Đề 1 lịch sử đảng | Trường đại học Điện Lực
Đề 1 lịch sử đảng | Trường đại học Điện Lực được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Đề 1 lịch sử đảng
Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945-1946) và bài học
kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ
Chi Minh trong thời kỳ hội nhập. MỤC LỤC A, MỞ ĐẦU B, NỘI DUNG
1, Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945-1946).
2, Phương pháp ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
3, bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ
tịch Hồ Chi Minh trong thời kỳ hội nhập. C, KẾT LUẬN MỞ ĐẦU
Sau cuộc cách mạng tháng tám thành công, nước ta bước vào một thời kỳ mới. Từ
một dân tộc nô lệ và thuộc địa đã trở thành một dân tộc nắm chắc vận mệnh của
đất nước, của dân tộc trong tay. Tuy vậy nhưng đất nước ta cũng gặp nhiều khó
khăn sau khi độc lập. Trong giai đoạn năm 1945-1946 không thể không nói đến
nghệ thuật ngoại giao đỉnh cao của nước ta , luôn đi song hành với nghệ thuật quân
sự đỉnh cao. Xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trong quá trình dựng nước và
giữ nước, ngoại giao đã được ông cha sử dụng như một mũi tiến công, một binh chủng không thể thiếu.
Bằng việc vận dụng một cách linh hoạt truyền thống ngoại giao, cùng bản lĩnh dạn
dày và kinh nghiệm phong phú qua hàng chục năm hoạt động cách mạng, Bác đã
để lại cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại nhiều tư tưởng ngoại giao đặc sắc,
trong đó có tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. NỘI DUNG
1, Chủ trương xây dựng và củng cố chính quyền của Đảng (1945-1946).
a, Bối cảnh quốc tế giai đoạn 1945-1946.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi với nhịp
độ cực kỳ nhanh chóng. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình. Ở
phe Đồng Minh, quan hệ giữa các nước lớn dần chuyển từ hợp tác trong chiến
tranh sang đối đầu trong hòa bình. Trật tự thế giới thay đổi, hình thành hệ thống hai
cực, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô. Nước Mỹ sau chiến tranh, đặc biệt là sau khi
tổng thống Truman lên cầm quyền (T4-1945), dựa vào vị trí là quốc gia mạnh nhất
về kinh tế, tài chính, quân sự, độc quyền về vũ khí nguyên tử, chủ nợ chính của
phần lớn các quốc gia Âu, Á, Mỹ Latinh trong thời chiến, mưu đồ làm bá chủ thế
giới. Để thực hiện mục tiêu chiến lược làm bá chủ thế giới của mình, hoạt động
ngoại giao của Mỹ bắt đầu hướng vào chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế
giới, chống những diễn biến tích cực của phong trào giải phóng thuộc địa nhằm
thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Liên xô sau chiến tranh, trở thành
cường quốc hàng đầu Châu Âu. Tuy còn thua kém Mỹ về tiềm lực kinh tế và vũ
khí hạt nhân nhưng Liên Xô vẫn đóng một vai trò quyết định cùng Mỹ giải quyết
những vấn đề lớn về hòa bình, an ninh trong khu vực và trên thế giới.
Tại thời điểm này, các nước lớn trong phe Đồng Minh cũng ra sức củng cố lại hệ
thống thuộc địa. Anh và Pháp là hai cường quốc thắng trận nhưng trong thế suy
yếu, chính trị không ổn định nên cần phải nhanh chóng khôi phục lại nền kinh tế,
ổn định chính trị và duy trì vai trò cường quốc sau chiến tranh. Để làm được như
vậy, Anh và Pháp phải bảo vệ được hệ thống thuộc địa và khu vực ảnh hưởng của mình.
Trong khi đó ở Châu Á và Châu Phi, phong trào đấu tranh chống chiến tranh xâm
lược và sự thống trị, đô hộ của thực dân phương Tây trở nên vô cùng mạnh mẽ.
Các cuộc đấu tranh ở các nước diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đều
có chung một xu hướng là hướng tới lật độ ách thống trị bên ngoài, giải phóng đất
nước vốn và thuộc địa của đế quốc, thực dân phương Tây. Phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước này dần lan sang Châu Âu và lan rộng toàn thế giới.
Như vậy, ta thấy được bối cảnh quốc tế trong những năm 1945 – 1946 có nhiều
diễn biến phức tạp tác động sâu sắc và rộng lớn tới nhiều mỗi quan hệ quốc tế và
có tác động trực tiếp đến tình hình ở Việt Nam.
b, Bối cảnh trong nước giai đoạn 1945-1946.
Vào thời điểm đỉnh cao của cuộc chiến tranh thế giới, năm 1942, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ ra thời cơ và tiên đoán thời điểm cách mạng nước ta thành công “1945
– Việt Nam độc lập”. Người kêu gọi đồng bào cả nước: “Phe xâm lược gần đến
ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ
hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian
rất gấp, ta phải làm nhanh!” Tới tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng Cộng sản Đông Dương do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu – cuộc cách mạng
nổ ra và giành được thắng lợi. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời mở ra một
kỷ nguyên mới cho toàn thể nhân dân Việt Nam.
Những ngày đầu đất nước thành lập, chính quyền nhân dân phải đối mặt với nhiều
thách thức lớn. Đời sống kinh tế - xã hội đang rối loạn, suy sụp sau chiến tranh.
Nạn khan hiếm lương thực triền miên trong thời chiến đã đưa lại hậu quả trong
những năm 1945, có hơn hai triệu người chết đói; mọi hoạt động sản xuất, kinh tế,
tài chính, thương mại đình đốn. Hệ thống ngân hàng Đông Dương vẫn trong tay tư
bản Pháp. Trong khi đó, quân Tưởng cho lưu hành đồng tiền mất giá của Trung
Quốc, tự ý quy định tỷ giá tiền quan kim và tiền Đông Dương, làm lũng đoạn thị
trường ở miền Bắc; chính sách ngu dân của thực dân Pháp làm cho 95% dân ta mù chữ.
Một thách thức nữa mà nước ta gặp phải - đó là cùng một lúc phải đối phó với
nhiều thế lực quân sự đối địch của các nước lớn đang có mặt tại nước ta. Ở phía
Bắc, gần 2000 quân Tưởng vào Việt Nam với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật
từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo các nhóm người Việt sống lưu vong ở Trung Quốc.
Những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức Việt Cách, Việt Quốc do chính
quyền Tưởng thu nạp và nuôi dưỡng từ lâu. Phía Nam Việt Nam lúc này cũng có
khoảng 26 nghìn quân Anh - Ấn vào giải giáp quân đội Nhật. Tháng 10/1945, Anh
đã ký với Pháp hiệp định chính thức công nhận quyền dân sự của Pháp tại Đông
Dương. Ngày 1/1/1946, Anh ký hiệp định trao quyền cho Pháp giải giáp quân đội
Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Đổi lại, Pháp nhân nhượng cho Anh một số quyền
lợi ở Xyri và Libăng. Thêm vào đó, trong khoảng thời gian Nhật Bản chiếm đóng
Đông Dương, Pháp có khoảng 50 nghìn lính gồm tù binh đang bị Nhật giam giữ và
tân binh nằm rải rác ở các miền phụ cận Đông Dương. Sau chiến tranh, 1500 lính
Pháp bị Nhật giam giữ ở miền Nam Việt Nam trong cuộc đảo chính ngày 9/3/1945
được thả và vũ trang trở lại. Quân viễn chinh mới của Pháp được gấp rút đưa vào
miền Nam. Ngày 23/9/1945, Pháp mở cuộc xâm lược Việt Nam lần 2. Ngoài ra,
còn khoảng 60 nghìn quân Nhật ở Việt Nam chờ giải giáp lúc này.
Như vậy, bốn thế lực quân sự lớn đang chiếm đóng nước ta (Nhật, Anh, Pháp và
lực lượng Tưởng Giới Thạch) và bốn trong năm nước lớn là thành viên thường trực
của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đang dính líu vào việc giải giáp cho Đông
Dương với mục tiêu duy nhất là tìm cách xóa chính quyền cách mạng, lập lại trật
tự của thực dân phương Tây tại đây. Nhìn tổng thể về kinh tế, tài chính, quân sự,
tương quan lực lượng giữa ta và các thế lực thù địch từ bên ngoài vào có sự chênh
lệch rất lớn. Đất nước ta lại rơi vào tình thế “châu chấu đá xe”.
c, chủ trương xây dựng và bảo vệ chính quyền.
Tình thế lúc này được những người trong cuộc và những người chép sử gọi là
“ngàn cân treo sợi tóc”. Thực sự không có hình tượng nào phản ánh đúng hơn.
Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đối sách vô cùng sáng
suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cũng rất kiên quyết. Riêng trong việc xây dựng và
củng cố chính quyền, vấn đề được coi là cơ bản, cốt yếu của mọi cuộc cách mạng
xã hội, đã được thực hiện rất quyết liệt và đạt được những kết quả rất quan trọng,
góp phần giữ vững thành quả cách mạng.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
chống giặc đói; chống giặc dốt; tổ chức tổng tuyển cử; giáo dục lại tinh thần của
nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế
đò và cấm thuốc phiện; thực hiện tự do tín ngưỡng.
Đối với thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cảnh giác và sẵn
sàng chiến đấu. Ngày 5/9/1945, Người kêu gọi: “(Nhân dân Việt Nam) cương
quyết phản đối quân Pháp kéo vào Việt Nam, vì mục đích của họ chỉ là hãm dân
tộc Việt Nam vào vòng nô lệ một lần nữa… Hiện một số quân Pháp đã lọt vào
nước ta. Đồng bào hãy sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu!”.
Ngày 10 và 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc kỳ của Đảng đã ra nghị quyết, trong
đó về vấn đề chính quyền, nghị quyết nêu rõ: huy động các hạng nhân tài và chính
trị phạm ra giúp việc; cấp tốc tổ chức các ủy ban nhân dân các làng, các phố; thi
hành thống nhất các chương trình của Việt Minh và do Chính phủ quyết định…
Ngày 11/9/1945, với bút danh Chiến Thắng, Hồ Chí Minh nêu “cách tổ chức các
ủy ban nhân dân” (làng, huyện, tỉnh, thành phố), đăng trên báo Cứu quốc. Theo đó,
mỗi ủy ban có từ 5 - 7 người, gồm một chủ tịch, một phó chủ tịch, một thư ký, một
ủy viên phụ trách chính trị, một ủy viên phụ trách kinh tế - tài chính, một ủy viên
phụ trách quân sự, một ủy viên phụ trách xã hội. Người nhấn mạnh: “Ủy ban nhân
dân tổ chức và làm việc theo một tinh thần mới, một chế độ dân chủ mới, khác hẳn
các cơ quan do bọn thống trị cũ đặt ra”.
Từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính phủ tổ chức “Tuần lễ vàng” để có nguồn tài
chính phục vụ việc xây dựng đất nước và chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược.
Trong một tuần, nhân dân quyên góp tổng cộng 60 triệu đồng Đông Dương và 370
ký vàng. Khi Cách mạng thành công, chúng ta chiếm được Ngân hàng Đông
Dương nhưng chỉ thu được 1,25 triệu đồng Đông Dương mà trong đó phần lớn là
tiền rách nát! Điều đó cho thấy ý nghĩa lớn lao của “Tuần lễ vàng” như thế nào.
Để đối phó với sự công kích trực diện của kẻ thù, ngày 11/11/1945, Đảng Cộng sản
Đông Dương tuyên bố tự giải tán và rút vào hoạt động bí mật, đồng thời thành lập
Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, hoạt động công khai.
Bấy giờ, để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động cách
mạng, Đảng ta đã chỉ đạo phát triển rộng khắp các tổ chức quần chúng, mở rộng
mặt trận đoàn kết toàn dân. Chẳng hạn, trong các xí nghiệp thì có ủy ban công
nhân (sau đổi thành ủy ban xí nghiệp); tổ chức lực lượng Thanh niên cứu quốc, Tự
vệ chiến đấu (kể cả trong học sinh, thanh niên Công giáo và hướng đạo); tổ chức
Phụ nữ cứu quốc; tiếp tục phát triển Hội Văn hóa cứu quốc; đồng thời hình thành
nhiều tổ chức quần chúng khác như Công thương cứu quốc đoàn, Cựu binh sĩ cứu
quốc đoàn, Liên đoàn Công giáo cứu quốc, Hội Phật giáo cứu quốc…
Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ban hành chỉ thị về kháng chiến kiến quốc
(mật), nêu rõ “kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược” nên “chiến
thuật của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp xâm
lược”, đồng thời “phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”, “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy
định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức”.
Ngày 6/1/1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa I đã diễn ra tại 71 tỉnh thành trong cả
nước theo lối phổ thông đầu phiếu và chọn ra 333 đại biểu. Hai Đảng đối lập trong
Chính phủ là Việt Quốc và Việt Cách không tham gia bầu cử; trong kỳ họp thứ
nhất, Quốc hội đã đồng ý công nhận thêm 70 ghế thuộc các đảng này, nâng tổng số
đại biểu là 403. Cuộc bầu cử đã được toàn dân nô nức tham gia; dù diễn ra trong
điều kiện chiến sự, có sự cản trở, phá hoại của bọn phản động và sự hạn chế đi lại
nhưng có đến 89% cử tri đi bầu; thậm chí ở Trung bộ và Nam bộ, cuộc bầu cử đã
có đổ máu, với ít nhất 42 cán bộ của ta hy sinh. Tại kỳ họp đầu tiên, Quốc hội đã
công nhận Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu;
với hai đảng đối lập, Việt Quốc nắm một số bộ gồm Kinh tế, Ngoại giao, Việt Cách
nắm chức Phó Chủ tịch Chính phủ, Bộ Xã hội, Y tế, Cứu tế - Lao động, Canh
nông. Sau đó, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1946 tại kỳ họp thứ hai.
Đối với vấn đề ngoại xâm, ngày 6/3/1946, Chính phủ ta đã ký Hiệp định Sơ bộ với
Pháp, đồng ý cho 15.000 quân Pháp thay thế quân Tưởng giải giáp quân Nhật. Đến
tháng 6/1946, toàn bộ quân Tưởng rút khỏi Việt Nam; bọn phản động mất chỗ dựa
nên ra sức chống phá, nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm Pháp đã mưu toan đảo
chính lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 7/1946, âm mưu của
chúng bị vạch trần, thông qua sự kiện vụ án phố Ôn Như Hầu. Vụ phá án đã đập
tan cuộc đảo chính phản cách mạng, làm tan rã hệ thống tổ chức của một đảng
phản động, phá vỡ liên minh phản cách mạng giữa bọn phản động bên trong với
thế lực xâm lược bên ngoài.
Có thể thấy, việc giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo
của Đảng là hết sức ngoạn mục, vừa chớp được thời cơ, vừa giành thắng lợi trọn
vẹn, vừa hạn chế tối đa đổ máu. Các diễn biến tiếp theo đó trong việc giữ vững
thành quả cách mạng cũng ngoạn mục không kém, khi chính quyền non trẻ đã phải
cùng lúc đương đầu với rất nhiều kẻ thù, rất nhiều thử thách khốc liệt. Nhưng dưới
sự sáng suốt của Đảng, của Chính phủ, đứng đầu là Chính phủ Hồ Chí Minh, chính
quyền cách mạng không những được giữ vững mà còn không ngừng được củng cố và phát triển.
2, Phương pháp ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Bộ
trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi Người sang Pháp dự hội nghị
Phông-ten-nơ-blô (tháng 5-1946) trong điều kiện chính quyền cách mạng Việt Nam
còn non trẻ và đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Lời huấn thị đó của Người
không chỉ giúp chúng ta đề ra phương hướng, cách thức quản lý, điều hành đất
nước, giải quyết tốt vấn đề “thù trong, giặc ngoài”, giữ vững nền độc lập, chính
quyền cách mạng lúc bấy giờ.
Trong những năm 1945-1946, trên nguyên tắc "dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên
hết”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có những bước đi sách lược khôn khéo,
phân hoá cao độ kẻ thù, tạm thời hoà hoãn với quân Tưởng để giữ vững chính
quyền, tạo điều kiện đối phó với quân Pháp ở miền Nam, từng bước phá tan âm
mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, “Hoa quân nhập Việt” của Tưởng Giới Thạch, tích cực
đấu tranh bảo tồn nền độc lập, tự do quý báu vừa mới giành được. Nhưng để cứu
vãn quyền lợi chung của đế quốc, chống phong trào cách mạng vô sản và cách
mạng thuộc địa, Pháp – Tưởng đã ký kết Hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), mua
bán, trao đổi lợi ích, "bắt nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp ước Hoa
– Pháp", đặt nhân dân ta trước những thử thách mới, đòi hỏi phải có quyết định
tỉnh táo, đúng đắn. Sau những cuộc thương lượng và nhân nhượng có nguyên tắc,
Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp được ký kết, thể hiện sự mềm dẻo về sách lược, linh
hoạt trong đấu tranh, nhưng hướng đích, kiên định độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia. Đây là bước đi cần thiết, hy sinh không gian để tranh thủ thời gian, biến thời
gian thành lực lượng vật chất, củng cố thực lực một cách toàn diện để đối phó với
kẻ thù chính là thực dân Pháp. Đó cũng là cái cách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta nhìn nhận thấu đáo quan hệ biện chứng giữa cái "bất biến" và cái “vạn
biến", đã cân nhắc lợi hại gần xa của dân tộc một cách cẩn trọng, trong hai con
đường đi đến độc lập, “đã chọn con đường đỡ hao tổn mà cũng chắc chắn hơn”.
Tháng 7-1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu’’, Việt Nam đi tới bàn đàm phán của Hội nghị Geneva với tư thế của một dân
tộc chiến thắng. Tuy nhiên, trước việc các nước lớn đã tác động đến tiến trình giải
quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đồng thời do thế và lực của cách
mạng Việt Nam còn có những hạn chế nhất định, Việt Nam đã có những nhân
nhượng cần thiết để Hội nghị đạt được các thoả thuận cuối cùng, nhằm lập lại hoà
bình trên bán đảo Đông Dương, góp phần làm dịu tình hình châu Á. Thắng lợi của
Hiệp định Geneva là ở chỗ chúng ta có nửa nước được giải phóng, buộc đối
phương phải thừa nhận cái bất biến là quyền độc lập cơ bản, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Điều quan trọng hơn là phần chìm của việc ký kết Hiệp định – nửa nước
có hòa bình tạo tiền đề quan trọng cho chúng ta bước tiếp những bước dài vững
chắc trên chặng đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng, thực hiện chiến lược “đánh cho
Mỹ cút”, tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”. Hiệp định Geneva là một điển hình sống
động của triết lý ngoại giao Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, giành thắng
lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, mang đậm dấu ấn và bản sắc Việt Nam.
Cuộc trường chinh 9 năm chống thực dân Pháp kết thúc, nửa nước không còn bóng
ngoại xâm, song cả dân tộc vẫn chịu chung nỗi đau chia cắt. Xâm lược Việt Nam,
cắt chia một đất nước luôn gắn bó hữu cơ, đế quốc Mỹ thách thức ý chí “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do”, thách thức ý chí thống nhất non sông của toàn thể dân
tộc Việt Nam. Kết thành một khối thống nhất, nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc
kháng chiến tự vệ chính nghĩa, phấn đấu vì một ngày mai, ngày miền Nam hoàn
toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà.
Đương đầu với đế quốc Mỹ - một kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần về tiềm lực kinh
tế, quân sự, trong lịch sử 200 năm lập nước chưa hề nếm mùi bại trận, trên tinh
thần “tự lực cánh sinh là chính”, Việt Nam ra sức tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, nhất
là sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Trong quá trình ấy, kết hợp đánh – đàm,
kéo địch đến bàn đàm phán, dẫn đến ký kết Hiệp định Paris - kết quả của cuộc đàm
phán lâu dài nhất, khó khăn, phức tạp nhất trong lịch sử ngoại giao của nước nhà.
Hiệp định Paris đạt tới đỉnh cao triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, khi Mỹ buộc
phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất của dân tộc, buộc phải cam
kết rút quân và không can thiệp trở lại, còn chúng ta vẫn giữ nguyên lực lượng
chính trị, vũ trang của ta ở miền Nam, tạo cục diện chính trị và chiến trường thuận
lợi để đi tới thắng lợi triệt để, thực sự. Nắm vững quy luật cách mạng, nắm vững
và biết cách tạo thời, tạo thế, thắng lợi của Hiệp định Paris là thắng lợi của nền
ngoại giao nhân văn Việt Nam trước nền ngoại giao trên thế mạnh của đế quốc Mỹ,
cũng có nghĩa là chúng ta đã “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, biến nghịch thành thuận,
biến những khả năng mỏng manh thành hiện thực có lợi cho cách mạng.
3, Bài học kinh nghiệm về đấu tranh ngoại giao “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ
tịch Hồ Chi Minh trong thời kỳ hội nhập.
Tiếp nối lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao ngàn năm
lịch sử của cha ông, “dĩ bất biến ứng vạn biến” vẫn tiếp tục là bản sắc ngoại giao tiêu biểu của Việt Nam.
Tính bất biến của bản sắc ngoại giao Việt Nam được thể hiện đậm nét trong đường
lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng. “Đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc”
luôn là mục tiêu bất biến, kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động
đối ngoại và cần được phát huy, thực hiện hiệu quả hơn nữa trong bối cảnh mới.
Tuy nhiên, để quyết hài hòa mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
sẽ đòi hỏi những biện pháp “ứng vạn biến”. Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ
bao gồm giảm sự lệ thuộc, chống sự áp đặt, lôi kéo, chi phối, mà còn là nêu cao,
phát huy tính chủ động trong tham gia vào công việc chung của khu vực và quốc tế.
Từ nhận thức đúng đắn về cái “bất biến” và cái “vạn biến”, Đảng và Nhà nước đã
xây dựng và triển khai nhiều chủ trương, chính sách đối ngoại linh hoạt, phù hợp:
Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là đối tác tin cậy, thành viên
có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; từ quan niệm “địch”, “ta”, chuyển sang
cách nhìn nhận về đối tác, đối tượng. Những thay đổi, điều chỉnh đó đã tạo cho
Việt Nam một sức mạnh đối ngoại mềm dẻo, được các nước trên thế giới đánh giá cao.
Năm 2020, đảm nhận cương vị Chủ tịch ASEAN trong bối cảnh đại dịch Covid-19
bùng phát mạnh, Việt Nam đã có những cách thức “ứng vạn biến” kịp thời như
chuyển trọng tâm ưu tiên của chương trình nghị sự sang phòng chống dịch với
nhiều đề xuất và sáng kiến hiệu quả.
Theo sáng kiến của Việt Nam, ASEAN đã xây dựng cơ chế điều phối, hợp tác, tổ
chức nhiều cuộc họp trực tuyến của ASEAN ở các cấp, các ngành, đặc biệt là Hội
nghị Cấp cao ASEAN về Covid-19 ngày 14/4, đề ra nhiều biện pháp cụ thể như lập
Quỹ ứng phó Covid-19, lập kho y tế dự phòng, lập Quy trình chuẩn về ứng phó
dịch bệnh, xây dựng kế hoạch phục hồi của ASEAN. ASEAN cũng mở nhiều cuộc
họp trực tuyến với đối tác Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu, Nga... để thúc đẩy
hợp tác quốc tế ứng phó với Covid-19, hỗ trợ khắc phục tác động của dịch bệnh.
Kết quả, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN khác, thực hiện thành công nhiệm vụ
“bất biến”, đó là “vừa tập trung phòng chống dịch bệnh Covid-19, vừa tiếp nối các
nỗ lực xây dựng Cộng đồng, tập trung triển khai những trọng tâm ưu tiên hợp tác
đề ra trong năm 2020”. Nhờ linh hoạt áp dụng tư tưởng “Dĩ bất biến ứng vạn
biến”, Việt Nam đã trở thành một điểm sáng về nỗ lực ứng phó với dịch Covid-19
trong nước và khu vực, được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Gần đây, xung đột Nga-Ukraine là một bước ngoặt lớn trong quan hệ quốc tế hiện
đại. Trước diễn biến chính trị quốc tế mới này, Việt Nam đã vận dụng phương
châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong cách ứng xử của mình tại Đại hội đồng Liên
hợp quốc. Ba lần Đại hội đồng tổ chức bỏ phiếu về vấn đề Ukraine, mỗi lần về một
chủ đề, mục đích khác nhau; đây chính là “vạn biến”. Tương ứng, ba lần Việt Nam
cũng bỏ lá phiếu khác nhau. Tuy nhiên, Việt Nam luôn khẳng định lập trường nhất
quán của mình, khi không đứng về bên này chống bên kia hay ngược lại mà luôn
đứng về lẽ phải, công lý, luật pháp quốc tế. Đây chính là “bất biến”.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” không chỉ là nguyên tắc, phương pháp có giá trị lịch
sử, ý nghĩa đối với Việt Nam trong đấu tranh cách mạng, mà còn là nguyên tắc để
giải quyết hiệu quả những vấn đề mới với công tác đối ngoại của Việt Nam ở quá
trình hội nhập hiện nay. Bối cảnh cơ hội và thách thức đan xen, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước cần quyết tâm ở mức cao nhất, cùng sự nỗ lực của toàn dân để vượt qua
thách thức, biến khó khăn thành cơ hội để phát triển. 76 năm đã trôi qua, song lời
dặn “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị
và đã, đang được Đảng, Nhà nước và công tác đối ngoại vận dụng sáng tạo trong
công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. KẾT LUẬN
Có thể nói cách mạng Việt Nam thắng lợi phần lớn là nhờ có phương pháp cách
mạng đúng đắn, trong đó có sự vận dụng linh hoạt phương châm “Dĩ bất biến ứng
vạn biến” của Hồ Chí Minh. Trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, vận
dụng phương châm này vào công tác hàng ngày đó là việc nắm vững đường lối chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó sáng tạo ra các
hình thức, biện pháp để hoàn thành tốt nhiệm vụ .
Trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta, vận dụng “bất
biến” tức là không vì quyền lợi hay lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, cá nhân
nào đó mà bất chấp nguyên tắc, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, của
tập thể. Phải tuyệt đối đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội lên trên hết. Thực hiện phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế cũng phải luôn “ứng vạn biến”, biết phân tích, dự đoán và mau lẹ chớp lấy
thời cơ, nắm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để mang lại lợi ích to lớn cho
quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Đó là thước đo bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo
của Đảng ta trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta./.