lOMoARcPSD| 60851861
CHÍNH SÁCH VĂN HÓA GIAI ĐOẠN 1975-1985
1. BỐI CẢNH CỦA CHÍNH SÁCH VĂN HÓA GIAI ĐOẠN 1975-1985
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta đã giành được thắng lợi đại, miền Nam
hoàn toàn giải phóng, xóa bỏ chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ trên đất nước ta. Từ đây, cách
mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên trong giai đoạn này đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân
dân vừa ra sức khôi phục kinh tế, vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới
phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời tập trung lãnh đạo
xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước,
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài hình,
chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm, việc
hoạch định thực hiện đường lối cách mạng hội chủ nghĩa, lúc, nơi đã mắc sai lầm
khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ,
khủng hoảng kinh tế xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước những khó khăn thách thức, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn,m tòi, hoạch định đường
lối đổi mới như hiến pháp 198: được quốc hội khóa VI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 18 tháng 12
năm 1980, cũng như hiến pháp 1959 thì hiến pháp 1980 vẫn chưa chứa đựng nhiều quy định của
chế tập trung quan liêu bao cấp những nhận thức của chúng ta về Hội Chủ Nghĩa.
Hiến pháp quy định 1 số điều như:
- Vẫn theo nền kinh tế quốc dân chủ yếu 2 thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sởhữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động
hay theo điều 35: mọi hoạt động đầu cơ, tích trữ, rối loạn thị trường đều bị pháp luật nghiêm trị.
- Về lĩnh vực Văn hóa theo điều 44: Văn học nghệ thuật Việt Nam được xây dựng trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác lênin và theo đường lối của đảng..
Theo Quyết định 25/QĐCP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc
doanh
=> Những năm 80 của thế kỷ 20 nhìn chung kinh tế hội rơi vào tình trạng khủng
hoảng. Sự vận hành của nền kinh tế quan liêu bao cấp, kỷ cương xã hội giảm sút, hách
dịch, lộng quyền, tham nhũng, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn =>
Đời sống văn hóa xuất hiện những biểu hiện đáng lo, tàn dư văn hóa, những hủ tục triều
hướng trỗi dậy, đất nước đứng trước những đòi hỏi của một công cuộc đổi mới để phát
triển.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa
và những quy luật của 1 sản xuất hàng hóa.
lOMoARcPSD| 60851861
2. MỘT SỐ CHỦ CHƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI,CHÍNH SÁCH VĂN HOÁ 1975 - 1985
Năm 1976, Đại hội Đảng lần thứ IV đã định ra đường lối cho CM XHCN nước ta nói chung
đường lối về văn hoá nói riêng: “Đường lối CM tư tưởng và văn hoá. Với chủ trương này, đồng
chí Trường Chinh cho rằng: CM tư tưởng và văn hoá là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng XHCN nước ta. Chúng ta không thể chờ sau khi quan hệ sản xuất XHCN vững mạnh,
có cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển cao, rồi mới tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá,
mà phải tiến hành đồng thời, thậm chí dưới chính quyền chuyên chính vô sản, có thể đi trước một
bước xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN trong một phạm vi nhất định.
Đảng đã đưa ra 9 luận điểm về xây dựng văn hoá - văn nghệ, được tập trung thể hiện trong
văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IV và thứ V:
Văn hoá - văn nghệ là bộ phận của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo
Quan điểm dân tộc trong xây dựng văn hoá - văn nghệ
Quan điểm nhân dân (quần chúng) trong xây dựng văn hoá - văn nghệ
Tính giai cấp và tính ĐCS trong văn hoá, văn nghệ
Văn nghệ cần gắn bó với cuộc sống, tính hiện thực của văn nghệ XHCN
Quan điểm về xây dựng con người mới XHCN
Quan điểm về vị trí, vai trò, chức năng của văn hoá - văn nghệ
Quan điểm về tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ
Quan điểm về tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở
Hệ luận điểm này đã được tổng kết từ thực tiễn đặt ra để chỉ đạo các hoạt động văn hoá - văn
nghệ sau ngày thống nhất đất nước.
Ngày 13/7/1977, Chính phủ quyết định BVăn hóa thành Bộ Văn hóa Thông tin theo
Quyết định số 99 NQ/QHK6 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Khẩu hiệu của ngành văn hóa và
thông tin sau khi hợp nhất là: “Toàn ngành đồng khởi thi đua chuyển mạnh về địa bàn huyện
sở phục vụ cao trào xây dựng chủ nghĩa hội, phục vụ sản xuất nông nghiệp xây dựng
nông thôn mới".
Từ ngày 23 - 28/3/1978, Hội nghị tổng kết công tác văn hoá toàn quốc lần đầu tiên được tổ
chức tại thành phố Nam Định. Hội nghị đã giới thiệu hình mạng lưới thiết chế văn hoá được
chia thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện xã. Và cấp huyện bắt đầu xây dựng các nhà văn
hoá như: huyện Đông Hưng (Thái Bình), huyện Hải Hậu (Nam Định)….
Ngoài các mạng ới thiết chế văn hoá như trên ta còn mạng lưới thiết chế văn hoá xây
dựng theo các cấp hành chính do Bộ Văn hoá thông tin quản lý, còn có các thiết chế văn hoá của
lực lượng vũ trang như quân đội, công an… được thành lập.
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng lại nhấn mạnh: "Phải đưa văn hóa thâm
nhập cuộc sống hàng ngày của nhân dân sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường,
mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng,
hợp tác xã, phường đều đời sống văn hóa". Để căn cứ đánh giá một sở đời sống văn
lOMoARcPSD| 60851861
hóa, Bđề ra 6 mặt hoạt động: Thông tin cổ động; Đọc sách báo thư viện; Văn nghệ quần
chúng; Giáo dục truyền thống hoạt động bảo tồn bảo tàng; Sinh hoạt câu lạc bộ; nhà văn hóa;
Nếp sống văn minh; gia đình văn hóa.
Bộ coi trọng việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn đi đôi với việc nghiên cứu lý luận để nâng cao
nhận thức, soi sáng cho hoạt động thực tiễn, tổ chức hội thảo khoa học về đời sống văn a cơ sở.
Ngày 4/7/1981, Bộ Văn hThông tin đổi lại là Bộ Văn a theo Nghị quyết kỳ họp thứ I Quốc
hội khóa VII.
=> Có thể thấy, mọi hoạt động văn hoá thời kỳ này đều tập trung vào nhiệm vụ xây dựng CNXH
theo khẩu hiệu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”. Vấn đề xây dựng văn hoá
mới, con người mới được đặt ra trong khuôn khổ của “CM tư tưởng và văn hoá” gắn liền với “CM
về quan hệ sản xuất” “CM KH - KT”. Trong giai đoạn này, con người được đề cao với giá trị
mới là “làm chủ tập thể”.
3. THÀNH TỰU VĂN HÓA (VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT, ÂM NHẠC, BÁO CHÍ, XUẤT
BẢN, ĐIỆN ẢNH)
1, Văn học; nghệ thuật
Giai đoạn 1975-1985 là giai đoạn bản lề, mở ra thời kì mới cho văn học nghệ thuật nước nhà.
Đây là giai đoạn văn học quan trọng, khởi phát những tín hiệu mới, với không ít thành tựu và triển
vọng, có ảnh hưởng và tác động đáng kể đối với văn học thời kì Đổi mới sau 1986.
Từ thời điểm 1975 và vài năm sau đó, khi đất nước bước vào thời bình, văn học, cũng như các
loại hình nghệ thuật khác, đã rơi vào thực trạng đáng suy nghĩ. Lúc này lực lượng cầm bút đông
đảo hơn, sách in ra nhiều hơn nhưng người đọc lại thờ ơ, lạnh nhạt với văn học. Bởi sách thì nhiều
tác phẩm thì hiếm hoi. Văn học hậu chiến vẫn theo đà quay quán tính, cuộc sống đã thay đổi
mà nó vẫn chưa mấy chuyển động để hòa nhập với nhịp sống đời thường.
Trước tình trạng đáng báo động của văn học nghệ thuật lúc này, không phải không những
văn nghệ đã âm thầm tự đổi mới, trong số đó Nguyễn Minh Châu xứng danh “người mở
đường tinh anh tài hoa” nhất hay Nguyễn Quang Sáng với Dòng sông thơ ấu, Nguyễn Mạnh
Tuấn với Đứng trước biển, lao Tràm, Ma Văn Kháng với Mưa mùa hạcác nhà thơ như
Nguyễn Duy với Ánh trăng, Xuân Quỳnh với Tự hát, Sân ga chiều em đi, Ý Nhi với Người đàn bà
ngồi đan, Hữu Thỉnh với Đường tới thành phố…, là các nhà viết kịch như Xuân Trình với Mùa hè
biển, Lưu Quang Vũ với Tôi chúng ta, Hồn Trương Ba da hàng thịt…Trong số các thể tài hiện
diện trong đời sống văn học thời điểm đó, văn xuôi và kịch thể hiện tinh thần nhập cuộc hơn cả.
Các nhà văn, nhà viết kịch đã ý thức thay đổi cách nhìn hiện thực, trực tiếp đối mặt với thực
trạng hội con người. Họ rút ngắn cự li giữa văn học hiện thực, giữa tác phẩm người
đọc, giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận, nhờ vậy họ không chỉ góp phần làm nóng lên đời
sống văn nghệ đương thời còn làm bước trung chuyển tích cực cho cao trào đổi mới văn học
từ sau năm 1986.
n xuôi 1975-1985 nổi lên dòng mạch đề i chiến tranh người nh. Mảng sáng tác này
làm nên tên tuổi của một số nhà văn quen thuộc như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân
lOMoARcPSD| 60851861
Thiều, Hồ Phương… Hiện thực chiến tranh trong các tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà
văn này kết tinh của sự từng trải, của sự dày công tích lũy liệu, của cái nhìn về cuộc chiến
khách quan, chân c nhân văn. Nhiều c phẩm đã đề cập đến những vấn đề tham ô, suy đồi
lối sống, nhân cách… Các nhà văn, nhà viết kịch đã ý thức thay đổi cách nhìn hiện thực, trực
tiếp đối mặt với thực trạng xã hội và con người.
Sau năm 1975 cảnh tượng của văn học dịch hoàn toàn thay đổi. Sôi nổi nhất là hoạt động dịch,
giới thiệu nền văn học đương đại Âu-Mỹ. Hầu hết những tác phẩm được giải Nobel, những tác
phẩm ưu tú của các tác giả đương đại thuộc các trường phái hiện đại, hậu hiện đại…đã được dịch
ra tiếng Việt, bày bán ngập trong các cửa hàng sách, như thơ của Akhmatova, hoặc tiểu thuyết
của c Zhivago củaPasternak. Mảng văn học dịch này đã tác động cùng to lớn tới quá
trình đổi mới văn học ở Việt Nam nó m thay đổi thị hiếu nghệ thuật của đông đảo độc giả, trước
hết là thị hiếu nghệ thuật của tầng lớp thanh niên.
Công cuộc cải tạo các sở văn hoá nhân được tiến hành khẩn trương. Các đoàn nghệ
thuật được sắp xếp lại. Ngành sân khấu mở bốn trại sáng tác viết được 108 kịch bản, tổ chức ba
đợt liên hoan nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp với các vở kịch như: “ngày và đêm”, “dòng sông
âm vang”…Ca múa nhạc cũng khởi sắc trong liên hoan nghệ thuật toàn quốc.
2, Âm nhạc
Sau Thống nhất, trong nước các dòng nhạc không cách mạng (trừ một số ca khúc thuộc các
dòng nhạc: phản chiến, du ca nhạc sinh hoạt cộng đồng) bị cấm hoàn toàn không phù hợp
với chủ trương, các ca sĩ được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền thống cách mạng. Các
dòng nhạc tiến chiến, tình khúc, nhạc vàng... đều coi bị nhạc vàng hạn chế lưu hành. Nhạc
Cách mạng có sự chuyển biến lớn với sự phát triển mạnh mẻ về nhiều mặt: mở rộng nội dung - đề
tài, lực lượng sáng tác đa dạng hơn, phong phú thêm bởi nhiều thế hệ nhạc thuộc nhiều dòng
nhạc quy tụ lại, công chúng đông đảo hơn, giai điệu cách tân hiện đại hơn… Đề tài sáng tác trong
giai đoạn này chủ yếu là:
Ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh: Viếng lăng Bác (1976 - thơ Viễn Phương) của Hoàng Hiệp;
Bác Hồ một tình yêu bao la (1979)…
Tình yêu quê hương đất nước: Dáng đứng Bến Tre (Nguyễn Văn Tý); Tình đất đỏ miền
Đông của Trần Long Ẩn; Quêơng (Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân); Đất nước
lời ru (Văn Thành Nho)
Tình cảm gia đình nh yêu lứa đôi: Huyền thoại mẹ (Trịnh Công Sơn); Người mẹ
(Nguyễn Ngọc Thiện); Thuyền và Biển (Phan Huỳnh Điểu); Gửi em chiếc nón bài thơ (Lê
Việt Hòa) …
Công cuộc dựng xây đất nước: Đêm rừng Đắc Min (Nguyễn Đức Trung); Em nông trường,
em ra biên giới (Trịnh Công Sơn) …
Bảo vệ biên giới Tổ quốc chống xâm lược: Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới
(Phạm Tuyên); Khúc hát lính biên phòng (Vũ Hiệp Bình) …
lOMoARcPSD| 60851861
Cuộc sống mới nẩy sinh những nhu cầu và thẩm mỹ âm nhạc mới, nhất là đối với lớp thanh
niên. Và để thỏa mãn điều đó, cuối thời đoạn nầy, nhiều ca khúc nhạc nhẹ ra đời, với tên gọi
khác đi. Đó là loại nhạc giải trí dễ dàng được đông đảo công chúng, nhất là giới trẻ tiếp nhận, yêu
thích Tính chất âm nhạc thường vui tươi, yêu đời. Nhạc nhẹ dính liền với nhạc thời trang, khơi
nguồn từ các nguồn nhạc dân gian, vận dụng các thể loại nhạc Pop, Ballat, Rock... theo lối cấu
trúc âm nhạc cổ điển châu Âu. Nhiều thể loại nhạc nhảy múa, sinh hoạt, hành khúc, những bản
Overture nhỏ (khúc mở màn) … cũng được xếp vào loại nhạc này.
3, Báo chí xuất bản
Sau ngày 30/4/1975 hệ thống báo chí nước nhà cũng được thống nhất. Ngày 7/7/1976, tại
Nội, Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà báo yêu nước dân chủ miền Nam Việt Nam tổ chức
hội nghị hợp nhất, nhất trí lấy tên Hội nhà báo Việt Nam cử nhà báo Hoàng Tùng chủ tịch.
Thời kỳ này, sách báo cách mạng nhanh chóng chiếm lĩnh ưu thế. Báo viết vẫn là chủ lực, những
tờ báo có vị trí trong hội chủ yếu các báo miền Bắc trước 1975: Nhân Dân, Quân đội Nhân
dân, Tạp chí Cộng Sản, Văn nghệ, Phụ nữ Việt Nam… Xuất hiện một số tờ báo đột phá về nội
dung, hình thức, tổ chức thực hiện như: Tuổi trẻ TP.HCM (1975), Thanh Niên (1986)… gây được
sự chú ý của người đọc.
Trong giai đoạn 1975-1985, xuất bản sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu phục vụ học tập
giảng dạy được chú trọng. Các cơ sở ấn loát được tổ chức lại. Thành phố HCM thành lập Công ty
in, quản lý trên 1100 nhà in lớn nhỏ. Cả nước hình thành hai trung tâm lớn là Hà Nội và TP.HCM
và 4 trọng điểm: Hải Phòng, Quảng Nam, Đà Nẵng, Nghệ An và Cần Thơ.
4, Điện ảnh
Thời kỳ này nền điện ảnh Việt Nam nhiều thay đổi, đội ngũ những nhà làm phim đông
đảo. Các phim Việt Nam chủ yếu là: đề tài chiến tranh-lịch sử (cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà,
Bao giờ cho đến tháng mười…); đề tài xã hội ( ớng về hưu, gánh xiếc rong…); đề tài tâm lýtình
cảm ( chuyến xe bão táp, ngày lễ thánh…); chuyển thể từ văn học ( chị Dậu, Làng Vũ Đại ngày
ấy…);… Trong đó điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò quan trọng trong nền điện ản
Việt Nam. Trung tâm Tư liệu phim các tỉnh phía Nam được thành lập để quản lý, lưu trữ các phim
của điện ảnh miền Nam trước 1975, đến tháng 9/1976 trở thành sở II của Viện liệu phim
Việt Nam – nay là Viện Nghệ thuật và Lưu trữ điện ảnh Việt Nam .
4. THÀNH TỰU VĂN HÓA( TRANH CỔ ĐỘNG, TDTT, PHONG TRÀO TIÊU BIỂU, TỔ
CHỨC THIẾT CHẾ VĂN HÓA)
1 , Tranh cổ động
Đề tài lao động sản xuất trong tranh cổ động Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 là một chủ đề lớn
trong công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, trong giai đoạn này chúng ta thấy các họa
chủ yếu thế hệ thứ hai, hầu hết các họa đều trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ trưởng
thành từ đó. Chiến tranh kết thúc, các họa sĩ lại đi đầu trong nhiệm vụ tuyên truyền. Tranh cổ động
luôn song hành cùng đất nước trong công cuộc lao động, sản xuất.
Nội dung trong tranh cổ động thường bao gồm:
lOMoARcPSD| 60851861
Xóa đói giảm nghèo: Việt Nam sau chiến tranh đối mặt với tình trạng nghèo đói suy
thoái kinh tế. Tranh cổ động trong giai đoạn này nhấn mạnh việc giảm nghèo và cải thiện
đời sống của người dân. Tranh thể hiện những nghĩa cử cao đẹp, như chia sẻ lương thực,
giúp đỡ người khác trong cộng đồng.
Xây dựng và phát triển nông nghiệp: Trong bối cảnh chiến tranh đã gây thiệt hại nặng nề
cho nông nghiệp Việt Nam, tranh cổ động nhắc nhở mọi người về tầm quan trọng của nông
nghiệp trong phát triển quốc gia. Tranh hiển thị những công trình ngày càng phát triển, các
vùng nông thôn thịnh vượng, và những nông dân làm việc chăm chỉ.
Học tập và đào tạo: Tranh cổ động cũng nhấn mạnh vai trò của giáo dục và đào tạo trong
xây dựng đất nước mới. Hình ảnh các học sinh, sinh viên, và người lao động tham gia vào
quá trình học tập và đào tạo được thể hiện rõ ràng trong tranh.
Hợp tác quốc tế quan hệ đối ngoại: Tranh cđộng trong giai đoạn này thể hiện mục
tiêu của Việt Nam trong việc mở rộng quan hđối ngoại hợp tác với các nước khác. Các
hình ảnh về sự hợp tác, giao lưu văn hóa kinh tế giữa Việt Nam các nước bạn được
thể hiện trong tranh.
Xây dựng chính trị: Tranh cổ động cũng nhấn mạnh sự cải cách xây dựng chính trị
Việt Nam sau chiến tranh. Nội dung này thể hiện thông qua các hình ảnh của các cán bộ
Đảng và chính quyền địa phương hoạt động để nâng cao quản lý và phục vụ dân.
Qua các tác phẩm thời kỳ này cho ta thấy tranh cổ động đã khẳng định được tiếng nói của mình,
góp phần không nhỏ cùng dân tộc tiến lên dưới slãnh đạo của Đảng. Tranh cổ động ngày càng
hoàn thiện về mặt kỹ thuật. Tranh cổ động về đề tài lao động sản xuất thời kỳ này đánh dấu một
chặng đường phát triển của nền văn hoá Việt Nam nói chung và nền mỹ thuật Việt Nam nói riêng.
Một số bức tranh cổ động tiêu biểu về lao động sản xuất như: Nhân dân bèo dâu của hoạ sĩ Thái
Sơn (1975), Điện giới phục vụ nông nghiệp của hoạ sĩ Đỗ Mạnh Cương (1975), Toàn dân trồng
rừng của học sĩ Công Mĩ (1975),…
2 , Thể dục thể thao
Với khí thế sục sôi chiến thắng, quyết tâm xây dựng một đất nước hoà bình, ấm no và giàu mạnh.
Phát huy tinh thần ấy, nền thể dục thể thao nước ncũng đã đạt được một số thành ch nhất định:
Năm 1985, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn Quốc tế
các môn thể thao (Olympic)
Thành công trong các kỳ SEA Games: Ngay từ kỳ SEA Games đầu tiên của Việt Nam vào
năm 1975 tại Bangkok, đội tuyển thể thao Việt Nam đã giành được 2 huy chương vàng.
Trong những năm tiếp theo, Việt Nam đã liên tục có những thành tích ấn tượng, với nhiều
huy chương vàng, bạc và đồng trong các môn
Đạt được thành tích cao trong các kỳ đấu vật và cử tạ quốc tế: Việt Nam đã có một số vận
động viên xuất sắc giành được những thành tích quốc tế ấn tượng trong các môn đấu vật
và cử tạ
Đạt thành tích cao tại các giải địch châu Á: Việt Nam đã những thành tích đáng khích
lệ tại các giải vô địch châu Á, đánh dấu sự tiến bộ đáng kể trong thể thao nước nhà
Đội tuyển bóng đá Việt Nam giành huy chương đồng tại giải vô địch Đông Nam Á 1985
lOMoARcPSD| 60851861
Công tác thể dục thể thao luôn nhận được squan tâm, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng Nhà
nước. Với mục tiêu “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”, lĩnh vực thể dục thể thao đã góp phần
tích cực vào công cuộc củng cố, nâng cao sức khỏe toàn dân và thể dục thể thao đã được xác định
là “một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con
người mới” (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV(1976) lần thứ V(1982). Ngày 20/12/1976 Uỷ
ban Olympic Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định số 500 TTg của Chính phủ. Trong giai
đoạn này, nền kinh tế hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng Nhà nước cùng với các địa
phương đã nỗ lực đầu tư, cải tạo, xây dựng nhiều công trình thể dục thể thao mới.
Tuy nhiên, đại đa số các công trình này quy còn đơn giản, thiết bị phục vụ thi đấu còn thiếu.
Với việc phát triển các phong trào thể dục thể thao quần chúng, đặc biệt đẩy mạnh cuộc vận động
“Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ đại”, công tác thể dục thể thao đã phát triển
đúng hướng, góp phần tích cực phục vụ sản xuất, chiến đấu, nâng cao đời sống xây dựng con
người mới. Đồng thời, cũng trong giai đoạn này, Hội khỏe phù đổng toàn quốc lần thứ nhất (1983)
và Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ nhất (1984 - 1985) đã được tổ chức nhằm thúc đẩy
phong trào thể dục thể thao phát triển, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội và
nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của toàn dân.
3 , Các phong trào tiêu biểu
- Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V (1982) của Đảng lại nhấn mạnh “Phải đưa văn hoá
thâm nhập cuộc sống hàng ngày của nhân dân sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông
trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa
hàng, hợp tác xã, phường đều có đời sống văn hoá”.
Theo nghị quyết, việc đưa văn hoá vào đời sống hàng ngày của nhân dân cơ sở có ý nghĩa
quan trọng để tạo ra một môi trường sống văn hoá và nâng cao chất ợng cuộc sống của
người dân. Điều này đòi hỏi các sở kinh tế, hành chính hội phải quan tâm đến
vấn đề này và đảm bảo tất cả đều có đời sống văn hoá, từ việc tổ chức các hoạt động văn
hóa cho công nhân nhân viên tại những nơi làm việc, đến việc đảm bảo sự hiện diện của
văn hoá trong các cơ sở giáo dục, y tế, thương mại và xã hội.
Bằng cách nhấn mạnh việc đưa văn hoá vào cuộc sống hàng ngày, nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ V đã khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong việc xây dựng một xã hội văn minh và
đề cao vai trò của văn hoá nhân dân trong quá trình phát triển quốc gia.
Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá đã được duy trì nhiều địa
phương. Ngoài ra, Bộ Văn hoá và Thông tin còn chủ trương mở 3 cuộc vận động văn nghệ quần
chúng: ca múa hát dân gian, kịch nói và kịch tuyên truyền, hát múa tập thể. Mở rộng và nâng cao
phong trào văn hoá quần chúng.
4 , Các tổ chức và thiết chế văn hoá
Trong thời kỳ này, mạng lưới nhà văn hoá đã hình thành và phát triển. Mạng lưới thiết chế văn
hóa theo đơn vị dân cư hình thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã/phường.
Ngày 30/6/1976 Nhà Văn hoá Trung ương được thành lập, vai trò là trung tâm hướng dẫn
nghiệp vụ văn hoá thúc đẩy hình thành phát triển mạng lưới nhà văn hoá trong cả nước.
lOMoARcPSD| 60851861
Ngoài ra còn Nhà Văn hoá lao động, Nhà Văn hóa thanh niên, Cung, Nhà thiếu nhi, Nhà Văn
hóa trong quân đội cũng được phát triển rộng khắp. Nhiều nơi trở thành trung tâm bồi dưỡng năng
khiếu, nâng cao kiến thức và vui chơi giải trí lành mạnh cho các tầng lớp xã hội.
Bên cạnh hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, Thư viện Quốc gia mạng lưới thư viện địa
phương đã có những hình thức trưng bày, triển lãm, giới thiệu, kể chuyện sách, lập thư mục phục
vụ những nhà nghiên cứu, bạn đọc. Nhiều công trình văn hoá được xây dựng mới hoặc cải tạo,
nâng cấp như Rạp Xiếc, Nhà hát Tuổi trẻ, Nhà hát Chèo Kim Mã, Hãng phim Giải phóng, các
Trường Đại học Văn hoá, Sân khấu Điện ảnh và khu văn hoá nghệ thuật Mai Dịch.
=> Tóm lại, trong thời kỳ 1975 - 1985, lĩnh vực văn hoá chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, từ
văn hoá cứu quốc sang văn hoá kiến quốc, tuy mấy năm đầu lúng túng, bị động, khó khăn,
nhưng đã vượt qua thử thách và phát triển toàn diện với một chất lượng mới trên phạm vi cả nước,
góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới
xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 60851861
CHÍNH SÁCH VĂN HÓA GIAI ĐOẠN 1975-1985
1. BỐI CẢNH CỦA CHÍNH SÁCH VĂN HÓA GIAI ĐOẠN 1975-1985
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta đã giành được thắng lợi vĩ đại, miền Nam
hoàn toàn giải phóng, xóa bỏ chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ trên đất nước ta. Từ đây, cách
mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn đất nước độc lập, thống nhất, cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên trong giai đoạn này đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân
dân vừa ra sức khôi phục kinh tế, vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới
phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời tập trung lãnh đạo
xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước,
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ
chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm, việc
hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm
khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ,
khủng hoảng kinh tế xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước những khó khăn thách thức, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường
lối đổi mới như hiến pháp 198: được quốc hội khóa VI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 18 tháng 12
năm 1980, cũng như hiến pháp 1959 thì hiến pháp 1980 vẫn chưa chứa đựng nhiều quy định của
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và những nhận thức cũ của chúng ta về Xã Hội Chủ Nghĩa.
Hiến pháp quy định 1 số điều như: -
Vẫn theo nền kinh tế quốc dân chủ yếu ở 2 thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sởhữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động
hay theo điều 35: mọi hoạt động đầu cơ, tích trữ, rối loạn thị trường đều bị pháp luật nghiêm trị. -
Về lĩnh vực Văn hóa theo điều 44: Văn học nghệ thuật Việt Nam được xây dựng trên quan
điểm của chủ nghĩa Mác lênin và theo đường lối của đảng..
Theo Quyết định 25/QĐCP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh
=> Những năm 80 của thế kỷ 20 nhìn chung kinh tế và xã hội rơi vào tình trạng khủng
hoảng. Sự vận hành của nền kinh tế quan liêu bao cấp, kỷ cương xã hội giảm sút, hách
dịch, lộng quyền, tham nhũng, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn =>
Đời sống văn hóa xuất hiện những biểu hiện đáng lo, tàn dư văn hóa, những hủ tục có triều
hướng trỗi dậy, đất nước đứng trước những đòi hỏi của một công cuộc đổi mới để phát triển. -
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa
và những quy luật của 1 sản xuất hàng hóa. lOMoAR cPSD| 60851861
2. MỘT SỐ CHỦ CHƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI,CHÍNH SÁCH VĂN HOÁ 1975 - 1985
Năm 1976, Đại hội Đảng lần thứ IV đã định ra đường lối cho CM XHCN ở nước ta nói chung
và đường lối về văn hoá nói riêng: “Đường lối CM tư tưởng và văn hoá. Với chủ trương này, đồng
chí Trường Chinh cho rằng: CM tư tưởng và văn hoá là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ sự nghiệp
cách mạng XHCN ở nước ta. Chúng ta không thể chờ sau khi quan hệ sản xuất XHCN vững mạnh,
có cơ sở vật chất, kỹ thuật phát triển cao, rồi mới tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hoá,
mà phải tiến hành đồng thời, thậm chí dưới chính quyền chuyên chính vô sản, có thể đi trước một
bước xây dựng nền văn hoá mới và con người mới XHCN trong một phạm vi nhất định.
Đảng đã đưa ra 9 luận điểm về xây dựng văn hoá - văn nghệ, được tập trung thể hiện trong
văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ IV và thứ V: •
Văn hoá - văn nghệ là bộ phận của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo •
Quan điểm dân tộc trong xây dựng văn hoá - văn nghệ •
Quan điểm nhân dân (quần chúng) trong xây dựng văn hoá - văn nghệ •
Tính giai cấp và tính ĐCS trong văn hoá, văn nghệ •
Văn nghệ cần gắn bó với cuộc sống, tính hiện thực của văn nghệ XHCN •
Quan điểm về xây dựng con người mới XHCN •
Quan điểm về vị trí, vai trò, chức năng của văn hoá - văn nghệ •
Quan điểm về tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ •
Quan điểm về tổ chức xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở
Hệ luận điểm này đã được tổng kết từ thực tiễn và đặt ra để chỉ đạo các hoạt động văn hoá - văn
nghệ sau ngày thống nhất đất nước.
Ngày 13/7/1977, Chính phủ quyết định Bộ Văn hóa thành Bộ Văn hóa và Thông tin theo
Quyết định số 99 NQ/QHK6 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Khẩu hiệu của ngành văn hóa và
thông tin sau khi hợp nhất là: “Toàn ngành đồng khởi thi đua chuyển mạnh về địa bàn huyện và
cơ sở phục vụ cao trào xây dựng chủ nghĩa xã hội, phục vụ sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới".
Từ ngày 23 - 28/3/1978, Hội nghị tổng kết công tác văn hoá toàn quốc lần đầu tiên được tổ
chức tại thành phố Nam Định. Hội nghị đã giới thiệu mô hình mạng lưới thiết chế văn hoá được
chia thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Và ở cấp huyện bắt đầu xây dựng các nhà văn
hoá như: huyện Đông Hưng (Thái Bình), huyện Hải Hậu (Nam Định)….
Ngoài các mạng lưới thiết chế văn hoá như trên ta còn có mạng lưới thiết chế văn hoá xây
dựng theo các cấp hành chính do Bộ Văn hoá thông tin quản lý, còn có các thiết chế văn hoá của
lực lượng vũ trang như quân đội, công an… được thành lập.
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng lại nhấn mạnh: "Phải đưa văn hóa thâm
nhập cuộc sống hàng ngày của nhân dân ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông trường,
mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng,
hợp tác xã, phường đều có đời sống văn hóa". Để có căn cứ đánh giá một cơ sở có đời sống văn lOMoAR cPSD| 60851861
hóa, Bộ đề ra 6 mặt hoạt động: Thông tin cổ động; Đọc sách báo và thư viện; Văn nghệ quần
chúng; Giáo dục truyền thống và hoạt động bảo tồn bảo tàng; Sinh hoạt câu lạc bộ; nhà văn hóa;
Nếp sống văn minh; gia đình văn hóa.
Bộ coi trọng việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn đi đôi với việc nghiên cứu lý luận để nâng cao
nhận thức, soi sáng cho hoạt động thực tiễn, tổ chức hội thảo khoa học về đời sống văn hóa cơ sở.
Ngày 4/7/1981, Bộ Văn hoá và Thông tin đổi lại là Bộ Văn hóa theo Nghị quyết kỳ họp thứ I Quốc hội khóa VII.
=> Có thể thấy, mọi hoạt động văn hoá thời kỳ này đều tập trung vào nhiệm vụ xây dựng CNXH
theo khẩu hiệu: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”. Vấn đề xây dựng văn hoá
mới, con người mới được đặt ra trong khuôn khổ của “CM tư tưởng và văn hoá” gắn liền với “CM
về quan hệ sản xuất” và “CM KH - KT”. Trong giai đoạn này, con người được đề cao với giá trị
mới là “làm chủ tập thể”.
3. THÀNH TỰU VĂN HÓA (VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT, ÂM NHẠC, BÁO CHÍ, XUẤT BẢN, ĐIỆN ẢNH)
1, Văn học; nghệ thuật
Giai đoạn 1975-1985 là giai đoạn bản lề, mở ra thời kì mới cho văn học nghệ thuật nước nhà.
Đây là giai đoạn văn học quan trọng, khởi phát những tín hiệu mới, với không ít thành tựu và triển
vọng, có ảnh hưởng và tác động đáng kể đối với văn học thời kì Đổi mới sau 1986.
Từ thời điểm 1975 và vài năm sau đó, khi đất nước bước vào thời bình, văn học, cũng như các
loại hình nghệ thuật khác, đã rơi vào thực trạng đáng suy nghĩ. Lúc này lực lượng cầm bút đông
đảo hơn, sách in ra nhiều hơn nhưng người đọc lại thờ ơ, lạnh nhạt với văn học. Bởi sách thì nhiều
mà tác phẩm thì hiếm hoi. Văn học hậu chiến vẫn theo đà quay quán tính, cuộc sống đã thay đổi
mà nó vẫn chưa mấy chuyển động để hòa nhập với nhịp sống đời thường.
Trước tình trạng đáng báo động của văn học nghệ thuật lúc này, không phải không có những
văn nghệ sĩ đã âm thầm tự đổi mới, trong số đó Nguyễn Minh Châu xứng danh là “người mở
đường tinh anh và tài hoa” nhất hay Nguyễn Quang Sáng với Dòng sông thơ ấu, Nguyễn Mạnh
Tuấn với Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Ma Văn Kháng với Mưa mùa hạ… là các nhà thơ như
Nguyễn Duy với Ánh trăng, Xuân Quỳnh với Tự hát, Sân ga chiều em đi, Ý Nhi với Người đàn bà
ngồi đan, Hữu Thỉnh với Đường tới thành phố…, là các nhà viết kịch như Xuân Trình với Mùa hè
ở biển, Lưu Quang Vũ với Tôi và chúng ta, Hồn Trương Ba da hàng thịt…
Trong số các thể tài hiện
diện trong đời sống văn học thời điểm đó, văn xuôi và kịch thể hiện rõ tinh thần nhập cuộc hơn cả.
Các nhà văn, nhà viết kịch đã có ý thức thay đổi cách nhìn hiện thực, trực tiếp đối mặt với thực
trạng xã hội và con người. Họ rút ngắn cự li giữa văn học và hiện thực, giữa tác phẩm và người
đọc, giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận, nhờ vậy họ không chỉ góp phần làm nóng lên đời
sống văn nghệ đương thời mà còn làm bước trung chuyển tích cực cho cao trào đổi mới văn học từ sau năm 1986.
Văn xuôi 1975-1985 nổi lên dòng mạch đề tài chiến tranh và người lính. Mảng sáng tác này
làm nên tên tuổi của một số nhà văn quen thuộc như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Xuân lOMoAR cPSD| 60851861
Thiều, Hồ Phương… Hiện thực chiến tranh trong các tiểu thuyết, truyện ngắn và kí của các nhà
văn này là kết tinh của sự từng trải, của sự dày công tích lũy tư liệu, của cái nhìn về cuộc chiến
khách quan, chân xác và nhân văn. Nhiều tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề tham ô, suy đồi
lối sống, nhân cách… Các nhà văn, nhà viết kịch đã có ý thức thay đổi cách nhìn hiện thực, trực
tiếp đối mặt với thực trạng xã hội và con người.
Sau năm 1975 cảnh tượng của văn học dịch hoàn toàn thay đổi. Sôi nổi nhất là hoạt động dịch,
giới thiệu nền văn học đương đại Âu-Mỹ. Hầu hết những tác phẩm được giải Nobel, những tác
phẩm ưu tú của các tác giả đương đại thuộc các trường phái hiện đại, hậu hiện đại…đã được dịch
ra tiếng Việt, bày bán ngập trong các cửa hàng sách, ví như thơ của Akhmatova, hoặc tiểu thuyết
của bác sĩ Zhivago củaPasternak. Mảng văn học dịch này đã có tác động vô cùng to lớn tới quá
trình đổi mới văn học ở Việt Nam nó làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật của đông đảo độc giả, trước
hết là thị hiếu nghệ thuật của tầng lớp thanh niên.
Công cuộc cải tạo các cơ sở văn hoá tư nhân được tiến hành khẩn trương. Các đoàn nghệ
thuật được sắp xếp lại. Ngành sân khấu mở bốn trại sáng tác viết được 108 kịch bản, tổ chức ba
đợt liên hoan nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp với các vở kịch như: “ngày và đêm”, “dòng sông
âm vang”…Ca múa nhạc cũng khởi sắc trong liên hoan nghệ thuật toàn quốc. 2, Âm nhạc
Sau Thống nhất, trong nước các dòng nhạc không cách mạng (trừ một số ca khúc thuộc các
dòng nhạc: phản chiến, du ca và nhạc sinh hoạt cộng đồng) bị cấm hoàn toàn vì không phù hợp
với chủ trương, các ca sĩ được khuyến khích chuyển sang hát nhạc truyền thống cách mạng. Các
dòng nhạc tiến chiến, tình khúc, nhạc vàng... đều coi bị là nhạc vàng và hạn chế lưu hành. Nhạc
Cách mạng có sự chuyển biến lớn với sự phát triển mạnh mẻ về nhiều mặt: mở rộng nội dung - đề
tài, lực lượng sáng tác đa dạng hơn, phong phú thêm bởi nhiều thế hệ nhạc sĩ thuộc nhiều dòng
nhạc quy tụ lại, công chúng đông đảo hơn, giai điệu cách tân hiện đại hơn… Đề tài sáng tác trong
giai đoạn này chủ yếu là:
• Ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh: Viếng lăng Bác (1976 - thơ Viễn Phương) của Hoàng Hiệp;
Bác Hồ một tình yêu bao la (1979)…
• Tình yêu quê hương đất nước: Dáng đứng Bến Tre (Nguyễn Văn Tý); Tình đất đỏ miền
Đông của Trần Long Ẩn; Quê Hương (Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân); Đất nước
lời ru (Văn Thành Nho) …
• Tình cảm gia đình và tình yêu lứa đôi: Huyền thoại mẹ (Trịnh Công Sơn); Người mẹ
(Nguyễn Ngọc Thiện); Thuyền và Biển (Phan Huỳnh Điểu); Gửi em chiếc nón bài thơ (Lê Việt Hòa) …
• Công cuộc dựng xây đất nước: Đêm rừng Đắc Min (Nguyễn Đức Trung); Em nông trường,
em ra biên giới (Trịnh Công Sơn) …
• Bảo vệ biên giới Tổ quốc chống xâm lược: Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới
(Phạm Tuyên); Khúc hát lính biên phòng (Vũ Hiệp Bình) … lOMoAR cPSD| 60851861
Cuộc sống mới nẩy sinh những nhu cầu và thẩm mỹ âm nhạc mới, nhất là đối với lớp thanh
niên. Và để thỏa mãn điều đó, cuối thời đoạn nầy, nhiều ca khúc nhạc nhẹ ra đời, dù với tên gọi
khác đi. Đó là loại nhạc giải trí dễ dàng được đông đảo công chúng, nhất là giới trẻ tiếp nhận, yêu
thích Tính chất âm nhạc thường vui tươi, yêu đời. Nhạc nhẹ dính liền với nhạc thời trang, khơi
nguồn từ các nguồn nhạc dân gian, vận dụng các thể loại nhạc Pop, Ballat, Rock... theo lối cấu
trúc âm nhạc cổ điển châu Âu. Nhiều thể loại nhạc nhảy múa, sinh hoạt, hành khúc, những bản
Overture nhỏ (khúc mở màn) … cũng được xếp vào loại nhạc này.
3, Báo chí xuất bản
Sau ngày 30/4/1975 hệ thống báo chí nước nhà cũng được thống nhất. Ngày 7/7/1976, tại
Hà Nội, Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam Việt Nam tổ chức
hội nghị hợp nhất, nhất trí lấy tên là Hội nhà báo Việt Nam cử nhà báo Hoàng Tùng là chủ tịch.
Thời kỳ này, sách báo cách mạng nhanh chóng chiếm lĩnh ưu thế. Báo viết vẫn là chủ lực, những
tờ báo có vị trí trong xã hội chủ yếu là các báo miền Bắc trước 1975: Nhân Dân, Quân đội Nhân
dân, Tạp chí Cộng Sản, Văn nghệ, Phụ nữ Việt Nam… Xuất hiện một số tờ báo đột phá về nội
dung, hình thức, tổ chức thực hiện như: Tuổi trẻ TP.HCM (1975), Thanh Niên (1986)… gây được
sự chú ý của người đọc.
Trong giai đoạn 1975-1985, xuất bản sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu phục vụ học tập và
giảng dạy được chú trọng. Các cơ sở ấn loát được tổ chức lại. Thành phố HCM thành lập Công ty
in, quản lý trên 1100 nhà in lớn nhỏ. Cả nước hình thành hai trung tâm lớn là Hà Nội và TP.HCM
và 4 trọng điểm: Hải Phòng, Quảng Nam, Đà Nẵng, Nghệ An và Cần Thơ. 4, Điện ảnh
Thời kỳ này nền điện ảnh Việt Nam có nhiều thay đổi, đội ngũ những nhà làm phim đông
đảo. Các phim Việt Nam chủ yếu là: đề tài chiến tranh-lịch sử (cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà,
Bao giờ cho đến tháng mười…); đề tài xã hội ( tướng về hưu, gánh xiếc rong…); đề tài tâm lýtình
cảm ( chuyến xe bão táp, ngày lễ thánh…); chuyển thể từ văn học ( chị Dậu, Làng Vũ Đại ngày
ấy…);… Trong đó điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò quan trọng trong nền điện ản
Việt Nam. Trung tâm Tư liệu phim các tỉnh phía Nam được thành lập để quản lý, lưu trữ các phim
của điện ảnh miền Nam trước 1975, đến tháng 9/1976 trở thành cơ sở II của Viện Tư liệu phim
Việt Nam – nay là Viện Nghệ thuật và Lưu trữ điện ảnh Việt Nam .
4. THÀNH TỰU VĂN HÓA( TRANH CỔ ĐỘNG, TDTT, PHONG TRÀO TIÊU BIỂU, TỔ
CHỨC THIẾT CHẾ VĂN HÓA) 1 , Tranh cổ động
Đề tài lao động sản xuất trong tranh cổ động Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 là một chủ đề lớn
trong công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, trong giai đoạn này chúng ta thấy các họa sĩ
chủ yếu là thế hệ thứ hai, hầu hết các họa sĩ đều trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ và trưởng
thành từ đó. Chiến tranh kết thúc, các họa sĩ lại đi đầu trong nhiệm vụ tuyên truyền. Tranh cổ động
luôn song hành cùng đất nước trong công cuộc lao động, sản xuất.
Nội dung trong tranh cổ động thường bao gồm: lOMoAR cPSD| 60851861 •
Xóa đói giảm nghèo: Việt Nam sau chiến tranh đối mặt với tình trạng nghèo đói và suy
thoái kinh tế. Tranh cổ động trong giai đoạn này nhấn mạnh việc giảm nghèo và cải thiện
đời sống của người dân. Tranh thể hiện những nghĩa cử cao đẹp, như chia sẻ lương thực,
giúp đỡ người khác trong cộng đồng. •
Xây dựng và phát triển nông nghiệp: Trong bối cảnh chiến tranh đã gây thiệt hại nặng nề
cho nông nghiệp Việt Nam, tranh cổ động nhắc nhở mọi người về tầm quan trọng của nông
nghiệp trong phát triển quốc gia. Tranh hiển thị những công trình ngày càng phát triển, các
vùng nông thôn thịnh vượng, và những nông dân làm việc chăm chỉ. •
Học tập và đào tạo: Tranh cổ động cũng nhấn mạnh vai trò của giáo dục và đào tạo trong
xây dựng đất nước mới. Hình ảnh các học sinh, sinh viên, và người lao động tham gia vào
quá trình học tập và đào tạo được thể hiện rõ ràng trong tranh. •
Hợp tác quốc tế và quan hệ đối ngoại: Tranh cổ động trong giai đoạn này thể hiện mục
tiêu của Việt Nam trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác với các nước khác. Các
hình ảnh về sự hợp tác, giao lưu văn hóa và kinh tế giữa Việt Nam và các nước bạn được thể hiện trong tranh. •
Xây dựng chính trị: Tranh cổ động cũng nhấn mạnh sự cải cách và xây dựng chính trị ở
Việt Nam sau chiến tranh. Nội dung này thể hiện thông qua các hình ảnh của các cán bộ
Đảng và chính quyền địa phương hoạt động để nâng cao quản lý và phục vụ dân.
Qua các tác phẩm thời kỳ này cho ta thấy tranh cổ động đã khẳng định được tiếng nói của mình,
góp phần không nhỏ cùng dân tộc tiến lên dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tranh cổ động ngày càng
hoàn thiện về mặt kỹ thuật. Tranh cổ động về đề tài lao động sản xuất thời kỳ này đánh dấu một
chặng đường phát triển của nền văn hoá Việt Nam nói chung và nền mỹ thuật Việt Nam nói riêng.
Một số bức tranh cổ động tiêu biểu về lao động sản xuất như: Nhân dân bèo dâu của hoạ sĩ Thái
Sơn (1975), Điện cơ giới phục vụ nông nghiệp của hoạ sĩ Đỗ Mạnh Cương (1975), Toàn dân trồng
rừng của học sĩ Công Mĩ (1975),…
2 , Thể dục thể thao
Với khí thế sục sôi chiến thắng, quyết tâm xây dựng một đất nước hoà bình, ấm no và giàu mạnh.
Phát huy tinh thần ấy, nền thể dục thể thao nước nhà cũng đã đạt được một số thành tích nhất định: •
Năm 1985, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên chính thức của Liên đoàn Quốc tế
các môn thể thao (Olympic) •
Thành công trong các kỳ SEA Games: Ngay từ kỳ SEA Games đầu tiên của Việt Nam vào
năm 1975 tại Bangkok, đội tuyển thể thao Việt Nam đã giành được 2 huy chương vàng.
Trong những năm tiếp theo, Việt Nam đã liên tục có những thành tích ấn tượng, với nhiều
huy chương vàng, bạc và đồng trong các môn •
Đạt được thành tích cao trong các kỳ đấu vật và cử tạ quốc tế: Việt Nam đã có một số vận
động viên xuất sắc giành được những thành tích quốc tế ấn tượng trong các môn đấu vật và cử tạ •
Đạt thành tích cao tại các giải vô địch châu Á: Việt Nam đã có những thành tích đáng khích
lệ tại các giải vô địch châu Á, đánh dấu sự tiến bộ đáng kể trong thể thao nước nhà •
Đội tuyển bóng đá Việt Nam giành huy chương đồng tại giải vô địch Đông Nam Á 1985 lOMoAR cPSD| 60851861
Công tác thể dục thể thao luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng và Nhà
nước. Với mục tiêu “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc”, lĩnh vực thể dục thể thao đã góp phần
tích cực vào công cuộc củng cố, nâng cao sức khỏe toàn dân và thể dục thể thao đã được xác định
là “một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con
người mới” (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV(1976) và lần thứ V(1982). Ngày 20/12/1976 Uỷ
ban Olympic Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định số 500 TTg của Chính phủ. Trong giai
đoạn này, nền kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước cùng với các địa
phương đã nỗ lực đầu tư, cải tạo, xây dựng nhiều công trình thể dục thể thao mới.
Tuy nhiên, đại đa số các công trình này quy mô còn đơn giản, thiết bị phục vụ thi đấu còn thiếu.
Với việc phát triển các phong trào thể dục thể thao quần chúng, đặc biệt đẩy mạnh cuộc vận động
“Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, công tác thể dục thể thao đã phát triển
đúng hướng, góp phần tích cực phục vụ sản xuất, chiến đấu, nâng cao đời sống và xây dựng con
người mới. Đồng thời, cũng trong giai đoạn này, Hội khỏe phù đổng toàn quốc lần thứ nhất (1983)
và Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ nhất (1984 - 1985) đã được tổ chức nhằm thúc đẩy
phong trào thể dục thể thao phát triển, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội và
nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của toàn dân.
3 , Các phong trào tiêu biểu
- Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ V (1982) của Đảng lại nhấn mạnh “Phải đưa văn hoá
thâm nhập cuộc sống hàng ngày của nhân dân cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, nông
trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa
hàng, hợp tác xã, phường đều có đời sống văn hoá”.
Theo nghị quyết, việc đưa văn hoá vào đời sống hàng ngày của nhân dân cơ sở có ý nghĩa
quan trọng để tạo ra một môi trường sống văn hoá và nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân. Điều này đòi hỏi các cơ sở kinh tế, hành chính và xã hội phải quan tâm đến
vấn đề này và đảm bảo tất cả đều có đời sống văn hoá, từ việc tổ chức các hoạt động văn
hóa cho công nhân nhân viên tại những nơi làm việc, đến việc đảm bảo sự hiện diện của
văn hoá trong các cơ sở giáo dục, y tế, thương mại và xã hội.

Bằng cách nhấn mạnh việc đưa văn hoá vào cuộc sống hàng ngày, nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ V đã khẳng định tầm quan trọng của văn hóa trong việc xây dựng một xã hội văn minh và
đề cao vai trò của văn hoá nhân dân trong quá trình phát triển quốc gia.
Cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá đã được duy trì ở nhiều địa
phương. Ngoài ra, Bộ Văn hoá và Thông tin còn chủ trương mở 3 cuộc vận động văn nghệ quần
chúng: ca múa hát dân gian, kịch nói và kịch tuyên truyền, hát múa tập thể. Mở rộng và nâng cao
phong trào văn hoá quần chúng.
4 , Các tổ chức và thiết chế văn hoá
Trong thời kỳ này, mạng lưới nhà văn hoá đã hình thành và phát triển. Mạng lưới thiết chế văn
hóa theo đơn vị dân cư hình thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã/phường.
Ngày 30/6/1976 Nhà Văn hoá Trung ương được thành lập, có vai trò là trung tâm hướng dẫn
nghiệp vụ văn hoá và thúc đẩy hình thành và phát triển mạng lưới nhà văn hoá trong cả nước. lOMoAR cPSD| 60851861
Ngoài ra còn có Nhà Văn hoá lao động, Nhà Văn hóa thanh niên, Cung, Nhà thiếu nhi, Nhà Văn
hóa trong quân đội cũng được phát triển rộng khắp. Nhiều nơi trở thành trung tâm bồi dưỡng năng
khiếu, nâng cao kiến thức và vui chơi giải trí lành mạnh cho các tầng lớp xã hội.
Bên cạnh hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, Thư viện Quốc gia và mạng lưới thư viện địa
phương đã có những hình thức trưng bày, triển lãm, giới thiệu, kể chuyện sách, lập thư mục phục
vụ những nhà nghiên cứu, bạn đọc. Nhiều công trình văn hoá được xây dựng mới hoặc cải tạo,
nâng cấp như Rạp Xiếc, Nhà hát Tuổi trẻ, Nhà hát Chèo Kim Mã, Hãng phim Giải phóng, các
Trường Đại học Văn hoá, Sân khấu Điện ảnh và khu văn hoá nghệ thuật Mai Dịch.
=> Tóm lại, trong thời kỳ 1975 - 1985, lĩnh vực văn hoá chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, từ
văn hoá cứu quốc sang văn hoá kiến quốc, tuy mấy năm đầu có lúng túng, bị động, khó khăn,
nhưng đã vượt qua thử thách và phát triển toàn diện với một chất lượng mới trên phạm vi cả nước,
góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới
xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam.