là một ngôi đền thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ V
trước công nguyên ở Acropolis.
Đền Erectheion là dền thờ thần chiến binh Athena và thần biển
Poseidon. Được người Hy Lạp xây dựng từ khoảng 2500 năm trước, hiện đang
nằm trên thành Acroplis và bảo tàng cổ vật quốc gia Acroplis - La Mã:
+ Quảng trường La Mã tọa lạc tại trung tâm của thành phố Rome. Đây là một quần
thể kiến trúc hình chữ nhật và bao quanh bởi những công trình chính phủ quan
trọng của chính quyền La Mã cổ đại.
+ Đấu trường Colosseum là một trong những công trình biểu tượng nổi tiếng nhất
của đế chế La Mã, vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Trong quá khứ,
Colosseum là nơi diễn ra những cuộc chiến đẫm máu của võ sĩ giác đấu, nhằm mục
đích tiêu khiển cho người dân thành Rome. B. Luật pháp
* Luật pháp của Hy Lạp cổ đại.
- Ngay khi mới thành lập, nhà nước Aten đã là nhà nước dân chủ, nhưng tầng lớp
quý tộc thị tộc vẫn là tầng lớp có thế lực nhất về chính trị và kinh tế.
- Về kinh tế, tầng lớp quý tộc đã chiếm được nhiều ruộng đất của nông dân, đồng
thời biến nhiều nông dân hoặc vợ con họ thành nô lệ vì nợ. Tình hình đó làm cho
mâu thuẫn xã hội ở Aten ngày càng gay gắt.
- Do sự đấu tranh của quần chúng, năm 621 TCN, tầng lớp quý tộc đã giao cho
quan chấp chính đương thời là Đracông thảo ra một bộ luật gọi là luật Đracông.
- Bộ luật Đracông không giải quyết được các mâu thuẫn trong xã hội, làm cho nhân
dân tiếp tục nổi dậy đấu tranh. Trước tình hình đó, năm 594 TCN, tầng lớp quý tộc
phải nhượng bộ bằng cách cử Xôlông làm quan chấp chính và giao cho ông nhiệm
vụ cải tổ lại chế độ chính trị của Aten. Xolong đã ban các pháp lệnh
+ Pháp lệnh về ruộng đất: Trả lại cho nông dân những thửa ruộng trước đây đã làm
vật thế chấp vì không trả được nợ cho quý tộc. Đồng thời quy định mức chiếm hữu ruộng đất tối đa.
+ Pháp lệnh về nô lệ vì nợ: Trả lại tự do cho nô lệ vì nợ; cấm chỉ việc lấy thân
mình hoặc vợ con mình để trừ nợ, thậm chí cấm cả việc kí kết những văn tự vay nợ
lấy bản thân người vay nợ làm vật bảo đảm.
+ Pháp lệnh về việc phân chia đẳng cấp và quyền lợi nghĩa vụ của mỗi đẳng cấp:
Căn cứ theo tài sản, công dân Aten được chia thành bốn đẳng cấp:
Đẳng cấp thứ nhất: gồm những ngƣời có thu hoạch hàng năm từ 500 mê đim lúa mì trở lên
Đẳng cấp thứ hai: 300 mê đim trở lên và có thể nuôi được một con ngựa chiến.
Đẳng cấp thứ ba: 200 mê đim trở lên .
Đẳng cấp thứ tư: Dưới 200 mê đim
+ Pháp lệnh về việc thành lập "Hội đồng 400 người" và Tòa án nhân dân: Mỗi bộ
lạc được cử 100 đại biểu thuộc đẳng cấp thứ ba trở lên lập thành tổ chức này. Hội
đồng 400 người tồn tại song song với Hội đồng trưởng lão nhưng chức năng của nó
là giải quyết những công việc hàng ngày giữa các kì Đại hội nhân dân, còn Hội
đồng trưởng lão thì quản lí chung mọi công việc và là Tòa án tối cao. Còn Tòa án
nhân dân là một cơ quan mà dân nghèo cũng được tham gia bồi thẩm.
+ Ngoài ra còn có Pháp lệnh về việc thừa nhận quyền chuyển
nhượng tài sản, về việc cấm xuất khẩu nông phẩm nhưng khuyến
khích xuất khẩu rượu nho và dầu ôliu.
- Những pháp lệnh của Xôlông đã hạn chế một phần quyền lợi của tầng lớp quý
tộc, đem lại nhiều quyền lợi cho nông dân, chấm dứt vĩnh viễn việc biến nông dân thành nô lệ.
- Những pháp lệnh của Clixten:
- Cuối thế kỉ VI TCN, tầng lớp quý tộc lại giành được chính quyền, mọi quyền dân chủ bị xóa bỏ.
- Năm 508 TCN, Clixten ban hành một số pháp lệnh để hoàn thiện hơn nữa chế độ
dân chủ của Aten, lật đổ chính quyền của quý tộc
+ Pháp lệnh chia lại khu vực hành chính: xóa bỏ 4 bộ lạc cũ, lập thành 10 bộ lạc
mới. Mục đích của pháp lệnh này nhằm triệt để xóa bỏ mọi tàn tích của chế độ thị tộc.
+ Pháp lệnh thành lập Hội đồng 500 người và Hội đồng 10
tướng lĩnh: Hội đồng 500 người gồm đại biểu của 10 bộ lạc. Hội đồng 500 người
là cơ quan hành chính cao nhất của nhà nước. Công việc hàng ngày do một bộ
phận thường trực 50 đại biểu của cùng một bộ lạc phụ trách. Nhiệm kì của bộ phận
thường trực là 36 ngày mỗi năm. Hội đồng 10 tướng lĩnh gồm 10 viên tướng do 10
bộ lạc cử ra. Hội đồng này lúc đầu chỉ nắm quyền chỉ huy quân sự. Về sau Hội
đồng này nắm cả quyền hành chính cao nhất của nhà nước.
+ Pháp lệnh trục xuất qua việc bỏ phiếu bằng vỏ sò: Để ngăn ngừa mọi âm mưu
đảo chính, hàng năm vào mùa xuân, một cuộc Đại hội công dân bất thường được
triệu tập để trưng cầu ý kiến xem trong công dân Aten có ai là kẻ nguy hiểm đối
với nền tự do của công dân không. Nếu người nào bị 6000 phiếu trở lên ghi tên
mình thì 10 ngày sau bị trục xuất khỏi Aten trong 10 năm nhưng không bị tịch thu
tài sản. Mãn hạn, người đó lại được trở về Aten và lại đ ợc khôi ƣ phục quyền công dân.
+ Pháp lệnh về việc mở rộng số công dân và dân tự do: cho một số kiều dân có
công trong quá trình đấu tranh chống chế độ chuyên quyền được trở thành công
dân Aten và giải phóng một số nô lệ thành kiều dân.
- Những pháp lệnh của Ephiantet và Piriclet
- Đầu thế kỉ V TCN, ở Aten lại diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt và lâu dài giữa phái
bảo thủ và phái dân chủ. Thủ lĩnh của phái dân chủ là Ephiantet đã ban bố pháp
lệnh thu hẹp quyền lực của Hội đồng trưởng lão. Từ quyền xét xử những vụ án tôn
giáo, toàn bộ quyền hành của Hội đồng trưởng lão trước kia đều trao lại cho các cơ quan dân cử.
Quyền lập pháp thuộc về Đại hội nhân dân
Quyền tư pháp thuộc về Tòa án nhân dân
Quyền hành pháp thuộc về Hội đồng nhân dân
- Năm 461 TCN, Ephiantet bị phái quý tộc ám sát. Périclès trở thành thủ lĩnh của
phái dân chủ. Périclès đã ban hành nhiều pháp lệnh để triệt để dân chủ hóa nền
chính trị của đất nước:
+ Pháp lệnh bổ nhiệm các chức vụ bằng cách bốc thăm: trừ chức Tướng quân, các
chức vụ lớn nhỏ kể cả quan chấp chính đều được bổ nhiệm bằng cách bốc thăm.
Như vậy tất cả mọi công dân có thể đảm nhiệm các chức vụ trong bộ máy nhà nước.
+ Pháp lệnh quy định chức năng của các cơ quan nhà nước và quyền dân chủ của
công dân: Bộ máy nhà nước của Aten gồm 4 cơ quan chủ yếu: Đại hội nhân dân,
Hội đồng 500 người, Tòa án nhân dân và Hội đmồng 10 tướng lĩnh.
+ Chính sách lương bổng và phúc lợi: Để cho những công dân thuộc tầng lớp dưới
có thể thoát li sản xuất, đảm nhiệm các chức vụ và các nghĩa vụ đối với nhà nước,
lần đầu tiên trong lịch sử, Pêriclét ban hành chế độ trả lương cho các đối tượng như
sau: Thành viên của Hội đồng 500 người, Quan chấp chính, Ủy viên bồi thẩm,
Thủy thủ, binh lính, sĩ quan, Người chèo thuyền, công dân
- Như vậy, từ Xôlông đến Pêriclét, tính chất dân chủ của luật pháp Aten ngày càng triệt để.
* Luật pháp của La Mã cổ đại - Luật 12 bảng
- Năm 454 TCN, La Mã đã cử 3 người sang Hy Lạp để tìm hiểu luật pháp của Hy
Lạp, nhất là của Xôlông. Năm 452 TCN, khi 3 người này trở về, La Mã thành lập
ủy ban 10 người để soạn luật.
- Sau một năm làm việc, ủy ban này soạn được một bộ luật, khắc trên 10 bảng
đồng đặt ở quảng trường để mọi người đều biết
- Do nội dung của 10 bảng chưa tập hợp hết mọi luật lệ trước đó của La Mã nên
năm 450 TCN lại cử một ủy ban 10 người mới, ủy ban này soạn thêm hai bảng
nữa, vì vậy bộ luật này gọi là luật 12 bảng.
- Nội dung của bộ luật đề cập đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như thể lệ tố
tụng xét xử, việc kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, quan hệ gia đình, địa vị phụ nữ v.v...
- Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo vệ tính mạng, tài sản và danh dự cho mọi
người. "Những điều quy định của 12 bảng cấm sát hại một cách phi pháp một
người, dù người đó là thế nào đi nữa" (điều 6 bảng IX).
- Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất của chế độ gia trưởng.
- Luật 12 bảng cũng có một điều khoản quan trọng đề cập đến lĩnh vực chính trị.
Đó là "Luật 12 bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục quân thù của nhân dân La
Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù."
- Năm 445 TCN, ban bố luật Canulêiut cho phép bình dân được kết hôn với quý
tộc. Tiếp đó bình dân được bầu làm Tư lệnh quân đoàn có quyền lực ngang với quan Chấp chính.
- Năm 326 TCN, thông qua pháp lệnh thủ tiêu chế độ nô lệ đối với công dân La Mã.
- Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh quy định quyết nghị của Đại hội bình dân, có
hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.
- Trong các thế kỉ tiếp theo, ở La Mã có khá nhiều nhà luật học, trong số đó,
Giulianút và Gaiút sống vào thế kỉ II là những người tương đối tiêu biểu.
* Ảnh hưởng của luật pháp Hy Lạp tại Việt Nam
- Giống như tại Hy Lạp, quyền xét xử những vụ án tôn giáo, toàn bộ quyền hành
của Hội đồng trưởng lão trước kia đều trao lại cho các cơ quan dân cử. Thì theo
quy định về mặt hình thức thì tại Việt Nam chính là đất nước có hệ thống tam
quyền phân lập, gồm có Quốc hội, có Chính phủ, có Tòa án và cơ quan công tố. Hệ
thống quyền lực theo quy định của pháp luật có cơ cấu tổ chức hoàn thiện từ Trung
ương đến các địa phương cấp huyện, quận cho tới cấp xã, phường. Cụ thể là quyền
lập pháp giao cho quốc hội, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho tòa án.
- Về chính sách lương bổng và phúc lợi: Ngày nay, để thu hút nhân lực, các DN
ngày càng đánh giá cao tầm quan trọng của công tác quản trị nguồn nhân lực và đã
có các chính sách hợp lý, kịp thời cũng như những chiến thuật bài bản hơn trong
chiến lược nhân sự. Bên cạnh việc trả lương, nhiều doanh nghiệp còn chi trả thêm
cho nhân viên các khoản phụ cấp như ăn trưa, xăng xe, điện thoại, máy tính, các
chuyến du lịch hằng năm, nghỉ lễ, sinh nhật… Những đãi ngộ này thực sự không
quá lớn, nhưng lại được nhiều người lao động đánh giá cao, thể hiện mức độ quan
tâm của lãnh đạo với đời sống của nhân viên
* Ảnh hướng của luật pháp La Mã tới Việt Nam
- Ảnh hưởng từ luật 12 bảng về tội trộm cắp, Bộ luật Hình sự quy định về tội trộm
cắp tài sản như sau: Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.