Chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam | Đại học Tôn Đức Thắng
Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi vào năm 1917 do Đảng Bôn-sê-vích lãnh đạo đã làm biến đổi sâu sắc tình hình trên thế giới, mở ra một thời đại mới“thời đại chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐT121)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
MỤC LỤC
1. Chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu lịch sử........................3
1.1. Bối cảnh thế giới.............................................................................................3
1.2. Bối cảnh Việt Nam..........................................................................................4
1.3. Sự phát triển của các yếu tố dẫn đến sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam 6 1.3.1.
Chủ nghĩa Mác – Lenin...........................................................................6 1.3.2.
Phong trào yêu nước Việt Nam...............................................................6 1.3.3.
Phong trào công nhân..............................................................................7
2. Phân tích nội dung quá trình chuyển hướng chiến lược của Đảng trong giai
đoạn 1939 - 1945..........................................................................................................7
2.1. Hoàn cảnh lịch sử...........................................................................................7
2.2. Nội dung chuyển hướng chiến lược...............................................................8
2.3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng........................................................................9
1. Chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu lịch sử 1.1.
Bối cảnh thế giới
Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi vào năm 1917 do Đảng Bôn-sê-
vích lãnh đạo đã làm biến đổi sâu sắc tình hình trên thế giới, mở ra một thời đại mới
“thời đại chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”, phát triển theo con đường xã hội
chủ nghĩa, tạo ra phong trào đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân trên toàn thế
giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã khẳng định Đảng vô sản có vai trò
lãnh đạo đối với các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Trên thế giới bấy giờ
Đảng Cộng sản và hệ tư tưởng của nó là lựa chọn số một của các nước đấu tranh giải
phóng dân tộc. Với những lý do trên mà đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời nhằm
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Các luận điểm chính được Lenin kế thừa và phát triển từ chủ nghĩa Mác như sau:
Thứ nhất, Lenin nhấn mạnh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
Đảng luôn có vai trò lãnh đạo trong hệ thống chính trị chuyên trính của giai cấp vô
sản. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản sẽ không thể thành công nếu thiếu đi vai trò
thiêng liêng đó của Đảng.
Thứ hai, Lenin khẳng định vấn đề thành lập nhà nước XHCN thì điều tiên quyết
là giai cấp vô sản đứng đầu và trực tiếp điều hành.
Thứ ba, toàn bộ lực lượng quần chúng nhân dân phải được tập hợp khi tiến
hành xây dựng chế độ mới.
Lênin cũng từng nói: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng,
chúng tôi sẽ đảo lộn nước Nga”. Trong đó, tổ chức những người cách mạng chính là
“một đảng kiểu mới, thực sự cách mạng và thực sự cộng sản”. Bởi vì theo Lênin “chỉ
có Đảng Cộng sản, nếu nó thực sự là đội tiền phong của giai cấp cách mạng, nếu nó
bao gồm tất cả những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những
chiến sĩ cộng sản hoàn toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện
bằng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng bền bỉ; nếu nó biết gắn liền toàn bộ với cuộc
sống của giai cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc 1
lột và biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình.” (Nguyễn Bá Dương, 2021).
Quốc tế Cộng sản được thành lập vào tháng 3/1919 có ý nghĩa thúc đẩy phong
trào đấu tranh của cộng sản và công nhân trên thế giới. Đồng thời truyền bá chủ nghĩa
Mác-Leenin vào Việt Nam, vạch ra cương lĩnh, đường lối đấu tranh, đào tạo đội ngũ
cán bộ cốt cán như Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong,… của cách mạng Việt Nam.
Việc này tạo tiền đề cho Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. 1.2.
Bối cảnh Việt Nam
Pháp nổ tiếng súng đầu tiên xâm lược Việt Nam năm 1858. Việt Nam đến năm
1884 trở thành thuộc địa của Pháp. Pháp tiến hành thiết lập ách thống trị, bóc lột của
chúng trên đất nước ta. Xã hội Việt Nam thay đổi từ xã hội phong kiến độc lập sang xã
hội thuộc địa nửa phong kiến, xuất hiện nhiều giai cấp mới. Trong đó có giai cấp công
nhân ra đời là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, khi chưa có Đảng thì
giai cấp này không thể thực hiện sứ mệnh đó nên cần phải hình thành Đảng Cộng sản
nhằm đưa ra đường lối đúng đắn. Có thể nói giai cấp công nhân là cơ sở xã hội để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với sự chèn ép, bóc lột các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam của thực
dân Pháp, lúc này đã tạo ra 2 mâu thuẫn xã hội đó là mâu thuẫn dân tộc (giữa dân tộc
Việt Nam và thực dân Pháp) và mâu thuẫn giai cấp (giữa nông dân và địa chủ). Để giải
quyết mâu thuẫn đó, lúc bấy giờ các phong trào đấu tranh yêu nước đã hình thành và
diễn ra hết sức mãnh liệt, bao gồm:
Phong trào chống pháp theo hệ tư tưởng phong kiến:
Phong trào Cần Vương (1885-1896) do Tôn Thất Thuyết đứng đầu. Đến
1/1/1888, vua Hàm Nghi bị bắt nhưng phong trào vẫn dư âm đến năm 1896.
Phong trào tự phát của nông dân Yên Thế (1897-1913)
Phong trào chống pháp theo tư tưởng tư sản:
Bạo động do Phan Bội Châu tổ chức (1867-1940)
Cải cách do Phan Châu Trinh đề xướng (1872-1926) 2
Các phong trào trên hầu hết đều thất bại do những giai cấp và tư tưởng cũ
không còn đủ khả năng để lãnh đạo dân tộc đi đến sự thành công của sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Bên cạnh đó, đường lối chính trị không rõ ràng, không tạo ra được sự
thống nhất trong những người lãnh đạo phong trào, lãnh đạo bị bắt phong trào cũng sẽ
tan rã là những lý do làm cho phong trào theo tư tưởng tư sản thất bại. Cách mạng Việt
Nam lúc này rơi vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc cả về đường lối cách mạng lẫn giai
cấp lãnh đạo cách mạng. Từ những thực tế đó, nhiệm vụ đặt ra là cách mạng Việt Nam
phải tìm ra con đường mới, với giai cấp mới có đủ uy tín, năng lực để lãnh đạo cách
mạng đi đến thành công. Và để đáp ứng điều đó thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải được ra đời.
Bên cạnh đó, thông qua những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức,
hội cộng sản yêu nước thì hệ tư tưởng Mác – Lenin được truyền bá vào Việt Nam từ
rất sớm. Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu từ Lenin những lý tưởng mang hàm ý sâu sắc và
hoc tập điểm mạnh của cuộc cách mạng tháng Mười Nga. Tuy nhiên, Người không sao
chép hoàn toàn mà chắt lọc những tinh hoa để từ đó thêm thắt và sửa đổi cho phù hợp
với tình hình nước ta. Để chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho chính
đảng tiên phong ở Việt Nam ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa
Mác Lênin vào Việt Nam. Người đã truyền bá chủ nghĩa này thông qua tờ báo Le Paria
- người cùng khổ với tác phẩm nổi tiếng của Người là Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đường Kách Mệnh (1927). Người cho rằng “Cách mạng muốn dành được
thắng lợi trước hết phải có Đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững
phải có chủ nghĩa Mác-Lênin: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận
động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, củng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa
Mác-Lênin”. (Hoàng Văn Vân, 2019). Nguyễn Ái Quốc đã làm thức tỉnh quần chúng, 3
tổ chức, đoàn kết họ, hoạt động khẩn trương chuẩn bị những tiền đề về tư tưởng, chính
trị, tổ chúc để các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.
Vào cuối năm 1929, có ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời đó là Đông Dương
cộng sản đảng (6-1929), An Nam cộng sản đảng (8-1929) và Đông Dương cộng sản
Liên đoàn (9-1929). Ba tổ chức này hoạt động riêng lẻ, đả kích và tranh giành ảnh
hưởng nhau. Trước tình thế đó, tại Hương Cảng (Hồng Kông) (1930), Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam, thống nhất ba tổ
chức này thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nội dung
cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ đường lối chiến lược và sách lược phù
hợp với tình hình hiện tại của cách mạng nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
chính là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng của Việt Nam. 1.3.
Sự phát triển của các yếu tố dẫn đến sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam
Thông qua phân tích trên có thể thấy dựa trên sự kết hợp của ba yếu tố phong
trào yêu nước Việt Nam, phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác – Lenin thì Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời là tất yếu khách quan.
1.3.1. Chủ nghĩa Mác – Lenin
Giữa thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mãnh
mẽ đòi hỏi phải có hệ thống lí luận tư tưởng. Với nhu cầu đó, chủ nghĩa Mác ra đời,
phát triển thành chủ nghĩa Mác – Lenin. Trong cái được Nguyễn Ái Quốc cho là “cẩm
nang thần kì”, Lenin chỉ rõ việc thành lập Đảng là tất yếu để chiến thắng cuộc chiến
chống áp bức bóc lột. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, đại
diện cho toàn thể giai cấp nhân dân trong xã hội. Sau khi chủ nghĩa Mác – Lenin được
truyền vào trong xã hội Việt Nam, lúc bấy giờ các phong trào yêu nước và phong trào
công nhân bắt đầu nhen nhóm và phát triển theo hướng cách mạng vô sản. Các tổ chức
cộng sản Việt Nam cũng lần lượt ra đời từ đó.
1.3.2. Phong trào yêu nước Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của vua quan phong kiến, mặc cho triều đình nhà Nguyễn
giao nước và công nhận sự thống trị của Pháp vô điều kiện, một số phong trào đấu
tranh của nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược tiêu biểu có thể kể đến như: Khởi 4
nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861), Phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Khởi nghĩa
Ba Đình (1881-1887), Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896),…
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới sự tiếp nhận luồng văn hóa dân chủ tư
sản, chịu ảnh hưởng tư tưởng của Khang Hữu Vy, Lương Khả Siêu và cách mạng Minh
Trị thì sau những thất bại của đấu tranh tư tưởng phong kiến, các nhà yêu nước đã hình
con đường đấu tranh theo tư tưởng tư sản: Phong trào Đông Du (1904), Phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), Phong trào Duy Tân (1906 – 1908),...
Cuối cùng, các phong trào đấu tranh theo cả hai tư tưởng đều thất bại. Cách
mạng Việt Nam đứng trước sự khủng hoảng đường lối cứu nước đòi hỏi cấp lãnh đạo
cần có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Với lý do đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là một sự tất yếu có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
1.3.3. Phong trào công nhân
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã mở đầu cho sự thành lập và phát
triển của các tổ chức đảng lãnh đạo các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trên
toàn thế giới, có thể kể đến: Đảng Cộng sản Đức, Hungari (1918), Đảng Cộng sản Mỹ
(1919), Đảng Cộng sản Pháp (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921),… Về ý
nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc cũng đã nói rằng: “Cách mệnh
Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng làm gốc,
phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là
phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” (Cao Đức Thái, 2020).
Quốc tế Cộng sản (3/1919) được thành lập có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của
phong trào cộng sản và công nhân mạnh mẽ trên thế giới. Tại Đại hội II Quốc tế Cộng
sản (1920) đã vạch rõ phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa trên lập
trường cách mạng vô sản. Quốc tế Cộng sản cũng có vai trò trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lenin và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đánh
giá cao sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đồng thời còn nhấn mạnh tổ chức này có vai
trò cực kì quan trọng đối với cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh thành
công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. 5
2. Phân tích nội dung quá trình chuyển hướng chiến lược của Đảng trong giai đoạn 1939 - 1945 2.1.
Hoàn cảnh lịch sử Thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 9/1939 Đức tấn công Ba Lan, sau 2
ngày Anh Pháp tuyên chiến Đức. Chính phủ Pháp trong nước thực hiện biện pháp đàn
áp lực lượng dân chủ và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân của
Pháp bị tan vỡ và Đảng Cộng sản Pháp lúc này bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Chính
phủ Pháp đầu hàng Đức vào tháng 6/1940. Vào ngày 22/06/1941, Liên Xô bị tấn công
bởi Đức, khi này cuộc chiến trở thành cuộc đối đầu giữa phe phát xít do Đức cầm đầu
với lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột.
Trong nước: Chiến tranh thế giới thứ hai đã tác động mãnh mẽ và trực tiếp đến
Đông Dương và cả Việt Nam
28/9/1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền Cộng sản,
đồng thời đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm tụ tập đông người và hội họp.
Pháp thi hành chính sách thời chiến rất tàn bạo, trắng trợn và chúng thủ tiêu
quyền tự do, dân chủ mà ta đã giành được trong thời kỳ 1936-1939.
Ngày 22/9/1940, lợi dụng Pháp đầu hàng Đức, Nhật tấn công Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng.
Pháp ký Hiệp định đầu hàng Nhật vào ngày 23/09/1940.
Mâu thuẫn trở nên gay gắt giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp - Nhật, đặt
nhân dân ta vào 1 cổ 2 tròng áp bức. 2.2.
Nội dung chuyển hướng chiến lược
Chủ trương chuyển hướng chiến lược được hoàn chỉnh qua ba hội nghị:
+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần 6 (11/1939): mở đầu sự chuyển hướng.
+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần 7 (11/1940): tiếp tục bổ sung nội dung chuyển hướng.
+ Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần 8 (05/1941): hoàn chỉnh nội dung chuyển hướng. 6
Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu: Ở nước ta mâu thuẫn giữa dân
tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật là mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi được giải quyết
cấp bách. Khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộc đất cho dân cày” được Ban Chấp
hành Trung ương quyết định tạm gác lại bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo”, “Chia lại ruộng đất công cho công bằng
và giảm tô, giảm tức”.
Thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh (Việt Minh) đổi tên các hội phản đến
thành hội cứu quốc nhằm đoàn kết và tập hợp lực lượng cách mạng với mục tiêu giải
phóng dân tộc thay cho hình thức mặt trận trước đó.
Nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại là xác
định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang; thúc đẩy phát triển lực lượng cách mạng
(lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang), xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Xác định phương châm và hình thái khởi nghĩ ở nước ta: Trong từng địa phương lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa từng phần giành thắng lời mở đường cho một cuộc tổng khởi nghãi to lớn.
Chú trọng công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo
của Đảng. Bên cạnh đó, chủ trương đẩy mạnh công tác vận động quần chúng và gấp
rút đào tạo cán bộ cho cách mạng.
Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc và nhận thức nhiệm vụ giải
phóng dân lên cao hơn hết. Trong mặt trận Việt Minh tập hợp rộng rãi người Việt Nam
yêu nước, xây dựng lực lượng chính trị quần chúng ở nông thôn và cả thành thị. Xây
dụng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Tinh thần chung của quá trình
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược là nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo. 2.3.
Ý nghĩa của sự chuyển hướng
Đóng góp vào việc giải quyết mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam là
độc lập dân tộc, đưa đến những chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó.
Giúp cho nhân dân có hướng đúng để tiến lên và giành thắng lợi trong quá trình
đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. 7
Giúp cho công tác chuẩn bị giành độc lập ở các địa phương khắp cả nước diễn
ra sôi nổi. Đồng thời phong trào cách mạng quần chúng được cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ.
Từng bước xây dựng lực lượng vũ trang trong nhân dân làm cơ sở cho sự ra đời
của Việt Nam giải phóng quân sau này.
Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo việc xác lập các chiến khu và căn cứ địa
cách mạng như: Căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, căn cứ Cao Bằng. 8 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1].
Cao Đức Thái (2020), "Cách mệnh thành công thì phải công nông làm gốc…”,
truy cập 14/4/2023, từ https://www.qdnd.vn/ky-niem-130-nam-ngay-sinh-chu-tich-ho-
chi-minh/dang-cam-quyen-theo-tu-tuong-ho-chi-minh/cach-menh-thanh-cong-thi- phai-cong-nong-lam-goc-618368 [2].
Hải Yến (2020), Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, truy cập
14/4/2023, từ https://www.studocu.com/en-us/document/neumont-university/financial-
management/dang-cong-san-viet-nam-ra-doi-la-mot-tat-yeu-lich-su 13452841 [3].
Hoàng Văn Vân (2019), Tư tưởng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, truy cập 14/4/2023, từ
https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin? dDocName=MOFUCM152713 [4].
Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Lý luận chính trị, truy cập 14/4/2023, từ
https://www.ngoconghau.com/2019/03/ang-cong-san-viet-nam-ra-oi-la-tat-yeu.html [5].
Nguyễn Bá Dương (2021), Chỉ dẫn của V.I. Lênin về xây dựng Đảng Mác xít
kiểu mới và ý nghĩa trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, truy cập 14/4/2023, từ
http://m.tapchiqptd.vn/vi/chao-mung-dai-hoi-dang-toan-quoc-lan-thu-xiii/chi-dan-cua-
vi-lenin-ve-xay-dung-dang-mac-xit-kieu-moi-va-y-nghia-trong-xay-dung-chinh-don- 16637.html [6].
Thế Trạch (2013), Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng giai đoạn 1939 – 1941, truy cập 14/4/2023, từ
https://duongloicachmangcuadcsvn.wordpress.com/2013/10/22/su-chuyen-huong-chi-
dao-chien-luoc-cua-dang-giai-doan-1939-1941/ 9