Chủ đề: Luật hành chính – Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước | Tiểu luận môn Luật kinh tế 1| Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng và đổi mới của đất nước. Hoạt động quản lí hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước mang hình thức chủ động, sáng tạo.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Môn:

Luật kinh tế 1 51 tài liệu

Thông tin:
18 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Chủ đề: Luật hành chính – Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước | Tiểu luận môn Luật kinh tế 1| Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng và đổi mới của đất nước. Hoạt động quản lí hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước mang hình thức chủ động, sáng tạo.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

27 14 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 32573545
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
LUẬT KINH TẾ 1
Chủ đề:
Luật hành chính – Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Giáo viên hướng dẫn
:
Sinh viên thực hiện :
Mã sinh viên :
Lớp :
HÀ NỘI
0
lOMoARcPSD| 32573545
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................3
NỘI DUNG..................................................................................................................4
I. Khái niệm chung...................................................................................................4
1. Pháp
chế..............................................................................................................4 2.
Giám sát..............................................................................................................5
II. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm
pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước...............................................................6
1. Hoạt động giám sát của quốc
hội........................................................................6
1.1. Hình thức hoạt động.......................................................................................7
1.2. Cơ chế thực hiện quyền giám sát của Quốc hội............................................. 8
2 . Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.........................................................
9 III. Các biện pháp tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước...........................10
1. Đối với quốc hội.................................................................................................11
2. Đối với hội đồng nhân dân.................................................................................12
IV: Thực trạng và kiến nghị về giám sát của Quốc hội hiện nay...............................13
4.1. Thực trạng........................................................................................................13
4.2 Đề xuất một số giải pháp..................................................................................14
KẾT LUẬN................................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................18
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khẳng định bài tiểu luận này là do bản thân em tự tìm kiếm tài
liệu, suy nghĩ viết ra.
lOMoARcPSD| 32573545
2
Em không sao chép bất cứ nguồn nào khác, không sao chép tiểu luận của người khác,
không nhờ người viết hộ và không thuê người viết hộ.
lOMoARcPSD| 32573545
3
LỜI MỞ ĐẦU
Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực
hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành
pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức
và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng và đổi mới của
đất nước. Hoạt động quản lí hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát của các
cơ quan quyền lực nhà nước mang hình thức chủ động, sáng tạo.
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà
còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội dung của pháp
chế rất phong phú, trong đó có nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng pháp luật
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Nghiên cứu hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, và đặc biệt
chú trọng đến vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối
với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có ý nghĩa rất
quan trọng, đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay. Để tìm hiểu kĩ hơn về
vấn đề này, em xin chọn đề tài “ Luật hành chính – Vai trò hoạt động giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản
hành chính nhà nước” làm đề tài nghiên cứu.
lOMoARcPSD| 32573545
4
NỘI DUNG
I. Khái niệm chung
1. Pháp chế
Pháp chế một thuật ngđược nhắc đến khá thường xuyên Việt Nam, trong
các văn kiện của Đảng, của nhà nước, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong
các tác phẩm luật học...hiện nay rất nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này. Mặc
dù được diễn đạt khác nhau song giữa các định nghĩa đó có mt điểm cốt lõi tương tự
nhau, đó c tác gicủa chúng đều đề cập đến yêu cầu hay đòi hỏi pháp luật phải
được tôn trọng và thực hiện bởi các chủ thể trong xã hội, từ nhà nước đến các chủ thể
khác.
Khái niệm pháp chế có thể diễn đạt một cách đơn giản như sau: Pháp chế là
sự đòi hỏi mọi tổ chức nhân trong hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp
luật hiện hành một cách nghiêm chỉnh triệt để nhằm tạo ra trong hội một trật tự,
kỷ cương cần thiết”.
Pháp chế một phạm trù rất rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật
mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội dung của pháp
chế rất phong phú, trong đó nội dung bản nhất là sự triệt đtôn trọng pháp luật của
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Chính từ nội dung này pháp chế một trong những nguyên tắc bản nhất
của quản hành chính nhà nước. Nếu thiếu nguyên tắc này hoạt động quản nh
chính Nhà nước sẽ không sở pháp bền vững, sẽ rơi vào tình trạng khủng
hoảng, không thống nhất hay thiếu đồng bộ.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức pháp lý do
các quan nnước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Bằng những chế hoạt động pháp việc bảo đảm pháp chế trong quản hành
chính nhà nước làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế hoạt
động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như hoạt động của các quan hành chính
nhà nước nói riêng phải thực sự vì nhân dân, qua đó khơi dậy ý chí tự lực, tự cường,
tinh thần và trí tuệ của nhân dân đem lại những hiệu quả thiết thực đối với nhân dân.
Cụ thể các thủ tục hành chính được thực hiện dễ hiểu, dễ m thực hiện quyền
và nghĩa vụ công dân theo một trình tự nhất định.
- Pháp chế được bảo đảm thông qua đường lối chính trị của Đảng cầm quyền. - Pháp
chế được bảo đảm thông qua các biện pháp xã hội và đạo đức, bởi vì nguồn gốc của
pháp chế là pháp luật.
lOMoARcPSD| 32573545
5
- Pháp chế dược bảo đảm thông qua chế độ kinh tế của xã hội.
- Pháp chế được bảo đảm thông qua các yếu tố pháp lý như thể chế pháp lý, chế định
pháp lý, công cụ pháp lý, hình thức và các biện pháp pháp lý.
* Để bảo đảm tính pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước chúng ta phải: - Xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và nhân dân lao động được
bảo vệ và có đủ điều kiện thực hiện các quyền tự do chân chính của họ.
- Xây dựng một bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, đủ năng lực.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của
việc thực hiện nhiệm vụ và công vụ được giao.
- Có nguồn kinh phí đáp ứng đầy đủ nhu cầu của công cuộc đổi mới để thực hiện
pháp luật, để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của công dân, coi đó là điều kiện tiên
quyết để đưa pháp luật vào cuộc sống và người lao động có đủ điều kiện để tự bảo
vệ mình.
- Xử lý nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật bất kể họ là ai, ở cấp nào để
khẳng định pháp luật là công bằng, bất kỳ cơ quan, tổ chức và cá nhân nào cũng
chịu sự điều chỉnh của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
- Tiến hành nhiều hình thức, phương pháp và biện pháp khác nhau tạo nên sức mạnh
tổng hợp để thực hiện pháp luật trong phạm vi cả nước hay ở từng địa phương. Căn
cứ vào nội dung và tính chất của các biện pháp tổ chức - pháp lý, chúng ta có thể
phân biệt các biện pháp bảo đảm pháp chế cơ bản gồm hoạt động giám sát của cơ
quan quyền lực Nhà nước, hoạt động kiểm tra, giám sát của tổ chức xã hội và công
dân. Những biện pháp này tuy xét về tính chất có khác nhau nhưng nội dung chúng
đều thể hiện quyền lực của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam.
2. Giám sát
Giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định, là
một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và là một hình thức kiềm chế, đối trọng
trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Giám sát tức là theo dõi, xem xét,
kiểm tra và nhân định về một công việc nào đó là đúng hay là sai với những điều đã
quy định. Hoạt động giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định cũng như với một
đối tượng cụ thể, qua đó thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám
sát và đối tượng chịu sự giám sát. Việc thực hiện tốt công tác giám sát dựa trên
những quy định cụ thể và đòi hỏi cần phải thực hiện tốt công tác này nhất là đối với
nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Khái niệm giám sát được dùng để chỉ quyền của nhân dân lao động thông qua
hoạt động của quan quyền lực nhà nước. Được quy định cụ thể tại Điều 2 Luật hoạt
động giám sát của Quốc hội: “Giám sát việc Quốc hội, Uban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
lOMoARcPSD| 32573545
6
trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghquyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
II. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo
đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Các cơ quan quyền lực nhà nước là những quan có vị trí đặc biệt trong bộ
máy nhà nước, chúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn địa vị pháp do Hiến
pháp quy định. Các cơ quan này đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao
động qua các hoạt động, tác động tích cực chi phối rất lớn hoạt động của các
quan nhà nước khác như cơ quan hành chính nhà nước cũng như các cơ quan tư pháp.
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, Quốc hội va hội đồng nhân dân
các cấp thực hiện quyền lực nnước một cách thường xuyên trực tiếp chỉ đạo
cũng như kiểm tra mọi mặt các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước khác
cùng cấp. Qua việc giám sát này, các quan quyền lực của nhà nước thể phát hiện
ra những yếu kém, khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những
khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật thực hiện nhiệm vụ
pháp luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Dựa vào những sở
đã đạt được, cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện pháp thích hợp
thực hiện trong những thời gian cụ thể để khắc phục những khó khăn tồn tại ấy.
Cũng qua hoạt động giám sát, Quốc hội hội đồng nhân dân các cấp dịp kiểm
nghiệm nh hợp hợp pháp của các văn bản luật đã ban hành. Nếu các văn bản
luật đó có khuyết điểm về hình thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực nhà nước
đó phải đưa ra những biện pháp, giải pháp khắc phục. cũng thông qua đó các
quan quyền lực nhà nước này cũng đưa ra những yêu cầu và biện pháp để cải tiến chế
đọ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước. Nếu có những
vi phạm pháp luật m phạm tới trật tự lợi ích của nhà nước, xã hội công n
của cán bộ nhà nước thì cần phải phát hiện kịp thời những biện pháp xử nghiêm
minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, các hình thức phương pháp giám sát
được triển khai đem lại những kết quả tốt góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ mục
tiêu, tăng cường hiệu qủ hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1. Hoạt động giám sát của quốc hội
1.1 . Hình thức hoạt động
lOMoARcPSD| 32573545
7
- Thực hiện trên kỳ họp qua nghe báo cáo của Chính phủ, các Bộ, quan
ngang bộ, thảo luận đánh giá các báo cáo đó.
- Thông qua quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Thủ tướng, các Bộ trưởng các thành viên khác của Chính phủ; Chánh
án tòa án nhân dân tối cao Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, người bị
chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc
hội thquyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau
của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản.
- Các ủy ban, hội đồng của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát
trên các k họp báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình trong các bản báo
cáo thẩm tra, thuyết trình…(thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Uỷ ban pháp luật,
thẩm tra thực hiện ngân sách của Uỷ ban kinh tế và ngân sách…). Ủy ban thường vụ
Quốc hội vừa quan giúp Quốc hội vừa trực tiếp giám sát việc thực hiện Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân; đồng thời quyền
đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội trình Quốc hội bãi bỏ các văn bản đó, đối với những văn bản của của
Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì bãi bỏ.
- Các tổ đại biểu và từng đại biểu, một mặt, giúp Quốc hội giám sát hoạt động
của Chính phủ, mặt khác, còn trực tiếp giám sát hoạt động của quan hành chính
nhà nước, cán bộ quản lý, có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp
và khắc phục việc làm vi phạm pháp luật, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước,
yêu cầu quan nhà nước, tổ chức hội, tổ chức kinh tế, đơn vị trang trả lời
những vấn đề Quốc hội quan tâm. Người phụ trách các quan, đơn vị, tổ chức
nghĩa vụ trả lời những vấn đề đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật
định. Ngoài ra hoạt động giám sát của các tổ chức đại biểu đại biểu Quốc hội
thông qua việc tiếp xúc cử tri, nghe đề nghị cũng như các yêu cầu và khiếu nại của c
tri về thực hiện nhiệm vụ của quan hành chính nhà nước các cán bộ thẩm
quyền ở những cơ quan ấy.
- Tính quyền lực trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với bộ máy hành
chính nhà nước không chỉ thể hiện ở mặt tổ chức như quyết định thành lập bãi bỏ các
bộ, quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc giải thđơn vị hành chínhkinh
tế đặc biệt mà còn thể hiện ở đối tượng, phạm vi giám sát mọi lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước. Quyền giám sát của Quốc hội đối với quản hành chính nhà nước
có phạm vi rất lớn, thể hiện rõ tính quyền lực nhà nước, thành lập, bãi bỏ các quan,
lOMoARcPSD| 32573545
8
các chức danh của bộ máy hành chính nhà nước…và cả trong hoạt động cụ thể của bộ
máy hành chính nhà nước.
1.2 . Cơ chế thực hiện quyền giám sát của Quốc hội
Vấn đề đặt ra là Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình như thế nào? Ở góc độ
thực tiễn, Quốc hội không thể không cần thiết phải tự mình trực tiếp thực hiện hoạt
động giám sát đó. Cũng như vấn đề thực hiện quyền lực Nhà nước, ở đây đòi hỏi có
sự phân công. Quốc hội giao một phần quyền thực hiện hoạt động giám sát của mình
cho các quan Nhà nước khác giám sát kiểm tra theo dõi các quan đó thực
hiện sự ủy quyền của mình như thế nào? dụ, Quốc hội thể giao cho một số cơ
quan nhà nước khác như Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân... thực
hiện hoạt động giám sát. Quyền lực của c quan này tính phái sinh từ quyền
lực nhà nước của Quốc hội thì hoạt động giám sát của chúng cũng bắt nguồn tquyền
giám sát của Quốc hội. Các quan này thực hiện hoạt động giám sát trong những
lĩnh vực nhất định theo phân công (ủy quyền) của Quốc hội bản thân hoạt động của
những quan này đến lượt mình lại chịu sự giám sát của Quốc hội. Cthể, Quốc hội
thành lập Viện kiểm sát nhân dân giao cho quyền kiểm sát việc tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật trong hoạt động tư pháp Quốc hội giám sát hoạt động của Viện
kiểm sát trong lĩnh vực được phân công thông qua các hình thức như nghe báo cáo
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, chất vấn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao…. Quốc hội giao cho Chính phủ nhiệm vụ tổ chức thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
lệnh, nghị quyết của Chủ tịch nước” (khoản 1 điều 96 Hiến pháp 2013). Các Tòa án
nhân dân nhiệm vbảo vệ pháp chế, “Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét
xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”, “Tòa án nhân dân tối cao thực
hiện việc tổng hợp thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét
xử” (Điều 104 Hiến pháp năm 2013).
Quốc hội chỉ trực tiếp thực hiện quyền giám sát của mình trong những phạm vi mà
Quốc hội thấy cần thiết nhất, quan trọng nhất. Đối tượng giám sát, cách thức giám sát
trong trường hợp này luôn những đặc thù khác với hoạt động giám sát mà Quốc
hội ủy quyền. Quốc hội trực tiếp giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các văn bản
và trong hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.
Quốc hội với tư cách là chủ thể quyền lực Nhà nước thể ủy quyền cho các bộ phận
cấu thành trong hệ thống của Quốc hội thực hiện một số công đoạn, nhiệm vụ giám
sát nhất định hoạt động của những bộ phận cấu thành này đến lượt chúng cũng
đối tượng giám sát của Quốc hội.
Như vậy Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình bằng hai cách: trực tiếp bằng
chính hoạt động của Quốc hội và gián tiếp - thông qua hoạt động giám sát của một số
lOMoARcPSD| 32573545
9
quan nhà nước được Quốc hội ủy quyền. Hai hình thức này liên hệ gắn với
nhau, tạo thành một hoạt động giám sát thống nhất nhằm bảo đảm tính tối thượng của
Hiến pháp luật do Quốc hội ban hành. Nhưng đồng thời mỗi hình thức này lại có
tính độc lập tương đối với nhau. Khi đã giao quyền hoạt động giám sát cho các
quan nhà nước trong những phạm vi giới hạn c định thì Quốc hội không bao biện
làm thay, không can thiệp vào hoạt động của những quan đó trong từng trường hợp
cụ thể.
Ngoài ra, vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội còn thực hiện thông qua hoạt
động của các tổ đại biểu các đại biểu Quốc hội các địa phương các sở, thông
qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe các yêu cầu, đề nghị hay các khiếu nại
của họ về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ
thẩm quyền của các cơ quan ấy. Thông qua việc thực hiện quyền giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan ấy, Quốc hội
xây dựng những biện pháp giả pháp hữu hiệu giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong hoạt động giám sát của mình. Ví dụ: khoản 7 Điều 84 Hiến pháp 1992 về việc
bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn.
Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội thể hiện trước hết với các cơ quan hành
chính nhà nước thông qua đó tức thực hiện quyền lực nhà nước về mặt tổ chức
đối với bộ máy hành chính nnước. Chỉ Quốc hội mới quyền bãi bỏ các văn
bản của Chính phủ, Thủ tướng chính phtrái với Hiến pháp, luật nghị quyết của
Quốc hội.
2 . Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực
hiện quyền giám sát với các hoạt động của ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn
của ủy ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc. Đây chức năng chủ yếu của
các cơ quan quyền lực nhà nước địa phương được thực hiện trước hết ở các họp
của hội đồng nhân dân. Cung giống như Quốc hội hoạt động giám sát này được thực
hiện thông qua việc nghe và thảo luận báo cáo của ủy ban nhân dân cũng như các đại
biểu là lãnh đạo của cơ quan kiểm sát và xét xử ở địa phương.
Phạm vi hoạt động của hội đồng nhân dân không chỉ thu gọn trong phạm những hoạt
động của các quan lực Nhà nước địa phương mà còn mang tính chất toàn hiện
của các quan chính quyền địa phương. Dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra của
các quan nhà nước cấp trên, hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân được tiến
hành một cách toàn diện và mang tầm quan trọng cao.
Nhiệm vụ của hội đồng nhân dân do Hiến pháp và Luật tổ chức hội dồng nhân
ủy ban nhân dân quy định. vậy hoạt động của hội đồng nhân dân không chỉ thực
lOMoARcPSD| 32573545
10
hiện theo trong Hiến pháp pháp luật quy định còn phải chủ động cụ thể hóa
những quy định này cho phù hợp với đặc điểm cụ thể địa phương của mình. Đây
chính là sở pháp để khẳng định quyền hạn của chính quyền địa phương trong
hoạt động giám sát của mình thong qua việc chủ động và luôn tăng cường quyền giám
sát của hội đồng nhân dân với mọi hoạt động thực thi pháp luật địa phương mình.
Qua đó làm thúc đẩy sự năng động sang tạo của quanà chúng nhân dân lao động,
đánh giá xác thực khả năng thực thi pháp luật của địa phương.
Ngoài ra, hình thưc giám sát của hội đồng nhân dân còn mt biểu hiện quan
trọng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Giải quyết khiếu nại, to
của cử tri một cách kịp thời, nhanh chóng vàđúng pháp luật nghĩ vụ của toàn thể đại
biểu hội đồng nhân dân. Làm tốt các hoạt động này hội đồng nhân dân đã thực thi
nhiệm vụ của mình một cách thiết thực vào việc xây dựng nền dân chủ hội chủ
nghĩa của dân, do n dân. Đây cũng điièu kiện để hội đồng nhân dân hoàn
thành nhiệm vụ của người đại biểu của dân mà cử tri nhân dân địa phương đã n
nhiệm giao cho họ.
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân góp phần tích cực vào việc phát
hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật, trên cơ
sở đó kiến nghị cấp thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp thời những sai phạm đó và còn
đôn đóc những quan, tổ chức hưu quan thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân
của cấp trên cũng như giải quyết các vấn đè bức xúc địa phương, bảo đảm thi
hành hiệu quả các quy định của pháp luật nghị quyết của hội đồng nhân dân
địa phương.
III. Các biện pháp tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
1 . Đối với quốc hội
Thực tế, hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đ
cần phải xem xét giải quyết. Các hình thức hoạt động giám sát của Quốc hội của
các quan thuộc Quốc hội tuy đã được quy định trong một số văn bản pháp luật
nhưng vẫn chưa được quy định một ch đầy đủ, mt số vấn đề chưa thật cụ thể,
chưa đủ các căn cứ pháp lý để đảm bảo cho hoạt động giám sát thực hiện một cách
hiệu quả. Trong những năm qua, mặc dầu đã nhiều cố gắng, nhưng hoạt động giám
sát của Quốc hội chưa triển khai đồng bộ trên nhiều lĩnh vực chỉ mới tập trung
được một số vấn đề cần thiết. Chất ợng hiệu quả, hiệu lực giám sát được nâng
lên một bước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi mà thực tế cuộc sống đặt
ra. vậy, để tăng cường hiệu lực giám sát của Quốc hội, cần triển khai một số biện
pháp sau:
lOMoARcPSD| 32573545
11
- Thứ nhất, cần tiếp tục xây dựng, ban hành và cụ thể hóa các quy định pháp luật về
hoạt động giám sát của Quốc hội để xác định ràng, cthể, phạm vi, thẩm quyền,
đối tượng giám sát của các chủ thể thực hiện quyền này đồng thời từng cơ quan phải
thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật. Tránh tình trạng chồng chéo, lẫn lộn
trong hoạt động của các quan khi thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc tuân thủ
pháp luật.
- Thứ hai, hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay chủ yếu thông qua các kỳ
họp của Quốc hội với thời gian không dài. vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội
cần được thực hiện với quỹ thời gian dài hơn. Hoạt động giám sát thông qua các
quan của Quốc hội đại biểu Quốc hội, mặc đã hết sức cố gắng, nhưng do tổ
chức, cũng như số lượng cán bộ của mỗi cơ quan không nhiều, nên không thể đáp ứng
được một cách đầy đủ, nhanh chóng các yêu cầu giám sát. Do đó, để tăng cường hiệu
lực hoạt động giám sát, cần thông qua các quan của Quốc hội chủ yếu. Để cho
các quan của Quốc hội đảm nhiệm được chức năng hoạt động giám sát thì phải tăng
cường các quan này về mọi mặt, như nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho
cán bộ công chức của Văn phòng Quốc hội, tăng cường cơ sở vật chất để các cơ quan
Quốc hội hoạt động. Đặc biệt phải nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, phải đảm
bảo cho mỗi đại biểu đủ điều kiện để hoàn thành được nhiệm vụ của mình, trước hết
là trong việc thực hiện hoạt động giám sát. Mặt khác, phải phát huy sức mạnh và khả
năng của các Đoàn đại biểu Quốc hội. trên từng địa phương, giữa hai kỳ họp của
Quốc hội, thì Đoàn đại biểu Quốc hội có khả năng giám sát nhanh nhạy kịp thời
nhất.
- Thứ ba, để tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội, cần phải đổi mới
hình thức, phương thức và phát triển giám sát của Quốc hội phù hợp với vị trí pháp lý
điều kiện hoạt động của Quốc hội. Phải đổi mới việc xem xét báo cáo của các cơ
quan nnước, việc tổ chức các đoàn đi kiểm tra sở cho đến hoạt động chất vấn
của các đại biểu. Đổi mới hoạt động của các cơ quan Quốc hội, phải làm sao để đạt ở
“tầm” Quốc hội quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa hội
chủ nghĩa Việt Nam.
2 . Đối với hội đồng nhân dân
Khi nghiên cứu về hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân, có một điểm đặc
biệt cần phải xét nó trong mối quan hệ với hiệu lực giám sát của hội đồng nhân dân.
Hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào việc hội đồng nhân dân thực hiện chức năng
giám sát của mình theo quy định của pháp luật đến đâu cũng như những kết luận kiến
nghị từ hoạt động giám sát được các quan, tổ chức, nhân thực hiện nghiêm
chỉnh hay không. Đđảm bảo hiệu lực, hoạt động giám sát cần phải chất lượng,
nghĩa phải đưa ra những kết luận đxuất đúng đắn. Trong mối quan hgiữa chất
lOMoARcPSD| 32573545
12
lượng và hiệu lực giám sát thì chất lượng giám sát là tiền đề bảo đảm hiệu lực, nhưng
để đảm bảo hiệu lực giám sát cần còn sự tự giác chấp hành nghiêm chỉnh của các chủ
thể bị giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn rút ra từ hoạt động giám sát.
Đồng thời cần các biện pháp xử đối với các chủ thể không chấp hành nghiêm
các kết luận đề xuất đó. Một khi chất lượng hiệu lực giám sát được đảm bảo thì
đương nhiên hiệu quả hoạt động giám sát sẽ tốt hơn.
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về giám sát sở pháp cho hội đồng
nhân dân thực hiện quyền năng của mình. Nếu luật không quy định cụ thể về thủ tục,
trách nhiệm, quyền hạn...của các đối tượng liên quan đến hoạt động giám sát thì việc
ghi nhận chức năng giám sát của hội đồng nhân dân trong Hiến pháp cũng chỉ là hình
thức. Để nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân thì đòi hỏi quan trọng
nhất là phải ban hành đủ các văn bản pháp luật trong lĩnh vực giám sát cho hội đồng
nhân dân nói riêng và toàn bộ hoạt động của hội đồng nhân dân nói chung.
Thứ hai, Để thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát,
đòi hỏi Hội đồng nhân dân phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động. Bởi
thực tế cho thấy bất kỳ một cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên
guồng máy làm việc nhịp nhàng và mang lại hiệu quả.
Thứ ba, Năng lực, bản lĩnh trách nhiệm thực hiện vai trò hoạt động giám
sát của Đại biểu hội đồng nhân dân. Các đại biểu dân cử phải có đủ tâmđủ tài. Bởi
người làm ng tác giám sát, ngoài công nhận cái đúng còn phải chỉ đra các
kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho được cái tiêu cực, trái pháp luật;
để phát hiện cái sai của người khác, của các ngành chức năng. Như vây, người đại
biểu nhân dân phải có quan điểm trình độ, bản lĩnh vững vàng, có cánh nhìnng suốt
và phương pháp làm việc khoa học, hợp lý. Phải có bản lĩnh giám nói thẳng, nói thật,
không nể nang né tránh, phải vì lợi ích của dân, của nhà nước.
Thứ tư, muốn nâng cao vai trò hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân, cần
phải đầu tư chi phí và điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát. Trong đánh giá hiệu
quả giám sát của hội đồng nhân dân, cần hiểu tính chất hai mặt của đầu tư chi phí cho
hoạt động này.
IV: Thực trạng và kiến nghị về giám sát của Quốc hội hiện nay
4.1 . Thực trạng
Cùng với quá trình đổi mới của hệ thống chính trị nước nhà, Quốc hội đã có nhiều
đổi mới đạt được những thành tựu quan trọng. Hoạt động giám sát của Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Quốc hội đã ngày càng được quan tâm, đẩy mạnh. Các hoạt động giám sát
lOMoARcPSD| 32573545
13
được tăng cường hơn trước, Quốc hội đã chủ động xây dựng chương trình giám sát,
tiến hành giám sát theo kế hoạch, đúng tiến độ, đảm bảo đem lại hiệu quả tốt nhất. Các
đoàn đại biểu Quốc hội đã xây dựng kế hoạch giám sát, phối hợp tốt trong các chuyên
đề. Các cơ quan chịu trách nhiệm phối hợp đã nghiêm túc thực hiện, giải quyết những
vấn đề mà đoàn giám sát đề cập tới. Nội dung giám sát đã tập trung vào nhiều vấn đề
bức xúc trong cuộc sống, tác động tích cực đến hoạt động lập pháp quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và giữ gìn
trật tự kỷ cương của đất nước.
Bên cạnh những hiệu quả giám sát mà Quốc hội đã đạt được, việc giám sát của Quốc
hội còn tồn tại một số hạn chế sau:
Thứ nhất, mục đích giám sát của Quốc hội chưa thật sự ràng, thiếu tập trung, đối
tượng giám sát quá rộng nên chưa đem lại hiệu quả cao, đáp ứng ở mức độ thấp so với
yêu cầu và đòi hỏi từ nguyện vọng của nhân dân quy định của Hiến pháp, pháp luật
về quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Thứ hai, một số nội dung của giám sát chưa được tập trung cao như công tác cải cách
thủ tục hành chính, quản vốn tài sản nhà nước. Một số nội dung giám sát còn
chưa cụ thể, ng, phạm vi giám sát n khái quát. Việc ôm đồm trong hoạt động
giám sát của Quốc hội ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện các chức năng quan trọng
khác của Quốc hội, đặc biệt là chức năng lập pháp.
Thứ ba, các cơ quan tổ chức chưa thực hiện tốt việc phối hợp với đoàn giám sát.
quan cung cấp thông tin tư liệu cho Quốc hội chưa thực sự đầy đủ, thiếu chính xác,
chưa kịp thời, một số báo cáo chưa khách quan và đầy đủ theo yêu cầu của Quốc hội.
Một số cá nhân đứng đầu cơ quan chưa thật sự có trách nhiệm với công việc, ủy thác
trách nhiệm cho cấp dưới, chưa quan tâm sát sao tới những vấn đề cấp trên đưa
xuống.
Thứ tư, hoạt động giám sát với các quan hành chính nhà nước chưa rõ nét, chưa có
hoạt động giám sát của Quốc hội đối với những người thực hiện trái quy định pháp
luật, lạm dụng chức quyền, hách dịch, gây khó khăn cho người dân. Nguồn nhân lực
giám sát còn thiếu, nhất những cán bộ, ng chức kinh nghiệm, năng lực
chuyên môn sâu.
Thứ năm, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa thực hiện được
thường xuyên; việc giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn còn
lúng túng, chưa đem lại hiệu quả cao; việc theo dõi, tiếp thu, giải quyết các kiến nghị
chưa được chú trọng, đôn đốc đến cùng; trong hoạt động phòng, chống tham nhũng,
hoạt động giám sát cũng chưa đạt được hiệu quả cao. Hoạt động chất vấn còn hạn chế,
trong các kỳ họp, một số thành viên Chính phủ, người đứng đầu ngành chưa trả lời
đúng vào vấn đề chất vấn; việc trả lời mới tập trung vào thực trạng, chưa xác định rõ
trách nhiệm cá nhân đối với những hạn chế, bất cập.
lOMoARcPSD| 32573545
14
Trong hoạt động giám sát của Quốc hội còn tồn tại một số hạn chế do phạm vi giám
sát của Quốc hội còn rộng, các chương trình, kế hoạch, nội dung giám sát còn chưa
sát với thực tế, chưa kịp thời giải quyết được những thắc mắc, khiếu nại của người
dân. Các cơ quan nhà nước chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, chưa tập trung, xem xét,
giải quyết nghiêm túc những vấn đề giám sát. Các quan giúp việc chưa thực hiện
đúng và hết khả năng của mình trong việc thực hiện giám sát.
4.2 Đề xuất một số giải pháp
Chức năng giám sát của Quốc hội giữ một vai trò quan trọng đã những thành
tựu nhất định trong thời quan vừa qua. Tuy nhiên, việc giám sát của Quốc hội vẫn còn
tồn tại mt số hạn chế. Thời gian tới cần có những giải pháp kịp thời đnâng cao hiệu
quả giám sát của Quốc hội. Tác giả xin đề xuất một số biện pháp như sau:
Một là, cần xác định rõ mục đích giám sát của Quốc hội, tập trung giám sát tốt những
vấn đề Nghị quyết của Quốc hội đã đưa ra, những biện pháp cụ thể, kịp thời với
những vấn đề thực hiện giám sát. Chương trình giám sát cần có kế hoạch cụ
thể, ràng, tiến hành giám sát theo đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng. Hoạt động
giám sát cần được quan tâm thường xuyên, hạn chế tối đa sự chồng chéo.
Hai là, xác định nội dung giám sát cần tập trung vào những vấn đề mà nhân n
quan tâm, phợp với điều kiện Quốc hội, những mục tiêu chính sách đã được xác
định trong các đạo luật và trong các nghị quyết của Quốc hội. Việc ban hành các văn
bản quy phạm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật của các quan hành
chính nhà nước, liên tục rà soát c quy định của pháp luật để kịp thời biện pháp
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, nâng cao vai trò của quản của Nhà
nước.
Ba là, đề cao trách nhiệm của Quốc hội khi ban hành các nghị định, nêu rõ thời gian
hoàn thành, mc đích và yêu cầu các cơ quan liên quan triển khai thực hiện, theo dõi,
giám sát và báo cáo cụ thể với Quốc hội. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động giám sát của
Quốc hội với việc thực thi công vụ của các quan nhà nước, tránh đùn đẩy trách
nhiệm, thực hiện tốt việc báo o tại các kỳ họp. Tăng cường hoạt động chất vấn tại
phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cũng như tại các hoạt động giải trình tại
Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Cần có những biện pháp cụ thể đối với
những quan, tổ chức nhân không thực hiện hay thực hiện chưa triệt để những
kiến nghị của Quốc hội đưa ra. Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho Ủy ban trong hoạt
động giám sát bằng các sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. Trong
đó, quy định Ủy ban Giám sát thẩm quyền đề nghị xử kỷ luật, khiển trách đối
với tổ chức, cá nhân không chấp hành yêu cầu của đoàn giám sát.
Bốn là, nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội các quan của Quốc hội. Đây
là mt trong những nội dung quan trọng đã được Đảng đề cập đến tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X “…tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội. Hoàn
lOMoARcPSD| 32573545
15
thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp số đại
biểu chuyên trách; phát huy tốt hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một
số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các
ủy ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban
hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước chức năng giám sát tối cao”. Cần “nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
hoạt động giám sát, tích cực hoàn thiện cơ sở pháp lý, đổi mới phương thức giám sát
tăng ờng sự lãnh đạo sát sao của y ban Thường vụ Quốc hội là những yếu tố
rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội” (Thông báo kết luận số 144-TB/TW năm 2008).
Năm là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội. Cần có những quy định pháp chế cụ thể về thực hiện giám
sát, những nội dung nghị quyết đưa ra phải rõ ràng, xác định trách nhiệm cụ thể
của từng cơ quan, cá nhân trong quá trình thực hiện giám sát.
Sáu là, nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức, vn
chức của văn phòng Quốc hội cũng như các quan, đoàn thể; tổ chức các lớp tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên sâu cần thiết theo từng lĩnh vực. Cùng với
đó, cần nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện tối đa để đại biểu có th
hoàn thành tốt nhiệm vụ của Quốc hội nói chung và nhiệm vụ giám sát nói riêng.
Trong thời gian qua, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có những thành tựu đáng kể,
góp phần quan trọng vào việc phát huy vai trò quan đại diện cao nhất của Nhà
nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy còn tồn tại một số hạn chế, song
những biện pháp đề ra sẽ nhằm góp phần hoàn thiện vai trò, cũng như hiệu quả giám
sát ngày càng cao của Quốc hội trong thời gian tới.
lOMoARcPSD| 32573545
16
KẾT LUẬN
Hoạt động giám sát cơ quan quyền lực nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
chế đảm bảo tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật của đời sống nhà
nước. Vì vậy, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này phải được tiến hành
một cách đồng bộ giữa các yếu tố, các khâu của cơ chế nhằm đảm bảo và tăng cường
pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật.
ta nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Điều đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
lOMoARcPSD| 32573545
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Luật kinh tế 1 Trường Đại Học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
- Báo Nghiên cứu Lập pháp – Viện Nghiên cứu Lập Pháp thuộc ủy ban thường vụ
Quốc Hội
- Luật Hành chính Việt Nam
| 1/18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 32573545
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI TIỂU LUẬN LUẬT KINH TẾ 1 Chủ đề:
Luật hành chính – Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện : Mã sinh viên : Lớp : HÀ NỘI 0 lOMoAR cPSD| 32573545 MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................3
NỘI DUNG..................................................................................................................4
I. Khái niệm chung...................................................................................................4 1. Pháp
chế..............................................................................................................4 2.
Giám sát..............................................................................................................5
II. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm
pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước...............................................................6 1. Hoạt động giám sát của quốc
hội........................................................................6
1.1. Hình thức hoạt động.......................................................................................7
1.2. Cơ chế thực hiện quyền giám sát của Quốc hội............................................. 8
2 . Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.........................................................
9 III. Các biện pháp tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước...........................10
1. Đối với quốc hội.................................................................................................11
2. Đối với hội đồng nhân dân.................................................................................12
IV: Thực trạng và kiến nghị về giám sát của Quốc hội hiện nay...............................13
4.1. Thực trạng........................................................................................................13
4.2 Đề xuất một số giải pháp..................................................................................14
KẾT LUẬN................................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................18 LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan và khẳng định bài tiểu luận này là do bản thân em tự tìm kiếm tài liệu, suy nghĩ viết ra. 1 lOMoAR cPSD| 32573545
Em không sao chép bất cứ nguồn nào khác, không sao chép tiểu luận của người khác,
không nhờ người viết hộ và không thuê người viết hộ. 2 lOMoAR cPSD| 32573545 LỜI MỞ ĐẦU
Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước được thực
hiện bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là đảm bảo sự chấp hành
pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức
và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng và đổi mới của
đất nước. Hoạt động quản lí hành chính nhà nước được đặt dưới sự giám sát của các
cơ quan quyền lực nhà nước mang hình thức chủ động, sáng tạo.
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà
còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội dung của pháp
chế rất phong phú, trong đó có nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng pháp luật
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Nghiên cứu hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, và đặc biệt
chú trọng đến vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối
với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có ý nghĩa rất
quan trọng, đáp ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam hiện nay. Để tìm hiểu kĩ hơn về
vấn đề này, em xin chọn đề tài “ Luật hành chính – Vai trò hoạt động giám sát
của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí
hành chính nhà nước” làm đề tài nghiên cứu. 3 lOMoAR cPSD| 32573545 NỘI DUNG I. Khái niệm chung 1. Pháp chế
Pháp chế là một thuật ngữ được nhắc đến khá thường xuyên ở Việt Nam, trong
các văn kiện của Đảng, của nhà nước, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong
các tác phẩm luật học...hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề này. Mặc
dù được diễn đạt khác nhau song giữa các định nghĩa đó có một điểm cốt lõi tương tự
nhau, đó là các tác giả của chúng đều đề cập đến yêu cầu hay đòi hỏi pháp luật phải
được tôn trọng và thực hiện bởi các chủ thể trong xã hội, từ nhà nước đến các chủ thể khác.
Khái niệm pháp chế có thể diễn đạt một cách đơn giản như sau: “Pháp chế là
sự đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp
luật hiện hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để nhằm tạo ra trong xã hội một trật tự,
kỷ cương cần thiết”.
Pháp chế là một phạm trù rất rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật
mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội dung của pháp
chế rất phong phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng pháp luật của
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân.
Chính từ nội dung này mà pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất
của quản lí hành chính nhà nước. Nếu thiếu nguyên tắc này hoạt động quản lý hành
chính Nhà nước sẽ không có cơ sở pháp lý bền vững, sẽ rơi vào tình trạng khủng
hoảng, không thống nhất hay thiếu đồng bộ.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức pháp lý do
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của công dân.
Bằng những cơ chế và hoạt động pháp lí việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành
chính nhà nước làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế và hoạt
động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước nói riêng phải thực sự vì nhân dân, qua đó khơi dậy ý chí tự lực, tự cường,
tinh thần và trí tuệ của nhân dân đem lại những hiệu quả thiết thực đối với nhân dân.
Cụ thể là các thủ tục hành chính được thực hiện dễ hiểu, dễ làm và thực hiện quyền
và nghĩa vụ công dân theo một trình tự nhất định.
- Pháp chế được bảo đảm thông qua đường lối chính trị của Đảng cầm quyền. - Pháp
chế được bảo đảm thông qua các biện pháp xã hội và đạo đức, bởi vì nguồn gốc của pháp chế là pháp luật. 4 lOMoAR cPSD| 32573545
- Pháp chế dược bảo đảm thông qua chế độ kinh tế của xã hội.
- Pháp chế được bảo đảm thông qua các yếu tố pháp lý như thể chế pháp lý, chế định
pháp lý, công cụ pháp lý, hình thức và các biện pháp pháp lý.
* Để bảo đảm tính pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước chúng ta phải: - Xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ để Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và nhân dân lao động được
bảo vệ và có đủ điều kiện thực hiện các quyền tự do chân chính của họ.
- Xây dựng một bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, đủ năng lực.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của
việc thực hiện nhiệm vụ và công vụ được giao.
- Có nguồn kinh phí đáp ứng đầy đủ nhu cầu của công cuộc đổi mới để thực hiện
pháp luật, để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của công dân, coi đó là điều kiện tiên
quyết để đưa pháp luật vào cuộc sống và người lao động có đủ điều kiện để tự bảo vệ mình.
- Xử lý nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật bất kể họ là ai, ở cấp nào để
khẳng định pháp luật là công bằng, bất kỳ cơ quan, tổ chức và cá nhân nào cũng
chịu sự điều chỉnh của pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
- Tiến hành nhiều hình thức, phương pháp và biện pháp khác nhau tạo nên sức mạnh
tổng hợp để thực hiện pháp luật trong phạm vi cả nước hay ở từng địa phương. Căn
cứ vào nội dung và tính chất của các biện pháp tổ chức - pháp lý, chúng ta có thể
phân biệt các biện pháp bảo đảm pháp chế cơ bản gồm hoạt động giám sát của cơ
quan quyền lực Nhà nước, hoạt động kiểm tra, giám sát của tổ chức xã hội và công
dân. Những biện pháp này tuy xét về tính chất có khác nhau nhưng nội dung chúng
đều thể hiện quyền lực của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. 2. Giám sát
Giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định, là
một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và là một hình thức kiềm chế, đối trọng
trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Giám sát tức là theo dõi, xem xét,
kiểm tra và nhân định về một công việc nào đó là đúng hay là sai với những điều đã
quy định. Hoạt động giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định cũng như với một
đối tượng cụ thể, qua đó thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám
sát và đối tượng chịu sự giám sát. Việc thực hiện tốt công tác giám sát dựa trên
những quy định cụ thể và đòi hỏi cần phải thực hiện tốt công tác này nhất là đối với
nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Khái niệm giám sát được dùng để chỉ quyền của nhân dân lao động thông qua
hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Được quy định cụ thể tại Điều 2 Luật hoạt
động giám sát của Quốc hội: “Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội
theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát 5 lOMoAR cPSD| 32573545
trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
II. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo
đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
Các cơ quan quyền lực nhà nước là những cơ quan có vị trí đặc biệt trong bộ
máy nhà nước, chúng có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị pháp lí do Hiến
pháp quy định. Các cơ quan này đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao
động qua các hoạt động, tác động tích cực và chi phối rất lớn hoạt động của các cơ
quan nhà nước khác như cơ quan hành chính nhà nước cũng như các cơ quan tư pháp.
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt
động của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, Quốc hội va hội đồng nhân dân
các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo
cũng như kiểm tra mọi mặt các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước khác
cùng cấp. Qua việc giám sát này, các cơ quan quyền lực của nhà nước có thể phát hiện
ra những yếu kém, khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những
khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà
pháp luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Dựa vào những cơ sở
đã đạt được, cơ quan quyền lực nhà nước kịp thời đề ra những biện pháp thích hợp và
thực hiện trong những thời gian cụ thể để khắc phục những khó khăn và tồn tại ấy.
Cũng qua hoạt động giám sát, Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp có dịp kiểm
nghiệm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản luật đã ban hành. Nếu các văn bản
luật đó có khuyết điểm về hình thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực nhà nước
đó phải đưa ra những biện pháp, giải pháp khắc phục. Và cũng thông qua đó các cơ
quan quyền lực nhà nước này cũng đưa ra những yêu cầu và biện pháp để cải tiến chế
đọ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu lực quản lí của nhà nước. Nếu có những
vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân
của cán bộ nhà nước thì cần phải phát hiện kịp thời và có những biện pháp xử lí nghiêm
minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, các hình thức và phương pháp giám sát
được triển khai đem lại những kết quả tốt góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ mục
tiêu, tăng cường hiệu qủ hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
1. Hoạt động giám sát của quốc hội
1.1 . Hình thức hoạt động 6 lOMoAR cPSD| 32573545 -
Thực hiện trên kỳ họp qua nghe báo cáo của Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang bộ, thảo luận đánh giá các báo cáo đó. -
Thông qua quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; Chánh
án tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao, người bị
chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc
hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau
của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản. -
Các ủy ban, hội đồng của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát
và trên các kỳ họp báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình trong các bản báo
cáo thẩm tra, thuyết trình…(thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Uỷ ban pháp luật,
thẩm tra thực hiện ngân sách của Uỷ ban kinh tế và ngân sách…). Ủy ban thường vụ
Quốc hội vừa là cơ quan giúp Quốc hội vừa trực tiếp giám sát việc thực hiện Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân; đồng thời có quyền
đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của
Quốc hội và trình Quốc hội bãi bỏ các văn bản đó, đối với những văn bản của của
Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì bãi bỏ. -
Các tổ đại biểu và từng đại biểu, một mặt, giúp Quốc hội giám sát hoạt động
của Chính phủ, mặt khác, còn trực tiếp giám sát hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước, cán bộ quản lý, có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp
và khắc phục việc làm vi phạm pháp luật, chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước,
yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời
những vấn đề mà Quốc hội quan tâm. Người phụ trách các cơ quan, đơn vị, tổ chức
có nghĩa vụ trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật
định. Ngoài ra hoạt động giám sát của các tổ chức đại biểu và đại biểu Quốc hội là
thông qua việc tiếp xúc cử tri, nghe đề nghị cũng như các yêu cầu và khiếu nại của cử
tri về thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ có thẩm
quyền ở những cơ quan ấy. -
Tính quyền lực trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với bộ máy hành
chính nhà nước không chỉ thể hiện ở mặt tổ chức như quyết định thành lập bãi bỏ các
bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chínhkinh
tế đặc biệt mà còn thể hiện ở đối tượng, phạm vi giám sát mọi lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước. Quyền giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính nhà nước
có phạm vi rất lớn, thể hiện rõ tính quyền lực nhà nước, thành lập, bãi bỏ các cơ quan, 7 lOMoAR cPSD| 32573545
các chức danh của bộ máy hành chính nhà nước…và cả trong hoạt động cụ thể của bộ
máy hành chính nhà nước.
1.2 . Cơ chế thực hiện quyền giám sát của Quốc hội
Vấn đề đặt ra là Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình như thế nào? Ở góc độ
thực tiễn, Quốc hội không thể và không cần thiết phải tự mình trực tiếp thực hiện hoạt
động giám sát đó. Cũng như vấn đề thực hiện quyền lực Nhà nước, ở đây đòi hỏi có
sự phân công. Quốc hội giao một phần quyền thực hiện hoạt động giám sát của mình
cho các cơ quan Nhà nước khác và giám sát kiểm tra theo dõi các cơ quan đó thực
hiện sự ủy quyền của mình như thế nào? Ví dụ, Quốc hội có thể giao cho một số cơ
quan nhà nước khác như Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân... thực
hiện hoạt động giám sát. Quyền lực của các cơ quan này có tính phái sinh từ quyền
lực nhà nước của Quốc hội thì hoạt động giám sát của chúng cũng bắt nguồn từ quyền
giám sát của Quốc hội. Các cơ quan này thực hiện hoạt động giám sát trong những
lĩnh vực nhất định theo phân công (ủy quyền) của Quốc hội và bản thân hoạt động của
những cơ quan này đến lượt mình lại chịu sự giám sát của Quốc hội. Cụ thể, Quốc hội
thành lập Viện kiểm sát nhân dân và giao cho nó quyền kiểm sát việc tuân thủ Hiến
pháp, pháp luật trong hoạt động tư pháp và Quốc hội giám sát hoạt động của Viện
kiểm sát trong lĩnh vực được phân công thông qua các hình thức như nghe báo cáo
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, chất vấn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao…. Quốc hội giao cho Chính phủ nhiệm vụ “tổ chức thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
lệnh, nghị quyết của Chủ tịch nước” (khoản 1 điều 96 Hiến pháp 2013). Các Tòa án
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế, “Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét
xử của các Tòa án khác, trừ trường hợp do luật định”, “Tòa án nhân dân tối cao thực
hiện việc tổng hợp thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét
xử” (Điều 104 Hiến pháp năm 2013).
Quốc hội chỉ trực tiếp thực hiện quyền giám sát của mình trong những phạm vi mà
Quốc hội thấy cần thiết nhất, quan trọng nhất. Đối tượng giám sát, cách thức giám sát
trong trường hợp này luôn có những đặc thù khác với hoạt động giám sát mà Quốc
hội ủy quyền. Quốc hội trực tiếp giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các văn bản
và trong hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Tòa Án Nhân Dân Tối Cao, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.
Quốc hội với tư cách là chủ thể quyền lực Nhà nước có thể ủy quyền cho các bộ phận
cấu thành trong hệ thống của Quốc hội thực hiện một số công đoạn, nhiệm vụ giám
sát nhất định và hoạt động của những bộ phận cấu thành này đến lượt chúng cũng là
đối tượng giám sát của Quốc hội.
Như vậy Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình bằng hai cách: trực tiếp bằng
chính hoạt động của Quốc hội và gián tiếp - thông qua hoạt động giám sát của một số 8 lOMoAR cPSD| 32573545
cơ quan nhà nước được Quốc hội ủy quyền. Hai hình thức này có liên hệ gắn bó với
nhau, tạo thành một hoạt động giám sát thống nhất nhằm bảo đảm tính tối thượng của
Hiến pháp và luật do Quốc hội ban hành. Nhưng đồng thời mỗi hình thức này lại có
tính độc lập tương đối với nhau. Khi đã giao quyền hoạt động giám sát cho các cơ
quan nhà nước trong những phạm vi giới hạn xác định thì Quốc hội không bao biện
làm thay, không can thiệp vào hoạt động của những cơ quan đó trong từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội còn thực hiện thông qua hoạt
động của các tổ đại biểu và các đại biểu Quốc hội ở các địa phương và các cơ sở, thông
qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe các yêu cầu, đề nghị hay các khiếu nại
của họ về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và các cán bộ có
thẩm quyền của các cơ quan ấy. Thông qua việc thực hiện quyền giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước và các cán bộ có thẩm quyền của các cơ quan ấy, Quốc hội
xây dựng những biện pháp và giả pháp hữu hiệu giải quyết những vấn đề nảy sinh
trong hoạt động giám sát của mình. Ví dụ: khoản 7 Điều 84 Hiến pháp 1992 về việc
bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn.
Vai trò hoạt động giám sát của Quốc hội thể hiện trước hết với các cơ quan hành
chính nhà nước vì thông qua đó tức là thực hiện quyền lực nhà nước về mặt tổ chức
đối với bộ máy hành chính nhà nước. Chỉ có Quốc hội mới có quyền bãi bỏ các văn
bản của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội.
2 . Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực
hiện quyền giám sát với các hoạt động của ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn
của ủy ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc. Đây là chức năng chủ yếu của
các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được thực hiện trước hết ở các kì họp
của hội đồng nhân dân. Cung giống như Quốc hội hoạt động giám sát này được thực
hiện thông qua việc nghe và thảo luận báo cáo của ủy ban nhân dân cũng như các đại
biểu là lãnh đạo của cơ quan kiểm sát và xét xử ở địa phương.
Phạm vi hoạt động của hội đồng nhân dân không chỉ thu gọn trong phạm những hoạt
động của các cơ quan lực Nhà nước ở địa phương mà còn mang tính chất toàn hiện
của các cơ quan chính quyền địa phương. Dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra của
các cơ quan nhà nước cấp trên, hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân được tiến
hành một cách toàn diện và mang tầm quan trọng cao.
Nhiệm vụ của hội đồng nhân dân do Hiến pháp và Luật tổ chức hội dồng nhân
và ủy ban nhân dân quy định. Vì vậy hoạt động của hội đồng nhân dân không chỉ thực 9 lOMoAR cPSD| 32573545
hiện theo trong Hiến pháp và pháp luật quy định mà còn phải chủ động cụ thể hóa
những quy định này cho phù hợp với đặc điểm cụ thể ở địa phương của mình. Đây
chính là cơ sở pháp lí để khẳng định quyền hạn của chính quyền địa phương trong
hoạt động giám sát của mình thong qua việc chủ động và luôn tăng cường quyền giám
sát của hội đồng nhân dân với mọi hoạt động thực thi pháp luật ở địa phương mình.
Qua đó làm thúc đẩy sự năng động và sang tạo của quanà chúng nhân dân lao động,
đánh giá xác thực khả năng thực thi pháp luật của địa phương.
Ngoài ra, hình thưc giám sát của hội đồng nhân dân còn một biểu hiện quan
trọng là việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Giải quyết khiếu nại, tố cáo
của cử tri một cách kịp thời, nhanh chóng vàđúng pháp luật là nghĩ vụ của toàn thể đại
biểu hội đồng nhân dân. Làm tốt các hoạt động này hội đồng nhân dân đã thực thi
nhiệm vụ của mình một cách thiết thực vào việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đây cũng là điièu kiện để hội đồng nhân dân hoàn
thành nhiệm vụ của người đại biểu của dân mà cử tri và nhân dân địa phương đã tín nhiệm giao cho họ.
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân góp phần tích cực vào việc phát
hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật, trên cơ
sở đó kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp thời những sai phạm đó và còn
đôn đóc những cơ quan, tổ chức hưu quan thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân
và của cấp trên cũng như giải quyết các vấn đè bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi
hành có hiệu quả các quy định của pháp luật và nghị quyết của hội đồng nhân dân ở địa phương.
III. Các biện pháp tăng cường hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
1 . Đối với quốc hội
Thực tế, hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề
cần phải xem xét giải quyết. Các hình thức hoạt động giám sát của Quốc hội và của
các cơ quan thuộc Quốc hội tuy đã được quy định trong một số văn bản pháp luật
nhưng vẫn chưa được quy định một cách đầy đủ, có một số vấn đề chưa thật cụ thể,
chưa đủ các căn cứ pháp lý để đảm bảo cho hoạt động giám sát thực hiện một cách có
hiệu quả. Trong những năm qua, mặc dầu đã có nhiều cố gắng, nhưng hoạt động giám
sát của Quốc hội chưa triển khai đồng bộ trên nhiều lĩnh vực mà chỉ mới tập trung
được một số vấn đề cần thiết. Chất lượng hiệu quả, hiệu lực giám sát có được nâng
lên một bước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi mà thực tế cuộc sống đặt
ra. Vì vậy, để tăng cường hiệu lực giám sát của Quốc hội, cần triển khai một số biện pháp sau: 10 lOMoAR cPSD| 32573545
- Thứ nhất, cần tiếp tục xây dựng, ban hành và cụ thể hóa các quy định pháp luật về
hoạt động giám sát của Quốc hội để xác định rõ ràng, cụ thể, phạm vi, thẩm quyền,
đối tượng giám sát của các chủ thể thực hiện quyền này đồng thời từng cơ quan phải
thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật. Tránh tình trạng chồng chéo, lẫn lộn
trong hoạt động của các cơ quan khi thực hiện việc kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật.
- Thứ hai, hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay chủ yếu là thông qua các kỳ
họp của Quốc hội với thời gian không dài. Vì vậy, hoạt động giám sát của Quốc hội
cần được thực hiện với quỹ thời gian dài hơn. Hoạt động giám sát thông qua các cơ
quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do tổ
chức, cũng như số lượng cán bộ của mỗi cơ quan không nhiều, nên không thể đáp ứng
được một cách đầy đủ, nhanh chóng các yêu cầu giám sát. Do đó, để tăng cường hiệu
lực hoạt động giám sát, cần thông qua các cơ quan của Quốc hội là chủ yếu. Để cho
các cơ quan của Quốc hội đảm nhiệm được chức năng hoạt động giám sát thì phải tăng
cường các cơ quan này về mọi mặt, như nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho
cán bộ công chức của Văn phòng Quốc hội, tăng cường cơ sở vật chất để các cơ quan
Quốc hội hoạt động. Đặc biệt là phải nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, phải đảm
bảo cho mỗi đại biểu đủ điều kiện để hoàn thành được nhiệm vụ của mình, trước hết
là trong việc thực hiện hoạt động giám sát. Mặt khác, phải phát huy sức mạnh và khả
năng của các Đoàn đại biểu Quốc hội. Vì trên từng địa phương, giữa hai kỳ họp của
Quốc hội, thì Đoàn đại biểu Quốc hội có khả năng giám sát nhanh nhạy và kịp thời nhất.
- Thứ ba, để tăng cường hiệu lực hoạt động giám sát của Quốc hội, cần phải đổi mới
hình thức, phương thức và phát triển giám sát của Quốc hội phù hợp với vị trí pháp lý
và điều kiện hoạt động của Quốc hội. Phải đổi mới việc xem xét báo cáo của các cơ
quan nhà nước, việc tổ chức các đoàn đi kiểm tra cơ sở cho đến hoạt động chất vấn
của các đại biểu. Đổi mới hoạt động của các cơ quan Quốc hội, phải làm sao để đạt ở
“tầm” Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2 . Đối với hội đồng nhân dân
Khi nghiên cứu về hiệu quả giám sát của hội đồng nhân dân, có một điểm đặc
biệt cần phải xét nó trong mối quan hệ với hiệu lực giám sát của hội đồng nhân dân.
Hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào việc hội đồng nhân dân thực hiện chức năng
giám sát của mình theo quy định của pháp luật đến đâu cũng như những kết luận kiến
nghị từ hoạt động giám sát có được các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm
chỉnh hay không. Để đảm bảo hiệu lực, hoạt động giám sát cần phải có chất lượng,
nghĩa là phải đưa ra những kết luận đề xuất đúng đắn. Trong mối quan hệ giữa chất 11 lOMoAR cPSD| 32573545
lượng và hiệu lực giám sát thì chất lượng giám sát là tiền đề bảo đảm hiệu lực, nhưng
để đảm bảo hiệu lực giám sát cần còn sự tự giác chấp hành nghiêm chỉnh của các chủ
thể bị giám sát đối với các kết luận, đề xuất đúng đắn rút ra từ hoạt động giám sát.
Đồng thời cần có các biện pháp xử lý đối với các chủ thể không chấp hành nghiêm
các kết luận đề xuất đó. Một khi chất lượng và hiệu lực giám sát được đảm bảo thì
đương nhiên hiệu quả hoạt động giám sát sẽ tốt hơn.
Thứ nhất, các quy định của pháp luật về giám sát là cơ sở pháp lý cho hội đồng
nhân dân thực hiện quyền năng của mình. Nếu luật không quy định cụ thể về thủ tục,
trách nhiệm, quyền hạn...của các đối tượng liên quan đến hoạt động giám sát thì việc
ghi nhận chức năng giám sát của hội đồng nhân dân trong Hiến pháp cũng chỉ là hình
thức. Để nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân thì đòi hỏi quan trọng
nhất là phải ban hành đủ các văn bản pháp luật trong lĩnh vực giám sát cho hội đồng
nhân dân nói riêng và toàn bộ hoạt động của hội đồng nhân dân nói chung.
Thứ hai, Để thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt là chức năng giám sát,
đòi hỏi Hội đồng nhân dân phải có một bộ máy làm việc đủ mạnh và năng động. Bởi
thực tế cho thấy bất kỳ một cơ quan nào, nếu có tổ chức hợp lý và đồng bộ sẽ tạo nên
guồng máy làm việc nhịp nhàng và mang lại hiệu quả.
Thứ ba, Năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện vai trò hoạt động giám
sát của Đại biểu hội đồng nhân dân. Các đại biểu dân cử phải có đủ tâm và đủ tài. Bởi
người làm công tác giám sát, ngoài công nhận cái đúng còn phải chỉ rõ và đề ra các
kiến nghị, những biện pháp hữu hiệu để loại bỏ cho được cái tiêu cực, trái pháp luật;
để phát hiện cái sai của người khác, của các ngành chức năng. Như vây, người đại
biểu nhân dân phải có quan điểm trình độ, bản lĩnh vững vàng, có cánh nhìn sáng suốt
và phương pháp làm việc khoa học, hợp lý. Phải có bản lĩnh giám nói thẳng, nói thật,
không nể nang né tránh, phải vì lợi ích của dân, của nhà nước.
Thứ tư, muốn nâng cao vai trò hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân, cần
phải đầu tư chi phí và điều kiện vật chất cho hoạt động giám sát. Trong đánh giá hiệu
quả giám sát của hội đồng nhân dân, cần hiểu tính chất hai mặt của đầu tư chi phí cho hoạt động này.
IV: Thực trạng và kiến nghị về giám sát của Quốc hội hiện nay 4.1 . Thực trạng
Cùng với quá trình đổi mới của hệ thống chính trị nước nhà, Quốc hội đã có nhiều
đổi mới và đạt được những thành tựu quan trọng. Hoạt động giám sát của Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Quốc hội đã ngày càng được quan tâm, đẩy mạnh. Các hoạt động giám sát 12 lOMoAR cPSD| 32573545
được tăng cường hơn trước, Quốc hội đã chủ động xây dựng chương trình giám sát,
tiến hành giám sát theo kế hoạch, đúng tiến độ, đảm bảo đem lại hiệu quả tốt nhất. Các
đoàn đại biểu Quốc hội đã xây dựng kế hoạch giám sát, phối hợp tốt trong các chuyên
đề. Các cơ quan chịu trách nhiệm phối hợp đã nghiêm túc thực hiện, giải quyết những
vấn đề mà đoàn giám sát đề cập tới. Nội dung giám sát đã tập trung vào nhiều vấn đề
bức xúc trong cuộc sống, có tác động tích cực đến hoạt động lập pháp và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và giữ gìn
trật tự kỷ cương của đất nước.
Bên cạnh những hiệu quả giám sát mà Quốc hội đã đạt được, việc giám sát của Quốc
hội còn tồn tại một số hạn chế sau:
Thứ nhất, mục đích giám sát của Quốc hội chưa thật sự rõ ràng, thiếu tập trung, đối
tượng giám sát quá rộng nên chưa đem lại hiệu quả cao, đáp ứng ở mức độ thấp so với
yêu cầu và đòi hỏi từ nguyện vọng của nhân dân và quy định của Hiến pháp, pháp luật
về quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Thứ hai, một số nội dung của giám sát chưa được tập trung cao như công tác cải cách
thủ tục hành chính, quản lý vốn và tài sản nhà nước. Một số nội dung giám sát còn
chưa cụ thể, rõ ràng, phạm vi giám sát còn khái quát. Việc ôm đồm trong hoạt động
giám sát của Quốc hội ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện các chức năng quan trọng
khác của Quốc hội, đặc biệt là chức năng lập pháp.
Thứ ba, các cơ quan tổ chức chưa thực hiện tốt việc phối hợp với đoàn giám sát. Có
cơ quan cung cấp thông tin tư liệu cho Quốc hội chưa thực sự đầy đủ, thiếu chính xác,
chưa kịp thời, một số báo cáo chưa khách quan và đầy đủ theo yêu cầu của Quốc hội.
Một số cá nhân đứng đầu cơ quan chưa thật sự có trách nhiệm với công việc, ủy thác
trách nhiệm cho cấp dưới, chưa quan tâm sát sao tới những vấn đề mà cấp trên đưa xuống.
Thứ tư, hoạt động giám sát với các cơ quan hành chính nhà nước chưa rõ nét, chưa có
hoạt động giám sát của Quốc hội đối với những người thực hiện trái quy định pháp
luật, lạm dụng chức quyền, hách dịch, gây khó khăn cho người dân. Nguồn nhân lực
giám sát còn thiếu, nhất là những cán bộ, công chức có kinh nghiệm, năng lực và chuyên môn sâu.
Thứ năm, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa thực hiện được
thường xuyên; việc giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn còn
lúng túng, chưa đem lại hiệu quả cao; việc theo dõi, tiếp thu, giải quyết các kiến nghị
chưa được chú trọng, đôn đốc đến cùng; trong hoạt động phòng, chống tham nhũng,
hoạt động giám sát cũng chưa đạt được hiệu quả cao. Hoạt động chất vấn còn hạn chế,
trong các kỳ họp, một số thành viên Chính phủ, người đứng đầu ngành chưa trả lời
đúng vào vấn đề chất vấn; việc trả lời mới tập trung vào thực trạng, chưa xác định rõ
trách nhiệm cá nhân đối với những hạn chế, bất cập. 13 lOMoAR cPSD| 32573545
Trong hoạt động giám sát của Quốc hội còn tồn tại một số hạn chế là do phạm vi giám
sát của Quốc hội còn rộng, các chương trình, kế hoạch, nội dung giám sát còn chưa
sát với thực tế, chưa kịp thời giải quyết được những thắc mắc, khiếu nại của người
dân. Các cơ quan nhà nước chưa có sự phối hợp nhịp nhàng, chưa tập trung, xem xét,
giải quyết nghiêm túc những vấn đề giám sát. Các cơ quan giúp việc chưa thực hiện
đúng và hết khả năng của mình trong việc thực hiện giám sát.
4.2 Đề xuất một số giải pháp
Chức năng giám sát của Quốc hội giữ một vai trò quan trọng và đã có những thành
tựu nhất định trong thời quan vừa qua. Tuy nhiên, việc giám sát của Quốc hội vẫn còn
tồn tại một số hạn chế. Thời gian tới cần có những giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu
quả giám sát của Quốc hội. Tác giả xin đề xuất một số biện pháp như sau:
Một là, cần xác định rõ mục đích giám sát của Quốc hội, tập trung giám sát tốt những
vấn đề mà Nghị quyết của Quốc hội đã đưa ra, có những biện pháp cụ thể, kịp thời với
những vấn đề thực hiện giám sát. Chương trình giám sát cần có kế hoạch cụ
thể, rõ ràng, tiến hành giám sát theo đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng. Hoạt động
giám sát cần được quan tâm thường xuyên, hạn chế tối đa sự chồng chéo.
Hai là, xác định rõ nội dung giám sát cần tập trung vào những vấn đề mà nhân dân
quan tâm, phù hợp với điều kiện Quốc hội, những mục tiêu chính sách đã được xác
định trong các đạo luật và trong các nghị quyết của Quốc hội. Việc ban hành các văn
bản quy phạm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật của các cơ quan hành
chính nhà nước, liên tục rà soát các quy định của pháp luật để kịp thời có biện pháp
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, nâng cao vai trò của quản lý của Nhà nước.
Ba là, đề cao trách nhiệm của Quốc hội khi ban hành các nghị định, nêu rõ thời gian
hoàn thành, mục đích và yêu cầu các cơ quan liên quan triển khai thực hiện, theo dõi,
giám sát và báo cáo cụ thể với Quốc hội. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động giám sát của
Quốc hội với việc thực thi công vụ của các cơ quan nhà nước, tránh đùn đẩy trách
nhiệm, thực hiện tốt việc báo cáo tại các kỳ họp. Tăng cường hoạt động chất vấn tại
phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cũng như tại các hoạt động giải trình tại
Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Cần có những biện pháp cụ thể đối với
những cơ quan, tổ chức cá nhân không thực hiện hay thực hiện chưa triệt để những
kiến nghị của Quốc hội đưa ra. Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho Ủy ban trong hoạt
động giám sát bằng các sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. Trong
đó, quy định Ủy ban Giám sát có thẩm quyền đề nghị xử lý kỷ luật, khiển trách đối
với tổ chức, cá nhân không chấp hành yêu cầu của đoàn giám sát.
Bốn là, nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Đây
là một trong những nội dung quan trọng đã được Đảng đề cập đến tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X “…tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn 14 lOMoAR cPSD| 32573545
thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số đại
biểu chuyên trách; phát huy tốt hơn nữa vai trò của đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một
số ủy ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các
ủy ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật, giảm mạnh việc ban
hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất
nước và chức năng giám sát tối cao”. Cần “nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
hoạt động giám sát, tích cực hoàn thiện cơ sở pháp lý, đổi mới phương thức giám sát
và tăng cường sự lãnh đạo sát sao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là những yếu tố
rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội” (Thông báo kết luận số 144-TB/TW năm 2008).
Năm là, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động giám sát của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội. Cần có những quy định pháp chế cụ thể về thực hiện giám
sát, những nội dung mà nghị quyết đưa ra phải rõ ràng, xác định rõ trách nhiệm cụ thể
của từng cơ quan, cá nhân trong quá trình thực hiện giám sát.
Sáu là, nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức của văn phòng Quốc hội cũng như các cơ quan, đoàn thể; tổ chức các lớp tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên sâu cần thiết theo từng lĩnh vực. Cùng với
đó, cần nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện tối đa để đại biểu có thể
hoàn thành tốt nhiệm vụ của Quốc hội nói chung và nhiệm vụ giám sát nói riêng.
Trong thời gian qua, hoạt động giám sát của Quốc hội đã có những thành tựu đáng kể,
góp phần quan trọng vào việc phát huy vai trò là cơ quan đại diện cao nhất của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy còn tồn tại một số hạn chế, song
những biện pháp đề ra sẽ nhằm góp phần hoàn thiện vai trò, cũng như hiệu quả giám
sát ngày càng cao của Quốc hội trong thời gian tới. 15 lOMoAR cPSD| 32573545 KẾT LUẬN
Hoạt động giám sát cơ quan quyền lực nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
cơ chế đảm bảo tăng cường pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật của đời sống nhà
nước. Vì vậy, tăng cường hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này phải được tiến hành
một cách đồng bộ giữa các yếu tố, các khâu của cơ chế nhằm đảm bảo và tăng cường
pháp chế, giữ vững trật tự pháp luật.
ta nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Điều đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. 16 lOMoAR cPSD| 32573545
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình Luật kinh tế 1 Trường Đại Học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
- Báo Nghiên cứu Lập pháp – Viện Nghiên cứu Lập Pháp thuộc ủy ban thường vụ Quốc Hội
- Luật Hành chính Việt Nam 17