Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 1945 và bài học về công tác xây dựng Đảng | Trường đại học Điện Lực

Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 1945 và bài học về công tác xây dựng Đảng | Trường đại học Điện Lực  được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Đề 4. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945 và
bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
MỤC LỤC
Mở đầu................................................................................................................................ 1
Nội dung............................................................................................................................. 2
Chương 1: Cơ sở lý luận về nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc
giai đoạn 1939 – 1945.........................................................................................................2
1.1. Cơ sở hình thành chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939
– 1945..............................................................................................................................2
1.2. Nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945
......................................................................................................................................... 3
1.2.1. Nội dung chính của chủ trương..........................................................................3
1.2.2. Sự đúng đắn của chủ trương thông qua các nghị quyết......................................5
1.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc giai đoạn 1939 – 1945................................................................................................6
1.3.1. Ý nghĩa...............................................................................................................6
1.3.2. Bài học kinh nghiệm..........................................................................................7
Chương 2: Vận dụng Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 –
1945 đối với công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.......................................9
2.1. Sự cần thiết phải xây dựng 1 Đảng vững mạnh của giai cấp công nhân và toàn thể
nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.............................................................9
2.2. Vai trò của Đảng qua mọi thời kỳ và đặc biệt trong thời kỳ hội nhập.....................10
2.3. Nội dung xây dựng Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động..........11
2.4. Thực trạng công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.11
2.4.1. Các kết quả đạt được........................................................................................11
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân..................................................................................12
CHƯƠNG 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay....................................................................................................................14
3.1. Các giải pháp..........................................................................................................14
3.2. Liên hệ vai trò của sinh viên trong công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.........................................................................................................................15
Kết luận............................................................................................................................16
Tài liệu tham khảo............................................................................................................17
Mở đầu
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng oanh liệt của dân tộc Việt Nam, giai đoạn 1939-
1945 là thời kỳ đầy biến động có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Đây là giai đoạn mà phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương
(nay Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết
hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, quyết liệt của Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam
đã trưởng thành nhanh chóng, liên tục giành những thắng lợiđại, đỉnh cao là thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - một bước ngoặt lịch sử, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Thông qua việc tìm hiểu phân tích chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng
trong thời kỳ 1939-1945, chúng ta thể rút ra nhiều bài học quý báu về công tác xây
dựng Đảng cách mạng, tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của cả
dân tộc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đây chính là mục đích, ý nghĩa của
việc nghiên cứu, tìm hiểu về chủ trương đúng đắn của Đảng ta thời kỳ 1939-1945.
1
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc giai đoạn 1939 – 1945
1.1. sở hình thành chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn
1939 – 1945
Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ đã tác động mạnh mẽ đến tình hình
Việt Nam. Trước tình hình đó, tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương lần thứ 6 họp tại Bà Điểm, Hóc Môn do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội
nghị đã đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải
phóng các dân tộc Đông Dương, giành độc lập hoàn toàn cho Đông Dương. Để thực hiện
mục tiêu này, Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: Giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ trọng tâm chuẩn bị khởi nghĩa trang giành chính
quyền.
Đến tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương lần thứ 8 họp tại Pác Bó, Cao Bằng do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã khẳng
định lại chủ trương được xác định tại Hội nghị lần thứ 6, đồng thời bổ sung nội dung về
hình thức khởi nghĩa, lấy hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Trên sở chủ trương đó, ngày 19/5/1941 Mặt trận Việt Minh ra đời, thống nhất
tập hợp và đoàn kết hết thảy các tầng lớp nhân dân yêu nước. Cuối năm 1941, các tổ chức
chính trị, quân sự như các hội cứu quốc, đội tự vệ vũ trang, du kích... được thành lập, lực
lượng chính trị của Việt Minh kết hợp với lực lượng vũ trang tạo thế trận toàn dân. Phong
trào chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền sục sôi khắp cả nước.
Đến đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp tại Đình Bảng do Tổng thư Trường Chinh chủ trì đã quyết định phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng vũ trang, chính trị, chuẩn bị
mọi mặt cho tổng khởi nghĩa.
Trước tình thế cách mạng chín muồi, tháng 8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng
Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả
nước. Chỉ trong vòng 15 ngày từ 14 đến 28/8/1945, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy
giành chính quyền, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam.
2
Như vậy, trong giai đoạn 1939-1945, trước tình hình trong nước thế giới, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã kịp thời điều chỉnh đường lối, chủ trương, nêu cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, tập hợp, đoàn kết nhân dân, chuẩn bị mọi mặt và đưa cách mạng Việt Nam
tiến lên cao trào giành chính quyền với thắng lợi đại của Cách mạng Tháng Tám năm
1945.
1.2. Nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939
1945
1.2.1. Nội dung chính của chủ trương
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tình hình quốc tế Đông
Dương có nhiều biến đổi sâu sắc. Chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng
ta đã liên tiếp tổ chức 3 cuộc Hội nghị Trung ương (lần thứ 6, tháng 11-1939; lần thứ 7,
tháng 11-1939 và lần thứ 8, tháng 5-1941) bàn việc chuyển hướng chiến lược, khẳng định
nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giải
phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11-1939)
Tháng 11/1939, trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ 2 vừa bùng nổ, Hội nghị
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 6 đã họp tại Bà Điểm, Hóc Môn dưới sự
chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Trước tình hình mới, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ
trước mắt đánh đổ đế quốc Pháp bọn tay sai phong kiến, giải phóng dân tộc Đông
Dương, giành độc lập hoàn toàn cho Đông Dương. Để thực hiện mục tiêu đó, Hội nghị
quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương thay thế Mặt trận
Dân chủ Đông Dương trước đây, đồng thời chuyển hướng đấu tranh từ đòi cải thiện dân
sinh, dân chủ sang đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ đế quốc thực dân giành chính
quyền.
Sau Hội nghị Trung ương 6, tháng 9/1940 quân Nhật đổ bộ vào Đông Dương.
Trước tình hình mới, tháng 11/1940, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị Trung ương
lần thứ 7 để thảo luận và đề ra đường lối chỉ đạo mới cho phù hợp với tình hình.
Nghị quyết Trung ương 7
Tháng 11/1940, sau khi Nhật đổ bộ chiếm đóng Đông Dương Pháp đầu hàng
Nhật, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 7 để đánh giá tình hình
3
mới. Hội nghị nhận định Đông Dương đang rơi o tình trạng “một cổ hai tròng”, vừa
chịu sự đàn áp của thực dân Pháp, vừa bị phát xít Nhật hành hạ. vậy, kẻ thù cần đánh
đổ ngay lúc đó là cả Pháp và Nhật.
Về đường lối cách mạng, Nghị quyết khẳng định tính chất cách mạng Đông Dương
vẫn cách mạng sản dân quyền, với nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, diệt trừ phong kiến,
giành độc lập ruộng đất cho người cày. Giai cấp công nhân Đông Dương được xác
định lực lượng lãnh đạo cách mạng. Trong thời gian này, một số cuộc khởi nghĩa của
quần chúng đã nổ ra Bắc Sơn, Nam Kỳ Đô Lương, thể hiện khí thế cách mạng của
nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
Tháng 5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 được
triệu tập chủ trì bởi đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Nghị quyết Trung ương 8 cho rằng:
“Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Tất
cả mọi vấn đề của cách mạng, cả vấn đề điền địa phải nhằm vào mục đích ấy giải
quyết”. Trước tình hình chiến tranh thế giới ngày càng phức tạp, Hội nghị nhấn mạnh
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước yếu tố sống còn. Giải
quyết vấn đề dân tộc phải đặt lên trên hết và là tiền đề cho mọi vấn đề khác.
Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh thay thế Mặt trận
Dân tộc Thống nhất trước đây, nhằm thống nhất và tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước.
Về con đường cách mạng, Hội nghị xác định cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết thúc
bằng một cuộc khởi nghĩa trang, bắt đầu từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Hội nghị chỉ rõ, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có, tathể lãnh
đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng lợi
mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Như vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ 8 đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng, lực
lượng cho cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng đưa đến thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 sau này.
4
Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp Võng La (Đông
Anh)
Tháng 2/1943, trong bối cảnh chiến tranh thế giới ngày càng khốc liệt, Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La, Đông Anh để đánh giá tình hình và đề
ra phương hướng hoạt động mới. Hội nghị chỉ kẻ thù số một của cách mạng Đông
Dương lúc này là đế quốc phát xít Nhật-Pháp, chứ không phải tất cả các thế lực đế quốc.
Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trọng tâm là tập trung mọi nguồn lực để chuẩn bị
tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đến tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, nắm toàn quyền kiểm soát Đông Dương.
Sự kiện này đặt ra yêu cầu cấp bách phải khởi nghĩa giành chính quyền trước khi Nhật kịp
ổn định tình hình.
Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng Đình
Bảng (Bắc Ninh)
Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng ở Đình Bảng (Bắc
Ninh) ngày 12-3-1945, nêu rõ: “Nhật, Pháp bắn nhau hành động của chúng ta”. Hội
nghị nêu rõ: Cuộc đảo chính đã tạo ra một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm
cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang mau chóng đi đến chín muồi.
Hội nghị xác định: “Đế quốc phát xít Nhật kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước
mắt, duy nhất của nhân dân Đông Dương”quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát
xít Nhật - Pháp” trước đây bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Hội nghị nhận
định: Cao trào cách mạng đã bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa, thế cần thay đổi các
hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức đấu tranh cho thích hợp để động viên đông
đảo quần chúng tham gia kháng Nhật cứu nước.
Chủ trương của Đảng thực hiện khởi nghĩa từng phần và xây dựng căn cứ địa được
thực tế chứng minh là đúng. Căn cứ địa phát triển tới đâu lực lượng vũ trang, bán vũ trang
phát triển tới đó. Đảng nêu cao quyết tâm: “Phải đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Ngày
16-8-1945, Quốc dân Đại hội họp Tân Trào, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của
Đảng và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do Bác Hồ làm Chủ tịch.
1.2.2. Sự đúng đắn của chủ trương thông qua các nghị quyết
5
Trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra diễn biến phức tạp, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã kịp thời ban hành các nghị quyết mang tính chiến lược, xác
định đường lối chỉ đạo sát hợp với tình hình. Các nghị quyết thể hiện sự nhạy bén, sáng
tạo tầm nhìn xa trông rộng của Đảng, khẳng định sự đúng đắn của chủ trương giải
phóng dân tộc.
Thứ nhất, các nghị quyết nắm bắt chính xác nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta
lúc bấy giờ đánh đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc. Đó
là mục tiêu phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích chung của dân tộc.
Thứ hai, các nghị quyết chỉ rõ đối tượng của cuộc đấu tranh cách mạng là thực dân
Pháp, phát xít Nhật và tay sai phản bội lợi ích dân tộc. Đó là kẻ thù trực tiếp của nhân dân
ta, đấu tranh triệt để với chúng là điều kiện cần thiết để giành độc lập.
Thứ ba, các nghị quyết nhận định chính xác chỉcon đường cách mạng bạo lực,
con đường khởi nghĩa trang mới lật đổ được ách thống trị của đế quốc, phong kiến.
Đường lối này phù hợp với đặc điểm lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, các nghị quyết chỉ đạo sát sao diễn biến tình hình, kịp thời điều chỉnh
phương pháp đấu tranh từ ôn hòa sang quyết liệt, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa, nắm bắt thời cơ để dân tộc đứng lên giành độc lập.
Cuối cùng, các nghị quyết thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng trong tư duy và
hành động cách mạng, phù hợp với tình hình Việt Nam.
Kết bài: Như vậy, thông qua các nghị quyết sát hợp thời cuộc, Đảng Cộng sản
Đông Dương đã khẳng định được tầm nhìn chiến lược và sự đúng đắn của chủ trương giải
phóng dân tộc. Đó sở để Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi đại trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc giai đoạn 1939 – 1945
1.3.1. Ý nghĩa
Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939-1945 của Đảng
Cộng sản Đông Dương ý nghĩa cùng to lớn, mở ra bước ngoặt lớn cho cách mạng
Việt Nam, thể hiện ở các điểm sau:
6
Một là, chủ trương giải phóng dân tộc khẳng định mục tiêu, tưởng của Đảng và
nhân dân ta là độc lập dân tộcchủ nghĩa hội. Đây là mục tiêu nhân văn cao cả, phù
hợp với xu thế thời đại và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân.
Hai là, chủ trương của Đảng thể hiện sự kế thừaphát triển chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đồng thời bổ sung vào truyền thống ấy
những tư tưởng tiên tiến của thời đại, nâng cao tinh thần yêu nước lên yêu nước chủ nghĩa
xã hội.
Ba là, chủ trương của Đảng khơi dậy được khát vọng độc lập, tự do của nhân dân,
thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng, quyết tâm đánh đổ ách thống trị thực dân, phát xít.
Bốn là, chủ trương của Đảng thống nhất ý chí, nhận thức hành động của nhân
dân cả nước, tập hợp mọi lực lượng yêu nước đứng lên kháng chiến, kiến quốc.
Năm là, chủ trương của Đảng xác định phương hướng, con đường cách mạng đúng
đắn cho dân tộc ta, đưa sức mạnh của toàn dân vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sáu là, chủ trương của Đảng mở ra bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam, dẫn
tới thắng lợi đại của Cách mạng Tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Như vậy, chủ trương giải phóng dân tộc giai đoạn 1939-1945 có ý nghĩa lịch sử to
lớn, đánh dấu bước trưởng thành về tưởng chính trị năng lực lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, góp phần giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm
Chủ trương giải phóng dân tộc giai đoạn 1939-1945 của Đảng Cộng sản Đông
Dương để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng
dân tộc ta, đó là:
Một là, vấn đề giải phóng dân tộc phải được xác định nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930), Đảng ta chưa thấy vị trí của
vấn đề dân tộc. Đến năm 1939, trước tình hình mới, Đảng mới nhận thức được vị trí cốt
lõi của vấn đề dân tộc, quyết định đặt lên hàng đầu. Đó bước tiến quan trọng về
nhận thức cách mạng.
Hai là, xác định đúng đối tượng cách mạng yếu tố quyết định thắng lợi. Trong
thời kỳ 1939-1945, Đảng xác định kẻ thù thực dân Pháp, phát xít Nhật tay sai
7
phản bội dân tộc, tập trung mọi sức mạnh đánh đổ các thế lực này. Đó nhân tố quyết
định giành thắng lợi.
Ba là, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ
thể của Việt Nam. Đảng ta vận dụng sáng tạo đường lốn cách mạng giải phóng dân tộc
dân chủ nhân dân do Mác-Lênin đề ra, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách
mạng Việt Nam.
Bốn là, phân tích đúng tình hình, dự báo đúng xu thế, điều chỉnh kịp thời đường
lối, chiến lược cách mạng. Trải qua các giai đoạn 1939-1945, Đảng luôn nắm chắc diễn
biến tình hình để đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp nhất.
Năm là, đoàn kết toàn dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng đã nêu cao
tinh thần đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đứng lên kháng chiến. Đó yếu tố
quyết định sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Sáu là, kiên trì linh hoạt trong sách lược khởi nghĩa. Đảng vừa kiên trì con
đường vũ trang, vừa linh hoạt chuyển hướng chiến lược từ khởi nghĩa từng phần đến tổng
khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi.
Đó là những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu mà Đảng ta đã tổng kết được từ
thực tiễn cách mạng giai đoạn 1939-1945. Những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cho
sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta ngày nay.
8
Chương 2: Vận dụng Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn
1939 – 1945 đối với công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Sự cần thiết phải xây dựng 1 Đảng vững mạnh của giai cấp công nhân toàn
thể nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên thành
Đảng Lao động Việt Nam. Tuy nhiên, trước tình hình mới của cách mạng, vai trò lãnh đạo
của Đảng càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Do đó, việc xây dựng Đảng trở thành một
yêu cầu khách quan, với các lý do:
Thứ nhất, sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa hội. Đây nhiệm vụ lịch sử hết sức khó khăn phức tạp đòi hỏi phải một
đảng cộng sản chân chính. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam bước sang
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo số liệu thống kê của Chính phủ, vào thời điểm
đó, Việt Nam một nước nông nghiệp lạc hậu với trên 90% dân số là nông dân (khoảng
18 triệu người), công nhân chỉ chiếm 0,5% dân số (khoảng 100.000 người). Đa số người
dân còn mang nặng tưởng phong kiến. Đây thực sự một nhiệm vụ hết sức khó khăn
và phức tạp, đòi hỏi phải một đảng cộng sản thật sự kiên định, vững vàng để lãnh đạo
nhân dân vượt qua giai đoạn lịch sử quan trọng này.
Thứ hai, kẻ thù trong ngoài nước tìm mọi cách phá hoại thành quả cách mạng,
đe dọa nền độc lập non trẻ. Để bảo vệ thành quả cách mạng, nhân dân cần một đảng
cộng sản mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân đấu tranh, kiến quốc. Sau Cách mạng Tháng
Tám, các thế lực thù địch trong ngoài nước như thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, tàn quân
Quốc dân đảng Trung Quốc đều ráo riết tìm cách phá hoại thành quả cách mạng, đe dọa
chính quyền non trẻ. Theo số liệu của các nhà nghiên cứu, riêng trong 2 năm 1946-1947,
thực dân Pháp đã gây ra hơn 6000 vụ vi phạm lãnh thổ, giết hại hàng ngàn đồng bào (chỉ
tính riêng trận Hải Phòng 10/1946, quân Pháp đã giết 778 người). Để bảo vệ thành quả
cách mạng, nhân dân ta đòi hỏi phải có một đảng cộng sản thật sự mạnh mẽ, đủ sức động
viên và lãnh đạo nhân dân chiến đấu, xây dựng đất nước.
Thứ ba, các giai cấp, tầng lớp, đảng phái chính trị đều còn non nớt, thiếu kinh
nghiệm. Chỉ có Đảng Cộng sản mới có đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, thống nhất ý chí
9
hành động của nhân dân. Sau Cách mạng Tháng Tám, các giai cấp, tầng lớp đảng
phái chính trị Việt Nam đều còn khá non trẻ thiếu kinh nghiệm. Theo thống của
Chính phủ, đến năm 1945, Việt Nam có khoảng 100.000 công nhân (chiếm 0,5% dân số),
trên 18 triệu nông dân (chiếm hơn 90% dân số); trí thức mới chỉ được đào tạo ban đầu.
Các đảng phái chính trị như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập từ những
năm 1930-1940, còn thiếu kinh nghiệm hoạt động. Chỉ Đảng Cộng sản với truyền
thống 30 năm đấu tranh cách mạng mới đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, đoàn kết nhân
dân.
Thứ tư, chiến thắng vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi của nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong vòng chưa đầy 1 tháng,
từ ngày 14 đến 28/8/1945, với sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nổi dậy giành chính
quyền trong cả nước thành công. Điều đó chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và đòi hỏi của lịch sử.
Như vậy, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh,
đường lối đúng, thống nhất ý chí hành động, yêu cầu khách quan, điều kiện bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp và dân
tộc.
2.2. Vai trò của Đảng qua mọi thời kỳ và đặc biệt trong thời kỳ hội nhập
Trong suốt 90 năm qua kể từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
nhân dân vượt qua bao khó khăn thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đế quốc Mỹ xâm lược, với sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, giành chiến thắng hoàn
toàn sau hơn 30 năm kháng chiến kiên cường, bảo vệ nền độc lập dân tộc (thống
hơn 3 triệu người hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến).
Trong hơn 35 năm xây dựng và phát triển đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội 1989-1990, bước vào thời kỳ đổi mới, đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Kinh tế tăng trưởng khá, đời sống nhân dân
được cải thiện, vị thế quốc tế ngày càng nâng cao.
10
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, Đảng tiếp tục khẳng định
vai trò lãnh đạo, định hướng phát triển đất nước theo đúng đường lối đổi mới, vừa bảo
đảm độc lập, chủ quyền, vừa chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thu hút nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Như vậy, vai trònh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức quan trọng,
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Đảng
lực lượng chính trị duy nhất đủ bản lĩnh, trí tuệ, uy tín để lãnh đạo đất nước vượt qua
mọi khó khăn thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc tiến lên phía trước.
2.3. Nội dung xây dựng Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động
Giữ vữngphát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với sức chiến đấu của Đảng. Trong bối cảnh hiện nay, việc giữ vững và phát
huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng đặt ra những yêu cầu cụ thể:
Thứ nhất, với vai trò lãnh đạo đất nước, Đảng cần giữ vững bản chất giai cấp công
nhân để kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế-xã hội. Đảng cần bảo đảm sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước trong việc quản
lý phát triển bền vững đất nước.
Thứ hai, với vai trò đảng cầm quyền, Đảng cần tiếp tục giải quyết hài hòa các lợi
ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong đó, bảo vệ quyền lợi người lao động
trọng tâm. Đảng cần hoàn thiện thể chế để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao
động.
Thứ ba, với vai trò đội tiên phong của giai cấp dân tộc, Đảng cần tăng cường
bản chất giai cấp công nhân, bản lĩnh chính trị để nâng cao năng lực lãnh đạo và trở thành
tấm gương đạo đức cho hội. Đồng thời, Đảng cũng cần đẩy mạnh nghiên cứu luận
về bản chất giai cấp công nhân để giữ vững tính tiên phong về mặt lý luận.
Nhìn chung, việc giữ vững phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng
yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đây
chính làsở để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo đất nước trong giai đoạn cách mạng
mới.
2.4. Thực trạng công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
11
2.4.1. Các kết quả đạt được
Trong giai đoạn hiện nay, công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được
những kết quả khá toàn diện.
Thứ nhất, về công táctưởng, Đảng đã bước phát triển sâu sắc hơn về lý luận
tưởng chỉ đạo. Các văn kiện Đại hội Đảng đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng cũng
đã xác định hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của mình, góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu trong hệ thống chính trị.
Thứ hai, về công tác tổ chức, Đảng luôn xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, sống còn. Từ năm 1986 đến nay, Đảng đã ban hành gần 80 nghị quyết về xây dựng
Đảng, trong đó tập trung vào công tác tổ chức cán bộ nâng cao chất lượng đảng viên.
Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có bước trưởng thành về phẩm chất chính trị, đạo
đức, năng lực. Tính đến năm 2022, tổng số đảng viên là hơn 5 triệu người.
Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát kỷ luật đảng đã được đẩy mạnh, góp phần
ngăn chặn tình trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên. Trong 5 năm (2016 - 2021), Đảng đã thi hành kỷ luật gần 200 đảng
viên diện Trung ương quản lý, trong đó nhiều cán bộ cấp cao. Công tác phòng chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được đẩy mạnh.
Nhìn chung, công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay đã đạt được những
kết quả quan trọng, góp phần củng cố tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục khắc phục.
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Những hạn chế
Thực trạng công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục:
Thứ nhất, về nhận thức luận, nhận thức về Đảng cầm quyền, về nội dung công
tác xây dựng Đảng còn chung chung, chưa cụ thể. Nhận thức về dân chủ, về đạo đức của
Đảng còn hạn chế.
Thứ hai, về thực tiễn, việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng còn chậm,
kết quả thấp. Một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng bị vi phạm. Công tác tổ
12
chức, cán bộ còn nhiều hạn chế. Kỷ luật đảng chưa nghiêm. Đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái còn hạn chế.
Thứ ba, tình trạng suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên chậm được ngăn chặn. Tham nhũng, tiêu cực chưa bị đẩy lùi triệt
để.
Nhìn chung, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn
một số hạn chế cần sớm khắc phục để tăng cường sức chiến đấu của Đảng.
2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Xây dựng Đảng cầm quyền
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế vấn đề mới mẻ, phải vừa
làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.
Những diễn biến nhanh chóng phức tạp của tình hình thế giới; sự tấn công rất
thâm độc của các thế lực thù địch; mặt trái của kinh tế thị trường hội nhập quốc tế tác
động thường xuyên đến công tác xây dựng Đảng.
Chưa coi trọng đúng mức nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền. Chậm
đổi mới duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ
sâu sắc, mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng tầm quan điểm,
chủ trương. Chưaquan chuyên trách đủ mạnh nghiên cứu về đường lối, chính sách
nói chung, về xây dựng Đảng nói riêng.
Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng có lúc, có nơi
chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều cấp ủy đảng và bí thư cấp ủy
chưa đầu đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ
đạo kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
13
CHƯƠNG 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng cách mạng
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
3.1. Các giải pháp
Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng cách mạng, tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao độngtoàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần tập
trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện duy luận về chủ nghĩa hội con
đường đi lên chủ nghĩa hội Việt Nam. Cần khẳng định một cách ràng, chủ nghĩa
hội mục tiêu, tưởng của Đảng nhân dân ta. Đổi mới duy luận giúp Đảng
ta sở khoa học để xác định đúng đắn đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn
Việt Nam. Đồng thời, tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Thứ hai, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên thật sự trong sạch, vững vàng về
bản lĩnh chính trị, có đạo đức cách mạng và lương tâm nghề nghiệp. Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan
trọng và thường xuyên.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán
bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thường xuyên kiểm
tra, giám sát, đánh giá đúng những ưu, khuyết điểm của cán bộ để bố trí, sắp xếp phù hợp.
Khuyến khích cán bộ phấn đấu, rèn luyện và đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
Thứ tư, đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây
dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, gắn mật thiết với nhân dân. Tăng cường công
khai, minh bạch trong sinh hoạt Đảng. Chú trọng đổi mới phương pháp luận, lề lối làm
việc dân chủ, khoa học cho cán bộ, đảng viên.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác dân vận của Đảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân. Phát huy vai trò giám sát, phản biện hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn
14
thể nhân dân. Tiếp tục củng cố, phát triển mối quan hệ gắn máu thịt giữa Đảng với
nhân dân.
Đó một số giải pháp bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng
cách mạng, tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn dân tộc Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện tốt các giải pháp này sẽ giúp Đảng ta ngày càng
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, đại biểu quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
3.2. Liên hệ vai trò của sinh viên trong công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn dân tộc Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay
Sinh viên lực lượng thanh niên ưu tú, được đào tạo bài bản, tương lai của đất
nước. vậy, sinh viên vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cách
mạng, tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn dân tộc Việt Nam
hiện nay.
Thứ nhất, sinh viên cần chủ động nâng cao nhận thức về mục tiêu, tưởng của
Đảng. Trên sở đó, tích cực học tập, rèn luyện để xây dựng bản lĩnh chính trị, đạo đức
cách mạng vững vàng. Sinh viên cần xác định rõ trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Thứ hai, sinh viên cần chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, sinh viên cũng cần tham gia tích cực vào các phong
trào thi đua học tập, lao động sáng tạo do Đoàn Thanh niên phát động.
Thứ ba, sinh viên cần rèn luyện phương pháp luận khoa học, duy độc lập, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đây chính phẩm chất cần thiết để trở
thành những cán bộ, đảng viên tiên phong, xuất sắc trong tương lai.
Thứ tư, sinh viên cần chủ động tham gia các hoạt động hội, hoạt động tình
nguyện cộng đồng. Qua đó, rèn luyện ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần nhân ái,
tương thân tương ái. Đồng thời góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, với vai trò lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, sinh viên cần không ngừng nỗ lực, rèn luyện để xứng đáng lực lượng kế tục sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.
15
Kết luận
Qua các phân tích trên thể thấy, công tác xây dựng Đảng cách mạng, tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn dân tộc Việt Nam nhiệm vụ
then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác xây dựng Đảng cần tập trung vào
một số nhiệm vụ trọng tâm như: Tiếp tục đổi mới duy luận, xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; Đổi mới công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ
cán bộ đủ phẩm chất, năng lực uy tín; Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; Đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
Để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp
về luận, tổ chức, cán bộ sinh hoạt Đảng. Trong đó, vai trò của sinh viên rất quan
trọng, cần được phát huy tích cực thông qua việc nâng cao nhận thức chính trị, rèn luyện
đạo đức cách mạng, chấp hành đường lối chính sách của Đảng pháp luật của Nhà
nước.
Những giải pháp nêu trên sẽ góp phần y dựng Đảng ta ngày càng trong sạch,
vững mạnh, xứng đáng đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
của cả dân tộc Việt Nam anh hùng.
16
Tài liệu tham khảo
1. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 2, tr 310
2. TS. Nguyễn Quang Ngọc. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới.
https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202104/qua-trinh-phat-trien-nhan-thuc-cua-
dang-ve-xay-dung-chinh-don-dang-trong-thoi-ky-doi-moi-309370/.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, Nxb Sự thật, H.1991, tr.21.
5. PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc (25-04-2021). Bài học về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
qua 35 năm đổi mới. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/821806/bai-hoc-ve-xay-dung%2C-chinh-don-dang-qua-35-nam-doi-
moi.aspx.
17
| 1/20

Preview text:

Đề 4. Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945 và
bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay MỤC LỤC
Mở đầu................................................................................................................................ 1
Nội dung............................................................................................................................. 2
Chương 1: Cơ sở lý luận về nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc
giai đoạn 1939 – 1945.........................................................................................................2
1.1. Cơ sở hình thành chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939
– 1945.............................................................................................................................. 2
1.2. Nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945
......................................................................................................................................... 3
1.2.1. Nội dung chính của chủ trương..........................................................................3
1.2.2. Sự đúng đắn của chủ trương thông qua các nghị quyết......................................5
1.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc giai đoạn 1939 – 1945................................................................................................6
1.3.1. Ý nghĩa...............................................................................................................6
1.3.2. Bài học kinh nghiệm..........................................................................................7
Chương 2: Vận dụng Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 –
1945 đối với công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.......................................9
2.1. Sự cần thiết phải xây dựng 1 Đảng vững mạnh của giai cấp công nhân và toàn thể
nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.............................................................9
2.2. Vai trò của Đảng qua mọi thời kỳ và đặc biệt trong thời kỳ hội nhập.....................10
2.3. Nội dung xây dựng Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động..........11
2.4. Thực trạng công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.11
2.4.1. Các kết quả đạt được........................................................................................11
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân..................................................................................12
CHƯƠNG 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay....................................................................................................................14
3.1. Các giải pháp..........................................................................................................14
3.2. Liên hệ vai trò của sinh viên trong công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay.........................................................................................................................15
Kết luận............................................................................................................................16
Tài liệu tham khảo............................................................................................................17 Mở đầu
Trong lịch sử đấu tranh cách mạng oanh liệt của dân tộc Việt Nam, giai đoạn 1939-
1945 là thời kỳ đầy biến động và có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Đây là giai đoạn mà phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Đông Dương
(nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết
hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, quyết liệt của Đảng, phong trào cách mạng Việt Nam
đã trưởng thành nhanh chóng, liên tục giành những thắng lợi vĩ đại, đỉnh cao là thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - một bước ngoặt lịch sử, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.
Thông qua việc tìm hiểu và phân tích chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng
trong thời kỳ 1939-1945, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý báu về công tác xây
dựng Đảng cách mạng, tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đây chính là mục đích, ý nghĩa của
việc nghiên cứu, tìm hiểu về chủ trương đúng đắn của Đảng ta thời kỳ 1939-1945. 1 Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân
tộc giai đoạn 1939 – 1945
1.1. Cơ sở hình thành chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945
Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ đã tác động mạnh mẽ đến tình hình
Việt Nam. Trước tình hình đó, tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương lần thứ 6 họp tại Bà Điểm, Hóc Môn do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội
nghị đã đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải
phóng các dân tộc Đông Dương, giành độc lập hoàn toàn cho Đông Dương. Để thực hiện
mục tiêu này, Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược: Giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ trọng tâm là chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Đến tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương lần thứ 8 họp tại Pác Bó, Cao Bằng do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã khẳng
định lại chủ trương được xác định tại Hội nghị lần thứ 6, đồng thời bổ sung nội dung về
hình thức khởi nghĩa, lấy hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Trên cơ sở chủ trương đó, ngày 19/5/1941 Mặt trận Việt Minh ra đời, thống nhất
tập hợp và đoàn kết hết thảy các tầng lớp nhân dân yêu nước. Cuối năm 1941, các tổ chức
chính trị, quân sự như các hội cứu quốc, đội tự vệ vũ trang, du kích... được thành lập, lực
lượng chính trị của Việt Minh kết hợp với lực lượng vũ trang tạo thế trận toàn dân. Phong
trào chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền sục sôi khắp cả nước.
Đến đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
Đảng họp tại Đình Bảng do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì đã quyết định phát động
cao trào kháng Nhật cứu nước, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng vũ trang, chính trị, chuẩn bị
mọi mặt cho tổng khởi nghĩa.
Trước tình thế cách mạng chín muồi, tháng 8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng
và Đại hội Quốc dân họp tại Tân Trào đã quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả
nước. Chỉ trong vòng 15 ngày từ 14 đến 28/8/1945, nhân dân cả nước nhất tề đứng dậy
giành chính quyền, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. 2
Như vậy, trong giai đoạn 1939-1945, trước tình hình trong nước và thế giới, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã kịp thời điều chỉnh đường lối, chủ trương, nêu cao ngọn cờ giải
phóng dân tộc, tập hợp, đoàn kết nhân dân, chuẩn bị mọi mặt và đưa cách mạng Việt Nam
tiến lên cao trào giành chính quyền với thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1.2. Nội dung chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 – 1945
1.2.1. Nội dung chính của chủ trương
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tình hình quốc tế và ở Đông
Dương có nhiều biến đổi sâu sắc. Chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng
ta đã liên tiếp tổ chức 3 cuộc Hội nghị Trung ương (lần thứ 6, tháng 11-1939; lần thứ 7,
tháng 11-1939 và lần thứ 8, tháng 5-1941) bàn việc chuyển hướng chiến lược, khẳng định
nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giải
phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11-1939)
Tháng 11/1939, trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ 2 vừa bùng nổ, Hội nghị
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 6 đã họp tại Bà Điểm, Hóc Môn dưới sự
chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Trước tình hình mới, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ
trước mắt là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn tay sai phong kiến, giải phóng dân tộc Đông
Dương, giành độc lập hoàn toàn cho Đông Dương. Để thực hiện mục tiêu đó, Hội nghị
quyết định thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương thay thế Mặt trận
Dân chủ Đông Dương trước đây, đồng thời chuyển hướng đấu tranh từ đòi cải thiện dân
sinh, dân chủ sang đấu tranh cách mạng nhằm lật đổ đế quốc thực dân và giành chính quyền.
Sau Hội nghị Trung ương 6, tháng 9/1940 quân Nhật đổ bộ vào Đông Dương.
Trước tình hình mới, tháng 11/1940, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị Trung ương
lần thứ 7 để thảo luận và đề ra đường lối chỉ đạo mới cho phù hợp với tình hình.
Nghị quyết Trung ương 7
Tháng 11/1940, sau khi Nhật đổ bộ chiếm đóng Đông Dương và Pháp đầu hàng
Nhật, Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 7 để đánh giá tình hình 3
mới. Hội nghị nhận định Đông Dương đang rơi vào tình trạng “một cổ hai tròng”, vừa
chịu sự đàn áp của thực dân Pháp, vừa bị phát xít Nhật hành hạ. Vì vậy, kẻ thù cần đánh
đổ ngay lúc đó là cả Pháp và Nhật.
Về đường lối cách mạng, Nghị quyết khẳng định tính chất cách mạng Đông Dương
vẫn là cách mạng tư sản dân quyền, với nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, diệt trừ phong kiến,
giành độc lập và ruộng đất cho người cày. Giai cấp công nhân Đông Dương được xác
định là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Trong thời gian này, một số cuộc khởi nghĩa của
quần chúng đã nổ ra ở Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương, thể hiện khí thế cách mạng của nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8
Tháng 5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 được
triệu tập và chủ trì bởi đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Nghị quyết Trung ương 8 cho rằng:
“Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Tất
cả mọi vấn đề của cách mạng, cả vấn đề điền địa phải nhằm vào mục đích ấy mà giải
quyết”. Trước tình hình chiến tranh thế giới ngày càng phức tạp, Hội nghị nhấn mạnh
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho đất nước là yếu tố sống còn. Giải
quyết vấn đề dân tộc phải đặt lên trên hết và là tiền đề cho mọi vấn đề khác.
Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh thay thế Mặt trận
Dân tộc Thống nhất trước đây, nhằm thống nhất và tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước.
Về con đường cách mạng, Hội nghị xác định cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết thúc
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, bắt đầu từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Hội nghị chỉ rõ, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh
đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng lợi
mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Như vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ 8 đã xác định rõ mục tiêu, phương hướng, lực
lượng cho cách mạng giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng đưa đến thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 sau này. 4
Nghị quyết của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh)
Tháng 2/1943, trong bối cảnh chiến tranh thế giới ngày càng khốc liệt, Hội nghị
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại Võng La, Đông Anh để đánh giá tình hình và đề
ra phương hướng hoạt động mới. Hội nghị chỉ rõ kẻ thù số một của cách mạng Đông
Dương lúc này là đế quốc phát xít Nhật-Pháp, chứ không phải tất cả các thế lực đế quốc.
Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trọng tâm là tập trung mọi nguồn lực để chuẩn bị
tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đến tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, nắm toàn quyền kiểm soát Đông Dương.
Sự kiện này đặt ra yêu cầu cấp bách phải khởi nghĩa giành chính quyền trước khi Nhật kịp ổn định tình hình.
Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh)
Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng ở Đình Bảng (Bắc
Ninh) ngày 12-3-1945, nêu rõ: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Hội
nghị nêu rõ: Cuộc đảo chính đã tạo ra một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm
cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa vũ trang mau chóng đi đến chín muồi.
Hội nghị xác định: “Đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước
mắt, duy nhất của nhân dân Đông Dương” và quyết định thay khẩu hiệu “Đánh đuổi phát
xít Nhật - Pháp” trước đây bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Hội nghị nhận
định: Cao trào cách mạng đã bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa, vì thế cần thay đổi các
hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp để động viên đông
đảo quần chúng tham gia kháng Nhật cứu nước.
Chủ trương của Đảng thực hiện khởi nghĩa từng phần và xây dựng căn cứ địa được
thực tế chứng minh là đúng. Căn cứ địa phát triển tới đâu lực lượng vũ trang, bán vũ trang
phát triển tới đó. Đảng nêu cao quyết tâm: “Phải đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Ngày
16-8-1945, Quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của
Đảng và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng do Bác Hồ làm Chủ tịch.
1.2.2. Sự đúng đắn của chủ trương thông qua các nghị quyết 5
Trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và diễn biến phức tạp, Đảng
Cộng sản Đông Dương đã kịp thời ban hành các nghị quyết mang tính chiến lược, xác
định đường lối chỉ đạo sát hợp với tình hình. Các nghị quyết thể hiện sự nhạy bén, sáng
tạo và tầm nhìn xa trông rộng của Đảng, khẳng định sự đúng đắn của chủ trương giải phóng dân tộc.
Thứ nhất, các nghị quyết nắm bắt chính xác nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta
lúc bấy giờ là đánh đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc. Đó
là mục tiêu phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích chung của dân tộc.
Thứ hai, các nghị quyết chỉ rõ đối tượng của cuộc đấu tranh cách mạng là thực dân
Pháp, phát xít Nhật và tay sai phản bội lợi ích dân tộc. Đó là kẻ thù trực tiếp của nhân dân
ta, đấu tranh triệt để với chúng là điều kiện cần thiết để giành độc lập.
Thứ ba, các nghị quyết nhận định chính xác chỉ có con đường cách mạng bạo lực,
con đường khởi nghĩa vũ trang mới lật đổ được ách thống trị của đế quốc, phong kiến.
Đường lối này phù hợp với đặc điểm lịch sử của cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, các nghị quyết chỉ đạo sát sao diễn biến tình hình, kịp thời điều chỉnh
phương pháp đấu tranh từ ôn hòa sang quyết liệt, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi
nghĩa, nắm bắt thời cơ để dân tộc đứng lên giành độc lập.
Cuối cùng, các nghị quyết thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt của Đảng trong tư duy và
hành động cách mạng, phù hợp với tình hình Việt Nam.
Kết bài: Như vậy, thông qua các nghị quyết sát hợp thời cuộc, Đảng Cộng sản
Đông Dương đã khẳng định được tầm nhìn chiến lược và sự đúng đắn của chủ trương giải
phóng dân tộc. Đó là cơ sở để Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
1.3. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc giai đoạn 1939 – 1945
1.3.1. Ý nghĩa
Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939-1945 của Đảng
Cộng sản Đông Dương có ý nghĩa vô cùng to lớn, mở ra bước ngoặt lớn cho cách mạng
Việt Nam, thể hiện ở các điểm sau: 6
Một là, chủ trương giải phóng dân tộc khẳng định mục tiêu, lý tưởng của Đảng và
nhân dân ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu nhân văn cao cả, phù
hợp với xu thế thời đại và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân.
Hai là, chủ trương của Đảng thể hiện sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đồng thời bổ sung vào truyền thống ấy
những tư tưởng tiên tiến của thời đại, nâng cao tinh thần yêu nước lên yêu nước chủ nghĩa xã hội.
Ba là, chủ trương của Đảng khơi dậy được khát vọng độc lập, tự do của nhân dân,
thổi bùng lên ngọn lửa cách mạng, quyết tâm đánh đổ ách thống trị thực dân, phát xít.
Bốn là, chủ trương của Đảng thống nhất ý chí, nhận thức và hành động của nhân
dân cả nước, tập hợp mọi lực lượng yêu nước đứng lên kháng chiến, kiến quốc.
Năm là, chủ trương của Đảng xác định phương hướng, con đường cách mạng đúng
đắn cho dân tộc ta, đưa sức mạnh của toàn dân vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sáu là, chủ trương của Đảng mở ra bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam, dẫn
tới thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Như vậy, chủ trương giải phóng dân tộc giai đoạn 1939-1945 có ý nghĩa lịch sử to
lớn, đánh dấu bước trưởng thành về tư tưởng chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, góp phần giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm
Chủ trương giải phóng dân tộc giai đoạn 1939-1945 của Đảng Cộng sản Đông
Dương để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, đó là:
Một là, vấn đề giải phóng dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930), Đảng ta chưa thấy rõ vị trí của
vấn đề dân tộc. Đến năm 1939, trước tình hình mới, Đảng mới nhận thức được vị trí cốt
lõi của vấn đề dân tộc, quyết định đặt nó lên hàng đầu. Đó là bước tiến quan trọng về nhận thức cách mạng.
Hai là, xác định đúng đối tượng cách mạng là yếu tố quyết định thắng lợi. Trong
thời kỳ 1939-1945, Đảng xác định rõ kẻ thù là thực dân Pháp, phát xít Nhật và tay sai 7
phản bội dân tộc, tập trung mọi sức mạnh đánh đổ các thế lực này. Đó là nhân tố quyết định giành thắng lợi.
Ba là, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ
thể của Việt Nam. Đảng ta vận dụng sáng tạo đường lốn cách mạng giải phóng dân tộc
dân chủ nhân dân do Mác-Lênin đề ra, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Bốn là, phân tích đúng tình hình, dự báo đúng xu thế, điều chỉnh kịp thời đường
lối, chiến lược cách mạng. Trải qua các giai đoạn 1939-1945, Đảng luôn nắm chắc diễn
biến tình hình để đề ra đường lối đúng đắn, phù hợp nhất.
Năm là, đoàn kết toàn dân, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng đã nêu cao
tinh thần đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đứng lên kháng chiến. Đó là yếu tố
quyết định sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Sáu là, kiên trì và linh hoạt trong sách lược khởi nghĩa. Đảng vừa kiên trì con
đường vũ trang, vừa linh hoạt chuyển hướng chiến lược từ khởi nghĩa từng phần đến tổng
khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi.
Đó là những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu mà Đảng ta đã tổng kết được từ
thực tiễn cách mạng giai đoạn 1939-1945. Những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cho
sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta ngày nay. 8
Chương 2: Vận dụng Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn
1939 – 1945 đối với công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
2.1. Sự cần thiết phải xây dựng 1 Đảng vững mạnh của giai cấp công nhân và toàn
thể nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên thành
Đảng Lao động Việt Nam. Tuy nhiên, trước tình hình mới của cách mạng, vai trò lãnh đạo
của Đảng càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Do đó, việc xây dựng Đảng trở thành một
yêu cầu khách quan, với các lý do:
Thứ nhất, sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là nhiệm vụ lịch sử hết sức khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có một
đảng cộng sản chân chính. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam bước sang
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Theo số liệu thống kê của Chính phủ, vào thời điểm
đó, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu với trên 90% dân số là nông dân (khoảng
18 triệu người), công nhân chỉ chiếm 0,5% dân số (khoảng 100.000 người). Đa số người
dân còn mang nặng tư tưởng phong kiến. Đây thực sự là một nhiệm vụ hết sức khó khăn
và phức tạp, đòi hỏi phải có một đảng cộng sản thật sự kiên định, vững vàng để lãnh đạo
nhân dân vượt qua giai đoạn lịch sử quan trọng này.
Thứ hai, kẻ thù trong và ngoài nước tìm mọi cách phá hoại thành quả cách mạng,
đe dọa nền độc lập non trẻ. Để bảo vệ thành quả cách mạng, nhân dân cần có một đảng
cộng sản mạnh, đủ sức lãnh đạo nhân dân đấu tranh, kiến quốc. Sau Cách mạng Tháng
Tám, các thế lực thù địch trong và ngoài nước như thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, tàn quân
Quốc dân đảng Trung Quốc đều ráo riết tìm cách phá hoại thành quả cách mạng, đe dọa
chính quyền non trẻ. Theo số liệu của các nhà nghiên cứu, riêng trong 2 năm 1946-1947,
thực dân Pháp đã gây ra hơn 6000 vụ vi phạm lãnh thổ, giết hại hàng ngàn đồng bào (chỉ
tính riêng trận Hải Phòng 10/1946, quân Pháp đã giết 778 người). Để bảo vệ thành quả
cách mạng, nhân dân ta đòi hỏi phải có một đảng cộng sản thật sự mạnh mẽ, đủ sức động
viên và lãnh đạo nhân dân chiến đấu, xây dựng đất nước.
Thứ ba, các giai cấp, tầng lớp, đảng phái chính trị đều còn non nớt, thiếu kinh
nghiệm. Chỉ có Đảng Cộng sản mới có đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, thống nhất ý chí 9
và hành động của nhân dân. Sau Cách mạng Tháng Tám, các giai cấp, tầng lớp và đảng
phái chính trị ở Việt Nam đều còn khá non trẻ và thiếu kinh nghiệm. Theo thống kê của
Chính phủ, đến năm 1945, Việt Nam có khoảng 100.000 công nhân (chiếm 0,5% dân số),
trên 18 triệu nông dân (chiếm hơn 90% dân số); trí thức mới chỉ được đào tạo ban đầu.
Các đảng phái chính trị như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng được thành lập từ những
năm 1930-1940, còn thiếu kinh nghiệm hoạt động. Chỉ có Đảng Cộng sản với truyền
thống 30 năm đấu tranh cách mạng mới đủ năng lực lãnh đạo cách mạng, đoàn kết nhân dân.
Thứ tư, chiến thắng vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi của nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong vòng chưa đầy 1 tháng,
từ ngày 14 đến 28/8/1945, với sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nổi dậy giành chính
quyền trong cả nước thành công. Điều đó chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và đòi hỏi của lịch sử.
Như vậy, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh, có
đường lối đúng, thống nhất ý chí và hành động, là yêu cầu khách quan, là điều kiện bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp và dân tộc.
2.2. Vai trò của Đảng qua mọi thời kỳ và đặc biệt trong thời kỳ hội nhập
Trong suốt 90 năm qua kể từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
nhân dân vượt qua bao khó khăn thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, giành chiến thắng hoàn
toàn sau hơn 30 năm kháng chiến kiên cường, bảo vệ nền độc lập dân tộc (thống kê có
hơn 3 triệu người hy sinh trong 2 cuộc kháng chiến).
Trong hơn 35 năm xây dựng và phát triển đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội 1989-1990, bước vào thời kỳ đổi mới, đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Kinh tế tăng trưởng khá, đời sống nhân dân
được cải thiện, vị thế quốc tế ngày càng nâng cao. 10
Trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, Đảng tiếp tục khẳng định
vai trò lãnh đạo, định hướng phát triển đất nước theo đúng đường lối đổi mới, vừa bảo
đảm độc lập, chủ quyền, vừa chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thu hút nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hết sức quan trọng, là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Đảng
là lực lượng chính trị duy nhất đủ bản lĩnh, trí tuệ, uy tín để lãnh đạo đất nước vượt qua
mọi khó khăn thử thách, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc tiến lên phía trước.
2.3. Nội dung xây dựng Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động
Giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với sức chiến đấu của Đảng. Trong bối cảnh hiện nay, việc giữ vững và phát
huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng đặt ra những yêu cầu cụ thể:
Thứ nhất, với vai trò lãnh đạo đất nước, Đảng cần giữ vững bản chất giai cấp công
nhân để kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
kinh tế-xã hội. Đảng cần bảo đảm sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước trong việc quản
lý phát triển bền vững đất nước.
Thứ hai, với vai trò đảng cầm quyền, Đảng cần tiếp tục giải quyết hài hòa các lợi
ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong đó, bảo vệ quyền lợi người lao động là
trọng tâm. Đảng cần hoàn thiện thể chế để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Thứ ba, với vai trò đội tiên phong của giai cấp và dân tộc, Đảng cần tăng cường
bản chất giai cấp công nhân, bản lĩnh chính trị để nâng cao năng lực lãnh đạo và trở thành
tấm gương đạo đức cho xã hội. Đồng thời, Đảng cũng cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận
về bản chất giai cấp công nhân để giữ vững tính tiên phong về mặt lý luận.
Nhìn chung, việc giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng là
yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đây
chính là cơ sở để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo đất nước trong giai đoạn cách mạng mới.
2.4. Thực trạng công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 11
2.4.1. Các kết quả đạt được
Trong giai đoạn hiện nay, công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được
những kết quả khá toàn diện.
Thứ nhất, về công tác tư tưởng, Đảng đã có bước phát triển sâu sắc hơn về lý luận
và tư tưởng chỉ đạo. Các văn kiện Đại hội Đảng đã thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng cũng
đã xác định rõ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của mình, góp phần nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu trong hệ thống chính trị.
Thứ hai, về công tác tổ chức, Đảng luôn xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt, sống còn. Từ năm 1986 đến nay, Đảng đã ban hành gần 80 nghị quyết về xây dựng
Đảng, trong đó tập trung vào công tác tổ chức cán bộ và nâng cao chất lượng đảng viên.
Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có bước trưởng thành về phẩm chất chính trị, đạo
đức, năng lực. Tính đến năm 2022, tổng số đảng viên là hơn 5 triệu người.
Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng đã được đẩy mạnh, góp phần
ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên. Trong 5 năm (2016 - 2021), Đảng đã thi hành kỷ luật gần 200 đảng
viên diện Trung ương quản lý, trong đó có nhiều cán bộ cấp cao. Công tác phòng chống
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được đẩy mạnh.
Nhìn chung, công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay đã đạt được những
kết quả quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế cần tiếp tục khắc phục.
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Những hạn chế
Thực trạng công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục:
Thứ nhất, về nhận thức lý luận, nhận thức về Đảng cầm quyền, về nội dung công
tác xây dựng Đảng còn chung chung, chưa cụ thể. Nhận thức về dân chủ, về đạo đức của Đảng còn hạn chế.
Thứ hai, về thực tiễn, việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng còn chậm,
kết quả thấp. Một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng bị vi phạm. Công tác tổ 12
chức, cán bộ còn nhiều hạn chế. Kỷ luật đảng chưa nghiêm. Đấu tranh phản bác quan
điểm sai trái còn hạn chế.
Thứ ba, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên chậm được ngăn chặn. Tham nhũng, tiêu cực chưa bị đẩy lùi triệt để.
Nhìn chung, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn
một số hạn chế cần sớm khắc phục để tăng cường sức chiến đấu của Đảng.
2.4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân: Xây dựng Đảng cầm quyền
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là vấn đề mới mẻ, phải vừa
làm, vừa tìm tòi, tổng kết rút kinh nghiệm để đổi mới, hoàn thiện.
Những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới; sự tấn công rất
thâm độc của các thế lực thù địch; mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tác
động thường xuyên đến công tác xây dựng Đảng.
Chưa coi trọng đúng mức nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng cầm quyền. Chậm
đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ
và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm,
chủ trương. Chưa có cơ quan chuyên trách đủ mạnh nghiên cứu về đường lối, chính sách
nói chung, về xây dựng Đảng nói riêng.
Việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương về xây dựng Đảng có lúc, có nơi
chưa nghiêm, còn thiếu các biện pháp cụ thể, khả thi. Nhiều cấp ủy đảng và bí thư cấp ủy
chưa đầu tư đúng mức thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng. Lãnh đạo, chỉ
đạo kiện toàn tổ chức, đổi mới công tác cán bộ thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. 13
CHƯƠNG 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng cách mạng
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay 3.1. Các giải pháp
Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng cách mạng, tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần tập
trung vào một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cần khẳng định một cách rõ ràng, chủ nghĩa
xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới tư duy lý luận giúp Đảng
ta có cơ sở khoa học để xác định đúng đắn đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn
Việt Nam. Đồng thời, tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Thứ hai, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên thật sự trong sạch, vững vàng về
bản lĩnh chính trị, có đạo đức cách mạng và lương tâm nghề nghiệp. Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán
bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín để thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thường xuyên kiểm
tra, giám sát, đánh giá đúng những ưu, khuyết điểm của cán bộ để bố trí, sắp xếp phù hợp.
Khuyến khích cán bộ phấn đấu, rèn luyện và đề cao trách nhiệm người đứng đầu.
Thứ tư, đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây
dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân. Tăng cường công
khai, minh bạch trong sinh hoạt Đảng. Chú trọng đổi mới phương pháp luận, lề lối làm
việc dân chủ, khoa học cho cán bộ, đảng viên.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác dân vận của Đảng để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn 14
thể nhân dân. Tiếp tục củng cố, phát triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Đó là một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng
cách mạng, tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện tốt các giải pháp này sẽ giúp Đảng ta ngày càng
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, đại biểu quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
3.2. Liên hệ vai trò của sinh viên trong công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Sinh viên là lực lượng thanh niên ưu tú, được đào tạo bài bản, là tương lai của đất
nước. Vì vậy, sinh viên có vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cách
mạng, tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam hiện nay.
Thứ nhất, sinh viên cần chủ động nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng của
Đảng. Trên cơ sở đó, tích cực học tập, rèn luyện để xây dựng bản lĩnh chính trị, đạo đức
cách mạng vững vàng. Sinh viên cần xác định rõ trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Thứ hai, sinh viên cần chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, sinh viên cũng cần tham gia tích cực vào các phong
trào thi đua học tập, lao động sáng tạo do Đoàn Thanh niên phát động.
Thứ ba, sinh viên cần rèn luyện phương pháp luận khoa học, tư duy độc lập, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đây chính là phẩm chất cần thiết để trở
thành những cán bộ, đảng viên tiên phong, xuất sắc trong tương lai.
Thứ tư, sinh viên cần chủ động tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động tình
nguyện vì cộng đồng. Qua đó, rèn luyện ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần nhân ái,
tương thân tương ái. Đồng thời góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như vậy, với vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, sinh viên cần không ngừng nỗ lực, rèn luyện để xứng đáng là lực lượng kế tục sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. 15 Kết luận
Qua các phân tích ở trên có thể thấy, công tác xây dựng Đảng cách mạng, tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam là nhiệm vụ
then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác xây dựng Đảng cần tập trung vào
một số nhiệm vụ trọng tâm như: Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; Đổi mới công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ
cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín; Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; Đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.
Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trên, cần triển khai đồng bộ các giải pháp
về lý luận, tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng. Trong đó, vai trò của sinh viên là rất quan
trọng, cần được phát huy tích cực thông qua việc nâng cao nhận thức chính trị, rèn luyện
đạo đức cách mạng, chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Những giải pháp nêu trên sẽ góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch,
vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc Việt Nam anh hùng. 16 Tài liệu tham khảo
1. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 2, tr 310
2. TS. Nguyễn Quang Ngọc. Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới.
https://noichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/202104/qua-trinh-phat-trien-nhan-thuc-cua-
dang-ve-xay-dung-chinh-don-dang-trong-thoi-ky-doi-moi-309370/.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, Nxb Sự thật, H.1991, tr.21.
5. PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc (25-04-2021). Bài học về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
qua 35 năm đổi mới. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-
dang/-/2018/821806/bai-hoc-ve-xay-dung%2C-chinh-don-dang-qua-35-nam-doi- moi.aspx. 17