Đề cương lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Trường đại học Điện Lực

Đề cương lịch sử đảng cộng sản Việt Nam | Trường đại học Điện Lực  được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Câu 1: Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của môn Lich sử Đảng Cộng sản Việt
Nam. ................................................................................................................................................ 4
Câu 2: Chức năng, nhiệm vụ của môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam .................................... 7
Câu 3: Ý nghĩa của việc học tập môn Lich sử Đảng Cộng sản Việt Nam. ................................... 10
Câu 4: Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam
phải đi theo con đường cách mạng vô sản. ....................................................................................
10
Câu 5: Nội dung và ý nghĩa những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá vào
Việt Nam từ năm 1920 đến năm 1929. ..........................................................................................
11
Câu 6: Các yếu tố dẫn tới sự ra đời của Đảng và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. ...................... 15
Câu 7: Cương lĩnh chính trị đầu tiên và ý nghĩa sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. ......... 17
Câu 8: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. .............................................................................................................................................. 20
Câu 9 :So sánh Luận cương chính trị tháng 10-1930 với Cương lĩnh chính trị đầu tiên (6-1-1930)
của Đảng. .......................................................................................................................................
22
Câu 10 : Chủ trương của Đảng trong cuộc vận động dân chủ 1936- 1939. Thành quả và kinh
nghiệm của cuộc vận động này...................................................................................................... 23
Câu 11: Phân tích Chủ trương chiến lược mới của Đảng trong giai đoạn 1939-1945 .................. 25
Câu 12: Phân tích nguyên nhân thắng lợi, tính chất và kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 .......................................................................................................................................
30
Câu 13: Chủ trương và diện biến của cuộc chiến tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền cách
mạng thời kỳ 1945-1946. ...............................................................................................................
31
Câu 14: Chủ trương và diễn biến của cuộc đấu tranh bảo vệ & xây dựng chính quyền cách mạng
thời kỳ 1945 - 1946. ...................................................................................................................... 35
Câu 15 : Phân tích nội dung cơ bản của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2-1951) .........
41
Bài 16: Những diễn biến chính của cuộc khách chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ .....
42 Câu 17: Phân tích ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống
thực
dân Pháp của Đảng (1945 – 1954)................................................................................................. 51
Câu 18 : Phân tích đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ .........................
52
Câu 19: Phân tích tính chất của xã hội miền Nam sau năm 1954 và nội dung cơ bản Nghị quyết
15 tháng 1/1959. Ý nghĩa của Nghị quyết này với cách mạng miền Nam. ...................................
53
Câu 20: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam được
Đại hội III ( 9/1960) của Đảng vạch ra. .........................................................................................
55
Câu 21: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở miền
Bắc được Đại hội III của Đảng vạch ra. ........................................................................................
58
Câu 22: Quá trình hình thành, phát triển và nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
.......................................................................................................................................................
59 Câu 23: Các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) và ý nghĩa
của
mỗi giai đoạn. ................................................................................................................................
60
Câu 24 : Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 – 1975). ...................................................................................................................... 62
Câu 25: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ được
Đại hội IV (12/1976) của Đảng vạch ra. ....................................................................................... 64
Câu 26 :Phân tích nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa của hai cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền
biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của tổ quốc. .........................................................................
65
Câu 27 :Phân tích nội dung công nghiệp hóa XHCN của chặng đường đầu tiên được Đại hội V
(3/1982) vạch ra. ............................................................................................................................
70
Câu 28: Làm rõ những bước đột phá trong đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Đảng từ năm 1979
đến năm 1985 ................................................................................................................................ 71
Bài 29: Phân tích yêu cầu và mối quan hệ xã hội giữa 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành
công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN của Đại hội V ................................ 71
Bài 30: Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước (1976 – 1985) ................................................................................. 74
Bài 31: Phân tích nội dung 4 bài học kinh tế của thời kỳ xây dựng CNXH trước đổi mới được đại
hội thứ IV (12/1986) của đảng đưa ra? ..........................................................................................
75
Câu 32: Phân tích nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ
Trang | 2
quá độ lên CNXH của Đại hội VI (12/1986) .................................................................................
78
Câu 33: Phân tích những đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam được Đại hội VII (6/1991) đưa
ra và Đại hội XI (1/2011) bổ xung, phát triển. ..............................................................................
79
Câu 34: Phân tích những cơ hội và thách thức lớn của cách mạng Việt Nam được Hội nghị toàn
quốc giữa nhiệm ký (4/1994) đưa ra. ............................................................................................ 82
Câu 35: Phân tích quan điểm, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của
Đại hội VIII ................................................................................................................................... 82
Câu 36 : Phân tích luận điểm “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh công nông trí thức do Đảng lãnh đạo..” của Đại hội IX (4/2001). Để thực
hiện được luận điểm đó, chúng ta phải làm gì? .............................................................................
86
Câu 37: Phân tích những bài học lớn của 20 năm đổi mới (1986 – 2006) được Đại hội X (4/2006)
của Đảng đưa ra. ............................................................................................................................
88
Câu 38 : Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam .......................... 90
của Cương lĩnh năm 2011 được Đại hội XI (1/2011) thông qua. ..................................................
90 Câu 39: Phân tích những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. ...................................................................................................................... 113
Câu 40 : Phân tích những kinh nghiệm chủ yếu của công cuộc đổi mới vì CNXH của Đảng ....
115
Câu 41 :Phân tích những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa thời đại của Cách mạng .......................... 118
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ......................................................................................... 118
Câu 42: Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng Việt Nam từ năm
1930 đến năm 2018 ..................................................................................................................... 122
Trang | 3
Câu 1: Đối tượng, phạm vi phương pháp nghiên cứu của môn Lich sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Đối tượng
1. Trước hết là các sự kiện lịch sử Đảng. Cần phân biệt sự kiện lịch sử Đảng gắn trực
tiếp với sự lãnh đạo của Đảng. Phân biệt sự kiện lịch sử Đảng với sự kiện lịch sử dân tộc và lịch
sử quân sự trong cùng thời kỳ, thời điểm lịch sử. Môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
nghiên cứu sấu sắc, hệ thống , hiểu nội dung, tính chất, bản chấtcác sự kiện lịch sử Đảng
của các sự kiện đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện quá trình Đảng ra đời,
phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng, phát triển
đất nước theo con đường hội chủ nghĩa, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, hội,
văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,…
Sự kiện lịch sử Đảng là hoạt động lãnh đạo, đấu tranh phong phú và oanh liệt của Đảng làm sáng
rõ bản chất cách mạng của Đảng với tư cách là một đảng chính trị “là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của dân tộc”. Hệ thống các sự
kiện lịch sử Đảng làm rõ thắng lợi, thành tựu của cách mạng, đồng thời cũng thấy những khó
khăn, thách thức, hiểu rõ những hy sinh, cống hiến lớn lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự
hy sinh, phấn đấu của các tổ chức lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới sở, của mỗi cán bộ,
đảng viên, với những tấm gương tiêu biểu. Các sự kiện phải được tái hiện trên cơ sở liệu lịch
sử chính xác, trung thực, khách quan.
2. Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng phát triển đất nước bằng
Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn. Lịch s Đảng đối ợng nghiên cứu
Cương lĩnh, đường lối của Đảng, phải nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung Cương lĩnh, đường lối
của Đảng, cơ sở lý luận, thực tiễn và giá trị hiện thực của đường lối trong tiến trình phát triển của
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh, đường lối đúng đắnđiều kiện trước hết quyết định thắng lợi
của cách mạng. Phải không ngừng bổ sung, phát triển đường lối phù hợp với sự phát triển của lý
luận thực tiễn và yêu cầu của cuộc sống; chống nguy sai lầm về đường lối, nếu sai lầm về
đường lối sẽ dẫn tới đổ vỡ, thất bại.
Đảng đã đề ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930); Luận cương chính trị (10-1930); Chính
cương của Đảng (2-1951) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (61991) bổ sung, phát triển năm 2011. Quá trình lãnh đạo, Đảng đề ra đường lối nhằm
cụ thể hóa Cương lĩnh trên những vấn đề nổi bật ở mỗi thời kỳ lịch sử. Đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc. Đường lối kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới. Đường lối quân sự. Đường
lối đối ngoại.v.v. Đảng quyết định những vấn đề chiến lược, sách lược phương pháp cách
mạng. Đảng người tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân hiện thực hóa
đường lối đưa đến thắng lợi.
3. Đảng lãnh đạo thông qua quá trình thực tiễn trong tiến trình cáchchỉ đạo, tổ chức
mạng. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam làm thắng lợi, thành tựu, kinh
Trang | 4
nghiệm, bài học của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
kháng chiến giành độc lập, thống nhất, thành tựu của công cuộc đổi mới. Từ một quốc gia phong
kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, một nước thuộc địa, bị đế quốc, thực dân cai trị, dân tộc Việt
Nam đã giành lại độc lập bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bản Tuyên ngôn độc
lập lịch sử; tiến hành hai cuộc kháng chiến giải phóng, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước; thực
hiện công cuộc đổi mới đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những thành tựu to lớn,
ý nghĩa lịch sử. Đảng cũng thẳng thắn nêu những khuyết điểm, hạn chế, khó khăn, thách thức,
nguy cơ cần phải khắc phục, vượt qua.
Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng là giáo dục sâu sắc những kinh nghiệm, bài học trong lãnh đạo
của Đảng. Tổng kết kinh nghiệm, bài học, tìm ra quy luật riêng của cách mạng Việt Nam là công
việc thường xuyên của Đảng mỗi thời kỳ lịch sử. Đó nội dung yêu cầu của công tác
luận, tưởng của Đảng, nâng cao trình độ luận, trí tuệ của Đảng. Lịch sử Đảng quá trình
nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn Việt Nam. Cần nhận thức chú trọng giáo dục những truyền thống nổi bật của Đảng:
truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của Đảng; truyền thống đoàn kết, thống nhất trong
Đảng; truyền thống gắn mật thiết với nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc; truyền thống của
chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
4. Nghiên cứu Lịch sử Đảng là làmhệ thống tổ chức Đảng, công tác xây dựng Đảng
qua các thời kỳ lịch sử. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng để nêu cao hiểu biết về công tác xây
dựng Đảng trong các thời kỳ lịch sử về chính trị, tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng
về chính trị bảo đảm tính đúng đắn của đường lối, củng cố chính trị nội bộ nâng cao bản lĩnh
chính trị của Đảng. Xây dựng Đảng về tưởng “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảngtưởng, kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng Đảng về tổ chức, củng
cố, phát triển hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ
chức cơ bản”. Xây dựng Đảng về đạo đức với những chuẩn mực về đạo đức trong Đảng và ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
- Phạm vi
Mỗi ngành khoa họcmột phạm vi nghiên cứu cụ thể trong mối quan hệ biện chứng với các
khoa học khác. Khoa học lịch sử nghiên cứu về hội con người hội, nghiên cứu về cuộc
sống đã qua của nhân loại một cách toàn diện trong sự vận động, phát triển, với những quy luật
phổ biến đặc thù của nó. Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 lịch sử đấu tranh cách mạng kiên
cường và anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm xóa bỏ
chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, xây dựng chế độ mới. Đảng Cộng sản Việt
Nam là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta. Do đó, lịch sử Việt Nam (từ
năm 1930 trở đi) và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó hữu cơ với nhau.
- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu gắn liền với đối tượng nghiên cứu. Chủ nghĩa Mác-Lênin
tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tưởng kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đường lối
chính trị, hoạt động của Đảng là sự biểu hiện cụ thể luận đó trong hoàn cảnh Việt Nam với tất
Trang | 5
cả đặc điểm vốn có của nó. Do đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và
tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với khoa học lịch sử nói chung và khoa học
lịch sử Đảng nói riêng. Đó những sở phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử
Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhờ có hoạt động luận dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã đi đến nhận thức được những điều kiện khách quan và sự chín muồi
của những nhân tố chủ quan của sphát triển hội thông qua hệ thống công tác tổ chức
tưởng của Đảng đối với quần chúng.
Do đó, đối với khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, quan niệm duy vật về lịch sử là chìa
khóa để giải sự xuất hiện phát triển của Đảng như một kết quả tất yếu của lịch sử đấu
tranh của nhân dân Việt Nam. Chỉ đứng trên quan điểm lịch sử mớithể đánh giá được một
cách khoa học các giai đoạn phát triển của Đảng, trên cơ sở làm sáng tỏ địa vị khách quan và vai
trò lịch sử của Đảng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc xây dựng chủ nghĩa hội Việt
Nam, cũng như mới lý giải được rằng lý tưởng cách mạng và những mục tiêu cao cả xuất phát từ
lý tưởng đó, mà Đảng đã kiên trì theo đuổi từ ngày mới ra đời không phải là do ý muốn chủ quan
của một cá nhân hoặc của một nhóm người tài ba lỗi lạc nào, cũng không phải do "nhập cảng" từ
bên ngoài vào, xét cho cùng sự phản ánh khách quan của sự phát triển lịch sử - tự nhiên
trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Với phương pháp luận khoa học, các nhà sử học chân chính có thể nhận thức được lịch sử một
cách chính xác, khoa học. Họ thể nhận thức phản ánh đúng hiện thực khách quan khi
nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng, một quá trình lịch sử nào.
Nghiên cứu lịch sử Đảng đòi hỏi phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể mới thể xem xét
các sự kiện lịch sử trong những điều kiện thời điểm cụ thể trong mối quan hệ giữa chúng
với nhau. Việc nắm vững và vận dụng quan điểm lịch sử trong khoa học lịch sử Đảng cho phép lý
giải được tính sáng tạo cách mạng trong đường lối, chủ trương của Đảng, cũng như làm được
cơ sở phương pháp luận của hoạt động lý luận của Đảng trong quá trình nghiên cứu để quyết định
những đường lối, chủ trương.
Khoa học lịch sử Đảng sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học lịch sử
nói chung, như các phương pháp lịch sử lôgích, đồng đại lịch đại, phân tích tổng hợp,
quy nạp diễn dịch, cụ thể hóa trừu tượng hóa... trong đó quan trọng nhất phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgích cùng sự kết hợp hai phương pháp ấy.
Nhiệm vụ đầu tiên của khoa học lịch sử Đảng phải làm sáng tỏ nội dung các giai đoạn lịch
sử đấu tranh của Đảng, với những sự kiện cụ thể sinh động và trong mối liên hệ có tính nhân quả
giữa chúng với nhau, cho nên phương pháp được đặt lên hàng đầu trong khoa học lịch sử Đảng là
phương pháp lịch sử.
Song nếu phương pháp lịch sử không có sự kết hợp với phương pháp lôgích thì sẽ giảm đi tính
chất khái quát của nó, không thể vạch ra được bản chất, khuynh hướng chung những quy luật
khách quan chi phối sự vận động lịch sử.
Trang | 6
Hoạt động của Đảng trong quá khứ cơ bản là hoạt động lãnh đạo, lên lịch sử của Đảng chính là
lịch sử của sự lãnh đạo cách mạng, lịch sử của hoạt động nhận thức quy luật, đề ra đường lối, chủ
trương cách mạng. Hoạt động đó đã được ghi lại, được thể hiện trong các cương lĩnh, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, qua phát ngôn của các lãnh tụ của Đảng. Hoạt động xây dựng Đảng trong lịch
sử về tư tưởng và tổ chức cũng được thể hiện qua Điều lệ của Đảng. Do đó, để nghiên cứu lịch sử
của Đảng, phương pháp quan trọng tính đặc thù, bắt buộc phải nghiên cứu các văn kiện
Đảng, nhất văn kiện các Đại hội Hội nghị Trung ương. Nắm vững nội dung các văn kiện
Đảng sẽ hiểu được đường lối, chủ trương lãnh đạo cách mạng của Đảng trong các thời kỳ lịch sử,
tức là nắm được hoạt động chính yếu của Đảng trong quá khứ, hiểu được lịch sử của Đảng.
Tính đúng đắn của sự lãnh đạo của Đảng đã được kiểm nghiệm qua hành động thực tiễn của
cán bộ, đảng viên, qua hoạt động của hệ thống chính trị do Đảng tổ chức, qua phong trào cách
mạng của quần chúng. Vì vậy, để đánh giá đúng đắn lịch sử của Đảng, rút ra những kinh nghiệm
lịch sử phải căn cứ vào phong trào thực tiễn của nhân dân, vào thành bại của cách mạng.
Câu 2: Chức năng, nhiệm vụ của môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Trả lời 1:
Với tư cách là khoa học về những quy luật phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng, lịch sử
Đảng có hai chức năng: chức năng nhận thức khoa học và chức năng giáo dục tư tưởng chính trị.
Chức năng nhận thức khoa học lịch sử có mục đích trước hết là để phục vụ việc cải tạo xã hội
theo đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Việc hiểu
biết thấu đáo những kiến thức và kinh nghiệm lịch sử Đảng sở khoa học để thể dự kiến
những xu hướng phát triển chủ yếu củahội và những điều kiện lịch sử cụ thể có tác động đến
những xu hướng đó. Bằng cách đó, khoa học lịch sử Đảng cùng với các môn khoa học luận
MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực tạo sởluận để Đảng vạch ra đường
lối, chủ trương, chính sách.
Mặt khác, lịch sử Đảng có chức năng giáo dục tư tưởng chính trị, tham gia vào việc giải quyết
những nhiệm vụ hiện tại. Những kiến thức khoa học về các quy luật khách quan của sự phát triển
lịch sử cách mạng Việt Nam tác dụng quan trọng đối với cán bộ, đảng viên, nhân dân trong
việc trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin vào thắng lợi của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó có quyết tâm phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng.
Để thực hiện chức năng đó, trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy học tập Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam chúng ta nhiệm vụ làm những quy luật của cách mạng Việt Nam,
nghiên cứu, trình bày các điều kiện lịch sử, các sự kiện và quá trình hình thành, phát triển và hoạt
động của Đảng, nổi bật là những nhiệm vụ sau đây:
+ Làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam - bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
Trang | 7
Trong thời gian đầu không phải toàn bộ giai cấp công nhân đã tiếp thu được chủ nghĩa Mác -
Lênin, mà chỉ có một bộ phận tiên tiến nhất tiếp thu được lý luận đó. Bộ phận này đứng ra thành
lập đảng cộng sản, do vậy đảng cộng sản là một bộ phận của giai cấp công nhân và giai cấp công
nhân thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua đảng cộng sản là đội tiền phong của mình.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân là quy luật chung cho sự ra đời của
các đảng cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp đó không theo một khuôn mẫu giáo điều, cứng
nhắc, được thực hiện bằng con đường riêng biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể về không gian
và thời gian.
Yêu cầu của cách mạng thuộc địa khác với yêu cầu của cách mạng các nước bản chủ nghĩa.
Đảng cộng sản c nước bản chủ nghĩa phải lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp sản
chống giai cấpsản, còn đảng cộng sản ở thuộc địa trước hết phải lãnh đạo cuộc đấu tranh dân
tộc chống chủ nghĩa thực dân. Vấn đề giai cấpthuộc địa phải đặt trong vấn đề dân tộc, đòi hỏi
sự vận dụng phát triển sáng tạo luận Mác - Lênin về đảng cộng sản trong điều kiện một
nước thuộc địa.
+ Làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây dựng một
chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khoa học xây dựng Đảng nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật xây dựng đảng, xác định
những nguyên tắc, mục đích, yêu cầu; những nguyên lý và hệ thống các biện pháp phải tuân theo
để xây dựng một chính đảng cách mạng về chính trị, tư tưởng tổ chức; hình thành nên luận
về xây dựng đảng.
Lịch sử Đảng có nhiệm vụ làm rõ những hoạt động cụ thể của Đảng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng. Đó sự thực hiện các nguyên
lý, vận dụng những nguyên tắc, tiến hành các biện pháp để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh,
đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đương nhiên giữa hai ngành khoa học đó mối quan hệ mật thiết
với nhau.
+ Trình bày quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các giai đoạn
cách mạng trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Đó quá trình đi sâu nắm vững phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh
quốc tế thực tiễn của hội Việt Nam, để định ra cương lĩnh, vạch ra đường lối, xác định
những chủ trương và biện pháp cụ thể cho mỗi giai đoạn cách mạng.
Đó quá trình đấu tranh về quan điểm tưởng trong nội bộ Đảng để xác định một đường lối
đúng đắn, đấu tranh bảo vệ đường lối cách mạng của Đảng, chống mọi biểu hiện của tưởng
hữu khuynh và "tả" khuynh, chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng duy ý chí, chủ quan, giáo điều và
các loại tư tưởng phi vô sản khác.
Trang | 8
Đó cũng quá trình chỉ đạo tổ chức quần chúng hành động thực tiễn, giành thắng lợi từng
bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, thực hiện triệt để các mục tiêu bản của ch mạng
Việt Nam do Đảng vạch ra.
+ Trình bày các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo.
Nhằm theo những phương hướng bản do Đảng xác định, phong trào cách mạng của quần
chúng diễn ra một cách tự giác, hết sức sinh động, phong phú và sáng tạo. Sức sáng tạo của các tổ
chức đảng quần chúng rất lớn. làm cho quyết tâm của Đảng trở thành hành động cách
mạng, làm cho đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng trở thành thực tiễn, và do đó, tạo cơ sở
cho việc bổ sung, phát triển hoàn chỉnh đường lối cách mạng của Đảng. Một đường lối cách
mạng đúng sẽ được quần chúng nhân dân ủng hộ và quyết tâm thực hiện.
+ Tổng kết những kinh nghiệm lịch sử Đảng
Khoa học lịch sĐảng có nhiệm vụ góp phần tổng kết những kinh nghiệm từ những thành công
không thành công của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của Đảng.
Trả lời 2
1. Chức năng :
Khoa học lịch sử Đảng có hai chức năng cơ bản sau :
- Chức năng nhận thức:
+ LSĐ là một chuyên nghành của khoa học lịch sử nên nó mang lại cho chúng ta những kiến thức
khoa học lịch sử. Cụ thể đây, Lịch sử Đảng giúp ta nhận thức về quá trình phát triển của Đảng
Cộng sản Việt Nam, quá trình thực thi đường lối chính sách của Đảng vào thực tế, quá trình nhận
thức luận của Đảng.Từ đó, rút ra những vấn đề tính quy luật của cách mạng Việt Nam (cả
tính đúng đắn cũng như cả những lúc vấp váp sai lầm.)
+ Trên cơ sở những kiến thức và kinh nghiệm lịch sử đó, ta có thể dự kiến những xu hướng phát
triển chủ yếu của xã hội.
- Chức năng giáo dục tư tưởng chính trị:
+Giáo dục những truyền thống tốt đẹp của Đảng ta như: truyền thống đoàn kết, truyền thống đấu
tranh bất khuất hy sinh của những người cộng sản…
+ Giáo dục lý tưởng cách mạng, giáo dục lòng trung thành với sự nghiệp của Đảng, giáo dục lối
sống lành mạnh, hữu ích cho thế hệ trẻ.
Trang | 9
Những kiến thức về khoa học Lịch sử Đảng sẽ giúp cho người học xây dựng thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và quan trọng hơn cả là xây dựng được niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng.
2. Nhiệm vụ của lịch sử Đảng: Môn Lịch sử Đảng CSVN giúp cho sinh viên hiểu được :
- Điều kiện lịch sử, quá trình ra đời và trưởng thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam- bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
- Quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với với hoạt động xây dựng một chính
đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
- Quá trình hoạt động cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng trong những
bối cảnh lịch sử cụ thể.
- Các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo
- Những bài học kinh nghiệm qua từng thời kỳ cách mạng cũng như toàn bộ 75 năm hoạt động và
trưởng thành của Đảng
Trang | 10
Câu 3: Ý nghĩa của việc học tập môn Lich sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trả lời 1:
Nghiên cứu, học tập, nắm vững tri thức khoa học về lịch sử Đảng có ý nghĩa rất to lớn trong việc
giáo dục phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động dân tộc Việt Nam, tính kiên định cách mạng trước tình hình chính trị quốc tế những
diễn biến phức tạp trong việc giáo dục đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh, người sáng lập
và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam là một mẫu mực tuyệt vời.
Việc nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng cũng có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục về truyền thống
cách mạng, về chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, về lòng tự hào đối với Đảng
đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời còn tác dụng bồi dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng,
thôi thúc người học ý thức biết noi gương những người đã đi trước, tiếp tục cuộc chiến đấu
dũng cảm ngoan cường, thông minh, sáng tạo để bảo vệ và phát triển những thành quả cách mạng
Đảng nhân dân ta đã tốn biết bao xương máu để giành được, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trả lời 2:
- Thông qua nội dung môn học để xây dựng và củng cố lập trường chính trị, trung thành với lợi ích
của Đảng, của dân tộc ; kiên định trước những diễn biến phức tạp của thế giới cũng như trong
nước.
- Tự hào với những truyền thống của dân tộc, của Đảng.
- Tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống trong giai đoạn mới, ở những vị trí mới, nhằm xây
dựng thành công CNXH, bảo vệ vững chắc nước Việt Nam XHCN./.
Câu 4: Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại khẳng định: muốn cứu nước giải phóng dân tộc Việt
Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Thứ nhất: Bài học từ sự thất bại của con đường cứu nước trước đó:
- Để giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân Pháp, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, ở Việt
Nam diễn ra nhiều cuộc đầu tranh sôi nổi với nhiều con đường gắn với những khuynh hướng
chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Tiêu biểu là khuynh hướng:
phong kiến, tư sản… song đều thất bại => vấn đề đặt ra là phải tìm ra con đường cứu nước mới
Thứ hai: Cách mạng tư sản không triệt để
Trên con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu về cách cuộc cách mạng lớn trên thế giới
như Anh, Pháp, Mỹ,… Người nhận thấy :’ Cách mạng pháp cũng như cách mạng Mỹ đều là cách
mạng tư bản không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công- nông,
ngoài thì nó áp bực thuộc địa’
Thứ ba: Con đường giải phóng dân tộc
Trang | 11
- Hồ Chí Minh thấy được cách mạng tháng 10 Nga không chỉ là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc mà còn nêu lên tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa.
- HCM đến với học thuyết cách mạng chủ nghĩa Mác- Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị
vô sản.
- Người khẳng định muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản và chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và
người lao động trên thế giới ách nô lệ.
Câu 5: Nội dung ý nghĩa những tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền
bá vào Việt Nam từ năm 1920 đến năm 1929.
1, Giai đoạn ở Pháp (từ tháng 4/1921 đến tháng 6/1923):
Mốc khởi đầu cho quá trình truyền Chủ nghĩa Mác Nin vào việt Nam Nguyễn
Ái Quốc tiến hành khi hoạt động trên đất nước Pháp tháng 4/1921 khi tờ La Revue
Communiste (Tạp chí Cộng sản) đăng bài “Đông Dương”. Trong bài viết này, lần đầu tiên ông
Nguyễn đề cập đến những điều kiện thuận lợi ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng cho
việc truyền tưởng hội chủ nghĩa. Ông Nguyễn nhận định: “Sự đầu độc hệ thống của
bọn tư bản, thực dân không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Đằng sau
sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng
nổ một cách ghê gớm”, ông kết luận: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ
nghĩa hội chỉ còn phải làm cái việc gieo hat giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(2).
Cũng trong bài viết này, Nguyễn Ái Quốc khẳng định chế độ cộng sản thể áp dụng châu Á
nói chung và Đông Dương nói riêng.
Trên sở những nhận định đó, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng những phương tiện sẵn
của các tổ chức cánh tả Pháp, nhất là những tờ báo theo đường lối của Quốc tế cộng sản đồng thời
thành lập tổ chức chính trị mới của các dân tộc thuộc địa để thông qua đó tiến hành những hoạt
động tuyên truyền. Trong dự thảo Báo cáo của tiểu ban Đông Dương thuộc Ban nghiên cứu thuộc
địa, Nguyễn Ái Quốc viết: “Công tác tuyên truyền cách mạng và chống quân phiệt cần được tiến
hành dưới sự lãnh đạo đôn đốc của Đảng, trong tất cả các nước thuộc địa nước gọi bảo
hộ. Công tác tuyên truyền này thực hiện:
- Bằng các báo chí xuất bản ở Pháp
- Bằng các diễn đàn các Đại hội của Đảng của chúng ta và khi cần bằng diễn đàn của nghị viện -
Bằng các buổi nói chuyện
- Bằng các phương thức thích hợp với đối tượng, với trình độ giáo dục và văn minh của người
bản xứ ở các thuộc địa”(3)
Thời gian từ năm 1921 đến tháng 2/1923 Nguyễn Ái Quốc viết trên 20 bài đăng trên các
báo LHumanité La vie ouvrière, đây là hai tờ báo có ảnh hưởng lớn trong tầng lớp công nhân,
những người lao động Pháp đặc biệt ảnh hưởng đối với các nước hải ngoại. Nguyễn Ái
Quốc nhận rõ, lúc này đối tượng tuyên truyền cần hướng tới là nhân dân các dân tộc thuộc địa của
Pháp, Người tổ chức thành lập . Trong tuyên ngôn của Hội do Nguyễn ÁiHội Liên hiệp thuộc địa
Quốc soạn thảo có đoạn: “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng. Vận dụng công thức của
Trang | 12
C. Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể được thực hiện
bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. được thành lập chính là để giúp đỡHội Liên hiệp thuộc địa
anh em trong công cuộc ấy... Để thực hiện sự nghiệp chính nghĩa ấy, Hội quyết định đưa vấn đề
thuộc địa ra trước dư luận bằng báo chí và ngôn luận và bằng tất cả mọi biện pháp mà chúng ta có
thể làm”. (4)
Hội Liên hiệp thuộc địa xuất bản tờ báo (Người cùng khổ) làm quan ngônLe Paria
luận chính thức. Nội dung chủ yếu của báo là tố cáo sự lạm quyền về chính trị, chính sách cai trị
hà khắc, thủ đoạn bóc lột về kinh tế của chủ nghĩa thực dân, đồng thời kêu gọi những người bị áp
bức đoàn kết lại đấu tranh cho sự tiến bộ vể vật chất và tinh thần của chính họ. Với vai trò là chủ
bút, Nguyễn Ái Quốc đã có gần 40 bài viết. Trong đó, Người đã vạch trần những thủ đoạn bóc lột
nhân dân Đông Dương của thực dân Pháp, Người cũng tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Anh
trong việc chiếm đoạt của cải của nhân dân Trung Quốc đàn áp đã man phong trào đấu tranh
của nhân dân Ấn Độ v.v. Từ đó Người rút ra kết luận: chủ nghĩa thực dân đâu cũng tàn bạo
man rợ như nhau, số phận của người dân thuộc địa đều giống nhau, đều bị tước đoạt mọi quyền
sống, quyền tự do Người khẳng định: . Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp
bức không thể điều hòa chỉ thể giải quyết bằng con đường đấu tranh cách mạng. Để
cuộc đấu tranh này đi đến thắng lợi phải thực hiện đoàn kết dân tộc đoàn kết quốc tế. Người
kêu gọi những người Pháp chân chính ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước
thuộc địa.
Việc đưa báo về nước bằng con đường công khai (qua bưu điện) luôn bị thực dânLe Paria
Pháp kiểm duyệt gắt gao, vậy Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức một đường dây mật thông qua
những thủy thủ yêu nước, làm việc trên tuyến đường vận tải biển Pháp- Đông Dương. Con đường
giao thông mật này tầm quan trọng đặc biệt, làm cầu nối giữa phong trào cách mạng nước
Pháp với phong trào cách mạng trong nước. Qua đường dây này báo Le Paria, L’humanité, Việt
Nam hồn cáci liệu, truyền đơn được các thủy thủ yêu nước mật đưa về Sài Gòn, Hải
Phòng chuyển tới các sở cách mạng các trí thức yêu nước, các sinh viên giác ngộ. Những
bài hay nhất của Nguyễn Ái Quốc được họ chép lại rồi truyền cho nhau xem và bình luận. Có thể
nói, qua các tài liệu, báo chí gửi về nước, tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc theo chủ
nghĩa Mác- Lênin đã được truyền bá vào Việt Nam một cách thường xuyên và có hệ thống
Tháng 10 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội II Đảng Cộng sản Pháp họp tại
Paris. Tại Đại hội lần này Người đã đệ trình Lời kêu gọi những người bản xứ các thuộc địa
đã được Đại hội thông qua. Lời kêu gọi đoạn viết: “Vì hòa bình thế giới, vì tự dosự ấm no
của mọi người, những người bị áp bức bóc lột thuộc mọi nòi giống chúng ta hãy đoàn kết lại
đấu tranh chống bọn áp bức”(5). Lời kêu gọi đã được Nguyễn Ái Quốc viết ngắn gọn lại bằng
tiếng Việt, in thành truyền đơn, mật chuyển về Việt Nam. Việc truyền tưởng cách mạng
theo quan điểm Mác Lênin trong thời gian Nguyễn Ái Quốc Pháp chính sự mở đầu quan
trọng nhằm thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân. Bằng những hoạt động tích cực Nguyễn
Ái Quốc đã những ảnh hưởng nhất định trong phong trào cộng sản Pháp. Tháng 6/1923
Người được cử sang Mátxcơva dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản.
2, Giai đoạn ở Liên Xô (từ tháng 6/1923 đến tháng 10/1924):
Trang | 13
nước Nga - một đất nước tự do thật sự, Mátxcơva lại trung tâm của phong trào cách
mạng thế giới, nơi đóng trụ sở của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc điều kiện hoạt động
thuận lợi hơn rất nhiều so với thời kỳPháp. Tại đây ông được tiếp xúc với những lãnh tụ nổi
tiếng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với những chiến chống đế quốc thực dân
trên toàn thế giới. Trong môi trường tưởng đó Nguyễn Ái Quốc say xưa nghiên cứu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học, hoàn thiện thế giới quan Mác xít của mình.
Trong bối cảnh Quốc tế cộng sản đang nỗ lực tiến hành thiết lập Đông Dương một trung tâm
tuyên truyền để gây ảnh hưởng nhưng gặp phải những trở ngại do sự ngăn cấm của thực dân
Pháp. Sự xuất hiện của ông Nguyễn vào lúc này như một sự lựa chọn ngẫu nhiên, đặt lên vai Ông
sứ mệnh mà Ông đang mong muốn thực hiện đó là đưa chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam.
Thời gian này Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục nghiên cứu sử dụng nhiều phương tiện
thông tin khác nhau để truyền chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ tháng 9-1923 trên các tờ báo cánh tả
Pháp như L’Humanité La Vie Ouvrière đã xuất hiện các bài viết của Người. Riêng với tờ Le
Paria, khi còn Pháp, Người chủ nhiệm, chủ bút thì Mátxcơva Người như một phóng viên
thường trú của báo. Người viết cho báo những bài viết chứa đựng những thông tin về nước Nga -
đất nước đại sức cổ mạnh mẽ đối với các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải
phóng. Người còn viết nhiều bài cho các ấn phẩm định kỳ của Quốc tế cộng sản như tạp chí
Thông tin quốc tế Quốc tế nông dân Sự thật, tạp chí , báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô như tờ ,
Người công dân Bacu. Ngoài báo chí, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sử dụng các phương tiện thông
tin mới chưa có trước đó như truyền đơn, sách báo, diễn đàn. Tháng 1/1924, Nguyễn Ái Quốc đã
soạn thảo một văn kiện quan trọng của Quốc tế cộng sản gửi nhân dân An Nam bằng tiếng Việt.
Văn kiện có đoạn: “Vừa 5 năm qua, ở kinh đô nước Nga là một nước thậtdân chủ (ở trần gian
chưa bao giờ nước thế)lập một Hội để hợp tất cả bao nhiêu người làm ăn. Hội ấy gọi
Internationale Communisté”. Nhờ mấy người cầm đầu mới dựng lên thì hội ấy bây giờ mạnh lắm,
để giúp hàng triệu, hàng muôn mấy người làm ăn ngũ phương, nhất nông dân khốn khổ thuộc
về thuộc địa An Nam ta vậy....Thời mình thắng trận gần đến! Anh em ơi! Anh em ơi! Vô sản toàn
thế giới đoàn kết lại”(6). Văn kiên này được tòa soạn báo L’Humanité in thành 3500 bản và được
mật gửi về Đông Dương. Tháng Tám năm đó, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc viết lời kêu gọi toàn thể nhân dân đứng lên cầm súng đánh đuổi quân cướp
nước, nhất định không cam chịu làm tay sai cho thực dân đế quốc
Trong thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc hai tác phẩm mang tầm vóc tưởng lớn, đó là:
“Trung Quốc thanh niên Trung Quốc” (Nhà xuất bản Mátxcơva Mới xuất bản năm 1924)
chuẩn bị nội dung cho cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” (ra mắt lần đầu tiên năm 1925 tại thủ
đô Pari, trên tập san của Quốc tế Cộng sản). Trong các tác phẩm của mình Nguyễn ÁiInprékor
Quốc vẫn tiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân nói chung và chủ nghĩa thực dân Pháp nói
riêng đối với nhân dân các nước thuộc địa, đối với nhân dân Việt Nam. Đối tượng các tác
phẩm nhằm vào chủ yếu là chế độ thực dân Pháp trên lãnh thổ hải ngoại. Ngoài các đề tài trên,
thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc cũng bắt đầu nêu ra những vấn đề mới mẻ chưa từng như: cách
mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa một bộ phận không thể tách rời của cách mạng sản
thế giới chỉ giai cấp công nhân là giai cấp độc nhấtduy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh
Trang | 14
đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc còn cung cấp cho nhân
dân ta những thông tin về tổ chức Quốc tế cộng sản- một tổ chức chính trị quốc tế bênh vực
quyền lợi của các dân tộc thuộc địa. Đặc biệt, Người đã có nhiều bài viết giới thiệu về trường Đại
học Phương Đông (trường đại học của những người cộng sản phương Đông có nhiệm vụ đào tạo
cán bộ cách mạng cho các nước thuộc địa và phụ thuộc) và đề nghị các Đảng trên thế giới gửi các
đồng chí ở các nước thuộc địa sang học ở trường quốc tế này. Theo đề nghị của Người, bắt đầu từ
năm 1925, những thanh niên yêu nước Việt Nam đầu tiên đã được gửi sang học tại trường Đại
học Phương Đông.
Thời gian hoạt động Mátxcơva cũng thời gian Nguyễn Ái Quốc tham dự nhiều hội
nghị quốc tế lớn. Người đã tham gia Đại hội I Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày
15/10/1923), Đại hội V Quốc tế cộng sản (họp từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924), Đại hội III Quốc
tế công hội đỏ, Đại hội IV quốc tế thanh niên… Tại các diễn đàn của các đại hội đó, Người đã nói
lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa bảo vệ những luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tư tưởng cách mạng của mình trên lập trường mácxít.
Những lời phát biểu của Người đã để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng các đại biểu, đặc biệt
những đại biểu từ các nước thuộc địa phụ thuộc Á, Phi, Mỹ Latinh.Có thể thấy giai đoạn
Liên Xô, việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng cách mạng theo chủ nghĩa Mác Lênin của Nguyễn Ái
Quốc mở rộng cả về chiều sâu và chiều rộng. Những tài liệu mácxít, trong đó có những tác phẩm
của Nguyễn Ái Quốc qua con đường chuyển tài liệu của Quốc tế cộng sản tới Đảng Cộng sản
Pháp về Pháp, rồi từ đó theo các thủy thủ Việt Nam về nước. Những tài liệu này đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới nhiều tầng lớp nhân dân đặc biệt tầng lớp trí thức, thúc đẩy các phong trào yêu
nước đang lan rộng trong cả nước. Những hoạt động kinh nghiệm tích lũy được, đã thôi thúc
Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc. Khi biết sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hiện có nhiều thanh
niên Việt Nam yêu nước đang có mặt ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã chọn Quảng Châu làm
điểm dừng chân trên hành trình tiến gần về Tổ quốc để tổ chức, đoàn kết, huấn luyện những thanh
niên đầy nhiệt huyết đó, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập.
3, Giai đoạn ở Quảng Châu - Đông Bắc Xiêm (từ 11/1923 đến cuối năm 1929):
Thể theo nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc, Quốc tế Cộng sản quyết định cử Người đến
Quảng Châu công tác với tư cách là cán bộ Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là
Ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân để theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số
nước châu Á đồng thời xúc tiến những điều kiện để xây dựng một tổ chức Cộng sản Đông
Dương giúp đỡ các đại biểu cách mạng Đông Nam Á. Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu,
nơi đã từng được mệnh danh “Maxcơva phương Đông”, trong bầu không khí chính trị thuận
lợi. Tại đây, Người liên hệ ngay với Borođin, Trưởng đoàn cố vấn chính trị của Liên Xô bên cạnh
chính phủ Tôn Dật Tiên đến làm việc tại trụ sở của đoàn với danh nghĩa phiên dịch cho
Borođin, đồng thời là phóng viên của hãng Rosta. Sau khi tiếp xúc tìm hiểu những thanh niên yêu
nước trong một tổ chức tên tại Quảng Châu, Người mở ngay một lớp huấnTâm Tâm
luyện về phương pháp cách mạng. Sau lớp huấn luyện đó Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh
niên tích cực lập ra một nhóm mật Cộng sản đoàn làm hạt nhân. Từ tổ chức hạt nhân này,
Nguyễn Ái Quốc thành lập một tổ chức tính chất rộng lớn hơn bao gồm các thanh niên yêu
Trang | 15
bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay", "Tình hình các nước
xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta" đã tập
trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề ra các quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn
biến của tình hình thế giới đối với nước ta và công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên đề về công tác đối
ngoại. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối
ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn
hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn
hóa dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối
đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-
1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
- Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn bằng
tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
- Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, trong đó đề cập nhiều nội dung hết sức quan trọng về đối ngoại, đặc biệt là
ba vấn đề: về các mâu thuẫn của thế giới hiện nay; về lợi ích của Việt Nam; về đối tượng, đối tác.
Cần nhấn mạnh vấn đề cốt lõi trong mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực hiện tối đa lợi
ích của đất nước. Do đó, việc nhận thức thật rõ lợi ích của đất nước ta, dân tộc ta là điều vô cùng
quan trọng. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã khẳng định một lần nữa: "độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia", "kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc"(1). Hội nghị cũng đã nhấn mạnh cách nhìn biện
chứng về đối tượng, đối tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong
một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta"(2), làm cơ sở mở rộng và
phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thể quan hệ quốc tế.
- Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"(3).
Trang | 105
2 - Nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng ta đã khẳng định: "công cuộc đổi mới ở nước ta
đã đạt (4). Trong những thành tựu đó có đóng những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử"
góp không nhỏ của công tác đối ngoại.
Các hoạt động đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường ổn định chính trị - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đưa đất nước vượt qua những
thách thức và đi vào giai đoạn phát triển mới; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay nước ta đã phát triển
quan hệ đa phương, đa dạng với các chủ thể quan hệ quốc tế. Tính đến thời điểm này, Việt Nam
hiện có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với 165 nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Nước ta hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và khu vực. Đảng
ta có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên khắp các châu lục.
Các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi
chính phủ quốc gia và quốc tế.
Trong hai thập kỷ qua, thông qua đàm phán hòa bình, ta đã giải quyết được một số vấn đề do lịch
sử để lại về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với các nước liên quan, phấn đấu xây
dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn
định, hợp tác cùng phát triển. Nước ta đã ký kết Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền, Hiệp
định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định về hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; đã
ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 với Cam-pu-chia; đã ký kết các
hiệp định về phân định thềm lục địa, phân định vùng chồng lấn trên biển với Ma-lai-xi-a, Thái
Lan và In-đô-nê-xi-a. Việt Nam cùng các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), thúc đẩy việc giải quyết hòa bình các tranh chấp
chủ quyền biển đảo ở biển Đông.
Việt Nam đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các đảng cộng sản và công
nhân, các đảng cánh tả, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp phần tích cực vào
sự hồi phục của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong trào Không
liên kết, vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Đường lối chính trị của Đảng ta và những thành
tựu đổi mới của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nhiều đảng cộng sản và công nhân
trên thế giới cho rằng, đổi mới của Việt Nam là sự phát triển sáng tạo và đóng góp về lý luận và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, các hoạt động đối ngoại của Đảng, của các đoàn
thể và tổ chức nhân dân ta đã góp phần làm cho dư luận thế giới hiểu đúng về Việt Nam, đồng
tình và ủng hộ công cuộc đổi mới, tăng cường hậu thuẫn chính trị quốc tế cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa.
Chúng ta tích cực tham gia hình thành các khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA), giữa
ASEAN và Trung Quốc (CAFTA), xây dựng quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật
Bản... Ta đã kết thúc đàm phán song phương với 28 nước và đang hoàn tất quá trình đàm phán đa
phương để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006. Hàng hóa sản xuất tại
Trang | 106
Việt Nam đã có mặt trên 200 thị trường quốc gia, khu vực và quốc tế. Trong vòng hai thập kỷ
qua, từ một nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu
gạo hàng đầu thế giới.
Trong giai đoạn từ năm 1993 - 2004, Việt Nam đã nhận được cam kết tài trợ hơn 20 tỉ USD từ
cộng đồng quốc tế, trong đó 85% là vốn vay ưu đãi, còn lại là viện trợ không hoàn lại. Riêng năm
2005, cam kết tài trợ vốn ODA cho Việt Nam là 3,4 tỉ USD.
Với sự ổn định về chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa, sự phát triển kinh tế năng động và
chính sách đối ngoại rộng mở, môi trường đầu tư thông thoáng, Việt Nam ngày càng trở thành
một điểm đến an toàn và hấp dẫn cho hợp tác và đầu tư quốc tế. Tính đến hết tháng 7-2005, đã có
hơn 5.500 dự án đầu tư nước ngoài từ 64 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động tại Việt Nam với
tổng vốn đầu tư đăng ký trên 48,7 tỉ USD, trong đó số vốn thực hiện đạt gần 29 tỉ USD. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam, đóng góp gần 15% GDP và 4,9% tổng thu ngân sách nhà nước, chiếm trên 30% tổng
kim ngạch xuất khẩu, tạo ra hàng vạn công ăn việc làm.
Việt Nam đã được các nước ủng hộ đăng cai tổ chức và đã tổ chức thành công Hội nghị Thượng
đỉnh Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998,
Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao
ASEM-5 năm 2004. Qua các hội nghị cấp cao này, Việt Nam đã để lại dấu ấn của mình trong đời
sống chính trị quốc tế đương đại. Việt Nam đang phối hợp chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên
APEC và tích cực chuẩn bị để tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại Hà Nội vào
tháng 11-2006.
Các mặt công tác thông tin đối ngoại, công tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài...
cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại đã có bước
trưởng thành nhất định, triển khai thực hiện có kết quả đường lối và các chủ trương, chính sách
đối ngoại của Đảng.
3 - Thực tiễn hoạt động đối ngoại của ta trong 20 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng ta là đúng đắn. Chúng ta kiên trì thực
hiện nhất quán đường lối đó.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới bám sát
những định hướng lớn như sau:
- Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều sâu, ngày càng ổn
định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các
nước láng giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và Hiệp hội các quốc gia Đông -
Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước lớn, các trung tâm kinh
tế, chính trị của thế giới. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè
truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông
và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào Không liên kết... Tích cực hoạt động tại các tổ chức
quốc tế và khu vực.
Trang | 107
Không ngừng phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và các đảng cầm quyền ở các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng có chung biên giới. Tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản,
đảng cánh tả, phong trào cách mạng và tiến bộ có nhiều ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới.
Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính ở các nước trong khu vực và các
nước có quan hệ đối tác quan trọng với nước ta. Tăng cường quan hệ với các chính đảng khác có
quan hệ với Đảng ta và hữu nghị với Việt Nam.
Phát triển quan hệ với các đoàn thể, các tổ chức nhân dân ở các nước láng giềng có chung biên
giới, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước trong khu vực và các nước lớn. Tích cực hoạt động tại
các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng mà các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta là thành viên.
Chủ động tham gia tích cực các phong trào, diễn đàn quốc tế của nhân dân thế giới chống chiến
tranh và chạy đua vũ trang, chống các mặt trái của toàn cầu hóa, chống chủ nghĩa bá quyền và
chính trị cường quyền, vì hòa bình, công lý, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển bền vững, công
bằng và tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước, các tổ chức phi
chính phủ quốc gia và quốc tế...
- Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề còn tồn tại về biên giới,
lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và
trên biển với các nước láng giềng thành đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát
triển.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất
nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Mở rộng và củng cố quan hệ kinh tế đối
ngoại, tạo lập lợi ích đan xen, nhất là với các đối tác chủ yếu. Kết thúc đàm phán để gia nhập
WTO; chuẩn bị tốt các điều kiện để tham gia các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tích cực tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn ODA, thu hút FDI, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng các mối quan hệ
hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư lâu dài. Khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa
những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên WTO.
- Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người; sẵn sàng đối thoại với các nước,
các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các
âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn
giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.
- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh
bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; góp phần xây dựng trật tự
chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm cho thế giới
hiểu đúng về tình hình mọi mặt và công cuộc đổi mới của Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tình hữu nghị và sự hợp tác
bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển giữa nhân dân ta và nhân dân các nước.
Trang | 108
- Đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, thực hiện có kết quả Nghị quyết 36-
NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX. Chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà con, phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế; khuyến khích đồng bào hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật
pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống thành đạt, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân
tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết đùm bọc,
thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; vận động bà con hướng về quê hương, đóng góp tích cực cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời tích cực phát huy vai trò là "cầu nối" hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
và quan hệ hợp tác giữa nước sở tại mà họ sinh sống với Việt Nam.
- Thực hiện nghiêm Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại (do Bộ Chính trị ban
hành theo Quyết định số 101-QĐ/TW), bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý
tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối
ngoại của Đảng, hoạt động ngoại giao của Nhà nước và hoạt động đối ngoại nhân dân, giữa chính
trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, hoạt động đối ngoại và hoạt động quốc phòng, an ninh, giữa
thông tin trong nước và thông tin đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực công tác
đối ngoại. Phân công, phân nhiệm rõ ràng, đề cao trách nhiệm và vai trò chủ động của các ngành,
các cấp trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao liên quan đến đối ngoại; bảo
đảm sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại; có cơ chế quy tụ, phát huy trí
tuệ tập thể và phối hợp tổ chức nghiên cứu các vấn đề cơ bản phục vụ công tác đối ngoại.
- Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về
chính trị, có năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
au thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất, ngày 2-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông - Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc về xây dựng
nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, tiếp đến là các Hiến
pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu trong tư tưởng và chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay trong Di chúc của mình 50 năm trước, Người đã căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật
tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Nhân
dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì nhân dân, dành cho nhân dân. Bác viết: “Cuối cùng,
tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu
thanh niên và nhi đồng”.
Trang | 109
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong những
năm qua, Đảng ta đã ban hành và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ
trương, nghị quyết về củng cố và tăng cường xây dựng bộ máy nhà nước. Ngày 25-10-2017, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”. Với những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, Nghị quyết khẳng định không ngừng tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước và chính
quyền địa phương, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thực tế của hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua đã chứng minh việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh
dấu giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Quốc hội đã nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống
pháp luật tiếp tục được hoàn thiện; hoạt động giám sát của Quốc hội tập trung vào giải quyết
những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước, được nhân dân và dư luận xã hội quan tâm.
Việc thảo luận, quyết định những vấn đề lớn có chất lượng hơn và thực chất hơn. Chính phủ và
các bộ, ngành tập trung quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan
trọng. Bên cạnh đó, Chính phủ ngày càng quan tâm sâu sắc hơn, kịp thời hơn những vấn đề,
những khó khăn của nhân dân nảy sinh trong cuộc sống và quá trình lao động, sản xuất. Nhiều
chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và
được triển khai nghiêm túc trong thực tế đã có tác dụng tạo ra những kết quả quan trọng, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà
nước. Chính vì vậy, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực, nhất là trong bối cảnh
tình hình quốc tế, khu vực có nhiều khó khăn, thách thức. Hiện nay, kinh tế vĩ mô ổn định; lạm
phát được kiểm soát; thu ngân sách tăng khá; các ngành, lĩnh vực chủ yếu phát triển ổn định. Đời
sống nhân dân được cải thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, cải cách hành chính,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đạt nhiều kết quả tích cực,
tạo không khí phấn khởi trong toàn xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, cộng đồng
doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân thời gian qua vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tiếp tục giải quyết. Đó
là, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất; tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước còn
nhiều bất cập; việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân còn những hạn chế; việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội còn chậm; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít cấp ủy còn thấp, thậm
chí có nơi mất sức chiến đấu…
Để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, bộ máy nhà nước, cần đặt người dân vào
vị trí trung tâm trong mọi hoạt động và lấy tinh thần phục vụ nhân dân làm nền tảng hoạt động.
Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, hình thức, phương thức hoạt động của cơ quan nhà nước ở
Trung ương và địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng
ngày càng tốt hơn các yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, bảo đảm, bảo vệ quyền
Trang | 110
con người, quyền công dân. Kiện toàn tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn,
hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại.
Mở rộng đối thoại giữa Nhà nước với người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức, tăng
cường trách nhiệm giải trình và lắng nghe nhân dân; để Nhà nước, cán bộ, công chức gần dân
hơn, từ đó những chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp thực tiễn. Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao…
Kỷ niệm Ngày Quốc khánh năm nay diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có
nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Để
tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, cả nước cần đoàn
kết một lòng với khí thế và quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, chú trọng nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với khí thế tưng bừng của Ngày Độc lập, chúng ta nhất định
sẽ thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu đề ra, xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo đúng di nguyện mà Bác Hồ kính yêu hằng mong
muốn.
8. xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là quy luật
phát triển của Đảng. Điều đó đã được khẳng định trong thực tiễn cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, cũng như từ thực tiễn quá trình đổi mới hơn 30 năm qua.
Trang | 111
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH - NHỮNG NHIỆM VỤ THEN CHỐT
1 - Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng, Đảng vững mạnh về chính trị phải dựa trên
nền tảng tư tưởng vững chắc, làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng, xây dựng đường lối
chính trị đúng đắn và sáng tạo. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị được
Đảng xác định là nhiệm vụ then chốt, được triển khai trong thực tế trên nguyên tắc kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH); kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, trì trệ; không ngừng bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn mới.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong việc xây dựng nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng
là sự khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc Việt
Nam, mãi mãi soi đường cho dân tộc Việt Nam giành thắng lợi. Đây là bước phát triển mới vô
cùng quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Trên nền tảng tư tưởng khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đường lối chính trị đúng đắn, vững vàng vượt qua thử
thách, giành nhiều thắng lợi trong công cuộc đổi mới.
2 - Một đảng cách mạng chân chính, vững mạnh phải có nền tảng chính trị rộng lớn. Trong quá
trình đổi mới, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, cơ cấu các tầng lớp xã hội có sự biến
đối, vì vậy Đảng phải không ngừng củng cố và phát triển cơ sở nền tảng chính trị - xã hội, bảo
đảm cho sự lãnh đạo công cuộc đổi mới thành công.
Nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, tại Đại hội X, Đảng có diễn đạt mới về
bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiền phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Từ chỗ Đảng lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân, trí thức làm nền tảng chính trị - xã hội,
đến mở rộng nền tảng xã hội, bao gồm giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Đây là quan điểm mới rất quan trọng, tăng cường, mở rộng cơ sở nền tảng chính trị của Đảng, tập
hợp, đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc, tạo động lực to lớn phấn đấu vì mục tiêu xây dựng xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Từ quan điểm đó, Đảng cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, kết nạp những giáo dân yêu
nước, giác ngộ xã hội chủ nghĩa vào trong hàng ngũ của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội.
Trang | 112
3 - Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác tư
tưởng, lý luận, thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng nâng cao phẩm chất, trình độ trí tuệ,
năng lực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhận thức tầm quan trọng của công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, Đảng thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên kiên định mục
tiêu, lý tưởng cách mạng, thấm nhuần đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị trong mọi giai đoạn cách mạng.
Trong điều kiện khoa học công nghệ, trình độ dân trí phát triển ngày càng cao, nếu đội ngũ cán
bộ, đảng viên không vươn lên giữ vai trò tiên tiến, thì bản thân Đảng sẽ mất vai trò tiên phong,
không đủ năng lực lãnh đạo đất nước phát triển và hội nhập.
Nhằm thúc đẩy cán bộ, đảng viên không ngừng tự giác học tập, rèn luyện, Đảng có quy định chặt
chẽ về chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị; chuẩn hóa về phẩm chất, trình độ, năng lực
cho tất cả các đối tượng cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Mặt khác, để không ngừng bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng, xây dựng đường lối chính trị
của Đảng, nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, Đảng tăng cường, đổi
mới công tác lý luận. Nghiên cứu lý luận tập trung tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện lý luận
về mô hình, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(XHCN), nền dân chủ XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đồng thời,
tập trung tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận xác định quy luật xây dựng Đảng cầm quyền; làm
rõ phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền và điều kiện để Đảng cầm quyền vững chắc và
lâu dài trong bối cảnh thời đại nhiều biến động khó lường.
Hiện nay, công tác lý luận đang tập trung nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học, xử lý tốt các
mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà nước và thị trường;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Để nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, Đảng chủ trương xây dựng các thiết chế nghiên cứu
lý luận, tư vấn, phản biện chính sách, phát huy vai trò của Hội đồng Lý luận Trung ương, Tổ tư
vấn chính sách của Chính phủ, huy động nguồn lực khoa học từ các trường đại học, các học viện,
tập trung nghiên cứu tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới.
4 - Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ căn cốt để xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh. Nhận thức toàn diện về những nhiệm vụ xây dựng Đảng, Đại hội XII của
Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức. Xây dựng nền tảng đạo đức của Đảng là
giải pháp cơ bản, lâu dài và rất quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để ngăn
chặn và đẩy lùi sự suy thoái, biến chất, bệnh quan liêu, tham nhũng.
Biểu tượng cao đẹp, sức cuốn hút của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là những giá trị tư tưởng,
đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc thực hiện các chỉ thị của Đảng, về học tập
Trang | 113
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhiều năm qua, có tác dụng giáo dục
cán bộ, đảng viên phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng; là vấn đề mấu chốt để đấu
tranh ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
5 - Xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng, Đảng đặc biệt coi trọng
phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong cán bộ, đảng viên.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ, khóa VII, Đảng nêu 5 quan điểm và 4 nguy cơ đối với sự nghiệp đổi
mới, cho thấy tính chất khó khăn, phức tạp của công cuộc đổi mới, thách thức chính sự lãnh đạo
của Đảng. Tình hình này đòi hỏi Đảng phải tăng cường công tác tư tưởng, xây dựng tổ chức trong
sạch, vững mạnh mới có thể khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới.
Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng thể hiện quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, thực hiện
quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái, biến chất “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ
chức đảng, để tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, thực hiện nghiêm pháp luật trong các tổ chức Đảng và Nhà nước; chủ động phòng ngừa,
tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch;
phản bác quan điểm sai trái, cơ hội chính trị lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” hòng xóa bỏ vai
trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức nguy cơ lớn nhất, trực tiếp nhất đối với sự tồn vong của
Đảng chính là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình hình quan liêu, tham nhũng trong bộ
máy Đảng, Nhà nước.
Bài học từ sự sụp đổ của các đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu đã khẳng định, khó có một
thế lực nào có thể đánh đổ được đảng cộng sản, mà chỉ có sự mục nát, tham nhũng, suy thoái,
biến chất trong bản thân mình thì dù kẻ thù không đánh, đảng cũng tự suy vong.
Sớm nhận thức nguy cơ to lớn đó, ngay thời kỳ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra 4 nguy
cơ lớn, trong đó nạn tham nhũng là nguy cơ lớn nhất, “giặc nội xâm” nguy hiểm nhất.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác động mặt trái của cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế, những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức - cán bộ; sự
buông lỏng kiểm tra, giám sát; kỷ luật, kỷ cương trong Đảng chưa nghiêm, tình hình suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ diễn biến phức
tạp. Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XII, Đảng thể hiện quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ
cấp bách về xây dựng Đảng, kiên trì, kiên quyết đẩy lùi suy thoái trong nội bộ. Đặc biệt, Đảng
tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nghiêm túc và hiệu quả nguyên tắc
tự phê bình, phê bình đối với tập thể lãnh đạo, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu trong các cơ
quan, tổ chức từ Trung ương, đến địa phương, cơ sở. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội gương mẫu, nghiêm túc tiến hành
Trang | 114
tự kiểm điểm. Kết quả cuộc vận động đã tạo được hiệu ứng rất tích cực. Từ đó, Đảng tiến hành
cuộc đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng. Nhiều vụ tham nhũng bị vạch trần, nhiều tổ chức, cá
nhân tham nhũng bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh những người suy thoái, biến
chất, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
6 - Đẩy mạnh đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo
của các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Đổi mới chính trị từng bước, phù hợp với đổi mới kinh tế, trên quan điểm đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn, đẩy mạnh đổi mới mô hình, cơ chế vận
hành của bộ máy tổ chức Đảng và hệ thống chính trị trước yêu cầu của phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế.
Tại Hội nghị Trung ương 6, khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết về
tiếp tục kiện toàn, sắp xếp lại hệ thống tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả. Nghị quyết yêu cầu giảm thiểu các cơ quan, tổ chức trung gian, các chức
năng trùng chéo; nhất thể hóa một số cơ quan có chức năng phù hợp trong hệ thống chính trị; xây
dựng hoàn thiện cơ chế vận hành hệ thống đồng bộ, khoa học. Đồng thời, tập trung xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; củng cố và phát triển các tổ chức đảng trong các thành
phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu,
gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức và ý thức tổ chức kỷ
luật. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
7 - Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất, trình độ trí tuệ và năng lực thực
tiễn là nhiệm vụ “then chốt của then chốt” để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng xác
định rõ quan điểm, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo với tầm nhìn chiến lược về xây dựng đội
ngũ cán bộ và công tác cán bộ; coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng;
công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện
nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, trực tiếp là các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu, các cơ quan tham
mưu. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, các hội quần chúng, các cơ quan truyền
thông báo chí, dựa vào dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Bám sát những yêu cầu đó, Hội nghị Trung ương 7, khóa XII triển khai những nhiệm vụ, giải
pháp có tính đột phá xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, tập trung “hai trọng tâm và năm đột phá”.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ, từng bước chuẩn hóa,
tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo,
phục vụ phát triển, ủng hộ, khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung.
Trang | 115
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, bí thư cấp ủy và người đứng đầu các các cơ
quan, tổ chức, đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời,
tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Thực hiện việc đổi mới công tác đánh giá công tác cán bộ theo phương châm xuyên suốt, liên tục,
đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với các
chức danh tương đương.
Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức,
chạy quyền.
Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương
ở những nơi có đủ điều kiện.
Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý
với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng
dụng nhân tài.
Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò
của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
Thực hiện nghị quyết Đại hội XII và các nghị quyết Trung ương về công tác cán bộ, Đảng đang
tạo được những chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, là cơ sở bảo đảm cho
công tác xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh.
8 - Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng phải tăng cường liên hệ mật thiết, gắn bó với
nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Trách nhiệm và bổn phận của Đảng là phục vụ nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân... là những quan điểm cơ bản nhất để không ngừng củng cố nền
tảng chính trị vững chắc của Đảng; là cơ sở để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện những quan điểm đó, trong tiến trình đổi mới, Đảng không ngừng cụ thể hóa bằng các
chủ trương, chính sách, các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội; cải cách tư pháp, cải cách nền
hành chính, xây dựng Chính phủ kiến tạo vì dân, phục vụ dân; kiên quyết đấu tranh chống các
biểu hiện xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng từ sau Đại hội XII, thể hiện rõ Đảng dám chịu trách nhiệm về
những biểu hiện thoái hóa, biến chất, tham nhũng trong nội bộ, công khai, thẳng thắn, dựa vào
dân để đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng diễn ra quyết
liệt, hiệu quả được nhân dân hoan nghênh, niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được
củng cố.
9 - Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện
nghiêm pháp luật Nhà nước là giải pháp quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng ta có nhiều nghị quyết, chỉ thị cùng các thiết chế để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát,
đấu tranh chống suy thoái, biến chất, tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, dân chủ trong Đảng vẫn
còn biểu hiện hình thức; kỷ cương, kỷ luật trong Đảng còn lỏng lẻo, pháp luật của Nhà nước
chưa được thực hiện nghiêm minh, gây bức xúc trong nhân dân
Trang | 116
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG
MẠNH
Một là, ra sức xây dựng, củng cố và bảo vệ nền tảng chính trị vững chắc, nắm vững ngọn cờ tư
tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và CNXH để chỉ đạo
hành động cách mạng của Đảng, giữ vững định hướng XHCN. Kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH, đồng thời phải không ngừng đổi mới, sáng tạo trong hoạch định và thực hiện
đường lối, chính sách; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải
không ngừng bổ sung, hoàn thiện, vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh một cách thực chất; đặc biệt chú trọng sự nêu gương của những người đứng đầu giữ trọng
trách trong các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiên quyết đấu tranh có hiệu quả chống các thế lực thù
địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
Ba là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn
đoàn kết thống nhất, thực hiện nghiêm minh kỷ cương, kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước;
phát huy dân chủ, công khai minh bạch; kiên trì, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, giữ vững sự trong sạch của Đảng, Nhà nước là tiền đề và động lực xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Bốn là, tăng cường, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng cho được một đội ngũ
cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, đạo đức, có trình độ trí tuệ; tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược thực sự tiêu biểu về bản lĩnh, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đặt lợi ích
của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, đoàn kết, tập hợp sức mạnh thực hiện nhiệm vụ
chính trị, có tầm nhìn và tư duy chiến lược. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý đội ngũ cán
bộ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và Nhà nước; ngăn ngừa sự suy thoái, biến chất và loại
bỏ những phần tử cơ hội, tham nhũng ra khỏi hàng ngũ của Đảng.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, phát huy vai trò giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí.
Sáu là, luôn coi trọng bài học “lấy dân làm gốc”; lấy sự tin tưởng của nhân dân và xã hội là điều
kiện tiên quyết để xây dựng Đảng. Thường xuyên xây dựng và củng cố mối liên hệ giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân; phát huy vai trò và sức mạnh của nhân dân tham gia xây dựng Đảng; đấu
tranh mạnh mẽ chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng liêm chính, chí công, vô
tư, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng
Trang | 117
Câu 39: Phân tích những thành tựu hạn chế của công cuộc đổi mới CNXH do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo.
Hoàn cảnh của việc thực hiện công cuộc đổi mới(tóm tắt) Thành
tựu.
*Các thành tựu chủ yếu.
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình
thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã
hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ
thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu to lớn trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong
những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử để chúng ta vững bước trên con đường xã hội
chủ nghĩa.
*Nguyên nhân
Có được những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện.
Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng
kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những
chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong
nước thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, tận
Trang | 118
dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp
đổi mới của đất nước ta được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.
Hạn chế.
*Các mặt hạn chế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khuyết điểm cần tập trung giải quyết, khắc
phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực
được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, tốc
độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội
và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa,
xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội
chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ
mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ
hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu
lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù
địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá nước ta và những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị
giảm sút.
*Nguyên nhân.
Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp, chưa
có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi; sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.
Về chủ quan: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa được quan tâm đúng mức, đổi
mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến
nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình có lúc, có việc làm còn chậm và thiếu chính xác làm ảnh
hưởng đến chất lượng các quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết
các mối quan hệ lớn còn hạn chế. Đổi mới chưa toàn diện, thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số
lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Quyền hạn và
chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không được quy định
rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích
Trang | 119
cực triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được
sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các
cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu
quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý
chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng,
bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa quan tâm việc xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng
người có đức, có tài.
Câu 40 : Phân tích những kinh nghiệm chủ yếu của công cuộc đổi mới vì CNXH của Đảng
*Khái quát 1 số thành tựu, hạn chế của đổi mới( tóm tắt câu 39)
*Phân tích các bài học kinh nghiệm
-Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Đây là bài học về
“chủ động” và “sáng tạo
+Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa
sống còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới, những
khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không ngừng
sáng tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài,
nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên
định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức
đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất
để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với
Việt Nam.
-Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đây là bài học về “nhân
dân” và “phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc
Trang | 120
+Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích của
nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi
mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả đổi mới.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, càng cần phải phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và
mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi,
chống suy thoái, biến chất
-Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây là bài học
về đổi mới toàn diện, đồng bộ, tôn trọng quy luật khách quan và thực tiễn.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương
đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm phù
hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo
cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ động, năng
động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để đổi mới
tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải
giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các
thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói đi đôi
với làm
-Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Đây là bài học về “lợi ích dân tộc” và “phát huy sức mạnh tổng hợp Luôn
Trang | 121
luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định
độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng
hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở để kết
hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
-5, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối
quan hệ mật thiết với nhân dân. Đây là bài học về “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn,
tự đổi mới.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phát huy
vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân lên từ sức
mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống chính
trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý
nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
Câu 41 :Phân tích những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa thời đại của Cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong của giai cấp
công nhân và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn thất, hy sinh
nhưng cũng hết sức vẻ vang vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội.
Trang | 122
Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân ta đã giành được dưới
sự lãnh đạo của Đảng hơn 75 năm qua đã khẳng định vai trò, công lao to lớn của Đảng và để lại
nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta.
NHỮNG THẮNG LỢI CÓ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, nước ta trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Để thực hiện các nguyện
vọng cơ bản là độc lập dân tộc và người cày có ruộng, nhân dân ta đã bao phen vùng dậy đấu
tranh chống đế quốc, phong kiến, song rốt cuộc đều bị thất bại. Kể từ ngày có sự lãnh đạo của
Đảng, cuộc đấu tranh vì các mục tiêu đó của nhân dân ta mới từng bước giành được thắng lợi,
trước hết là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, đưa lại độc lập tự do cho đất nước,
lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là Xôviết
Nghệ Tĩnh. Phong này đã khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng và sức
mạnh của khối liên minh công nông. Quốc tế Cộng sản đánh giá cao đóng góp của phong trào
cách mạng Việt Nam đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, công nhận Đảng ta là
một phân bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ và tổn thất để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng cách
mạng, đến năm 1936, khi tình hình trong nước và thế giới có sự biến chuyển mới, Đảng đã chủ
trương tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, chuyển hướng đấu tranh sang
đòi dân sinh dân chủ, với các hình thức đấu tranh và tổ chức thích hợp, chuẩn bị lực lượng cho
cuộc đấu tranh giành chính quyền. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh
hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng. Đảng đã biết kết hợp các hình thức
đấu tranh công khai hợp pháp với các hình thức bán hợp pháp, bí mật trong cuộc đấu tranh ở một
nước thuộc địa. Qua phong trào, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.
Từ năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những nhận định sáng suốt
về tình hình thế giới và xu hướng phát triển của cách mạng Đông Dương, xác định giải phóng
dân tộc, đánh đuổi phátxít Pháp, Nhật, giành độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của dân tộc Việt
Nam. Từ đó, Đảng chủ trương chuẩn bị các điều kiện để tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo trong cuộc vận động giải phóng dân
tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã
đầu hàng quân Đồng minh, Đảng đã phát động, tổ chức thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám năm 1945.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đầu tiên
của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã đập tan
xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp và hàng trăm năm chế độ phong kiến nhà
Nguyễn, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước ta; đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người
làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
Trang | 123
ở Đông Nam Á; đưa Đảng ta từ hoạt động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc;
khẳng định trong thực tiễn tư tưởng cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, khởi nghĩa toàn
dân của Hồ Chí Minh và đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng vạch ra là đúng đắn;
nâng cao niềm tự hào dân tộc và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Đảng và nhân dân ta; mở
ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn cho cách mạng thế giới;
chứng minh học thuyết Mác- Lênin có thể áp dụng thành công vào cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
phong trào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành được thắng lợi và nắm chính quyền trong cả nước.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1945-1975
Vừa giành được chính quyền về tay nhân dân chưa đầy một tháng, dân tộc Việt Nam đã phải
bước vào một cuộc chiến đấu mới chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch trong
hơn 30 năm để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm 1945-1954, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, với ý chí "Thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng đã phát
động, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ đi tới thắng lợi vẻ vang mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với
nước ta và với thế giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ hoàn toàn ý chí xâm lược
của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc, giữ vững được
chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa đất nước là miền Bắc, tạo điều kiện đưa
miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa, hậu phương của cả nước để giải phóng
miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam;
nâng cao uy tín cho dân tộc và cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó... Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp
phải chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam trở thành người đi tiên
phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân
các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc; miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1954-1975, khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đưa cố vấn quân sự
rồi quân viễn chinh xâm lược miền Nam, đánh phá miền Bắc, Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân
dân hai miền Bắc, Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu
chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Với tinh
thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân cả nước ta đã vừa xây dựng, bảo vệ hậu
Trang | 124
phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ra sức chi viện tiền tuyến, vừa đẩy mạnh cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ và tay sai đi
tới đại thắng mùa Xuân 1975.
Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử có ý nghĩa dân tộc và thời đại to lớn. Đối với dân tộc ta, thắng lợi này kết thúc hơn
20 năm chống đế quốc Mỹ, 30 năm chiến tranh cách mạng, hơn một thế kỷ chống xâm lược nước
ngoài, đưa lại độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất nước ta; giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, đưa cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh to lớn về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt
Nam; nâng cao vị thế quốc tế cho Đảng và dân tộc trên trường quốc tế; để lại nhiều bài học có giá
trị cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;...
Đối với thế giới, thắng lợi này đã góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế
quốc Mỹ, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ; cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc dân chủ
của nhân dân thế giới; mở rộng địa bàn và tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách
mạng thế giới.
Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược đã khẳng định một chân lý lịch sử là một dân tộc đất không rộng, người không đông nếu có
Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo biết đề ra đường lối đúng, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, có phương thức tiến hành chiến tranh sáng tạo, được sự ủng hộ của nhân dân
thế giới hoàn toàn có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào.
Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới
Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong bối cảnh có những thuận lợi to lớn, song cũng gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chậm phát triển,
cơ sở vật chất- kỹ thuật nhỏ bé, manh mún, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại bị Mỹ phong tỏa cấm
vận, tình hình quốc tế có những diễn biến bất lợi, phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu
biên giới phía nam, phía bắc, đòi hỏi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua
nhiều bước đi cụ thể thích hợp. Trong bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng được tôi
luyện qua thử thách đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra
đường lối đổi mới đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, giành được những thành
tựu to lớn, toàn diện.
Thắng lợi bước đầu của hai mươi năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng. Báo cáo chính trị
tại Đại hội X của Đảng đánh giá khái quát 20 năm đổi mới đã ghi nhận: Hai mươi năm qua, với
sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta
đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
Trang | 125
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và
an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi
lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam đã ta từ một nước thuộc
địa trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ
thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền
kinh tế nghèo nàn, lạchậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những
thắng lợi đó là minh chứng sinh động về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, sức
mạnh to lớn của nhân dân ta
Câu 42: Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng Việt Nam từ
năm 1930 đến năm 2018
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là lí tưởng, là mục tiêu chiến lược của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Mục tiêu đó
được đề ra ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và được đặt ra và cụ thể hóa trong
từng thời kì, từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam; được phát triển cả về nhận thức lí luận và
thực tiễn trong các Cương lĩnh tiếp theo. Điều cần nhấn mạnh là, Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn nội dung của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và sự
thống nhất không thể tách rời nhau của hai mục tiêu chiến lược đó. Độc lập dân tộc là đấu tranh
giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
vùng trời, biển đảo của Tổ quốc; là bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và con
đường phát triển độc lập, tự chủ của đất nước; là bảo vệ sự ổn định chính trị và cuộc sống bình
yên, hạnh phúc của nhân dân; là giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc văn
hóa của dân tộc Việt Nam. Quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng đã từng bước hiện thực hóa và
nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thống nhất với nhau trong mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ; đất nước có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất với sự quản lí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội cũng thống nhất trong một xã hội không có áp bức, bất công, mọi người được
sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện cá nhân với đời sống ngày càng nâng
cao về vật chất, tinh thần trong nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; độc lập dân tộc và
Trang | 126
chủ nghĩa xã hội thống nhất trong chính sách bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với các dân
tộc, quốc gia trên thế giới. hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
đấu tranh giành độc lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Thành công nổi bật của
Đảng Cộng sản Việt
Nam là đề ra Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Trên cơ
sở đường lối đúng đắn mà tập hợp, đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu
chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ nhận thức ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và
nhân dân, Đảng không có mục đích nào khác. Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững
chắc là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đồng thời
đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp khác, đoàn kết 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam, đoàn
kết các tôn giáo, đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời bảo đảm
lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận, cá nhân không trái với lợi ích chung của dân
tộc, đất nước. Đảng chú trọng xây dựng các hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất để tập
hợp đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, lực lượng trong dân tộc, xã hội, đa dạng hóa các hình thức
tổ chức tập hợp quần chúng, nêu cao vai trò các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, nghề
nghiệp. Đường lối và bài học đại đoàn kết dân tộc của Đảng là sự kế thừa và phát triển truyền
thống đoàn kết hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống gắn kết
trong các hình thức cộng đồng, gia đình, dòng họ, làng xã đến cộng đồng dân tộc, quốc gia. Đại
đoàn kết dân tộc cũng là nối tiếp truyền thống nhân văn, nhân ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau
của dân tộc Việt Nam. Sự kết tinh các giá trị cao cả và sâu sắc đó của chiến lược đại đoàn kết dân
tộc trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng và dân tộc Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng sự nghiệp đấu tranh giành và giữ chính quyền, lãnh
đạo xây dựng và tăng cường vai trò, sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ
khi ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh giành độc
lập dân tộc với giành chính quyền về tay nhân dân. Trải qua 3 cao trào cách mạng, dẫn tới thắng
lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng kiểu mới, chính quyền
Nhà nước thật sự là công bộc của nhân dân, phục vụ nhân dân, gánh việc chung cho dân chứ
không phải là chính quyền cai trị dân như dưới thời của chế độ phong kiến, thực dân. Chính
quyền nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã tổ chức công cuộc xây dựng kinh tế, kiến thiết đất
nước, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân
dân, động viên và tổ chức lực lượng của toàn dân tiến hành các cuộc kháng chiến oanh liệt chống
thực dân, đế quốc giành độc lập, thống nhất hoàn toàn và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam độc lập, xã
hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Lãnh đạo quá trình cụ thể hóa, thể chế hóa
Trang | 127
Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo xây dựng,
hoàn thiện bộ máy Nhà nước và chính quyền các cấp, bố trí cán bộ trong bộ máy chính quyền
Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước bảo đảm cho Nhà nước phát huy cao độ
hiệu lực, hiệu quả quản lí, thực hiện đúng đắn đường lối của Đảng, lợi ích và quyền làm chủ của
nhân dân. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để quản lí tốt nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt các chính sách xã hội, an sinh xã
hội, chăm lo đời sống của nhân dân, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh và mở rộng quan
hệ đối ngoại. Quốc hội không ngừng đổi mới để thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp, quyết định
những vấn đề to lớn của đất nước và giám sát tối cao. Đẩy mạnh cải cách hành chính để Chính
phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lí hành chính nhà nước. Cải
cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ công
chức, cải cách tài chính công là những vấn đề bức thiết hiện nay. Đẩy mạnh cải cách tư pháp.
Nắm vững quan điểm: Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch,
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan làm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
bốn là, kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cương lĩnh,
đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh của dân tộc, coi cách mạng
Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới. Trong
Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Muốn người ta
giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã kêu gọi toàn thể quốc dân hãy đứng lên . Nhờ phát đem sức ta mà tự giải phóng cho ta
huy sức mạnh, ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc, nên đã chớp được thời cơ thuận lợi dẫn tới
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong các cuộc kháng chiến lâu dài giành độc
lập, thống nhất hoàn toàn, Đảng đã triệt để phát triển sức mạnh của dân tộc, nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, đồng thời tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng
hợp để giành thắng lợi.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng và
dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Điều đó đòi hỏi
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, nâng cao bản lĩnh
chính trị để đứng vững trước khó khăn, thử thách và kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội, động viên cao độ nội lực. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường củng cố sự đoàn
kết các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kiên định lập trường của chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đề
ra và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ tối đa những vấn đề mới của thời đại: Hội nhập kinh tế
quốc tế, toàn cầu hóa, thành quả của cách mạng khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lí của
các nước tiên tiến, những vấn đề về kinh tế tri thức… Nội lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng
có ý nghĩa quyết định, song sức mạnh đó được tăng cường khi có sự kết hợp đúng đắn với ngoại
lực và sức mạnh của thời đại.
Năm là, không ngừng nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Những
bài học đã nêu trên đây thể hiện nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; mọi thắng
Trang | 128
lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Có được thành công đó trong
lãnh đạo là nhờ Đảng không ngừng tự đổi mới và chỉnh đốn, luôn luôn coi xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt. Đảng coi trọng nâng cao trình độ trí tuệ, lí luận, nghiên cứu, vận dụng sáng
tạo và phát triển lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng nghiên cứu lí
luận, nâng cao trình độ lí luận của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lí chủ
chốt, nâng cao tầm tư duy, chiến lược, nắm bắt và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan,
khắc phục biểu hiện giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Chú trọng tổng kết thực tiễn cách mạng Việt
Nam để bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ những vấn đề lí luận. Đảng không ngừng phát triển,
hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối chính trị, từ Cương lĩnh tháng 2-1930, tháng 10-1930 đến
Cương lĩnh của Đại hội II (2-1951), Cương lĩnh 1991 và Đại hội XI sắp tới của Đảng sẽ bổ sung,
phát triển Cương lĩnh 1991: Đường lối của Đảng trên từng lĩnh vực cụ thể cũng được xây dựng
và hoàn chỉnh.
Đảng coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cả ở cấp chiến lược
và cấp cơ sở. Đảng hoạt động, lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỉ luật nghiêm minh; đoàn kết thống nhất trong Đảng; tự
phê bình và phê bình những sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa; gắn bó mật thiết với
nhân dân và Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Không ngừng nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc.
Trang | 129
Trang | 130
| 1/130

Preview text:

Câu 1: Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của môn Lich sử Đảng Cộng sản Việt
Nam. ................................................................................................................................................ 4
Câu 2: Chức năng, nhiệm vụ của môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam .................................... 7
Câu 3: Ý nghĩa của việc học tập môn Lich sử Đảng Cộng sản Việt Nam. ................................... 10
Câu 4: Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam
phải đi theo con đường cách mạng vô sản. .................................................................................... 10
Câu 5: Nội dung và ý nghĩa những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền bá vào
Việt Nam từ năm 1920 đến năm 1929. .......................................................................................... 11
Câu 6: Các yếu tố dẫn tới sự ra đời của Đảng và mối quan hệ giữa các yếu tố đó. ...................... 15
Câu 7: Cương lĩnh chính trị đầu tiên và ý nghĩa sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. ......... 17
Câu 8: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. .............................................................................................................................................. 20
Câu 9 :So sánh Luận cương chính trị tháng 10-1930 với Cương lĩnh chính trị đầu tiên (6-1-1930)
của Đảng. ....................................................................................................................................... 22
Câu 10 : Chủ trương của Đảng trong cuộc vận động dân chủ 1936- 1939. Thành quả và kinh
nghiệm của cuộc vận động này...................................................................................................... 23
Câu 11: Phân tích Chủ trương chiến lược mới của Đảng trong giai đoạn 1939-1945 .................. 25
Câu 12: Phân tích nguyên nhân thắng lợi, tính chất và kinh nghiệm của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 ....................................................................................................................................... 30
Câu 13: Chủ trương và diện biến của cuộc chiến tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền cách
mạng thời kỳ 1945-1946. ............................................................................................................... 31
Câu 14: Chủ trương và diễn biến của cuộc đấu tranh bảo vệ & xây dựng chính quyền cách mạng
thời kỳ 1945 - 1946. ...................................................................................................................... 35
Câu 15 : Phân tích nội dung cơ bản của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2-1951) ......... 41
Bài 16: Những diễn biến chính của cuộc khách chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ .....
42 Câu 17: Phân tích ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của Đảng (1945 – 1954)................................................................................................. 51
Câu 18 : Phân tích đặc điểm của miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ ......................... 52
Câu 19: Phân tích tính chất của xã hội miền Nam sau năm 1954 và nội dung cơ bản Nghị quyết
15 tháng 1/1959. Ý nghĩa của Nghị quyết này với cách mạng miền Nam. ................................... 53
Câu 20: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam được
Đại hội III ( 9/1960) của Đảng vạch ra. ......................................................................................... 55
Câu 21: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ ở miền
Bắc được Đại hội III của Đảng vạch ra. ........................................................................................ 58
Câu 22: Quá trình hình thành, phát triển và nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
.......................................................................................................................................................
59 Câu 23: Các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) và ý nghĩa của
mỗi giai đoạn. ................................................................................................................................ 60
Câu 24 : Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 – 1975). ...................................................................................................................... 62
Câu 25: Phân tích nội dung cơ bản đường lối chung xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ được
Đại hội IV (12/1976) của Đảng vạch ra. ....................................................................................... 64
Câu 26 :Phân tích nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa của hai cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền
biên giới phía Tây Nam và phía Bắc của tổ quốc. ......................................................................... 65
Câu 27 :Phân tích nội dung công nghiệp hóa XHCN của chặng đường đầu tiên được Đại hội V
(3/1982) vạch ra. ............................................................................................................................ 70
Câu 28: Làm rõ những bước đột phá trong đổi mới tư duy quản lý kinh tế của Đảng từ năm 1979
đến năm 1985 ................................................................................................................................ 71
Bài 29: Phân tích yêu cầu và mối quan hệ xã hội giữa 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành
công CNXH và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN của Đại hội V ................................ 71
Bài 30: Phân tích những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của thời kỳ 10 năm xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước (1976 – 1985) ................................................................................. 74
Bài 31: Phân tích nội dung 4 bài học kinh tế của thời kỳ xây dựng CNXH trước đổi mới được đại
hội thứ IV (12/1986) của đảng đưa ra? .......................................................................................... 75
Câu 32: Phân tích nội dung cơ bản của chủ trương đổi mới xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ Trang | 2
quá độ lên CNXH của Đại hội VI (12/1986) ................................................................................. 78
Câu 33: Phân tích những đặc trưng cơ bản của CNXH ở Việt Nam được Đại hội VII (6/1991) đưa
ra và Đại hội XI (1/2011) bổ xung, phát triển. .............................................................................. 79
Câu 34: Phân tích những cơ hội và thách thức lớn của cách mạng Việt Nam được Hội nghị toàn
quốc giữa nhiệm ký (4/1994) đưa ra. ............................................................................................ 82
Câu 35: Phân tích quan điểm, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của
Đại hội VIII ................................................................................................................................... 82
Câu 36 : Phân tích luận điểm “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh công nông trí thức do Đảng lãnh đạo..” của Đại hội IX (4/2001). Để thực
hiện được luận điểm đó, chúng ta phải làm gì? ............................................................................. 86
Câu 37: Phân tích những bài học lớn của 20 năm đổi mới (1986 – 2006) được Đại hội X (4/2006)
của Đảng đưa ra. ............................................................................................................................ 88
Câu 38 : Phân tích những phương hướng cơ bản xây dựng CNXH ở Việt Nam .......................... 90
của Cương lĩnh năm 2011 được Đại hội XI (1/2011) thông qua. ..................................................
90 Câu 39: Phân tích những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo. ...................................................................................................................... 113
Câu 40 : Phân tích những kinh nghiệm chủ yếu của công cuộc đổi mới vì CNXH của Đảng .... 115
Câu 41 :Phân tích những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa thời đại của Cách mạng .......................... 118
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ......................................................................................... 118
Câu 42: Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng Việt Nam từ năm
1930 đến năm 2018 ..................................................................................................................... 122 Trang | 3
Câu 1: Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của môn Lich sử Đảng Cộng sản Việt Nam. - Đối tượng 1.
Trước hết là các sự kiện lịch sử Đảng. Cần phân biệt rõ sự kiện lịch sử Đảng gắn trực
tiếp với sự lãnh đạo của Đảng. Phân biệt sự kiện lịch sử Đảng với sự kiện lịch sử dân tộc và lịch
sử quân sự trong cùng thời kỳ, thời điểm lịch sử. Môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
nghiên cứu sấu sắc, có hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính chất, bản chất
của các sự kiện đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện quá trình Đảng ra đời,
phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng, phát triển
đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội,
văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,…
Sự kiện lịch sử Đảng là hoạt động lãnh đạo, đấu tranh phong phú và oanh liệt của Đảng làm sáng
rõ bản chất cách mạng của Đảng với tư cách là một đảng chính trị “là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Hệ thống các sự
kiện lịch sử Đảng làm rõ thắng lợi, thành tựu của cách mạng, đồng thời cũng thấy rõ những khó
khăn, thách thức, hiểu rõ những hy sinh, cống hiến lớn lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự
hy sinh, phấn đấu của các tổ chức lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, của mỗi cán bộ,
đảng viên, với những tấm gương tiêu biểu. Các sự kiện phải được tái hiện trên cơ sở tư liệu lịch
sử chính xác, trung thực, khách quan. 2.
Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước bằng
Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn. Lịch sử Đảng có đối tượng nghiên cứu là
Cương lĩnh, đường lối của Đảng, phải nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung Cương lĩnh, đường lối
của Đảng, cơ sở lý luận, thực tiễn và giá trị hiện thực của đường lối trong tiến trình phát triển của
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh, đường lối đúng đắn là điều kiện trước hết quyết định thắng lợi
của cách mạng. Phải không ngừng bổ sung, phát triển đường lối phù hợp với sự phát triển của lý
luận và thực tiễn và yêu cầu của cuộc sống; chống nguy cơ sai lầm về đường lối, nếu sai lầm về
đường lối sẽ dẫn tới đổ vỡ, thất bại.
Đảng đã đề ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930); Luận cương chính trị (10-1930); Chính
cương của Đảng (2-1951) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (61991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Quá trình lãnh đạo, Đảng đề ra đường lối nhằm
cụ thể hóa Cương lĩnh trên những vấn đề nổi bật ở mỗi thời kỳ lịch sử. Đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc. Đường lối kháng chiến bảo vệ Tổ quốc. Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới. Đường lối quân sự. Đường
lối đối ngoại.v.v. Đảng quyết định những vấn đề chiến lược, sách lược và phương pháp cách
mạng. Đảng là người tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân hiện thực hóa
đường lối đưa đến thắng lợi. 3.
Đảng lãnh đạo thông qua quá trình chỉ đạo, tổ chức thực tiễn trong tiến trình cách
mạng. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam làm rõ thắng lợi, thành tựu, kinh Trang | 4
nghiệm, bài học của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
kháng chiến giành độc lập, thống nhất, thành tựu của công cuộc đổi mới. Từ một quốc gia phong
kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, một nước thuộc địa, bị đế quốc, thực dân cai trị, dân tộc Việt
Nam đã giành lại độc lập bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bản Tuyên ngôn độc
lập lịch sử; tiến hành hai cuộc kháng chiến giải phóng, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước; thực
hiện công cuộc đổi mới đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử. Đảng cũng thẳng thắn nêu rõ những khuyết điểm, hạn chế, khó khăn, thách thức,
nguy cơ cần phải khắc phục, vượt qua.
Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng là giáo dục sâu sắc những kinh nghiệm, bài học trong lãnh đạo
của Đảng. Tổng kết kinh nghiệm, bài học, tìm ra quy luật riêng của cách mạng Việt Nam là công
việc thường xuyên của Đảng ở mỗi thời kỳ lịch sử. Đó là nội dung và yêu cầu của công tác lý
luận, tư tưởng của Đảng, nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ của Đảng. Lịch sử Đảng là quá trình
nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn Việt Nam. Cần nhận thức rõ và chú trọng giáo dục những truyền thống nổi bật của Đảng:
truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của Đảng; truyền thống đoàn kết, thống nhất trong
Đảng; truyền thống gắn bó mật thiết với nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc; truyền thống của
chủ nghĩa quốc tế trong sáng. 4.
Nghiên cứu Lịch sử Đảng là làm rõ hệ thống tổ chức Đảng, công tác xây dựng Đảng
qua các thời kỳ lịch sử. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng để nêu cao hiểu biết về công tác xây
dựng Đảng trong các thời kỳ lịch sử về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng
về chính trị bảo đảm tính đúng đắn của đường lối, củng cố chính trị nội bộ và nâng cao bản lĩnh
chính trị của Đảng. Xây dựng Đảng về tư tưởng “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng Đảng về tổ chức, củng
cố, phát triển hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ
chức cơ bản”. Xây dựng Đảng về đạo đức với những chuẩn mực về đạo đức trong Đảng và ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. - Phạm vi
Mỗi ngành khoa học có một phạm vi nghiên cứu cụ thể trong mối quan hệ biện chứng với các
khoa học khác. Khoa học lịch sử nghiên cứu về xã hội và con người xã hội, nghiên cứu về cuộc
sống đã qua của nhân loại một cách toàn diện trong sự vận động, phát triển, với những quy luật
phổ biến và đặc thù của nó. Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 là lịch sử đấu tranh cách mạng kiên
cường và anh dũng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm xóa bỏ
chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, xây dựng chế độ mới. Đảng Cộng sản Việt
Nam là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta. Do đó, lịch sử Việt Nam (từ
năm 1930 trở đi) và lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó hữu cơ với nhau.
- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu gắn liền với đối tượng nghiên cứu. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đường lối
chính trị, hoạt động của Đảng là sự biểu hiện cụ thể lý luận đó trong hoàn cảnh Việt Nam với tất Trang | 5
cả đặc điểm vốn có của nó. Do đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư
tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với khoa học lịch sử nói chung và khoa học
lịch sử Đảng nói riêng. Đó là những cơ sở phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhờ có hoạt động lý luận dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đã đi đến nhận thức được những điều kiện khách quan và sự chín muồi
của những nhân tố chủ quan của sự phát triển xã hội thông qua hệ thống công tác tổ chức và tư
tưởng của Đảng đối với quần chúng.
Do đó, đối với khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, quan niệm duy vật về lịch sử là chìa
khóa để lý giải sự xuất hiện và phát triển của Đảng như là một kết quả tất yếu của lịch sử đấu
tranh của nhân dân Việt Nam. Chỉ có đứng trên quan điểm lịch sử mới có thể đánh giá được một
cách khoa học các giai đoạn phát triển của Đảng, trên cơ sở làm sáng tỏ địa vị khách quan và vai
trò lịch sử của Đảng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, cũng như mới lý giải được rằng lý tưởng cách mạng và những mục tiêu cao cả xuất phát từ
lý tưởng đó, mà Đảng đã kiên trì theo đuổi từ ngày mới ra đời không phải là do ý muốn chủ quan
của một cá nhân hoặc của một nhóm người tài ba lỗi lạc nào, cũng không phải do "nhập cảng" từ
bên ngoài vào, mà xét cho cùng là sự phản ánh khách quan của sự phát triển lịch sử - tự nhiên
trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Với phương pháp luận khoa học, các nhà sử học chân chính có thể nhận thức được lịch sử một
cách chính xác, khoa học. Họ có thể nhận thức và phản ánh đúng hiện thực khách quan khi
nghiên cứu bất kỳ một hiện tượng, một quá trình lịch sử nào.
Nghiên cứu lịch sử Đảng đòi hỏi phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể mới có thể xem xét
các sự kiện lịch sử trong những điều kiện và thời điểm cụ thể và trong mối quan hệ giữa chúng
với nhau. Việc nắm vững và vận dụng quan điểm lịch sử trong khoa học lịch sử Đảng cho phép lý
giải được tính sáng tạo cách mạng trong đường lối, chủ trương của Đảng, cũng như làm rõ được
cơ sở phương pháp luận của hoạt động lý luận của Đảng trong quá trình nghiên cứu để quyết định
những đường lối, chủ trương.
Khoa học lịch sử Đảng sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học lịch sử
nói chung, như các phương pháp lịch sử và lôgích, đồng đại và lịch đại, phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, cụ thể hóa và trừu tượng hóa... trong đó quan trọng nhất là phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgích cùng sự kết hợp hai phương pháp ấy.
Nhiệm vụ đầu tiên của khoa học lịch sử Đảng là phải làm sáng tỏ nội dung các giai đoạn lịch
sử đấu tranh của Đảng, với những sự kiện cụ thể sinh động và trong mối liên hệ có tính nhân quả
giữa chúng với nhau, cho nên phương pháp được đặt lên hàng đầu trong khoa học lịch sử Đảng là phương pháp lịch sử.
Song nếu phương pháp lịch sử không có sự kết hợp với phương pháp lôgích thì sẽ giảm đi tính
chất khái quát của nó, không thể vạch ra được bản chất, khuynh hướng chung và những quy luật
khách quan chi phối sự vận động lịch sử. Trang | 6
Hoạt động của Đảng trong quá khứ cơ bản là hoạt động lãnh đạo, lên lịch sử của Đảng chính là
lịch sử của sự lãnh đạo cách mạng, lịch sử của hoạt động nhận thức quy luật, đề ra đường lối, chủ
trương cách mạng. Hoạt động đó đã được ghi lại, được thể hiện trong các cương lĩnh, nghị quyết,
chỉ thị của Đảng, qua phát ngôn của các lãnh tụ của Đảng. Hoạt động xây dựng Đảng trong lịch
sử về tư tưởng và tổ chức cũng được thể hiện qua Điều lệ của Đảng. Do đó, để nghiên cứu lịch sử
của Đảng, phương pháp quan trọng có tính đặc thù, bắt buộc là phải nghiên cứu các văn kiện
Đảng, nhất là văn kiện các Đại hội và Hội nghị Trung ương. Nắm vững nội dung các văn kiện
Đảng sẽ hiểu được đường lối, chủ trương lãnh đạo cách mạng của Đảng trong các thời kỳ lịch sử,
tức là nắm được hoạt động chính yếu của Đảng trong quá khứ, hiểu được lịch sử của Đảng.
Tính đúng đắn của sự lãnh đạo của Đảng đã được kiểm nghiệm qua hành động thực tiễn của
cán bộ, đảng viên, qua hoạt động của hệ thống chính trị do Đảng tổ chức, qua phong trào cách
mạng của quần chúng. Vì vậy, để đánh giá đúng đắn lịch sử của Đảng, rút ra những kinh nghiệm
lịch sử phải căn cứ vào phong trào thực tiễn của nhân dân, vào thành bại của cách mạng.
Câu 2: Chức năng, nhiệm vụ của môn Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Trả lời 1:
Với tư cách là khoa học về những quy luật phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng, lịch sử
Đảng có hai chức năng: chức năng nhận thức khoa học và chức năng giáo dục tư tưởng chính trị.
Chức năng nhận thức khoa học lịch sử có mục đích trước hết là để phục vụ việc cải tạo xã hội
theo đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Việc hiểu
biết thấu đáo những kiến thức và kinh nghiệm lịch sử Đảng là cơ sở khoa học để có thể dự kiến
những xu hướng phát triển chủ yếu của xã hội và những điều kiện lịch sử cụ thể có tác động đến
những xu hướng đó. Bằng cách đó, khoa học lịch sử Đảng cùng với các môn khoa học lý luận
MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tích cực tạo cơ sở lý luận để Đảng vạch ra đường
lối, chủ trương, chính sách.
Mặt khác, lịch sử Đảng có chức năng giáo dục tư tưởng chính trị, tham gia vào việc giải quyết
những nhiệm vụ hiện tại. Những kiến thức khoa học về các quy luật khách quan của sự phát triển
lịch sử cách mạng Việt Nam có tác dụng quan trọng đối với cán bộ, đảng viên, nhân dân trong
việc trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin vào thắng lợi của cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó có quyết tâm phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng.
Để thực hiện chức năng đó, trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam chúng ta có nhiệm vụ làm rõ những quy luật của cách mạng Việt Nam,
nghiên cứu, trình bày các điều kiện lịch sử, các sự kiện và quá trình hình thành, phát triển và hoạt
động của Đảng, nổi bật là những nhiệm vụ sau đây:
+ Làm sáng tỏ điều kiện lịch sử, quá trình ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam - bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Trang | 7
Trong thời gian đầu không phải là toàn bộ giai cấp công nhân đã tiếp thu được chủ nghĩa Mác -
Lênin, mà chỉ có một bộ phận tiên tiến nhất tiếp thu được lý luận đó. Bộ phận này đứng ra thành
lập đảng cộng sản, do vậy đảng cộng sản là một bộ phận của giai cấp công nhân và giai cấp công
nhân thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thông qua đảng cộng sản là đội tiền phong của mình.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân là quy luật chung cho sự ra đời của
các đảng cộng sản trên thế giới. Nhưng sự kết hợp đó không theo một khuôn mẫu giáo điều, cứng
nhắc, mà nó được thực hiện bằng con đường riêng biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể về không gian và thời gian.
Yêu cầu của cách mạng thuộc địa khác với yêu cầu của cách mạng ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Đảng cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phải lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống giai cấp tư sản, còn đảng cộng sản ở thuộc địa trước hết phải lãnh đạo cuộc đấu tranh dân
tộc chống chủ nghĩa thực dân. Vấn đề giai cấp ở thuộc địa phải đặt trong vấn đề dân tộc, đòi hỏi
sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin về đảng cộng sản trong điều kiện một nước thuộc địa.
+ Làm rõ quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với hoạt động xây dựng một
chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Khoa học xây dựng Đảng có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật xây dựng đảng, xác định
những nguyên tắc, mục đích, yêu cầu; những nguyên lý và hệ thống các biện pháp phải tuân theo
để xây dựng một chính đảng cách mạng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; hình thành nên lý luận về xây dựng đảng.
Lịch sử Đảng có nhiệm vụ làm rõ những hoạt động cụ thể của Đảng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng
nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng. Đó là sự thực hiện các nguyên
lý, vận dụng những nguyên tắc, tiến hành các biện pháp để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh,
đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đương nhiên giữa hai ngành khoa học đó có mối quan hệ mật thiết với nhau.
+ Trình bày quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các giai đoạn
cách mạng trong những bối cảnh lịch sử cụ thể.
Đó là quá trình đi sâu nắm vững phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với bối cảnh
quốc tế và thực tiễn của xã hội Việt Nam, để định ra cương lĩnh, vạch ra đường lối, xác định
những chủ trương và biện pháp cụ thể cho mỗi giai đoạn cách mạng.
Đó là quá trình đấu tranh về quan điểm tư tưởng trong nội bộ Đảng để xác định một đường lối
đúng đắn, đấu tranh bảo vệ đường lối cách mạng của Đảng, chống mọi biểu hiện của tư tưởng
hữu khuynh và "tả" khuynh, chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng duy ý chí, chủ quan, giáo điều và
các loại tư tưởng phi vô sản khác. Trang | 8
Đó cũng là quá trình chỉ đạo và tổ chức quần chúng hành động thực tiễn, giành thắng lợi từng
bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, thực hiện triệt để các mục tiêu cơ bản của cách mạng
Việt Nam do Đảng vạch ra.
+ Trình bày các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo.
Nhằm theo những phương hướng cơ bản do Đảng xác định, phong trào cách mạng của quần
chúng diễn ra một cách tự giác, hết sức sinh động, phong phú và sáng tạo. Sức sáng tạo của các tổ
chức đảng và quần chúng rất lớn. Nó làm cho quyết tâm của Đảng trở thành hành động cách
mạng, làm cho đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng trở thành thực tiễn, và do đó, tạo cơ sở
cho việc bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng của Đảng. Một đường lối cách
mạng đúng sẽ được quần chúng nhân dân ủng hộ và quyết tâm thực hiện.
+ Tổng kết những kinh nghiệm lịch sử Đảng
Khoa học lịch sử Đảng có nhiệm vụ góp phần tổng kết những kinh nghiệm từ những thành công
và không thành công của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng, góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của Đảng. Trả lời 2 1. Chức năng :
Khoa học lịch sử Đảng có hai chức năng cơ bản sau : - Chức năng nhận thức:
+ LSĐ là một chuyên nghành của khoa học lịch sử nên nó mang lại cho chúng ta những kiến thức
khoa học lịch sử. Cụ thể ở đây, Lịch sử Đảng giúp ta nhận thức về quá trình phát triển của Đảng
Cộng sản Việt Nam, quá trình thực thi đường lối chính sách của Đảng vào thực tế, quá trình nhận
thức lý luận của Đảng.Từ đó, rút ra những vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam (cả
tính đúng đắn cũng như cả những lúc vấp váp sai lầm.)
+ Trên cơ sở những kiến thức và kinh nghiệm lịch sử đó, ta có thể dự kiến những xu hướng phát
triển chủ yếu của xã hội.
- Chức năng giáo dục tư tưởng chính trị:
+Giáo dục những truyền thống tốt đẹp của Đảng ta như: truyền thống đoàn kết, truyền thống đấu
tranh bất khuất hy sinh của những người cộng sản…
+ Giáo dục lý tưởng cách mạng, giáo dục lòng trung thành với sự nghiệp của Đảng, giáo dục lối
sống lành mạnh, hữu ích cho thế hệ trẻ. Trang | 9
Những kiến thức về khoa học Lịch sử Đảng sẽ giúp cho người học xây dựng thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và quan trọng hơn cả là xây dựng được niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
2. Nhiệm vụ của lịch sử Đảng: Môn Lịch sử Đảng CSVN giúp cho sinh viên hiểu được :
- Điều kiện lịch sử, quá trình ra đời và trưởng thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam- bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.
- Quá trình trưởng thành, phát triển của Đảng gắn liền với với hoạt động xây dựng một chính
đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
- Quá trình hoạt động cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng trong những
bối cảnh lịch sử cụ thể.
- Các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng tổ chức và lãnh đạo
- Những bài học kinh nghiệm qua từng thời kỳ cách mạng cũng như toàn bộ 75 năm hoạt động và
trưởng thành của Đảng Trang | 10
Câu 3: Ý nghĩa của việc học tập môn Lich sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Trả lời 1:
Nghiên cứu, học tập, nắm vững tri thức khoa học về lịch sử Đảng có ý nghĩa rất to lớn trong việc
giáo dục phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc Việt Nam, tính kiên định cách mạng trước tình hình chính trị quốc tế có những
diễn biến phức tạp và trong việc giáo dục đạo đức cách mạng, mà Hồ Chí Minh, người sáng lập
và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam là một mẫu mực tuyệt vời.
Việc nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng cũng có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục về truyền thống
cách mạng, về chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, về lòng tự hào đối với Đảng
và đối với dân tộc Việt Nam; đồng thời còn có tác dụng bồi dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng,
thôi thúc ở người học ý thức biết noi gương những người đã đi trước, tiếp tục cuộc chiến đấu
dũng cảm ngoan cường, thông minh, sáng tạo để bảo vệ và phát triển những thành quả cách mạng
mà Đảng và nhân dân ta đã tốn biết bao xương máu để giành được, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trả lời 2: -
Thông qua nội dung môn học để xây dựng và củng cố lập trường chính trị, trung thành với lợi ích
của Đảng, của dân tộc ; kiên định trước những diễn biến phức tạp của thế giới cũng như trong nước. -
Tự hào với những truyền thống của dân tộc, của Đảng. -
Tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống trong giai đoạn mới, ở những vị trí mới, nhằm xây
dựng thành công CNXH, bảo vệ vững chắc nước Việt Nam XHCN./.
Câu 4: Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc Việt
Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Thứ nhất: Bài học từ sự thất bại của con đường cứu nước trước đó: -
Để giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân Pháp, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, ở Việt
Nam diễn ra nhiều cuộc đầu tranh sôi nổi với nhiều con đường gắn với những khuynh hướng
chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Tiêu biểu là khuynh hướng:
phong kiến, tư sản… song đều thất bại => vấn đề đặt ra là phải tìm ra con đường cứu nước mới
Thứ hai: Cách mạng tư sản không triệt để
Trên con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu về cách cuộc cách mạng lớn trên thế giới
như Anh, Pháp, Mỹ,… Người nhận thấy :’ Cách mạng pháp cũng như cách mạng Mỹ đều là cách
mạng tư bản không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công- nông,
ngoài thì nó áp bực thuộc địa’
Thứ ba: Con đường giải phóng dân tộc Trang | 11 -
Hồ Chí Minh thấy được cách mạng tháng 10 Nga không chỉ là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc mà còn nêu lên tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa. -
HCM đến với học thuyết cách mạng chủ nghĩa Mác- Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. -
Người khẳng định muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản và chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và
người lao động trên thế giới ách nô lệ.
Câu 5: Nội dung và ý nghĩa những tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc được truyền
bá vào Việt Nam từ năm 1920 đến năm 1929.
1, Giai đoạn ở Pháp (từ tháng 4/1921 đến tháng 6/1923):
Mốc khởi đầu cho quá trình truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê Nin vào việt Nam mà Nguyễn
Ái Quốc tiến hành khi hoạt động trên đất nước Pháp là tháng 4/1921 khi tờ La Revue
Communiste (Tạp chí Cộng sản) đăng bài “Đông Dương”. Trong bài viết này, lần đầu tiên ông
Nguyễn đề cập đến những điều kiện thuận lợi ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng cho
việc truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Ông Nguyễn nhận định: “Sự đầu độc có hệ thống của
bọn tư bản, thực dân không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương. Đằng sau
sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng
nổ một cách ghê gớm”, ông kết luận: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ
nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hat giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”(2).
Cũng trong bài viết này, Nguyễn Ái Quốc khẳng định chế độ cộng sản có thể áp dụng ở châu Á
nói chung và Đông Dương nói riêng.
Trên cơ sở những nhận định đó, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng những phương tiện sẵn có
của các tổ chức cánh tả Pháp, nhất là những tờ báo theo đường lối của Quốc tế cộng sản đồng thời
thành lập tổ chức chính trị mới của các dân tộc thuộc địa để thông qua đó tiến hành những hoạt
động tuyên truyền. Trong dự thảo Báo cáo của tiểu ban Đông Dương thuộc Ban nghiên cứu thuộc
địa, Nguyễn Ái Quốc viết: “Công tác tuyên truyền cách mạng và chống quân phiệt cần được tiến
hành dưới sự lãnh đạo và đôn đốc của Đảng, trong tất cả các nước thuộc địa và nước gọi là bảo
hộ. Công tác tuyên truyền này thực hiện:
- Bằng các báo chí xuất bản ở Pháp
- Bằng các diễn đàn các Đại hội của Đảng của chúng ta và khi cần bằng diễn đàn của nghị viện -
Bằng các buổi nói chuyện
- Bằng các phương thức thích hợp với đối tượng, với trình độ giáo dục và văn minh của người
bản xứ ở các thuộc địa”(3)
Thời gian từ năm 1921 đến tháng 2/1923 Nguyễn Ái Quốc viết trên 20 bài đăng trên các
báo L’Humanité và La vie ouvrière, đây là hai tờ báo có ảnh hưởng lớn trong tầng lớp công nhân,
những người lao động Pháp và đặc biệt là có ảnh hưởng đối với các nước hải ngoại. Nguyễn Ái
Quốc nhận rõ, lúc này đối tượng tuyên truyền cần hướng tới là nhân dân các dân tộc thuộc địa của
Pháp, Người tổ chức thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Trong tuyên ngôn của Hội do Nguyễn Ái
Quốc soạn thảo có đoạn: “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng. Vận dụng công thức của Trang | 12
C. Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể được thực hiện
bằng sự nỗ lực của bản thân anh em. Hội Liên hiệp thuộc địa được thành lập chính là để giúp đỡ
anh em trong công cuộc ấy... Để thực hiện sự nghiệp chính nghĩa ấy, Hội quyết định đưa vấn đề
thuộc địa ra trước dư luận bằng báo chí và ngôn luận và bằng tất cả mọi biện pháp mà chúng ta có thể làm”. (4)
Hội Liên hiệp thuộc địa xuất bản tờ báo Le
Paria (Người cùng khổ) làm cơ quan ngôn
luận chính thức. Nội dung chủ yếu của báo là tố cáo sự lạm quyền về chính trị, chính sách cai trị
hà khắc, thủ đoạn bóc lột về kinh tế của chủ nghĩa thực dân, đồng thời kêu gọi những người bị áp
bức đoàn kết lại đấu tranh cho sự tiến bộ vể vật chất và tinh thần của chính họ. Với vai trò là chủ
bút, Nguyễn Ái Quốc đã có gần 40 bài viết. Trong đó, Người đã vạch trần những thủ đoạn bóc lột
nhân dân Đông Dương của thực dân Pháp, Người cũng tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Anh
trong việc chiếm đoạt của cải của nhân dân Trung Quốc và đàn áp đã man phong trào đấu tranh
của nhân dân Ấn Độ v.v. Từ đó Người rút ra kết luận: chủ nghĩa thực dân ở đâu cũng tàn bạo và
man rợ như nhau, số phận của người dân thuộc địa đều giống nhau, đều bị tước đoạt mọi quyền
sống, quyền tự do. Người
khẳng định: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp
bức là không thể điều hòa mà chỉ có thể giải quyết bằng con đường đấu tranh cách mạng. Để
cuộc đấu tranh này đi đến thắng lợi phải thực hiện đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Người
kêu gọi những người Pháp chân chính ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước thuộc địa. Việc đưa báo Le
Paria về nước bằng con đường công khai (qua bưu điện) luôn bị thực dân
Pháp kiểm duyệt gắt gao, vì vậy Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức một đường dây bí mật thông qua
những thủy thủ yêu nước, làm việc trên tuyến đường vận tải biển Pháp- Đông Dương. Con đường
giao thông bí mật này có tầm quan trọng đặc biệt, làm cầu nối giữa phong trào cách mạng nước
Pháp với phong trào cách mạng trong nước. Qua đường dây này báo Le Paria, L’humanité, Việt
Nam hồn và các tài liệu, truyền đơn được các thủy thủ yêu nước bí mật đưa về Sài Gòn, Hải
Phòng chuyển tới các cơ sở cách mạng và các trí thức yêu nước, các sinh viên giác ngộ. Những
bài hay nhất của Nguyễn Ái Quốc được họ chép lại rồi truyền cho nhau xem và bình luận. Có thể
nói, qua các tài liệu, báo chí gửi về nước, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc theo chủ
nghĩa Mác- Lênin đã được truyền bá vào Việt Nam một cách thường xuyên và có hệ thống
Tháng 10 năm 1922, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội II Đảng Cộng sản Pháp họp tại
Paris. Tại Đại hội lần này Người đã đệ trình Lời kêu gọi những người bản xứ ở các thuộc địa và
đã được Đại hội thông qua. Lời kêu gọi có đoạn viết: “Vì hòa bình thế giới, vì tự do và sự ấm no
của mọi người, những người bị áp bức bóc lột thuộc mọi nòi giống chúng ta hãy đoàn kết lại và
đấu tranh chống bọn áp bức”(5). Lời kêu gọi đã được Nguyễn Ái Quốc viết ngắn gọn lại bằng
tiếng Việt, in thành truyền đơn, bí mật chuyển về Việt Nam. Việc truyền bá tư tưởng cách mạng
theo quan điểm Mác Lênin trong thời gian Nguyễn Ái Quốc ở Pháp chính là sự mở đầu quan
trọng nhằm thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân. Bằng những hoạt động tích cực Nguyễn
Ái Quốc đã có những ảnh hưởng nhất định trong phong trào cộng sản ở Pháp. Tháng 6/1923
Người được cử sang Mátxcơva dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản.
2, Giai đoạn ở Liên Xô (từ tháng 6/1923 đến tháng 10/1924): Trang | 13
Ở nước Nga - một đất nước tự do thật sự, Mátxcơva lại là trung tâm của phong trào cách
mạng thế giới, nơi đóng trụ sở của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện hoạt động
thuận lợi hơn rất nhiều so với thời kỳ ở Pháp. Tại đây ông được tiếp xúc với những lãnh tụ nổi
tiếng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với những chiến sĩ chống đế quốc thực dân
trên toàn thế giới. Trong môi trường lý tưởng đó Nguyễn Ái Quốc say xưa nghiên cứu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học, hoàn thiện thế giới quan Mác xít của mình.
Trong bối cảnh Quốc tế cộng sản đang nỗ lực tiến hành thiết lập ở Đông Dương một trung tâm
tuyên truyền để gây ảnh hưởng nhưng gặp phải những trở ngại do sự ngăn cấm của thực dân
Pháp. Sự xuất hiện của ông Nguyễn vào lúc này như một sự lựa chọn ngẫu nhiên, đặt lên vai Ông
sứ mệnh mà Ông đang mong muốn thực hiện đó là đưa chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam.
Thời gian này Nguyễn Ái Quốc đã tiếp tục nghiên cứu và sử dụng nhiều phương tiện
thông tin khác nhau để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ tháng 9-1923 trên các tờ báo cánh tả
Pháp như L’Humanité và La Vie Ouvrière đã xuất hiện các bài viết của Người. Riêng với tờ Le
Paria, khi còn ở Pháp, Người là chủ nhiệm, chủ bút thì ở Mátxcơva Người như một phóng viên
thường trú của báo. Người viết cho báo những bài viết chứa đựng những thông tin về nước Nga -
đất nước vĩ đại có sức cổ vũ mạnh mẽ đối với các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải
phóng. Người còn viết nhiều bài cho các ấn phẩm định kỳ của Quốc tế cộng sản như tạp chí
Thông tin quốc tế, tạp chí Quốc tế nông dân, báo chí của Đảng Cộng sản Liên Xô như tờ Sự thật,
Người công dân Bacu. Ngoài báo chí, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sử dụng các phương tiện thông
tin mới chưa có trước đó như truyền đơn, sách báo, diễn đàn. Tháng 1/1924, Nguyễn Ái Quốc đã
soạn thảo một văn kiện quan trọng của Quốc tế cộng sản gửi nhân dân An Nam bằng tiếng Việt.
Văn kiện có đoạn: “Vừa 5 năm qua, ở kinh đô nước Nga là một nước thật là dân chủ (ở trần gian
chưa bao giờ có nước thế) có lập một Hội để hợp tất cả bao nhiêu người làm ăn. Hội ấy gọi là “
Internationale Communisté”. Nhờ mấy người cầm đầu mới dựng lên thì hội ấy bây giờ mạnh lắm,
để giúp hàng triệu, hàng muôn mấy người làm ăn ngũ phương, nhất là nông dân khốn khổ thuộc
về thuộc địa An Nam ta vậy....Thời mình thắng trận gần đến! Anh em ơi! Anh em ơi! Vô sản toàn
thế giới đoàn kết lại”(6). Văn kiên này được tòa soạn báo L’Humanité in thành 3500 bản và được
bí mật gửi về Đông Dương. Tháng Tám năm đó, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc viết lời kêu gọi toàn thể nhân dân đứng lên cầm súng đánh đuổi quân cướp
nước, nhất định không cam chịu làm tay sai cho thực dân đế quốc
Trong thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc có hai tác phẩm mang tầm vóc tư tưởng lớn, đó là:
“Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc” (Nhà xuất bản Mátxcơva Mới xuất bản năm 1924) và
chuẩn bị nội dung cho cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” (ra mắt lần đầu tiên năm 1925 tại thủ
đô Pari, trên tập san Inprékor của Quốc tế Cộng sản). Trong các tác phẩm của mình Nguyễn Ái
Quốc vẫn tiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân nói chung và chủ nghĩa thực dân Pháp nói
riêng đối với nhân dân các nước thuộc địa, đối với nhân dân Việt Nam. Đối tượng mà các tác
phẩm nhằm vào chủ yếu là chế độ thực dân Pháp trên lãnh thổ hải ngoại. Ngoài các đề tài trên, ở
thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc cũng bắt đầu nêu ra những vấn đề mới mẻ chưa từng có như: cách
mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản
thế giới và chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh Trang | 14
đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Bên cạnh đó, Nguyễn Ái Quốc còn cung cấp cho nhân
dân ta những thông tin về tổ chức Quốc tế cộng sản- một tổ chức chính trị quốc tế bênh vực
quyền lợi của các dân tộc thuộc địa. Đặc biệt, Người đã có nhiều bài viết giới thiệu về trường Đại
học Phương Đông (trường đại học của những người cộng sản phương Đông có nhiệm vụ đào tạo
cán bộ cách mạng cho các nước thuộc địa và phụ thuộc) và đề nghị các Đảng trên thế giới gửi các
đồng chí ở các nước thuộc địa sang học ở trường quốc tế này. Theo đề nghị của Người, bắt đầu từ
năm 1925, những thanh niên yêu nước Việt Nam đầu tiên đã được gửi sang học tại trường Đại học Phương Đông.
Thời gian hoạt động ở Mátxcơva cũng là thời gian Nguyễn Ái Quốc tham dự nhiều hội
nghị quốc tế lớn. Người đã tham gia Đại hội I Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày
15/10/1923), Đại hội V Quốc tế cộng sản (họp từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924), Đại hội III Quốc
tế công hội đỏ, Đại hội IV quốc tế thanh niên… Tại các diễn đàn của các đại hội đó, Người đã nói
lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa bảo vệ những luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề
dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tư tưởng cách mạng của mình trên lập trường mácxít.
Những lời phát biểu của Người đã để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng các đại biểu, đặc biệt
là những đại biểu từ các nước thuộc địa và phụ thuộc Á, Phi, Mỹ Latinh.Có thể thấy giai đoạn ở
Liên Xô, việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng cách mạng theo chủ nghĩa Mác Lênin của Nguyễn Ái
Quốc mở rộng cả về chiều sâu và chiều rộng. Những tài liệu mácxít, trong đó có những tác phẩm
của Nguyễn Ái Quốc qua con đường chuyển tài liệu của Quốc tế cộng sản tới Đảng Cộng sản
Pháp về Pháp, rồi từ đó theo các thủy thủ Việt Nam về nước. Những tài liệu này đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ tới nhiều tầng lớp nhân dân đặc biệt là tầng lớp trí thức, thúc đẩy các phong trào yêu
nước đang lan rộng trong cả nước. Những hoạt động và kinh nghiệm tích lũy được, đã thôi thúc
Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc. Khi biết sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hiện có nhiều thanh
niên Việt Nam yêu nước đang có mặt ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã chọn Quảng Châu làm
điểm dừng chân trên hành trình tiến gần về Tổ quốc để tổ chức, đoàn kết, huấn luyện những thanh
niên đầy nhiệt huyết đó, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập.
3, Giai đoạn ở Quảng Châu - Đông Bắc Xiêm (từ 11/1923 đến cuối năm 1929):
Thể theo nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc, Quốc tế Cộng sản quyết định cử Người đến
Quảng Châu công tác với tư cách là cán bộ Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là
Ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân để theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số
nước châu Á đồng thời xúc tiến những điều kiện để xây dựng một tổ chức Cộng sản ở Đông
Dương và giúp đỡ các đại biểu cách mạng ở Đông Nam Á. Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu,
nơi đã từng được mệnh danh là “Maxcơva phương Đông”, trong bầu không khí chính trị thuận
lợi. Tại đây, Người liên hệ ngay với Borođin, Trưởng đoàn cố vấn chính trị của Liên Xô bên cạnh
chính phủ Tôn Dật Tiên và đến làm việc tại trụ sở của đoàn với danh nghĩa là phiên dịch cho
Borođin, đồng thời là phóng viên của hãng Rosta. Sau khi tiếp xúc tìm hiểu những thanh niên yêu
nước trong một tổ chức có tên là Tâm Tâm xã tại Quảng Châu, Người mở ngay một lớp huấn
luyện về phương pháp cách mạng. Sau lớp huấn luyện đó Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh
niên tích cực lập ra một nhóm bí mật là Cộng sản đoàn làm hạt nhân. Từ tổ chức hạt nhân này,
Nguyễn Ái Quốc thành lập một tổ chức có tính chất rộng lớn hơn bao gồm các thanh niên yêu Trang | 15
bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay", "Tình hình các nước
xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta" đã tập
trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề ra các quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn
biến của tình hình thế giới đối với nước ta và công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên đề về công tác đối
ngoại. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối
ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn
hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn
hóa dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối
đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-
1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". -
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn bằng
tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". -
Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, trong đó đề cập nhiều nội dung hết sức quan trọng về đối ngoại, đặc biệt là
ba vấn đề: về các mâu thuẫn của thế giới hiện nay; về lợi ích của Việt Nam; về đối tượng, đối tác.
Cần nhấn mạnh vấn đề cốt lõi trong mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực hiện tối đa lợi
ích của đất nước. Do đó, việc nhận thức thật rõ lợi ích của đất nước ta, dân tộc ta là điều vô cùng
quan trọng. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã khẳng định một lần nữa: "độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia", "kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc"(1). Hội nghị cũng đã nhấn mạnh cách nhìn biện
chứng về đối tượng, đối tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong
một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta"(2), làm cơ sở mở rộng và
phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thể quan hệ quốc tế. -
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"(3). Trang | 105
2 - Nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng ta đã khẳng định: "công cuộc đổi mới ở nước ta
đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử" (4). Trong những thành tựu đó có đóng
góp không nhỏ của công tác đối ngoại.
Các hoạt động đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, tăng
cường ổn định chính trị - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đưa đất nước vượt qua những
thách thức và đi vào giai đoạn phát triển mới; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng
nâng cao. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay nước ta đã phát triển
quan hệ đa phương, đa dạng với các chủ thể quan hệ quốc tế. Tính đến thời điểm này, Việt Nam
hiện có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với 165 nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Nước ta hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và khu vực. Đảng
ta có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên khắp các châu lục.
Các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi
chính phủ quốc gia và quốc tế.
Trong hai thập kỷ qua, thông qua đàm phán hòa bình, ta đã giải quyết được một số vấn đề do lịch
sử để lại về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với các nước liên quan, phấn đấu xây
dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn
định, hợp tác cùng phát triển. Nước ta đã ký kết Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền, Hiệp
định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định về hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; đã
ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 với Cam-pu-chia; đã ký kết các
hiệp định về phân định thềm lục địa, phân định vùng chồng lấn trên biển với Ma-lai-xi-a, Thái
Lan và In-đô-nê-xi-a. Việt Nam cùng các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về
cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), thúc đẩy việc giải quyết hòa bình các tranh chấp
chủ quyền biển đảo ở biển Đông.
Việt Nam đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các đảng cộng sản và công
nhân, các đảng cánh tả, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp phần tích cực vào
sự hồi phục của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong trào Không
liên kết, vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Đường lối chính trị của Đảng ta và những thành
tựu đổi mới của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nhiều đảng cộng sản và công nhân
trên thế giới cho rằng, đổi mới của Việt Nam là sự phát triển sáng tạo và đóng góp về lý luận và
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, các hoạt động đối ngoại của Đảng, của các đoàn
thể và tổ chức nhân dân ta đã góp phần làm cho dư luận thế giới hiểu đúng về Việt Nam, đồng
tình và ủng hộ công cuộc đổi mới, tăng cường hậu thuẫn chính trị quốc tế cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa.
Chúng ta tích cực tham gia hình thành các khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA), giữa
ASEAN và Trung Quốc (CAFTA), xây dựng quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật
Bản... Ta đã kết thúc đàm phán song phương với 28 nước và đang hoàn tất quá trình đàm phán đa
phương để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006. Hàng hóa sản xuất tại Trang | 106
Việt Nam đã có mặt trên 200 thị trường quốc gia, khu vực và quốc tế. Trong vòng hai thập kỷ
qua, từ một nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu
gạo hàng đầu thế giới.
Trong giai đoạn từ năm 1993 - 2004, Việt Nam đã nhận được cam kết tài trợ hơn 20 tỉ USD từ
cộng đồng quốc tế, trong đó 85% là vốn vay ưu đãi, còn lại là viện trợ không hoàn lại. Riêng năm
2005, cam kết tài trợ vốn ODA cho Việt Nam là 3,4 tỉ USD.
Với sự ổn định về chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa, sự phát triển kinh tế năng động và
chính sách đối ngoại rộng mở, môi trường đầu tư thông thoáng, Việt Nam ngày càng trở thành
một điểm đến an toàn và hấp dẫn cho hợp tác và đầu tư quốc tế. Tính đến hết tháng 7-2005, đã có
hơn 5.500 dự án đầu tư nước ngoài từ 64 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động tại Việt Nam với
tổng vốn đầu tư đăng ký trên 48,7 tỉ USD, trong đó số vốn thực hiện đạt gần 29 tỉ USD. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
Việt Nam, đóng góp gần 15% GDP và 4,9% tổng thu ngân sách nhà nước, chiếm trên 30% tổng
kim ngạch xuất khẩu, tạo ra hàng vạn công ăn việc làm.
Việt Nam đã được các nước ủng hộ đăng cai tổ chức và đã tổ chức thành công Hội nghị Thượng
đỉnh Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998,
Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao
ASEM-5 năm 2004. Qua các hội nghị cấp cao này, Việt Nam đã để lại dấu ấn của mình trong đời
sống chính trị quốc tế đương đại. Việt Nam đang phối hợp chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên
APEC và tích cực chuẩn bị để tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại Hà Nội vào tháng 11-2006.
Các mặt công tác thông tin đối ngoại, công tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài...
cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại đã có bước
trưởng thành nhất định, triển khai thực hiện có kết quả đường lối và các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng.
3 - Thực tiễn hoạt động đối ngoại của ta trong 20 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng ta là đúng đắn. Chúng ta kiên trì thực
hiện nhất quán đường lối đó.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới bám sát
những định hướng lớn như sau: -
Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều sâu, ngày càng ổn
định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các
nước láng giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và Hiệp hội các quốc gia Đông -
Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước lớn, các trung tâm kinh
tế, chính trị của thế giới. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè
truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông
và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào Không liên kết... Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực. Trang | 107
Không ngừng phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và các đảng cầm quyền ở các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng có chung biên giới. Tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản,
đảng cánh tả, phong trào cách mạng và tiến bộ có nhiều ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới.
Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính ở các nước trong khu vực và các
nước có quan hệ đối tác quan trọng với nước ta. Tăng cường quan hệ với các chính đảng khác có
quan hệ với Đảng ta và hữu nghị với Việt Nam.
Phát triển quan hệ với các đoàn thể, các tổ chức nhân dân ở các nước láng giềng có chung biên
giới, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước trong khu vực và các nước lớn. Tích cực hoạt động tại
các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng mà các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta là thành viên.
Chủ động tham gia tích cực các phong trào, diễn đàn quốc tế của nhân dân thế giới chống chiến
tranh và chạy đua vũ trang, chống các mặt trái của toàn cầu hóa, chống chủ nghĩa bá quyền và
chính trị cường quyền, vì hòa bình, công lý, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển bền vững, công
bằng và tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước, các tổ chức phi
chính phủ quốc gia và quốc tế... -
Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề còn tồn tại về biên giới,
lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và
trên biển với các nước láng giềng thành đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. -
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất
nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Mở rộng và củng cố quan hệ kinh tế đối
ngoại, tạo lập lợi ích đan xen, nhất là với các đối tác chủ yếu. Kết thúc đàm phán để gia nhập
WTO; chuẩn bị tốt các điều kiện để tham gia các hiệp định thương mại tự do song phương và đa
phương; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tích cực tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn ODA, thu hút FDI, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng các mối quan hệ
hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư lâu dài. Khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa
những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên WTO. -
Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người; sẵn sàng đối thoại với các nước,
các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các
âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn
giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh và ổn định chính trị của Việt Nam. -
Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh
bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; góp phần xây dựng trật tự
chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. -
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm cho thế giới
hiểu đúng về tình hình mọi mặt và công cuộc đổi mới của Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tình hữu nghị và sự hợp tác
bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển giữa nhân dân ta và nhân dân các nước. Trang | 108 -
Đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, thực hiện có kết quả Nghị quyết 36-
NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX. Chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà con, phù hợp với
luật pháp và thông lệ quốc tế; khuyến khích đồng bào hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật
pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống thành đạt, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân
tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết đùm bọc,
thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; vận động bà con hướng về quê hương, đóng góp tích cực cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời tích cực phát huy vai trò là "cầu nối" hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau
và quan hệ hợp tác giữa nước sở tại mà họ sinh sống với Việt Nam. -
Thực hiện nghiêm Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại (do Bộ Chính trị ban
hành theo Quyết định số 101-QĐ/TW), bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý
tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối
ngoại của Đảng, hoạt động ngoại giao của Nhà nước và hoạt động đối ngoại nhân dân, giữa chính
trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, hoạt động đối ngoại và hoạt động quốc phòng, an ninh, giữa
thông tin trong nước và thông tin đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực công tác
đối ngoại. Phân công, phân nhiệm rõ ràng, đề cao trách nhiệm và vai trò chủ động của các ngành,
các cấp trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao liên quan đến đối ngoại; bảo
đảm sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ. -
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại; có cơ chế quy tụ, phát huy trí
tuệ tập thể và phối hợp tổ chức nghiên cứu các vấn đề cơ bản phục vụ công tác đối ngoại. -
Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về
chính trị, có năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt.
7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
au thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất, ngày 2-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên
ở Đông - Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc về xây dựng
nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 1946, tiếp đến là các Hiến
pháp năm 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu trong tư tưởng và chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay trong Di chúc của mình 50 năm trước, Người đã căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật
tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Nhân
dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì nhân dân, dành cho nhân dân. Bác viết: “Cuối cùng,
tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu
thanh niên và nhi đồng”. Trang | 109
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, trong những
năm qua, Đảng ta đã ban hành và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ
trương, nghị quyết về củng cố và tăng cường xây dựng bộ máy nhà nước. Ngày 25-10-2017, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW “Một số vấn đề về
tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”. Với những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, Nghị quyết khẳng định không ngừng tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước và chính
quyền địa phương, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị -
xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thực tế của hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua đã chứng minh việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh
dấu giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Quốc hội đã nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống
pháp luật tiếp tục được hoàn thiện; hoạt động giám sát của Quốc hội tập trung vào giải quyết
những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước, được nhân dân và dư luận xã hội quan tâm.
Việc thảo luận, quyết định những vấn đề lớn có chất lượng hơn và thực chất hơn. Chính phủ và
các bộ, ngành tập trung quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan
trọng. Bên cạnh đó, Chính phủ ngày càng quan tâm sâu sắc hơn, kịp thời hơn những vấn đề,
những khó khăn của nhân dân nảy sinh trong cuộc sống và quá trình lao động, sản xuất. Nhiều
chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và
được triển khai nghiêm túc trong thực tế đã có tác dụng tạo ra những kết quả quan trọng, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà
nước. Chính vì vậy, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục chuyển biến tích cực, nhất là trong bối cảnh
tình hình quốc tế, khu vực có nhiều khó khăn, thách thức. Hiện nay, kinh tế vĩ mô ổn định; lạm
phát được kiểm soát; thu ngân sách tăng khá; các ngành, lĩnh vực chủ yếu phát triển ổn định. Đời
sống nhân dân được cải thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, cải cách hành chính,
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đạt nhiều kết quả tích cực,
tạo không khí phấn khởi trong toàn xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, cộng đồng
doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân thời gian qua vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tiếp tục giải quyết. Đó
là, hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất; tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước còn
nhiều bất cập; việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân còn những hạn chế; việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội còn chậm; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít cấp ủy còn thấp, thậm
chí có nơi mất sức chiến đấu…
Để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, bộ máy nhà nước, cần đặt người dân vào
vị trí trung tâm trong mọi hoạt động và lấy tinh thần phục vụ nhân dân làm nền tảng hoạt động.
Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, hình thức, phương thức hoạt động của cơ quan nhà nước ở
Trung ương và địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng
ngày càng tốt hơn các yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, bảo đảm, bảo vệ quyền Trang | 110
con người, quyền công dân. Kiện toàn tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn,
hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng tốt nhất yêu cầu xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại.
Mở rộng đối thoại giữa Nhà nước với người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức, tăng
cường trách nhiệm giải trình và lắng nghe nhân dân; để Nhà nước, cán bộ, công chức gần dân
hơn, từ đó những chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp thực tiễn. Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao…
Kỷ niệm Ngày Quốc khánh năm nay diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có
nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Để
tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, cả nước cần đoàn
kết một lòng với khí thế và quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, chú trọng nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với khí thế tưng bừng của Ngày Độc lập, chúng ta nhất định
sẽ thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu đề ra, xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo đúng di nguyện mà Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.
8. xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là quy luật
phát triển của Đảng. Điều đó đã được khẳng định trong thực tiễn cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc, cũng như từ thực tiễn quá trình đổi mới hơn 30 năm qua. Trang | 111
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH - NHỮNG NHIỆM VỤ THEN CHỐT
1 - Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng, Đảng vững mạnh về chính trị phải dựa trên
nền tảng tư tưởng vững chắc, làm kim chỉ nam cho hành động cách mạng, xây dựng đường lối
chính trị đúng đắn và sáng tạo. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị được
Đảng xác định là nhiệm vụ then chốt, được triển khai trong thực tế trên nguyên tắc kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH); kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ, trì trệ; không ngừng bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn mới.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong việc xây dựng nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng
là sự khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó là
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc Việt
Nam, mãi mãi soi đường cho dân tộc Việt Nam giành thắng lợi. Đây là bước phát triển mới vô
cùng quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Trên nền tảng tư tưởng khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đường lối chính trị đúng đắn, vững vàng vượt qua thử
thách, giành nhiều thắng lợi trong công cuộc đổi mới.
2 - Một đảng cách mạng chân chính, vững mạnh phải có nền tảng chính trị rộng lớn. Trong quá
trình đổi mới, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển, cơ cấu các tầng lớp xã hội có sự biến
đối, vì vậy Đảng phải không ngừng củng cố và phát triển cơ sở nền tảng chính trị - xã hội, bảo
đảm cho sự lãnh đạo công cuộc đổi mới thành công.
Nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, tại Đại hội X, Đảng có diễn đạt mới về
bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiền phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Từ chỗ Đảng lấy liên minh giai cấp công nhân, nông dân, trí thức làm nền tảng chính trị - xã hội,
đến mở rộng nền tảng xã hội, bao gồm giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Đây là quan điểm mới rất quan trọng, tăng cường, mở rộng cơ sở nền tảng chính trị của Đảng, tập
hợp, đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc, tạo động lực to lớn phấn đấu vì mục tiêu xây dựng xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Từ quan điểm đó, Đảng cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, kết nạp những giáo dân yêu
nước, giác ngộ xã hội chủ nghĩa vào trong hàng ngũ của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trang | 112
3 - Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng công tác tư
tưởng, lý luận, thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng nâng cao phẩm chất, trình độ trí tuệ,
năng lực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhận thức tầm quan trọng của công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, Đảng thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên kiên định mục
tiêu, lý tưởng cách mạng, thấm nhuần đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị trong mọi giai đoạn cách mạng.
Trong điều kiện khoa học công nghệ, trình độ dân trí phát triển ngày càng cao, nếu đội ngũ cán
bộ, đảng viên không vươn lên giữ vai trò tiên tiến, thì bản thân Đảng sẽ mất vai trò tiên phong,
không đủ năng lực lãnh đạo đất nước phát triển và hội nhập.
Nhằm thúc đẩy cán bộ, đảng viên không ngừng tự giác học tập, rèn luyện, Đảng có quy định chặt
chẽ về chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị; chuẩn hóa về phẩm chất, trình độ, năng lực
cho tất cả các đối tượng cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược.
Mặt khác, để không ngừng bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng, xây dựng đường lối chính trị
của Đảng, nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, Đảng tăng cường, đổi
mới công tác lý luận. Nghiên cứu lý luận tập trung tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện lý luận
về mô hình, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(XHCN), nền dân chủ XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đồng thời,
tập trung tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận xác định quy luật xây dựng Đảng cầm quyền; làm
rõ phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền và điều kiện để Đảng cầm quyền vững chắc và
lâu dài trong bối cảnh thời đại nhiều biến động khó lường.
Hiện nay, công tác lý luận đang tập trung nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học, xử lý tốt các
mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà nước và thị trường;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Để nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, Đảng chủ trương xây dựng các thiết chế nghiên cứu
lý luận, tư vấn, phản biện chính sách, phát huy vai trò của Hội đồng Lý luận Trung ương, Tổ tư
vấn chính sách của Chính phủ, huy động nguồn lực khoa học từ các trường đại học, các học viện,
tập trung nghiên cứu tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới.
4 - Xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ căn cốt để xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh. Nhận thức toàn diện về những nhiệm vụ xây dựng Đảng, Đại hội XII của
Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức. Xây dựng nền tảng đạo đức của Đảng là
giải pháp cơ bản, lâu dài và rất quan trọng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, để ngăn
chặn và đẩy lùi sự suy thoái, biến chất, bệnh quan liêu, tham nhũng.
Biểu tượng cao đẹp, sức cuốn hút của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là những giá trị tư tưởng,
đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc thực hiện các chỉ thị của Đảng, về học tập Trang | 113
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhiều năm qua, có tác dụng giáo dục
cán bộ, đảng viên phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng; là vấn đề mấu chốt để đấu
tranh ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
5 - Xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng, Đảng đặc biệt coi trọng
phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong cán bộ, đảng viên.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ, khóa VII, Đảng nêu 5 quan điểm và 4 nguy cơ đối với sự nghiệp đổi
mới, cho thấy tính chất khó khăn, phức tạp của công cuộc đổi mới, thách thức chính sự lãnh đạo
của Đảng. Tình hình này đòi hỏi Đảng phải tăng cường công tác tư tưởng, xây dựng tổ chức trong
sạch, vững mạnh mới có thể khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng thể hiện quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, thực hiện
quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái, biến chất “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ
chức đảng, để tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, thực hiện nghiêm pháp luật trong các tổ chức Đảng và Nhà nước; chủ động phòng ngừa,
tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch;
phản bác quan điểm sai trái, cơ hội chính trị lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” hòng xóa bỏ vai
trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức nguy cơ lớn nhất, trực tiếp nhất đối với sự tồn vong của
Đảng chính là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, “tự chuyển
hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tình hình quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Đảng, Nhà nước.
Bài học từ sự sụp đổ của các đảng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu đã khẳng định, khó có một
thế lực nào có thể đánh đổ được đảng cộng sản, mà chỉ có sự mục nát, tham nhũng, suy thoái,
biến chất trong bản thân mình thì dù kẻ thù không đánh, đảng cũng tự suy vong.
Sớm nhận thức nguy cơ to lớn đó, ngay thời kỳ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra 4 nguy
cơ lớn, trong đó nạn tham nhũng là nguy cơ lớn nhất, “giặc nội xâm” nguy hiểm nhất.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác động mặt trái của cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế, những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức - cán bộ; sự
buông lỏng kiểm tra, giám sát; kỷ luật, kỷ cương trong Đảng chưa nghiêm, tình hình suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ diễn biến phức
tạp. Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XII, Đảng thể hiện quyết tâm thực hiện những nhiệm vụ
cấp bách về xây dựng Đảng, kiên trì, kiên quyết đẩy lùi suy thoái trong nội bộ. Đặc biệt, Đảng
tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nghiêm túc và hiệu quả nguyên tắc
tự phê bình, phê bình đối với tập thể lãnh đạo, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu trong các cơ
quan, tổ chức từ Trung ương, đến địa phương, cơ sở. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội gương mẫu, nghiêm túc tiến hành Trang | 114
tự kiểm điểm. Kết quả cuộc vận động đã tạo được hiệu ứng rất tích cực. Từ đó, Đảng tiến hành
cuộc đấu tranh quyết liệt chống tham nhũng. Nhiều vụ tham nhũng bị vạch trần, nhiều tổ chức, cá
nhân tham nhũng bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn có tác dụng răn đe, cảnh tỉnh những người suy thoái, biến
chất, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
6 - Đẩy mạnh đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo
của các tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Đổi mới chính trị từng bước, phù hợp với đổi mới kinh tế, trên quan điểm đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn, đẩy mạnh đổi mới mô hình, cơ chế vận
hành của bộ máy tổ chức Đảng và hệ thống chính trị trước yêu cầu của phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế.
Tại Hội nghị Trung ương 6, khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết về
tiếp tục kiện toàn, sắp xếp lại hệ thống tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả. Nghị quyết yêu cầu giảm thiểu các cơ quan, tổ chức trung gian, các chức
năng trùng chéo; nhất thể hóa một số cơ quan có chức năng phù hợp trong hệ thống chính trị; xây
dựng hoàn thiện cơ chế vận hành hệ thống đồng bộ, khoa học. Đồng thời, tập trung xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; củng cố và phát triển các tổ chức đảng trong các thành
phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu,
gần dân, sát dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức và ý thức tổ chức kỷ
luật. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm kỷ luật Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
7 - Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất, trình độ trí tuệ và năng lực thực
tiễn là nhiệm vụ “then chốt của then chốt” để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng xác
định rõ quan điểm, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo với tầm nhìn chiến lược về xây dựng đội
ngũ cán bộ và công tác cán bộ; coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng;
công tác cán bộ là khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện
nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, trực tiếp là các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu, các cơ quan tham
mưu. Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, các hội quần chúng, các cơ quan truyền
thông báo chí, dựa vào dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Bám sát những yêu cầu đó, Hội nghị Trung ương 7, khóa XII triển khai những nhiệm vụ, giải
pháp có tính đột phá xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, tập trung “hai trọng tâm và năm đột phá”.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ, từng bước chuẩn hóa,
tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo,
phục vụ phát triển, ủng hộ, khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung. Trang | 115
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, bí thư cấp ủy và người đứng đầu các các cơ
quan, tổ chức, đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời,
tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Thực hiện việc đổi mới công tác đánh giá công tác cán bộ theo phương châm xuyên suốt, liên tục,
đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với các chức danh tương đương.
Kiểm soát chặt chẽ quyền lực, sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền.
Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương
ở những nơi có đủ điều kiện.
Cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý
với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài.
Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò
của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.
Thực hiện nghị quyết Đại hội XII và các nghị quyết Trung ương về công tác cán bộ, Đảng đang
tạo được những chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, là cơ sở bảo đảm cho
công tác xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh.
8 - Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Đảng phải tăng cường liên hệ mật thiết, gắn bó với
nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Trách nhiệm và bổn phận của Đảng là phục vụ nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân... là những quan điểm cơ bản nhất để không ngừng củng cố nền
tảng chính trị vững chắc của Đảng; là cơ sở để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thực hiện những quan điểm đó, trong tiến trình đổi mới, Đảng không ngừng cụ thể hóa bằng các
chủ trương, chính sách, các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội; cải cách tư pháp, cải cách nền
hành chính, xây dựng Chính phủ kiến tạo vì dân, phục vụ dân; kiên quyết đấu tranh chống các
biểu hiện xa rời, đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng từ sau Đại hội XII, thể hiện rõ Đảng dám chịu trách nhiệm về
những biểu hiện thoái hóa, biến chất, tham nhũng trong nội bộ, công khai, thẳng thắn, dựa vào
dân để đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng diễn ra quyết
liệt, hiệu quả được nhân dân hoan nghênh, niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố.
9 - Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện
nghiêm pháp luật Nhà nước là giải pháp quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đảng ta có nhiều nghị quyết, chỉ thị cùng các thiết chế để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát,
đấu tranh chống suy thoái, biến chất, tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, dân chủ trong Đảng vẫn
còn biểu hiện hình thức; kỷ cương, kỷ luật trong Đảng còn lỏng lẻo, pháp luật của Nhà nước
chưa được thực hiện nghiêm minh, gây bức xúc trong nhân dân Trang | 116
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
Một là, ra sức xây dựng, củng cố và bảo vệ nền tảng chính trị vững chắc, nắm vững ngọn cờ tư
tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và CNXH để chỉ đạo
hành động cách mạng của Đảng, giữ vững định hướng XHCN. Kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH, đồng thời phải không ngừng đổi mới, sáng tạo trong hoạch định và thực hiện
đường lối, chính sách; kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải
không ngừng bổ sung, hoàn thiện, vận dụng sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh một cách thực chất; đặc biệt chú trọng sự nêu gương của những người đứng đầu giữ trọng
trách trong các cơ quan Đảng, Nhà nước; kiên quyết đấu tranh có hiệu quả chống các thế lực thù
địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
Ba là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn
đoàn kết thống nhất, thực hiện nghiêm minh kỷ cương, kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước;
phát huy dân chủ, công khai minh bạch; kiên trì, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực, giữ vững sự trong sạch của Đảng, Nhà nước là tiền đề và động lực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Bốn là, tăng cường, đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ, xây dựng cho được một đội ngũ
cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, đạo đức, có trình độ trí tuệ; tập trung xây dựng đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược thực sự tiêu biểu về bản lĩnh, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, đặt lợi ích
của Đảng, Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, đoàn kết, tập hợp sức mạnh thực hiện nhiệm vụ
chính trị, có tầm nhìn và tư duy chiến lược. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý đội ngũ cán
bộ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và Nhà nước; ngăn ngừa sự suy thoái, biến chất và loại
bỏ những phần tử cơ hội, tham nhũng ra khỏi hàng ngũ của Đảng.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, phát huy vai trò giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí.
Sáu là, luôn coi trọng bài học “lấy dân làm gốc”; lấy sự tin tưởng của nhân dân và xã hội là điều
kiện tiên quyết để xây dựng Đảng. Thường xuyên xây dựng và củng cố mối liên hệ giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân; phát huy vai trò và sức mạnh của nhân dân tham gia xây dựng Đảng; đấu
tranh mạnh mẽ chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng liêm chính, chí công, vô
tư, giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng Trang | 117
Câu 39: Phân tích những thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới vì CNXH do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo.
Hoàn cảnh của việc thực hiện công cuộc đổi mới(tóm tắt) Thành tựu.
*Các thành tựu chủ yếu.
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình
thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã
hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã
hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ
thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu to lớn trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong
những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử để chúng ta vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. *Nguyên nhân
Có được những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù
hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện.
Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng
kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng,
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những
chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong
nước thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, tận Trang | 118
dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp
đổi mới của đất nước ta được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Hạn chế. *Các mặt hạn chế.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khuyết điểm cần tập trung giải quyết, khắc
phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực
được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, tốc
độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội
và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa,
xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội
chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ
mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ
hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu
lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù
địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá nước ta và những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút. *Nguyên nhân.
Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp, chưa
có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi; sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.
Về chủ quan: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa được quan tâm đúng mức, đổi
mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến
nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình có lúc, có việc làm còn chậm và thiếu chính xác làm ảnh
hưởng đến chất lượng các quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết
các mối quan hệ lớn còn hạn chế. Đổi mới chưa toàn diện, thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Quyền hạn và
chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không được quy định
rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích Trang | 119
cực triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các
cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu
quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý
chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng,
bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa quan tâm việc xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng
người có đức, có tài.
Câu 40 : Phân tích những kinh nghiệm chủ yếu của công cuộc đổi mới vì CNXH của Đảng
*Khái quát 1 số thành tựu, hạn chế của đổi mới( tóm tắt câu 39)
*Phân tích các bài học kinh nghiệm
-Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Đây là bài học về
“chủ động” và “sáng tạo
+Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa
sống còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới, những
khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được
nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài,
nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên
định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức
đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất
để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
-Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi
nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đây là bài học về “nhân
dân” và “phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc Trang | 120
+Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích của
nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình
thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi
mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả đổi mới.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, càng cần phải phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và
mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi,
chống suy thoái, biến chất
-Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây là bài học
về đổi mới toàn diện, đồng bộ, tôn trọng quy luật khách quan và thực tiễn.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;
từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương
đến hoạt động của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm phù
hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo
cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ động, năng
động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để đổi mới
tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải
giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các
thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói đi đôi với làm
-Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Đây là bài học về “lợi ích dân tộc” và “phát huy sức mạnh tổng hợp Luôn Trang | 121
luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định
độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng
hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở để kết
hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
-5, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối
quan hệ mật thiết với nhân dân. Đây là bài học về “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phát huy
vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân lên từ sức
mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống chính
trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý
nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
Câu 41 :Phân tích những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa thời đại của Cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong của giai cấp
công nhân và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn thất, hy sinh
nhưng cũng hết sức vẻ vang vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Trang | 122
Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân ta đã giành được dưới
sự lãnh đạo của Đảng hơn 75 năm qua đã khẳng định vai trò, công lao to lớn của Đảng và để lại
nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu cho Đảng và nhân dân ta.
NHỮNG THẮNG LỢI CÓ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM DƯỚI
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945
Từ cuối thế kỷ thứ XIX, nước ta trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Để thực hiện các nguyện
vọng cơ bản là độc lập dân tộc và người cày có ruộng, nhân dân ta đã bao phen vùng dậy đấu
tranh chống đế quốc, phong kiến, song rốt cuộc đều bị thất bại. Kể từ ngày có sự lãnh đạo của
Đảng, cuộc đấu tranh vì các mục tiêu đó của nhân dân ta mới từng bước giành được thắng lợi,
trước hết là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945, đưa lại độc lập tự do cho đất nước,
lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao là Xôviết
Nghệ Tĩnh. Phong này đã khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng và sức
mạnh của khối liên minh công nông. Quốc tế Cộng sản đánh giá cao đóng góp của phong trào
cách mạng Việt Nam đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, công nhận Đảng ta là
một phân bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ và tổn thất để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng cách
mạng, đến năm 1936, khi tình hình trong nước và thế giới có sự biến chuyển mới, Đảng đã chủ
trương tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, chuyển hướng đấu tranh sang
đòi dân sinh dân chủ, với các hình thức đấu tranh và tổ chức thích hợp, chuẩn bị lực lượng cho
cuộc đấu tranh giành chính quyền. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh
hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng. Đảng đã biết kết hợp các hình thức
đấu tranh công khai hợp pháp với các hình thức bán hợp pháp, bí mật trong cuộc đấu tranh ở một
nước thuộc địa. Qua phong trào, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.
Từ năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những nhận định sáng suốt
về tình hình thế giới và xu hướng phát triển của cách mạng Đông Dương, xác định giải phóng
dân tộc, đánh đuổi phátxít Pháp, Nhật, giành độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của dân tộc Việt
Nam. Từ đó, Đảng chủ trương chuẩn bị các điều kiện để tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo trong cuộc vận động giải phóng dân
tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã
đầu hàng quân Đồng minh, Đảng đã phát động, tổ chức thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại đầu tiên
của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi này, nhân dân ta đã đập tan
xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp và hàng trăm năm chế độ phong kiến nhà
Nguyễn, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước ta; đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người
làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên Trang | 123
ở Đông Nam Á; đưa Đảng ta từ hoạt động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc;
khẳng định trong thực tiễn tư tưởng cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, khởi nghĩa toàn
dân của Hồ Chí Minh và đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng vạch ra là đúng đắn;
nâng cao niềm tự hào dân tộc và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Đảng và nhân dân ta; mở
ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ vũ phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn cho cách mạng thế giới;
chứng minh học thuyết Mác- Lênin có thể áp dụng thành công vào cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
phong trào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành được thắng lợi và nắm chính quyền trong cả nước.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ 1945-1975
Vừa giành được chính quyền về tay nhân dân chưa đầy một tháng, dân tộc Việt Nam đã phải
bước vào một cuộc chiến đấu mới chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch trong
hơn 30 năm để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm 1945-1954, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, với ý chí "Thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng đã phát
động, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ đi tới thắng lợi vẻ vang mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với
nước ta và với thế giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ hoàn toàn ý chí xâm lược
của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo vệ được độc lập, chủ quyền dân tộc, giữ vững được
chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa đất nước là miền Bắc, tạo điều kiện đưa
miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn cứ địa, hậu phương của cả nước để giải phóng
miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam;
nâng cao uy tín cho dân tộc và cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đó... Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp
phải chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc
cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam trở thành người đi tiên
phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của nhân dân
các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc; miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và địa bàn cho chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm 1954-1975, khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đưa cố vấn quân sự
rồi quân viễn chinh xâm lược miền Nam, đánh phá miền Bắc, Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân
dân hai miền Bắc, Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu
chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Với tinh
thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, nhân dân cả nước ta đã vừa xây dựng, bảo vệ hậu Trang | 124
phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ra sức chi viện tiền tuyến, vừa đẩy mạnh cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ và tay sai đi
tới đại thắng mùa Xuân 1975.
Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử có ý nghĩa dân tộc và thời đại to lớn. Đối với dân tộc ta, thắng lợi này kết thúc hơn
20 năm chống đế quốc Mỹ, 30 năm chiến tranh cách mạng, hơn một thế kỷ chống xâm lược nước
ngoài, đưa lại độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất nước ta; giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất Tổ quốc; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, đưa cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh to lớn về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt
Nam; nâng cao vị thế quốc tế cho Đảng và dân tộc trên trường quốc tế; để lại nhiều bài học có giá
trị cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;...
Đối với thế giới, thắng lợi này đã góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế
quốc Mỹ, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ; cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc dân chủ
của nhân dân thế giới; mở rộng địa bàn và tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược đã khẳng định một chân lý lịch sử là một dân tộc đất không rộng, người không đông nếu có
Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo biết đề ra đường lối đúng, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, có phương thức tiến hành chiến tranh sáng tạo, được sự ủng hộ của nhân dân
thế giới hoàn toàn có thể chiến thắng bất cứ kẻ thù xâm lược nào.
Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới
Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội trong bối cảnh có những thuận lợi to lớn, song cũng gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chậm phát triển,
cơ sở vật chất- kỹ thuật nhỏ bé, manh mún, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại bị Mỹ phong tỏa cấm
vận, tình hình quốc tế có những diễn biến bất lợi, phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu
biên giới phía nam, phía bắc, đòi hỏi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua
nhiều bước đi cụ thể thích hợp. Trong bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng được tôi
luyện qua thử thách đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra
đường lối đổi mới đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, giành được những thành tựu to lớn, toàn diện.
Thắng lợi bước đầu của hai mươi năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng. Báo cáo chính trị
tại Đại hội X của Đảng đánh giá khái quát 20 năm đổi mới đã ghi nhận: Hai mươi năm qua, với
sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta
đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá
nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối Trang | 125
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và
an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức
mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi
lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam đã ta từ một nước thuộc
địa trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ
quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ
thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền
kinh tế nghèo nàn, lạchậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những
thắng lợi đó là minh chứng sinh động về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, sức
mạnh to lớn của nhân dân ta
Câu 42: Phân tích những bài học lớn về sự lãnh đạo của Đảng với Cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến năm 2018
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là lí tưởng, là mục tiêu chiến lược của toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Mục tiêu đó
được đề ra ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và được đặt ra và cụ thể hóa trong
từng thời kì, từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam; được phát triển cả về nhận thức lí luận và
thực tiễn trong các Cương lĩnh tiếp theo. Điều cần nhấn mạnh là, Đảng, Nhà nước và nhân dân
Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn nội dung của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và sự
thống nhất không thể tách rời nhau của hai mục tiêu chiến lược đó. Độc lập dân tộc là đấu tranh
giành độc lập, thống nhất hoàn toàn, là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
vùng trời, biển đảo của Tổ quốc; là bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và con
đường phát triển độc lập, tự chủ của đất nước; là bảo vệ sự ổn định chính trị và cuộc sống bình
yên, hạnh phúc của nhân dân; là giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc văn
hóa của dân tộc Việt Nam. Quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng đã từng bước hiện thực hóa và
nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thống nhất với nhau trong mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ; đất nước có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất với sự quản lí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội cũng thống nhất trong một xã hội không có áp bức, bất công, mọi người được
sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc và phát triển toàn diện cá nhân với đời sống ngày càng nâng
cao về vật chất, tinh thần trong nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; độc lập dân tộc và Trang | 126
chủ nghĩa xã hội thống nhất trong chính sách bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển với các dân
tộc, quốc gia trên thế giới. hai là, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
đấu tranh giành độc lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Thành công nổi bật của Đảng Cộng sản Việt
Nam là đề ra Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Trên cơ
sở đường lối đúng đắn mà tập hợp, đoàn kết lực lượng của toàn dân tộc phấn đấu vì mục tiêu
chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược nhất
quán của Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ nhận thức ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và
nhân dân, Đảng không có mục đích nào khác. Đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng vững
chắc là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức đồng thời
đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp khác, đoàn kết 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam, đoàn
kết các tôn giáo, đoàn kết với cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng thời bảo đảm
lợi ích riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp, bộ phận, cá nhân không trái với lợi ích chung của dân
tộc, đất nước. Đảng chú trọng xây dựng các hình thức tổ chức Mặt trận dân tộc thống nhất để tập
hợp đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, lực lượng trong dân tộc, xã hội, đa dạng hóa các hình thức
tổ chức tập hợp quần chúng, nêu cao vai trò các đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, nghề
nghiệp. Đường lối và bài học đại đoàn kết dân tộc của Đảng là sự kế thừa và phát triển truyền
thống đoàn kết hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, truyền thống gắn kết
trong các hình thức cộng đồng, gia đình, dòng họ, làng xã đến cộng đồng dân tộc, quốc gia. Đại
đoàn kết dân tộc cũng là nối tiếp truyền thống nhân văn, nhân ái, yêu thương đùm bọc lẫn nhau
của dân tộc Việt Nam. Sự kết tinh các giá trị cao cả và sâu sắc đó của chiến lược đại đoàn kết dân
tộc trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng và dân tộc Việt Nam
trong thời đại Hồ Chí Minh.
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng sự nghiệp đấu tranh giành và giữ chính quyền, lãnh
đạo xây dựng và tăng cường vai trò, sức mạnh của Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ
khi ra đời năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh giành độc
lập dân tộc với giành chính quyền về tay nhân dân. Trải qua 3 cao trào cách mạng, dẫn tới thắng
lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng kiểu mới, chính quyền
Nhà nước thật sự là công bộc của nhân dân, phục vụ nhân dân, gánh việc chung cho dân chứ
không phải là chính quyền cai trị dân như dưới thời của chế độ phong kiến, thực dân. Chính
quyền nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã tổ chức công cuộc xây dựng kinh tế, kiến thiết đất
nước, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân
dân, động viên và tổ chức lực lượng của toàn dân tiến hành các cuộc kháng chiến oanh liệt chống
thực dân, đế quốc giành độc lập, thống nhất hoàn toàn và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam độc lập, xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng lãnh đạo xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Lãnh đạo quá trình cụ thể hóa, thể chế hóa Trang | 127
Cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước, lãnh đạo xây dựng,
hoàn thiện bộ máy Nhà nước và chính quyền các cấp, bố trí cán bộ trong bộ máy chính quyền
Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước bảo đảm cho Nhà nước phát huy cao độ
hiệu lực, hiệu quả quản lí, thực hiện đúng đắn đường lối của Đảng, lợi ích và quyền làm chủ của
nhân dân. Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để quản lí tốt nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tốt các chính sách xã hội, an sinh xã
hội, chăm lo đời sống của nhân dân, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh và mở rộng quan
hệ đối ngoại. Quốc hội không ngừng đổi mới để thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp, quyết định
những vấn đề to lớn của đất nước và giám sát tối cao. Đẩy mạnh cải cách hành chính để Chính
phủ và chính quyền các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lí hành chính nhà nước. Cải
cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ công
chức, cải cách tài chính công là những vấn đề bức thiết hiện nay. Đẩy mạnh cải cách tư pháp.
Nắm vững quan điểm: Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công rành mạch,
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan làm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp; tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
bốn là, kết hợp nội lực với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Cương lĩnh,
đường lối của Đảng ngay từ đầu đã tổ chức và động viên sức mạnh của dân tộc, coi cách mạng
Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của cách mạng thế giới. Trong
Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Muốn người ta
giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã". Trong cao trào giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã kêu gọi toàn thể quốc dân hãy đứng lên đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhờ phát
huy sức mạnh, ý chí tự lực tự cường của cả dân tộc, nên đã chớp được thời cơ thuận lợi dẫn tới
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong các cuộc kháng chiến lâu dài giành độc
lập, thống nhất hoàn toàn, Đảng đã triệt để phát triển sức mạnh của dân tộc, nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, đồng thời tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng
hợp để giành thắng lợi.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng và
dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô. Điều đó đòi hỏi
Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, nâng cao bản lĩnh
chính trị để đứng vững trước khó khăn, thử thách và kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội, động viên cao độ nội lực. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường củng cố sự đoàn
kết các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kiên định lập trường của chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đề
ra và thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc
tế. Đảng và Nhà nước cũng tranh thủ tối đa những vấn đề mới của thời đại: Hội nhập kinh tế
quốc tế, toàn cầu hóa, thành quả của cách mạng khoa học, công nghệ, kinh nghiệm quản lí của
các nước tiên tiến, những vấn đề về kinh tế tri thức… Nội lực và sức mạnh dân tộc bao giờ cũng
có ý nghĩa quyết định, song sức mạnh đó được tăng cường khi có sự kết hợp đúng đắn với ngoại
lực và sức mạnh của thời đại.
Năm là, không ngừng nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Những
bài học đã nêu trên đây thể hiện nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; mọi thắng Trang | 128
lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Có được thành công đó trong
lãnh đạo là nhờ Đảng không ngừng tự đổi mới và chỉnh đốn, luôn luôn coi xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt. Đảng coi trọng nâng cao trình độ trí tuệ, lí luận, nghiên cứu, vận dụng sáng
tạo và phát triển lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng nghiên cứu lí
luận, nâng cao trình độ lí luận của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lí chủ
chốt, nâng cao tầm tư duy, chiến lược, nắm bắt và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan,
khắc phục biểu hiện giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Chú trọng tổng kết thực tiễn cách mạng Việt
Nam để bổ sung, phát triển và làm sáng tỏ những vấn đề lí luận. Đảng không ngừng phát triển,
hoàn thiện Cương lĩnh, đường lối chính trị, từ Cương lĩnh tháng 2-1930, tháng 10-1930 đến
Cương lĩnh của Đại hội II (2-1951), Cương lĩnh 1991 và Đại hội XI sắp tới của Đảng sẽ bổ sung,
phát triển Cương lĩnh 1991: Đường lối của Đảng trên từng lĩnh vực cụ thể cũng được xây dựng và hoàn chỉnh.
Đảng coi trọng xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cả ở cấp chiến lược
và cấp cơ sở. Đảng hoạt động, lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỉ luật nghiêm minh; đoàn kết thống nhất trong Đảng; tự
phê bình và phê bình những sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa; gắn bó mật thiết với
nhân dân và Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Không ngừng nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc. Trang | 129 Trang | 130