Chính sách tôn giáo của đảng và nhà nước hiện nay | Tiểu luận môn Chủ nghĩa xã hội khoa học Trường đại học sư phạm kĩ thuật TP. Hồ Chí Minh

Trải dài lịch sử từ xưa cho đến cuộc sống hiện đại ngày nay, tín ngưỡng tôn giáo vẫn luôn là yếu tố được chú trọng, thể hiện mật thiết từ sự ảnh hưởng đến hoạt động đời sống của con người. Việt Nam là đất nước đa dạng sắc tộc khi có đến 54 dân tộc cùng sinh sống trên cùng lãnh thổ, tương ứng với đó mỗi dân tộc có một tín ngưỡng tôn giáo khác nhau dẫn đến những vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển của cá nhân, tập thể, xã hội và đất nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------------------
TIỂU LUẬN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN QUỲNH ANH
NHÓM THỰC HIỆN:
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 2 NĂM 2023
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................
2. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu..........................................................................
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................................
4. Kết cấu tiểu luận.....................................................................................................
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tôn giáo theo quan điểm Mác-Lênin.....................................
1.2. Vai trò và ý nghĩa của tôn giáo .....................................................................................
1.3. Mối liên hệ của tôn giáo với đời sống theo sự phát triển của loài người .....................
Tiểu kết Chương 1
CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO VIỆT NAM CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG
NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO................................................................................
2.1. Các loại hình tôn giáo phổ biến ở Việt Nam.................................................................
2.2. Vai trò và giá trị của tôn giáo đối với người dân Việt nam ...........................................
2.3. Quan điểm và chính về tôn giáo của Đảng và Nhà nước..............................................
2.4. Thực trạng và giải pháp về tôn giáo ở Việt Nam...........................................................
Tiểu kết Chương 2
KẾT LUẬN................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2
Trải dài lịch sử từ xưa cho đến cuộc sống hiện đại ngày nay, tín ngưỡng tôn giáo
vẫn luôn là yếu tố được chú trọng, thể hiện mật thiết từ sự ảnh hưởng đến hoạt
động đời sống của con người. Việt Nam là đất nước đa dạng sắc tộc khi có đến
54 dân tộc cùng sinh sống trên cùng lãnh thổ, tương ứng với đó mỗi dân tộc có
một tín ngưỡng tôn giáo khác nhau dẫn đến những vấn đề ảnh hưởng đến sự
phát triển của cá nhân, tập thể, xã hội và đất nước. Thực trạng nói lên tín ngưỡng
tôn giáo có tác động lớn đến cả chính trị, kinh tế của một quốc gia và rất nhiều
vấn đề liên quan. Vì vậy nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết về vấn đề tín
ngưỡng tôn giáo là vô cùng quan trọng, cần thiết.
2. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tôn giáo, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo
ở Việt Nam
- Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích về những phạm trù liên quan trực tiếp và gián
tiếp đến tôn giáo cùng những chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn
giáo. Hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa của tín ngưỡng tôn giáo đối với con
người trong cuộc sống sinh hoạt, văn hóa, cách thức làm việc,...Có góc nhìn
khách quan về tín ngưỡng tôn giáo từ nhiều góc độ của người dân, Đảng và Nhà
nước, những quan điểm về tôn giáo nói chung và nói riêng.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về vấn đề tôn giáo
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, phương pháp kế thừa, phương
pháp lịch sử và phương pháp luận biện chứng.
4. Kết cấu tiểu luận
Bài được gồm hai phần : mở đầu và nội dung.
Mở đầu nhằm giải thích lý do chọn đề tài, đối tượng, mục tiêu và phương pháp
nghiên cứu.
Nội dung chia thành hai chương : lý luận và thực trạng, phân tích và làm rõ các
khái niệm liên quan nhằm phục vụ mục tiêu của bài.
3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tôn giáo
1.1.1. Khái niệm của tôn giáo
Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn
phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu,
thế giới của người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu
hình và vô hình. Song song với đó, tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của
con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn
đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng
con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính
“Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng
chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo tưởng để mà
yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế giới trần gian có nhiều bất
công và khổ ải.
Như vậy, tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân
loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn
năm qua. Nói chung bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó,
cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng
liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với
những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó. Với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư
ảo - vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần
thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”
1.1.2. Đặc điểm của tôn giáo
Thứ nhất, các “tôn giáo” và tín ngưỡng” có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng,
không kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Đây là yếu tố để đại đa số các dân tộc trên
4
thế giới dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Trong nhiều
cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và người không có tôn
giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, thị trấn, khu vực có nhóm tín đồ của
tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những
người không theo tôn giáo họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm,
dòng họ.
Thứ hai, các tôn giáo luôn có tín ngưỡng riêng của mình từ đó mà họ thờ cúng
các đối tượng, nhân vật khác nhau. Có thể họ thờ cúng nhân thần, những người
có công lớn; có ý nghĩa lớn lao về mặt tinh thần ở thời xa xưa. Giúp cho con
người thời xưa có được niềm tin tránh hỏi những nỗi sợ về tự nhiên bí ẩn ngoài
kia, nay vẫn chỉ là niềm tin dân gian, chỉ là các tín ngưỡng. Ngoài ra còn có hệ
thống giáo lý của các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài,…
Hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Thứ ba, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng
đều hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc,
góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản
sắc của dân tộc. Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín
ngưỡng; các tín ngưỡng này đã có sự giao thoa với văn hóa của từng dân tộc,
vùng miền khác nhau. Qua hàng trăm năm hình thành và phát triển tôn giáo đã
trở nên đa dạng và xuất hiện hàu như trên toàn thế giới
Thứ tư, trong lịch sử của thế giới, các thế lực lớn mạnh luôn tìm cách lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm
lược, đô hộ các nước yếu hơn, hoặc gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng. HIện nay chúng vẫn sử dụng
các tín ngưỡng, tôn giáo như một quân bài chiến lược quan trọng cho những
mục đích thâm độc mang lại lợi ích cho chúng.
5
1.2. Vai trò và ý nghĩa của tôn giáo
1.2.1. Vai trò của tôn giáo
Một là chức năng đền bù hư ảo, luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo.
Giống như thuốc phiện, tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm
thời những nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những sự mất mát, thiếu hụt
của con người trong cuộc sống. Chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng
chủ yếu, đặc thù mà còn là chức năng phổ biến của tôn giáo. Ở đâu có tôn giáo ở
đó có chức năng đền bù hư ảo. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó
không chỉ thực hiện một chức năng mà gồm một hệ thống chức năng xã hội.
Mặc dù là chức năng chủ yếu nhưng chức năng đền bù hư ảo không thể tách rời
các chức năng khác của tôn giáo.
Hai là chức năng thế giới quan, khi phản ánh một cách hư ảo hiện thực, tôn
giáo có tham vọng tạo ra một bức tranh của mình về thế giới nhằm thoả mãn nhu
cầu nhận thức của con người dưới một hình thức phi hiện thực. Bức tranh tôn
giáo ấy bao gồm hai bộ phận: thế giới thần thánh và thế giới trần tục và trên cơ
sở đó mà tôn giáo giải thích các vấn đề của tự nhiên cũng như xã hội. Sự lý giải
của tôn giáo về thế giới nhằm hướng con người tới cái siêu nhiên, thần thánh, do
đó nó đã xem nhẹ đời sống hiện thực. Quan niệm này có thể tác động tiêu
cựcđến ý thức giáo dân, đến thái độ của họ đối với xung quanh.
Ba là chức năng điều chỉnh, tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực,
những giá trị nhằm điều chỉnh hành củanhững con người có đạo. Những hành vi
được điều chỉnh ở đây không chỉ là những hànhvi trong thờ cúng mà ngay cả
trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân.
Vì vậy, hệ thống chuẩn mực, giá trị trong lý thuyết đạo đức và xãhội mà tôn giáo
tạo ra đã ảnh hưởng quan trọng đến mọi hoạt động của con người. Tất nhiên ở
đây chúng ta cần phải chú ý rằng những chuẩn mực, giá trị tôn giáo đã bị tước
bỏ khá nhiều những đặc trưng khách quan và phụ thuộc vào những giá trị siêu
nhiên, hư ảo.
6
Bốn là chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng liên hệ giữa những
người có chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ (giao tiếp) được thực hiện chủ yếu
trong hoạt động thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối
cao. Ngoài mối liên hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn
có sự giao tiếp ngoài tôn giáo như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày,
liên hệ trong gia đình… Những mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố,
tăng cường các mối liên hệ tôn giáo của họ.
Năm là chức năng liên kết, trong các xã hội trước đây, tôn giáo với tư cách là
bộ phận tất yếu trong cấu trúc thượng tầng đã đóng vai trò quan trọng của nhân
tố liên kết xã hội, nghĩa là nhân tố làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại,
dựa trên những hệ thống giá trị và chuẩn mực chung của xã hội. Tuy nhiên
không nên quan niệm một cách sai lầm rằng tôn giáo bao giờ cũng là nhân tố
liên kết xã hội chủ yếu, bảo đảm sự thống nhất của xã hội. Sự thống nhất của xã
hội trước hết được bảo đảm bởi hệ thống sản xuất vật chất xã hội chú không
phải bằng cộng đồng tín ngưỡng. Hơn nữa trong những điều kiện xã hội nhất
định, tôn giáo có thể biểu hiện như là ngọn cờ tư tưởng của sự chống đối lại xã
hội, chống lại chế độ phản tiến bộ đương thời.
1.2.2. Ý nghĩa của tôn giáo
Tôn giáo giúp xoa dịu sự lo lắng: Hầu hết mọi người khi gặp phải một vấn đề
nan giải trong cuộc sống đều sẽ cùng thực hiện một hành động để xoa dịu sự lo
lắng, đó là cầu nguyện. Hành động này có thể khá mơ hồ nhưng nó có ý nghĩa
giúp con người có thêm niềm tin để đối mặt với những chuyện không hay mà họ
gặp phải.
Tôn giáo mang lại sự thoải mái: Các tôn giáo đều giúp con người nhìn những
điều khó khăn mà họ phải trải qua bằng một con mắt khác để cảm thấy thoải mái
hơn. Chẳng hạn, Phật giáo lý giải những khó khăn mà người ta đang gặp phải là
nghiệp báo do những điều ác ở kiếp trước đã gây ra. Con người phải chấp nhận
và làm những điều tốt để xóa bỏ nghiệp báo, nhận được những điều lành.
7
Tôn giáo quy định hành vi của con người: Mỗi tôn giáo đều có những giáo lý,
kinh sách quy định hành vi, tiêu chuẩn đạo đức của con người; Phân định những
điều đúng – sai, tốt – xấu,….
Tôn giáo như một động lực vô hình bên trong, thúc đẩy con người đi tìm lý do
tồn tại của mình và sự tương quan với đồng loại. Bên cạnh đó, tôn giáo còn gắn
kết tâm hồn của con người với những yếu tố tâm linh luôn hiện hữu.
1.3. Mối liên hệ của tôn giáo với đời sống theo sự phát triển của loài người
Về mặt tích cực : Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình diện thế giới,
tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai
trò chuyển tải, hoà nhập văn hoá và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội
nơi trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người
Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là, ngoài những điều phù hợp với
tình cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín
ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp
thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ
trong các quan hệ cộng đồng. Hoạt động hướng thiện của con người được tôn
giáo hoá sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn.
Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã
góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về
đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần
làm cho xã hội ngày càng thuần khiết.
Tiêu cực : Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là
thế giới quan tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ,
các giáo dân và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con
người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo
mà họ tin đó là giá trị đích thực.
Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống
không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm
điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên
8
đường của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là
nơi đầy những cám dỗ, "lành ít, dữ nhiều", đầy những cạm bẫy, những cái ác,
những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và
trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa quỷ dữ. Muốn chứng được
Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục
vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho
thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo.
Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo hạnh phúc ảo. Tôn giáo không đề cao
cuộc sống trần gian. Mặt khác, khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh
lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vậy, tôn giáo trở thành
công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn
giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm
vào đam mê, làm liệt ý chí đấu tranh giai cấp. C.Mác gọi “tôn giáo thuốc
phiện của nhân dân” theo nghĩa đó cũng vậy, đạo đức tôn giáo đối lập
với đạo đức chân chính.
*Tiểu kết Chương 1:
Tôn giáo mang ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của con người, đặc biệt là
đời sống về mặt tinh thần. Như trăm ngàn con sông luôn đổ ra biển lớn thì các
tôn giáo từ trước đến nay luôn hướng con người ta đến với các mặt tốt đẹp hơn,
hướng ta đến một tương lai tương sáng hơn, một cuộc sống hạnh phúc hơn.
Nhưng tôn giáo cũng có mặt tiêu cực của nó khi mà bị những người, thế lực lợi
dụng cho mục đích cá nhân của họ; hay những cá nhân, tổ chức cuồng tín gây
ảnh hưởng, thiệt hại cho người khác. Qua đó có thể thấy tôn giáo rất quan trọng
với đời sống của con người nhưng cũng phải biết chọn lọc để tránh bước vào
con đường sai trái.
CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG
NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
2.1. Các loại hình tôn giáo phổ biến ở Việt Nam
9
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Tiểu thừa và
một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tịnh độ cư sĩ Phật hội), Kitô giáo (gồm Công giáo và Tin Lành), tôn
giáo nội sinh như đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác (Ấn Độ giáo và Hồi
giáo). Các loại hình tín ngưỡng dân gian cũng có nhiều ảnh hưởng tại Việt Nam.
Một lượng đáng kể người dân tự xem mình là người không tôn giáo, hoặc ít ra là
trên giấy tờ thể hiện như vậy, mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một
vài dịp trong năm. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng có chỗ đứng rất quan trọng
trong tâm tưởng của đa phần người dân Việt Nam, được thực hành bởi đa số dân
cư dù họ có theo tôn giáo nào hay không.[1]
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì cả
nước có hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được
đăng ký chính thức. Năm tôn giáo lớn nhất là Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo,
Tin Lành, và Cao Đài; các tôn giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ.[2] Ban Tôn giáo
Chính phủ là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về công tác tôn giáo, tín
ngưỡng.
2.2. Vai trò và giá trị của tôn giáo đối với người dân Việt nam
Tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc
Thời gian qua, các tổ chức tôn giáo ngày càng làm tốt công tác vận động chức
sắc, chức việc, tín đồ chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời, các tổ chức tôn
giáo một kênh truyền thông quan trọng, góp phần đưa chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống đến với đồng bào
đạo nhanh và hiệu quả. Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều xây dựng và duy trì
đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc
Thực hiện phát động treo cờ Tổ quốc được các tổ chức tôn giáo, chức sắc,
chức việc tín đồ đều hưởng ứng tích cực. Các tổ chức tôn giáo đã chủ động,
tích cực hướng dẫn các sở tôn giáo, gia đình các tín đồ treo cờ Tổ quốc vào
dịp các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị, Tết cổ truyền của dân tộcsự kiện quan
10
trọng của các tổ chức tôn giáo; tự nguyện, tự giác treo cờ Tổ quốc tại sở tôn
giáo tại gia đình, trên tàu thuyền trong quá trình ra khơi bám biển. nhiều
nơi, tôn giáo đóng vai trò góp phần từng bước nâng cao tính tự quản của cộng
đồng, ý thức trách nhiệm công dân, góp phần bài trừ các tập tục lạc hậu, tăng
cường đoàn kết trong nhân dân, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở vùng đồng bào các tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo cũng đã chủ động đề xuất và tích cực tham gia các mô hình
phòng, chống khắc phục thiên tai, các hoạt động chống biến đổi khí hậu,
nước biển dâng ở nhiều địa phương với nhiều mô hình tốt, cách làm hay đã được
thực hiện nhân rộng, góp phần tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức, làm
thay đổi thái độ, hành vi, thói quen của người dân trong công tác bảo vệ môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. “Chức sắc, chức việc các tôn giáo vai
trò then chốt trong hướng dẫn, vận động, khuyên bảo tín đồ chăm chỉ làm ăn,
chấp hành tốt pháp luâ t, tránh các nạn xã hô i, chấp hành các quy định địa
phương, xây dựng tình làng nghĩa xóm, tôn trọng đoàn kết các tôn giáo, dân
c. Chính những điều đó đã tạo nên sự ổn định, gắn kết, sức mạnh nội tại trong
cộng đồng tôn giáo làm cho tôn giáo luôn vị trí nhất định trong đời sống
xã hội”.
Cộng đồng các tôn giáo đã đóng góp nguồn lực quan trọng vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước
Hơn 26 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm 27% dân số Việt Nam là nguồn nhân lực
quan trọng nghĩa vụ, trách nhiệm quyền lợi trong phát triển kinh tế -
hội của đất nước. Với số lượng tín đồ chiếm số lượng khá lớn trên quy dân
số, đồng bào các tôn giáo là lực lượng sản xuất đông đảo, tham gia vào tất cả các
thành phần kinh tế, đã đang trực tiếp tạo ra của cải vật chất, không chỉ phục
vụ đời sống gia đình mà còn cùng với các thành phần xã hội khác đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế - hội của đất nước. Trong phong trào thi đua phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, các tín đồ tôn giáo đã đoàn kết, giúp đỡ nhau
về vốn kinh nghiệm sản xuất, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ
11
trong sản xuất. Thông qua các sinh hoạt tôn giáo, chức sắc, chức việc đã góp
phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho đồng bào đạo biết cách làm giàu,
vươn lên thoát nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Kinh tế phát triển,
đồng bào đạo điều kiện đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn
nhiều công trình công cộng khác. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo cũng đóng
góp nguồn lực quan trọng, đồng hành cùng các cấp chính quyền trong công tác
an sinh xã hội, giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo.
Những hoạt động của các tổ chức, nhân tôn giáo đã góp phần làm đa dạng
việc huy động các nguồn lực hội; chia sẻ gánh nặng với chính quyền địa
phương, với Nhà nước và xã hội, lan tỏa tinh thần “tương thân, tương ái” sâu sắc
trong cộng đồng.
Các tổ chức tôn giáo góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở của
Đảng và Nhà nước
Với chính sách tôn giáo ngày càng cởi mở, hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá
nhân tôn giáo diễn ra rất đa dạng, phong phú. Nhiều đoàn của tôn giáo ra nước
ngoài dự hội nghị, hội thảo, mở rộng quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn giáo
quốc tế, tham gia diễn đàn khu vực và quốc tế như: Đối thoại liên tín ngưỡng Á
- Âu (ASEM), đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực Châu Á Thái Bình Dương…
Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được tổ chức trọng thể, thành công
nước ta luận thế giới đánh giá cao như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 03
lần đăng cai tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp quốc; Giáo
hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới; i đồng Giám mục
V t Nam tổ chức hô i nghị Giám mục Á châu. Ngoài ra, các sự kiê n tôn giáo lớn
thu hút sự quan tâm, tham dự của chức sắc, tín đồ tôn giáo trong ngoài
nước như: i yến Diêu trì cung của Cao Đài tổ chức hàng năm; Đại i La
Vang của Công giáo… Những hoạt động trên đã góp phần giới thiệu, quảng
về đất nước, con người Việt Nam; về các tôn giáo, lịch sử, văn hóa của Việt
Nam đến với bạn quốc tế, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại của
Đảng, Nhà nước đối ngoại nhân dân, giúp bạn quốc tế hiểu hơn về đời
12
sống tôn giáo Việt Nam, chính sách nhất quán tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Các tổ chức tôn giáo góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở của
Đảng và Nhà nước
Với chính sách tôn giáo ngày càng cởi mở, hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá
nhân tôn giáo diễn ra rất đa dạng, phong phú. Nhiều đoàn của tôn giáo ra nước
ngoài dự hội nghị, hội thảo, mở rộng quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn giáo
quốc tế, tham gia diễn đàn khu vực và quốc tế như: Đối thoại liên tín ngưỡng Á
- Âu (ASEM), đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực Châu Á Thái Bình Dương…
Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được tổ chức trọng thể, thành công
nước ta luận thế giới đánh giá cao như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 03
lần đăng cai tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp quốc; Giáo
hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới; i đồng Giám mục
V t Nam tổ chức hô i nghị Giám mục Á châu. Ngoài ra, các sự kiê n tôn giáo lớn
thu hút sự quan tâm, tham dự của chức sắc, tín đồ tôn giáo trong ngoài
nước như: i yến Diêu trì cung của Cao Đài tổ chức hàng năm; Đại i La
Vang của Công giáo… Những hoạt động trên đã góp phần giới thiệu, quảng
về đất nước, con người Việt Nam; về các tôn giáo, lịch sử, văn hóa của Việt
Nam đến với bạn quốc tế, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại của
Đảng, Nhà nước đối ngoại nhân dân, giúp bạn quốc tế hiểu hơn về đời
sống tôn giáo Việt Nam, chính sách nhất quán tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
2.3. Quan điểm và chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước
Quan điểm của Nhà nước:
Đã từ lâu, Đảng Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động tôn
giáo và ban hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tôn
giáo hoạt động đúng tôn chỉ mục đíchHiến pháp, pháp luật. Quan điểm nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam Nhà nước Việt Nam tôn trọng bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của
13
người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử do tôn giáo, tín
ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Những quan
điểm nhất quán này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, kể từ Hiến pháp năm
1946 đến Hiến pháp 2013.
Trong các văn kiện của Đảng luôn nhất quán quan điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là
một nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Đồng bào các tôn
giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chính sách của Nhà nước:
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH Việt Nam (bổ
sung, phát triển 2011) - một văn kiện có giá trị pháp lý cao nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng ghi rõ: “Tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo không tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc
Nhân dân”.
Nghị quyết 25-NQ/TW khẳng định những chủ trương nhất quán của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với tôn giáo. Nghị quyết khẳng định tín ngưỡng và tôn giáo
nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, đang sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận
của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật được
bảo đảm. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước
pháp luật. Mọi tín đồ đều quyền tự do hành đạo tại gia đình sở thờ tự
14
hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa
nhận được hoạt động theo pháp luật được pháp luật bảo hộ. Việc mở trường
đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sắc giữ gìn, sửa chữa, xây dựng
sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật được tạo điều
kiện thuận lợi. Nghị quyết cũng chỉ việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi
hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được
lợi dụng tôn giáo tuyên truyền đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép
buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật v.v…
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo của người dân. Tất cả những quyền của người dân về tôn
giáo đều được Nhà nước Việt Nam quy định từ việc quản đạo, hành đạo,
truyền đạo… Nơi thờ tự của các tôn giáo được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Tất
nhiên, pháp luật Việt Nam cũng quy định việc thành lập tổ chức tôn giáo phải
được quan Nhà nước thẩm quyền cho phép; hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo phải đúng quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức, văn hóa thuần
phong mỹ tục của dân tộc.
Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền
quản hội của mình trên lãnh thổ Việt Nam tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Để quản lý Nhà nước về tôn giáo thật
sự có hiệu quả, phát huy tác dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đương nhiên Nhà nước
Việt Nam phải áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm các
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân đặc biệt các hành động lợi
dụng tôn giáo các mục đích khác nhau trái với Hiến pháp pháp luật Việt
Nam.
Việt Nam hiện nay, những ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhất lễ Phật đản,
Vu Lan, Noel không chỉ của những người theo các tôn giáo trở thành
ngày vui chung, ngày hội lớn của người dân. lẽ vì vậy mà trong những năm
15
qua, số tín đồ của các tôn giáo ngày một tăng lên không ngừng, nhiều tôn giáo,
hệ phái tôn giáo mới đã được Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện cấp phép
hoạt động. Các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, đúng tôn chỉ, mục
đích luôn được Nhà nước cấp chính quyền quan tâm, tôn trọng tạo điều
kiện hoạt động, phát triển.
Các sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng được xây dựng khang trang cùng
nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện công tác
hội. Các sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học viện
Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo các trường cao đẳng, trung cấp của
các tôn giáo đã đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa
phương. Các ấn phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong
in ấn và phát hành.
2.4. Thực trạng và giải pháp về tôn giáo ở Việt Nam
Thực trạng:
Mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ,
được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp pháp luật. Tuyệt nhiên
không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền ngăn cấm.
Chức sắc, tín đồ các tôn giáo luôn gắn với quốc gia, dân tộc theo phương
châm “Đạo pháp dân tộc CNXH”, thực hiện “sống phúc âm trong lòng dân
tộc”, “nước vinh đạo sáng”, vừa làm tròn bổn phận của tín đồ đối với tôn giáo,
vừa hăng hái lao động sản xuất, góp phần cùng toàn dân đẩy mạnh thực hiện
công cuộc đổi mới, CNH,HĐH phải xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn sinh
động đó đã, đang được khẳng định qua những thành tựu đã đạt được nhiều
nước, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao. Thế nhưng, các thế lực thù địch cùng
các tổ chức,nhân thiếu thiện chí lại ra sức tung tin xuyên tạc, bịa đặt về tình
hình tôn giáo tại Việt Nam. Chúng lợi dụng một số phần tử đội lốt tôn giáo, vi
phạm luật phápbị pháp luật xử để vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, ngăn
cấm xây, sửa nơi thờ tự, cản trở các hoạt động tín ngưỡng của các chức sắc tôn
giáo, nhà tu hành,… Không những thế, các tổ chức thiếu thiện chínước ngoài
16
đã dựa trên những thông tin bịa đặt từ một nhóm người có hoạt động chống Nhà
nước Việt Nam để đưa ra những luận điệu vu cáo “Việt Nam đàn áp, tấn công
tôn giáo”. Gần đây nhất, trong phiên điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ về các cộng
đồng thiên chúa giáo thiểu số bị đàn áp trên thế giới, ông Cơ-rít X-mít lại cố tình
đưa vấn đề hoàn toàn trái với sự thật rằng: Nhà nước Việt Nam đang có sự phân
biệt đối xử về tôn giáo; rằng Việt Nam đang đi những bước lùi về tôn giáo, v.v.
Nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn được các thế lực thù địch những
kẻ cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng Nhà nước Việt
Nam. Nhân dân ta cũng quá hiểu những thủ đoạn này nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN nước ta. ý đồ đen tối
đó, chúng sẽ còn xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật nhiều vấn đề khác nhằm
bôi đenhạ uy tín của Việt Nam. Song sự thật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo Việt Nam luôn được tôn trọng bảo đảm đã sẽ một trong những
thứ khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan những luận điệu xuyên tạc
của chúng.
Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở nước ta hiện nay, ngoại trừ một số hiện
tượng tôn giáo mới từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam, còn lại đa số đều
nguồn gốc phát sinh từ trong nước và phần nhiều xuất hiện trong những năm 90
của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Các hiện tượng tôn giáo mới này xuất hiện tập trung nhiều các tỉnh, thành
phía Bắc, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay, hiện tượng tôn giáo mới đã
đang xuất hiện, phát triển nhiều địa phương trên cả nước, vùng sâu, vùng
xa. Đã có những hiện tượng tôn giáo mới mà người tin theo chỉ là đồng bào dân
tộc thiểu số.
Phần lớn những người đề xướng (lập ra) các hiện tượng tôn giáo mới Việt
Nam phụ nữ số đông người tin theo cũng phụ nữ, tập trung vào đối
tượng những nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.
Hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện đều mang mục đích cá nhân của
những người sáng lập, thậm chí có biểu hiện nhằm thu lợi bất chính về kinh tế
17
Giải pháp:
Theo các chuyên gia lực lượng làm công tác quản nhà nước về tôn giáo,
cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trị toàn hội về vấn đề tôn giáo. Trong đó, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của
Đảng Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất trong chức sắc,
chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo. Giáo dục truyền thống yêu nước, ý
thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc. Làm cho các tôn giáo gắn bó với dân
tộc, với đất nước chủ nghĩa hội, hăng hái thi đua xây dựng bảo vệ Tổ
quốc. Giữ gìn phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh nhớ ơn
những người công với Tổ quốc, dân tộc nhân dân, tôn trọng tín ngưỡng
truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo.
Thông qua đó, tăng cường sự đồng thuận giữa những người tín ngưỡng, tôn
giáo không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người các tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau. Đồng thời, tạo sở để đấu tranh chống những đạo, những
hoạt động mê tín, dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc dân
tộc và nhân dân.
Hai là, tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị
sở. Chú trọng thực hiện tốt quy chế dân chủ sở. Đổi mới nội dung,
phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo phù hợp với đặc
điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn
giáo.
Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với các chức sắc, chức việc,
nhà tu hành tín đồ tôn giáo. Đặc biệt quan tâm củng cố nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị sở xã, phường, thị trấn nơi đông đồng bào tôn
giáo.
18
Ba là, tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo. Trong đó, tăng cường đầu tư
thực hiện hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc
độ phát triển kinh tế - văn hóa - hội, nâng cao đời sống vật chất văn hóa
cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ tôn
giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn.
Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ động đấu
tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để kích động, chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rồi, xâm phạm an ninh quốc gia.
Về việc tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xã
hội, giáo dục của Nhà nước, cần giải quyết theo nguyên tắc: Khuyến khích các
tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia thực hiện hội hóa các hoạt
động y tế, văn hóa, giáo dục của Nhà nước phù hợp với chức năng, nguyên tắc
tổ chức của mỗi tôn giáo và quy định của pháp luật. Cá nhân tín đồ, chức sắc, chức
việc, nhà tu hành tham gia việc xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục với
cách công dân thì được khuyến khích, tạo điều kiện thực hiện theo quy định
pháp luật.
Thống nhất chủ trương xử vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo
hoặc liên quan đến tôn giáo: Đối với đất đai, thực hiện theo quy định của
pháp luật hiện hành. Đối với việc khiếu kiện liên quan đến nhà và cơ sở tôn giáo
đã chuyển giao cho chính quyền hoặc đoàn thể sử dụng, về nguyên tắc, xử
theo quy định pháp luật hiện hành; riêng đối với những trường hợp nhà, đất do
tôn giáo đã hiến tặng văn bản xác nhận thì không đặt vấn đề trả lại. Đối với
hội đoàn tôn giáo thực hiện theo nguyên tắc mọi tổ chức tôn giáo phải được Nhà
nước công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Bốn là, tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo. Xây dựng
thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đảm bảo chế độ
chính sách đối với đội ngũ làm công tác tôn giáo; quan tâm thỏa đáng việc đào
tạo, bồi dưỡng với đối tượng này.
19
Với quan điểm công tác tôn giáo trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các
nhiệm vụ trên đây nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trị, của mọi cấp,
mọi ngành, trong mọi lĩnh vực, của mọi cán bộ, đảng viên. Trong đó tổ chức
và cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có nhiệm vụ trực tiếp, cán bộ, báo
chí, xuất bản có vai trò rất quan trọng./.
Tiểu kết Chương 2
Mỗi tôn giáo tại Việt Nam, dù có đức tin, hệ thống giáo lý, giáo luật khác nhau,
nhưng cùng điểm tương đồng tinh thần dân tộc, trong phương châm sống
“tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo không chỉ lưu giữ, bồi đắp làm
phong phú những giá trị truyền thống văn hóa, mang giá trị nhân văn, đạo đức
ảnh hưởng tích cực trong đời sống hội; còn cụ thể hóa các giá trị đó
thành những hành động thiết thực cứu người, giúp đời; góp phần tạo nên sự
phong phú, đặc sắc của văn hóa truyền thống dân tộc. Tôn giáo Việt Nam
không chỉ một thành tố của văn hóa còn thực sự một nguồn lực quan
trọng góp phần phát triển đất nước./.
Hoạt động tôn giáo Việt Nam ngày càng sôi động, những chủ trương, chính
sách của Đảng Nhà nước Việt Nam về tôn giáo ngày càng cởi mở hơn, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động tôn giáo./
nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn được các thế lực thù địch và những kẻ
cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng Nhà nước Việt
Nam. Nhân dân ta cũng quá hiểu những thủ đoạn này nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN nước ta. ý đồ đen tối
đó, chúng sẽ còn xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật nhiều vấn đề khác nhằm
bôi đenhạ uy tín của Việt Nam. Song sự thật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo Việt Nam luôn được tôn trọng bảo đảm đã sẽ một trong những
thứ khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan những luận điệu xuyên tạc
của chúng.
| 1/29

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
------------------------------------
TIỂU LUẬN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN QUỲNH ANH NHÓM THỰC HIỆN:
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 2 NĂM 2023 1 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................
2. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu..........................................................................
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.............................................................
4. Kết cấu tiểu luận.....................................................................................................
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tôn giáo theo quan điểm Mác-Lênin.....................................
1.2. Vai trò và ý nghĩa của tôn giáo .....................................................................................
1.3. Mối liên hệ của tôn giáo với đời sống theo sự phát triển của loài người ..................... Tiểu kết Chương 1
CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG
NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO................................................................................
2.1. Các loại hình tôn giáo phổ biến ở Việt Nam.................................................................
2.2. Vai trò và giá trị của tôn giáo đối với người dân Việt nam ...........................................
2.3. Quan điểm và chính về tôn giáo của Đảng và Nhà nước..............................................
2.4. Thực trạng và giải pháp về tôn giáo ở Việt Nam........................................................... Tiểu kết Chương 2
KẾT LUẬN................................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2
Trải dài lịch sử từ xưa cho đến cuộc sống hiện đại ngày nay, tín ngưỡng tôn giáo
vẫn luôn là yếu tố được chú trọng, thể hiện mật thiết từ sự ảnh hưởng đến hoạt
động đời sống của con người. Việt Nam là đất nước đa dạng sắc tộc khi có đến
54 dân tộc cùng sinh sống trên cùng lãnh thổ, tương ứng với đó mỗi dân tộc có
một tín ngưỡng tôn giáo khác nhau dẫn đến những vấn đề ảnh hưởng đến sự
phát triển của cá nhân, tập thể, xã hội và đất nước. Thực trạng nói lên tín ngưỡng
tôn giáo có tác động lớn đến cả chính trị, kinh tế của một quốc gia và rất nhiều
vấn đề liên quan. Vì vậy nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết về vấn đề tín
ngưỡng tôn giáo là vô cùng quan trọng, cần thiết.
2. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tôn giáo, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam
- Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích về những phạm trù liên quan trực tiếp và gián
tiếp đến tôn giáo cùng những chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn
giáo. Hiểu được tầm quan trọng và ý nghĩa của tín ngưỡng tôn giáo đối với con
người trong cuộc sống sinh hoạt, văn hóa, cách thức làm việc,...Có góc nhìn
khách quan về tín ngưỡng tôn giáo từ nhiều góc độ của người dân, Đảng và Nhà
nước, những quan điểm về tôn giáo nói chung và nói riêng.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin về vấn đề tôn giáo
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, phương pháp kế thừa, phương
pháp lịch sử và phương pháp luận biện chứng. 4. Kết cấu tiểu luận
Bài được gồm hai phần : mở đầu và nội dung.
Mở đầu nhằm giải thích lý do chọn đề tài, đối tượng, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu.
Nội dung chia thành hai chương : lý luận và thực trạng, phân tích và làm rõ các
khái niệm liên quan nhằm phục vụ mục tiêu của bài. 3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÔN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tôn giáo
1.1.1. Khái niệm của tôn giáo
Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn
phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu,
thế giới của người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu
hình và vô hình. Song song với đó, tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của
con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn
đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải dựa vào thánh thần mà còn hướng
con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời thánh thiện, mang tính
“Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại, tương lai cùng
chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo tưởng để mà
yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế giới trần gian có nhiều bất công và khổ ải.
Như vậy, tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân
loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn
năm qua. Nói chung bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó,
cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng
liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với
những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó. Với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư
ảo - vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần
thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”
1.1.2. Đặc điểm của tôn giáo
Thứ nhất, các “tôn giáo” và tín ngưỡng” có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng,
không kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Đây là yếu tố để đại đa số các dân tộc trên 4
thế giới dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Trong nhiều
cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và người không có tôn
giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, thị trấn, khu vực có nhóm tín đồ của
tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những
người không theo tôn giáo họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm, dòng họ.
Thứ hai, các tôn giáo luôn có tín ngưỡng riêng của mình từ đó mà họ thờ cúng
các đối tượng, nhân vật khác nhau. Có thể họ thờ cúng nhân thần, những người
có công lớn; có ý nghĩa lớn lao về mặt tinh thần ở thời xa xưa. Giúp cho con
người thời xưa có được niềm tin tránh hỏi những nỗi sợ về tự nhiên bí ẩn ngoài
kia, nay vẫn chỉ là niềm tin dân gian, chỉ là các tín ngưỡng. Ngoài ra còn có hệ
thống giáo lý của các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài,…
Hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ các tôn giáo có trước.
Thứ ba, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng
đều hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc,
góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản
sắc của dân tộc. Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín
ngưỡng; các tín ngưỡng này đã có sự giao thoa với văn hóa của từng dân tộc,
vùng miền khác nhau. Qua hàng trăm năm hình thành và phát triển tôn giáo đã
trở nên đa dạng và xuất hiện hàu như trên toàn thế giới
Thứ tư, trong lịch sử của thế giới, các thế lực lớn mạnh luôn tìm cách lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm
lược, đô hộ các nước yếu hơn, hoặc gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an
toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng. HIện nay chúng vẫn sử dụng
các tín ngưỡng, tôn giáo như một quân bài chiến lược quan trọng cho những
mục đích thâm độc mang lại lợi ích cho chúng. 5
1.2. Vai trò và ý nghĩa của tôn giáo
1.2.1. Vai trò của tôn giáo
Một là chức năng đền bù hư ảo, luận điểm nổi tiếng của C. Mác: “Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân” đã làm nổi bật chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo.
Giống như thuốc phiện, tôn giáo đã tạo ra cái vẻ bề ngoài của “sự giảm nhẹ” tạm
thời những nỗi đau khổ của con người, an ủi cho những sự mất mát, thiếu hụt
của con người trong cuộc sống. Chức năng đền bù hư ảo không chỉ là chức năng
chủ yếu, đặc thù mà còn là chức năng phổ biến của tôn giáo. Ở đâu có tôn giáo ở
đó có chức năng đền bù hư ảo. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phức tạp, nó
không chỉ thực hiện một chức năng mà gồm một hệ thống chức năng xã hội.
Mặc dù là chức năng chủ yếu nhưng chức năng đền bù hư ảo không thể tách rời
các chức năng khác của tôn giáo.
Hai là chức năng thế giới quan, khi phản ánh một cách hư ảo hiện thực, tôn
giáo có tham vọng tạo ra một bức tranh của mình về thế giới nhằm thoả mãn nhu
cầu nhận thức của con người dưới một hình thức phi hiện thực. Bức tranh tôn
giáo ấy bao gồm hai bộ phận: thế giới thần thánh và thế giới trần tục và trên cơ
sở đó mà tôn giáo giải thích các vấn đề của tự nhiên cũng như xã hội. Sự lý giải
của tôn giáo về thế giới nhằm hướng con người tới cái siêu nhiên, thần thánh, do
đó nó đã xem nhẹ đời sống hiện thực. Quan niệm này có thể tác động tiêu
cựcđến ý thức giáo dân, đến thái độ của họ đối với xung quanh.
Ba là chức năng điều chỉnh, tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực,
những giá trị nhằm điều chỉnh hành củanhững con người có đạo. Những hành vi
được điều chỉnh ở đây không chỉ là những hànhvi trong thờ cúng mà ngay cả
trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân.
Vì vậy, hệ thống chuẩn mực, giá trị trong lý thuyết đạo đức và xãhội mà tôn giáo
tạo ra đã ảnh hưởng quan trọng đến mọi hoạt động của con người. Tất nhiên ở
đây chúng ta cần phải chú ý rằng những chuẩn mực, giá trị tôn giáo đã bị tước
bỏ khá nhiều những đặc trưng khách quan và phụ thuộc vào những giá trị siêu nhiên, hư ảo. 6
Bốn là chức năng giao tiếp của tôn giáo thể hiện khả năng liên hệ giữa những
người có chung một tín ngưỡng. Sự liên hệ (giao tiếp) được thực hiện chủ yếu
trong hoạt động thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối
cao. Ngoài mối liên hệ giao tiếp trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn
có sự giao tiếp ngoài tôn giáo như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày,
liên hệ trong gia đình… Những mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố,
tăng cường các mối liên hệ tôn giáo của họ.
Năm là chức năng liên kết, trong các xã hội trước đây, tôn giáo với tư cách là
bộ phận tất yếu trong cấu trúc thượng tầng đã đóng vai trò quan trọng của nhân
tố liên kết xã hội, nghĩa là nhân tố làm ổn định những trật tự xã hội đang tồn tại,
dựa trên những hệ thống giá trị và chuẩn mực chung của xã hội. Tuy nhiên
không nên quan niệm một cách sai lầm rằng tôn giáo bao giờ cũng là nhân tố
liên kết xã hội chủ yếu, bảo đảm sự thống nhất của xã hội. Sự thống nhất của xã
hội trước hết được bảo đảm bởi hệ thống sản xuất vật chất xã hội chú không
phải bằng cộng đồng tín ngưỡng. Hơn nữa trong những điều kiện xã hội nhất
định, tôn giáo có thể biểu hiện như là ngọn cờ tư tưởng của sự chống đối lại xã
hội, chống lại chế độ phản tiến bộ đương thời.
1.2.2. Ý nghĩa của tôn giáo
Tôn giáo giúp xoa dịu sự lo lắng: Hầu hết mọi người khi gặp phải một vấn đề
nan giải trong cuộc sống đều sẽ cùng thực hiện một hành động để xoa dịu sự lo
lắng, đó là cầu nguyện. Hành động này có thể khá mơ hồ nhưng nó có ý nghĩa
giúp con người có thêm niềm tin để đối mặt với những chuyện không hay mà họ gặp phải.
Tôn giáo mang lại sự thoải mái: Các tôn giáo đều giúp con người nhìn những
điều khó khăn mà họ phải trải qua bằng một con mắt khác để cảm thấy thoải mái
hơn. Chẳng hạn, Phật giáo lý giải những khó khăn mà người ta đang gặp phải là
nghiệp báo do những điều ác ở kiếp trước đã gây ra. Con người phải chấp nhận
và làm những điều tốt để xóa bỏ nghiệp báo, nhận được những điều lành. 7
Tôn giáo quy định hành vi của con người: Mỗi tôn giáo đều có những giáo lý,
kinh sách quy định hành vi, tiêu chuẩn đạo đức của con người; Phân định những
điều đúng – sai, tốt – xấu,….
Tôn giáo như một động lực vô hình bên trong, thúc đẩy con người đi tìm lý do
tồn tại của mình và sự tương quan với đồng loại. Bên cạnh đó, tôn giáo còn gắn
kết tâm hồn của con người với những yếu tố tâm linh luôn hiện hữu.
1.3. Mối liên hệ của tôn giáo với đời sống theo sự phát triển của loài người
Về mặt tích cực : Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình diện thế giới,
tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai
trò chuyển tải, hoà nhập văn hoá và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội
nơi trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người
Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là, ngoài những điều phù hợp với
tình cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín
ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp
thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ
trong các quan hệ cộng đồng. Hoạt động hướng thiện của con người được tôn
giáo hoá sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn.
Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã
góp phần chế ngự các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về
đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần
làm cho xã hội ngày càng thuần khiết.
Tiêu cực : Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là
thế giới quan tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ,
các giáo dân và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn giáo), nó sẽ làm cho con
người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư ảo
mà họ tin đó là giá trị đích thực.
Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống
không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm
điều cốt yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên 8
đường của Chúa hay Niết bàn của Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là
nơi đầy những cám dỗ, "lành ít, dữ nhiều", đầy những cạm bẫy, những cái ác,
những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và
trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa quỷ dữ. Muốn chứng được
Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục
vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho
thấy mặt tiêu cực của thế giới quan tôn giáo.
Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao
cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh
nô lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành
công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng, lúc đầu tôn
giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm
vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. C.Mác gọi “tôn giáo là thuốc
phiện của nhân dân” là theo nghĩa đó và cũng vì vậy, đạo đức tôn giáo đối lập
với đạo đức chân chính.
*Tiểu kết Chương 1:
Tôn giáo mang ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của con người, đặc biệt là
đời sống về mặt tinh thần. Như trăm ngàn con sông luôn đổ ra biển lớn thì các
tôn giáo từ trước đến nay luôn hướng con người ta đến với các mặt tốt đẹp hơn,
hướng ta đến một tương lai tương sáng hơn, một cuộc sống hạnh phúc hơn.
Nhưng tôn giáo cũng có mặt tiêu cực của nó khi mà bị những người, thế lực lợi
dụng cho mục đích cá nhân của họ; hay những cá nhân, tổ chức cuồng tín gây
ảnh hưởng, thiệt hại cho người khác. Qua đó có thể thấy tôn giáo rất quan trọng
với đời sống của con người nhưng cũng phải biết chọn lọc để tránh bước vào con đường sai trái.
CHƯƠNG 2: TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG
NHÀ NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
2.1. Các loại hình tôn giáo phổ biến ở Việt Nam 9
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Tiểu thừa và
một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tịnh độ cư sĩ Phật hội), Kitô giáo (gồm Công giáo và Tin Lành), tôn
giáo nội sinh như đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác (Ấn Độ giáo và Hồi
giáo). Các loại hình tín ngưỡng dân gian cũng có nhiều ảnh hưởng tại Việt Nam.
Một lượng đáng kể người dân tự xem mình là người không tôn giáo, hoặc ít ra là
trên giấy tờ thể hiện như vậy, mặc dù họ có đi đến các địa điểm tôn giáo vào một
vài dịp trong năm. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng có chỗ đứng rất quan trọng
trong tâm tưởng của đa phần người dân Việt Nam, được thực hành bởi đa số dân
cư dù họ có theo tôn giáo nào hay không.[1]
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019 thì cả
nước có hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tôn giáo được
đăng ký chính thức. Năm tôn giáo lớn nhất là Công giáo, Phật giáo, Hòa Hảo,
Tin Lành, và Cao Đài; các tôn giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ.[2] Ban Tôn giáo
Chính phủ là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về công tác tôn giáo, tín ngưỡng.
2.2. Vai trò và giá trị của tôn giáo đối với người dân Việt nam
Tôn giáo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc
Thời gian qua, các tổ chức tôn giáo ngày càng làm tốt công tác vận động chức
sắc, chức việc, tín đồ chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời, các tổ chức tôn
giáo là một kênh truyền thông quan trọng, góp phần đưa chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống và đến với đồng bào có
đạo nhanh và hiệu quả. Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đều xây dựng và duy trì
đường hướng hành đạo gắn bó, đồng hành cùng dân tộc
Thực hiện phát động treo cờ Tổ quốc được các tổ chức tôn giáo, chức sắc,
chức việc và tín đồ đều hưởng ứng tích cực. Các tổ chức tôn giáo đã chủ động,
tích cực hướng dẫn các cơ sở tôn giáo, gia đình các tín đồ treo cờ Tổ quốc vào
dịp các ngày lễ lớn, sự kiện chính trị, Tết cổ truyền của dân tộc và sự kiện quan 10
trọng của các tổ chức tôn giáo; tự nguyện, tự giác treo cờ Tổ quốc tại cơ sở tôn
giáo và tại gia đình, trên tàu thuyền trong quá trình ra khơi bám biển. Ở nhiều
nơi, tôn giáo đóng vai trò góp phần từng bước nâng cao tính tự quản của cộng
đồng, ý thức trách nhiệm công dân, góp phần bài trừ các tập tục lạc hậu, tăng
cường đoàn kết trong nhân dân, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở vùng đồng bào các tôn giáo.
Các tổ chức tôn giáo cũng đã chủ động đề xuất và tích cực tham gia các mô hình
phòng, chống và khắc phục thiên tai, các hoạt động chống biến đổi khí hậu,
nước biển dâng ở nhiều địa phương với nhiều mô hình tốt, cách làm hay đã được
thực hiện và nhân rộng, góp phần tạo sự chuyển biến mạnh về nhận thức, làm
thay đổi thái độ, hành vi, thói quen của người dân trong công tác bảo vệ môi
trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. “Chức sắc, chức việc các tôn giáo có vai
trò then chốt trong hướng dẫn, vận động, khuyên bảo tín đồ chăm chỉ làm ăn,
chấp hành tốt pháp luâ ‹t, tránh các tê ‹ nạn xã hô ‹i, chấp hành các quy định ở địa
phương, xây dựng tình làng nghĩa xóm, tôn trọng và đoàn kết các tôn giáo, dân
tô ‹c. Chính những điều đó đã tạo nên sự ổn định, gắn kết, sức mạnh nội tại trong
cộng đồng tôn giáo và làm cho tôn giáo luôn có vị trí nhất định trong đời sống xã hội”.
Cộng đồng các tôn giáo đã đóng góp nguồn lực quan trọng vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước
Hơn 26 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm 27% dân số Việt Nam là nguồn nhân lực
quan trọng có nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi trong phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Với số lượng tín đồ chiếm số lượng khá lớn trên quy mô dân
số, đồng bào các tôn giáo là lực lượng sản xuất đông đảo, tham gia vào tất cả các
thành phần kinh tế, đã và đang trực tiếp tạo ra của cải vật chất, không chỉ phục
vụ đời sống gia đình mà còn cùng với các thành phần xã hội khác đóng góp tích
cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong phong trào thi đua phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, các tín đồ tôn giáo đã đoàn kết, giúp đỡ nhau
về vốn và kinh nghiệm sản xuất, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ 11
trong sản xuất. Thông qua các sinh hoạt tôn giáo, chức sắc, chức việc đã góp
phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho đồng bào có đạo biết cách làm giàu,
vươn lên thoát nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Kinh tế phát triển,
đồng bào có đạo có điều kiện đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và
nhiều công trình công cộng khác. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo cũng đóng
góp nguồn lực quan trọng, đồng hành cùng các cấp chính quyền trong công tác
an sinh xã hội, giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo.
Những hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đã góp phần làm đa dạng
việc huy động các nguồn lực xã hội; chia sẻ gánh nặng với chính quyền địa
phương, với Nhà nước và xã hội, lan tỏa tinh thần “tương thân, tương ái” sâu sắc trong cộng đồng.
Các tổ chức tôn giáo góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở của
Đảng và Nhà nước
Với chính sách tôn giáo ngày càng cởi mở, hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá
nhân tôn giáo diễn ra rất đa dạng, phong phú. Nhiều đoàn của tôn giáo ra nước
ngoài dự hội nghị, hội thảo, mở rộng quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn giáo
quốc tế, tham gia diễn đàn khu vực và quốc tế như: Đối thoại liên tín ngưỡng Á
- Âu (ASEM), đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực Châu Á Thái Bình Dương…
Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được tổ chức trọng thể, thành công ở
nước ta và dư luận thế giới đánh giá cao như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 03
lần đăng cai và tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp quốc; Giáo
hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới; Hô ‹i đồng Giám mục
Viê ‹t Nam tổ chức hô ‹i nghị Giám mục Á châu. Ngoài ra, các sự kiê ‹n tôn giáo lớn
thu hút sự quan tâm, tham dự của chức sắc, tín đồ tôn giáo ở trong và ngoài
nước như: Hô ‹i yến Diêu trì cung của Cao Đài tổ chức hàng năm; Đại hô ‹i La
Vang của Công giáo… Những hoạt động trên đã góp phần giới thiệu, quảng bá
về đất nước, con người Việt Nam; về các tôn giáo, lịch sử, văn hóa của Việt
Nam đến với bạn bè quốc tế, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại của
Đảng, Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về đời 12
sống tôn giáo Việt Nam, chính sách nhất quán tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Các tổ chức tôn giáo góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở của
Đảng và Nhà nước
Với chính sách tôn giáo ngày càng cởi mở, hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá
nhân tôn giáo diễn ra rất đa dạng, phong phú. Nhiều đoàn của tôn giáo ra nước
ngoài dự hội nghị, hội thảo, mở rộng quan hệ quốc tế với các tổ chức tôn giáo
quốc tế, tham gia diễn đàn khu vực và quốc tế như: Đối thoại liên tín ngưỡng Á
- Âu (ASEM), đối thoại Liên tín ngưỡng khu vực Châu Á Thái Bình Dương…
Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn đã được tổ chức trọng thể, thành công ở
nước ta và dư luận thế giới đánh giá cao như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 03
lần đăng cai và tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp quốc; Giáo
hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới; Hô ‹i đồng Giám mục
Viê ‹t Nam tổ chức hô ‹i nghị Giám mục Á châu. Ngoài ra, các sự kiê ‹n tôn giáo lớn
thu hút sự quan tâm, tham dự của chức sắc, tín đồ tôn giáo ở trong và ngoài
nước như: Hô ‹i yến Diêu trì cung của Cao Đài tổ chức hàng năm; Đại hô ‹i La
Vang của Công giáo… Những hoạt động trên đã góp phần giới thiệu, quảng bá
về đất nước, con người Việt Nam; về các tôn giáo, lịch sử, văn hóa của Việt
Nam đến với bạn bè quốc tế, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại của
Đảng, Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về đời
sống tôn giáo Việt Nam, chính sách nhất quán tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
2.3. Quan điểm và chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước
Quan điểm của Nhà nước:
Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động tôn
giáo và ban hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tôn
giáo hoạt động đúng tôn chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật. Quan điểm nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của 13
người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín
ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật. Những quan
điểm nhất quán này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, kể từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp 2013.
Trong các văn kiện của Đảng luôn nhất quán quan điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là
một nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Đồng bào các tôn
giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chính sách của Nhà nước:
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường
theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (bổ
sung, phát triển 2011) - một văn kiện có giá trị pháp lý cao nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam cũng ghi rõ: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật.
Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân”.
Nghị quyết 25-NQ/TW khẳng định những chủ trương nhất quán của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với tôn giáo. Nghị quyết khẳng định tín ngưỡng và tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận
của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán
chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật được
bảo đảm. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước
pháp luật. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự 14
hợp pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa
nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc mở trường
đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sắc và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng
cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật được tạo điều
kiện thuận lợi. Nghị quyết cũng chỉ rõ việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi
hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được
lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép
buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật v.v…
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo của người dân. Tất cả những quyền của người dân về tôn
giáo đều được Nhà nước Việt Nam quy định rõ từ việc quản đạo, hành đạo,
truyền đạo… Nơi thờ tự của các tôn giáo được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Tất
nhiên, pháp luật Việt Nam cũng quy định việc thành lập tổ chức tôn giáo phải
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo phải đúng quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức, văn hóa và thuần
phong mỹ tục của dân tộc.
Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền
quản lý xã hội của mình trên lãnh thổ Việt Nam ở tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Để quản lý Nhà nước về tôn giáo thật
sự có hiệu quả, phát huy tác dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đương nhiên Nhà nước
Việt Nam phải áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm các
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và đặc biệt là các hành động lợi
dụng tôn giáo vì các mục đích khác nhau trái với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Ở Việt Nam hiện nay, những ngày lễ lớn của các tôn giáo, nhất là lễ Phật đản,
Vu Lan, Noel … không chỉ là của những người theo các tôn giáo mà trở thành
ngày vui chung, ngày hội lớn của người dân. Có lẽ vì vậy mà trong những năm 15
qua, số tín đồ của các tôn giáo ngày một tăng lên không ngừng, nhiều tôn giáo,
hệ phái tôn giáo mới đã được Nhà nước Việt Nam tạo mọi điều kiện cấp phép
hoạt động. Các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, đúng tôn chỉ, mục
đích luôn được Nhà nước và cấp chính quyền quan tâm, tôn trọng và tạo điều
kiện hoạt động, phát triển.
Các cơ sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng được xây dựng khang trang cùng
nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện công tác
xã hội. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học viện
Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của
các tôn giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa
phương. Các ấn phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn và phát hành.
2.4. Thực trạng và giải pháp về tôn giáo ở Việt Nam Thực trạng:
Mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ,
được tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuyệt nhiên
không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền ngăn cấm.
Chức sắc, tín đồ các tôn giáo luôn gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phương
châm “Đạo pháp dân tộc và CNXH”, thực hiện “sống phúc âm trong lòng dân
tộc”, “nước vinh đạo sáng”, vừa làm tròn bổn phận của tín đồ đối với tôn giáo,
vừa hăng hái lao động sản xuất, góp phần cùng toàn dân đẩy mạnh thực hiện
công cuộc đổi mới, CNH,HĐH phải xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn sinh
động đó đã, đang được khẳng định qua những thành tựu đã đạt và được nhiều
nước, nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao. Thế nhưng, các thế lực thù địch cùng
các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí lại ra sức tung tin xuyên tạc, bịa đặt về tình
hình tôn giáo tại Việt Nam. Chúng lợi dụng một số phần tử đội lốt tôn giáo, vi
phạm luật pháp và bị pháp luật xử lý để vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, ngăn
cấm xây, sửa nơi thờ tự, cản trở các hoạt động tín ngưỡng của các chức sắc tôn
giáo, nhà tu hành,… Không những thế, các tổ chức thiếu thiện chí ở nước ngoài 16
đã dựa trên những thông tin bịa đặt từ một nhóm người có hoạt động chống Nhà
nước Việt Nam để đưa ra những luận điệu vu cáo “Việt Nam đàn áp, tấn công
tôn giáo”. Gần đây nhất, trong phiên điều trần tại Quốc hội Hoa Kỳ về các cộng
đồng thiên chúa giáo thiểu số bị đàn áp trên thế giới, ông Cơ-rít X-mít lại cố tình
đưa vấn đề hoàn toàn trái với sự thật rằng: Nhà nước Việt Nam đang có sự phân
biệt đối xử về tôn giáo; rằng Việt Nam đang đi những bước lùi về tôn giáo, v.v.
Nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn được các thế lực thù địch và những
kẻ cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Nhân dân ta cũng quá hiểu những thủ đoạn này là nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Vì ý đồ đen tối
đó, chúng sẽ còn xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật nhiều vấn đề khác nhằm
bôi đen và hạ uy tín của Việt Nam. Song sự thật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm đã và sẽ là một trong những
thứ vũ khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan những luận điệu xuyên tạc của chúng.
Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở nước ta hiện nay, ngoại trừ một số hiện
tượng tôn giáo mới từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam, còn lại đa số đều có
nguồn gốc phát sinh từ trong nước và phần nhiều xuất hiện trong những năm 90
của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Các hiện tượng tôn giáo mới này xuất hiện và tập trung nhiều ở các tỉnh, thành
phía Bắc, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hiện nay, hiện tượng tôn giáo mới đã
và đang xuất hiện, phát triển ở nhiều địa phương trên cả nước, vùng sâu, vùng
xa. Đã có những hiện tượng tôn giáo mới mà người tin theo chỉ là đồng bào dân tộc thiểu số.
Phần lớn những người đề xướng (lập ra) các hiện tượng tôn giáo mới ở Việt
Nam là phụ nữ và số đông người tin theo cũng là phụ nữ, tập trung vào đối
tượng những nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội.
Hầu hết các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện đều mang mục đích cá nhân của
những người sáng lập, thậm chí có biểu hiện nhằm thu lợi bất chính về kinh tế 17 Giải pháp:
Theo các chuyên gia và lực lượng làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo,
cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo. Trong đó, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo của
Đảng và Nhà nước trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là trong chức sắc,
chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo. Giáo dục truyền thống yêu nước, ý
thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc. Làm cho các tôn giáo gắn bó với dân
tộc, với đất nước và chủ nghĩa xã hội, hăng hái thi đua xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn
những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân, tôn trọng tín ngưỡng
truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo.
Thông qua đó, tăng cường sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn
giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau. Đồng thời, tạo cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo, những
hoạt động mê tín, dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm hại đến lợi ích của Tổ quốc dân tộc và nhân dân.
Hai là, tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị
ở cơ sở. Chú trọng thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Đổi mới nội dung,
phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo phù hợp với đặc
điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo.
Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với các chức sắc, chức việc,
nhà tu hành và tín đồ tôn giáo. Đặc biệt quan tâm củng cố và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn nơi có đông đồng bào tôn giáo. 18
Ba là, tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo. Trong đó, tăng cường đầu tư và
thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc
độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ tôn
giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn.
Tăng cường cảnh giác cách mạng, xây dựng phương án cụ thể, chủ động đấu
tranh làm thất bại âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo để kích động, chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, gây rồi, xâm phạm an ninh quốc gia.
Về việc tôn giáo tham gia chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xã
hội, giáo dục của Nhà nước, cần giải quyết theo nguyên tắc: Khuyến khích các
tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia thực hiện xã hội hóa các hoạt
động y tế, văn hóa, giáo dục của Nhà nước phù hợp với chức năng, nguyên tắc
tổ chức của mỗi tôn giáo và quy định của pháp luật. Cá nhân tín đồ, chức sắc, chức
việc, nhà tu hành tham gia việc xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục với
tư cách công dân thì được khuyến khích, tạo điều kiện thực hiện theo quy định pháp luật.
Thống nhất chủ trương xử lý vấn đề nhà, đất sử dụng vào mục đích tôn giáo
hoặc có liên quan đến tôn giáo: Đối với đất đai, thực hiện theo quy định của
pháp luật hiện hành. Đối với việc khiếu kiện liên quan đến nhà và cơ sở tôn giáo
đã chuyển giao cho chính quyền hoặc đoàn thể sử dụng, về nguyên tắc, xử lý
theo quy định pháp luật hiện hành; riêng đối với những trường hợp nhà, đất do
tôn giáo đã hiến tặng có văn bản xác nhận thì không đặt vấn đề trả lại. Đối với
hội đoàn tôn giáo thực hiện theo nguyên tắc mọi tổ chức tôn giáo phải được Nhà
nước công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật.
Bốn là, tăng cường công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo. Xây dựng và
thực hiện tốt công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đảm bảo chế độ
chính sách đối với đội ngũ làm công tác tôn giáo; quan tâm thỏa đáng việc đào
tạo, bồi dưỡng với đối tượng này. 19
Với quan điểm công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các
nhiệm vụ trên đây là nhiệm vụ chung của toàn hệ thống chính trị, của mọi cấp,
mọi ngành, trong mọi lĩnh vực, của mọi cán bộ, đảng viên. Trong đó có tổ chức
và cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có nhiệm vụ trực tiếp, cán bộ, báo
chí, xuất bản có vai trò rất quan trọng./. Tiểu kết Chương 2
Mỗi tôn giáo tại Việt Nam, dù có đức tin, hệ thống giáo lý, giáo luật khác nhau,
nhưng cùng có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, trong phương châm sống
“tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo không chỉ lưu giữ, bồi đắp và làm
phong phú những giá trị truyền thống văn hóa, mang giá trị nhân văn, đạo đức
có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội; mà còn cụ thể hóa các giá trị đó
thành những hành động thiết thực cứu người, giúp đời; góp phần tạo nên sự
phong phú, đặc sắc của văn hóa truyền thống dân tộc. Tôn giáo ở Việt Nam
không chỉ là một thành tố của văn hóa mà còn thực sự là một nguồn lực quan
trọng góp phần phát triển đất nước./.
Hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ngày càng sôi động, những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo ngày càng cởi mở hơn, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho các hoạt động tôn giáo./
nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn được các thế lực thù địch và những kẻ
cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước Việt
Nam. Nhân dân ta cũng quá hiểu những thủ đoạn này là nhằm xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Vì ý đồ đen tối
đó, chúng sẽ còn xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật nhiều vấn đề khác nhằm
bôi đen và hạ uy tín của Việt Nam. Song sự thật về quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm đã và sẽ là một trong những
thứ vũ khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan những luận điệu xuyên tạc của chúng.