



















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI KHOA MARKETING
ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
CHỨNG MINH SỨC LAO ĐỘNG LÀ MỘT HÀNG HOÁ ĐẶC BIỆT. VẬN DỤNG
ĐẾN VIỆC HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN SAU KHI TỐT NGHIỆP RA NHẬP THỊ
TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG THUẬN LỢI Nhóm: 02
Lớp học phần: 251_RLCP1211_08
Giảng viên hướng dẫn:
Th.S Hoàng Thị Vân
Hà Nội, tháng 10 năm 2025
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, Nhóm 2 xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ThS. Hoàng Thị Vân. Trong quá
trình học tập và tìm hiểu bộ môn Kinh tế chính trị Mác – Lênin, chúng em đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình và tâm huyết của cô. Cô đã giúp chúng em tích luỹ
thêm nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện bản thân hơn trong cuộc sống.
Kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người luôn tồn tại những hạn
chế nhất định. Do đó, trong quá trình hoàn thành bài thảo luận, chắc chắn chúng em không
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, nhóm em rất mong nhận được những góp ý đến từ cô để
bài thảo luận của nhóm em được hoàn thiện hơn.
Chúng em kính chúc cô luôn mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành công trên con đường sự nghiệp giảng dạy!
Nhóm 02 – 251_RLCP1211_08 2 MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ......................................................................................................................... 2
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN ...................................................................................... 4
BIÊN BẢN HỌP NHÓM ....................................................................................................... 5
BIÊN BẢN HỌP NHÓM ....................................................................................................... 6
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 7
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài .................................................................................... 7
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ..................................................................................... 7
A. CƠ SỞ LÍ THUYẾT ....................................................................................................... 9
I. LÍ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SỨC LAO ĐỘNG ................................................................ 9
1. Khái niệm ...................................................................................................................... 9
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động ......................................................................... 9
II. TẠI SAO NÓI SỨC LAO ĐỘNG LÀ MỘT HÀNG HOÁ ĐẶC BIỆT? ........................ 10
1. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá ........................................................... 10
2. Sức lao động là một hàng hóa đặc biệt ....................................................................... 11
3. Ví dụ ............................................................................................................................ 13
B. LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN .................................................... 15
1. Thực trạng thị trường lao động hiện nay .................................................................... 15
2. Vị trí của sinh viên ...................................................................................................... 20
3. Liên hệ đến việc học tập của sinh viên ....................................................................... 24
4. Giải pháp đối với sinh viên ......................................................................................... 25
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 28 3
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN ĐÁNH GIÁ STT
HỌ VÀ TÊN MSV NHIỆM XÁC VỤ CỦA ĐIỂM NHẬN NT TL 10 Lê Thị Mai Chi 24D120058 Thuyết trình 9.0 11 Ngô Tiến Dũng 24D109048 Nội dung 9.0 12 Nguyễn Nam Dương 24D109090 Nội dung 9.5 Nguyễn Hạnh 13 Quỳnh Giang 24D120061 Thuyết trình 10 14 Lê Nguyễn Hồng Hà 24D120062 Nội dung 10 15 Trần Thị Thu Hà 24D120014 Slide 10 Trần Mai Trúc Hiền 16 (Nhóm trưởng) 24D120113 ND + Slide 10 17 Hoàng Trung Hiếu 24D109013 Nội dung 10 18 Cao Văn Lê Huy 24D120016 Slide 10 4
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Học phần: Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Mã lớp học phần: 251_RLCP1211_08 Nhóm: 02 BUỔI HỌP THỨ NHẤT
1. Thời gian bắt đầu: 22h30, thứ sáu, ngày 05/09/2025.
2. Hình thức họp: Họp online qua ứng dụng Google Meet.
3. Thành viên có mặt: Tất cả các thành viên có mặt đủ. 4. Nội dung buổi họp:
- Nhóm trưởng triển khai nội dung và nhiệm vụ của bài thảo luận.
- Các thành viên đóng góp ý kiến và xây dựng bài. Đánh giá:
- Nhìn chung các thành viên đều tham gia đầy đủ, đúng giờ.
- Các bạn sôi nổi tham gia đóng góp ý kiến.
Hà Nội, ngày 05 tháng 09 năm 2025. Nhóm trưởng Trần Mai Trúc Hiền 5
BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Học phần: Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Mã lớp học phần: 251_RLCP1211_08 Nhóm: 02 BUỔI HỌP THỨ HAI
1. Thời gian bắt đầu: 22h30, thứ sáu, ngày 10/10/2025.
2. Hình thức họp: Họp online qua ứng dụng Google Meet.
3. Thành viên có mặt: Tất cả các thành viên có mặt đủ. 4. Nội dung buổi họp:
- Nhóm trưởng nhận xét về chất lượng của bài thảo luận và đánh giá các thành viên trong nhóm.
- Các thành viên thuyết trình thử và đóng góp ý kiến cho buổi thảo luận sắp tới. Đánh giá:
- Nhìn chung các thành viên đều tham gia đầy đủ, đúng giờ.
- Các bạn sôi nổi tham gia đóng góp ý kiến.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2025. Nhóm trưởng Trần Mai Trúc Hiền 6
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, vấn đề việc làm luôn giữ vị trí trung
tâm bởi nó gắn liền trực tiếp với đời sống của mỗi cá nhân và sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Thực tế hiện nay cho thấy, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm không chỉ là
thách thức riêng của một quốc gia, mà đã trở thành vấn đề mang tính toàn cầu. Đây là nguyên
nhân dẫn đến nhiều hệ lụy về kinh tế – xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định và bền vững của mỗi
đất nước. Do đó, việc tìm hiểu, phân tích và đề xuất giải pháp liên quan đến sức lao động và
thị trường lao động là một yêu cầu cấp thiết.
Trong nền sản xuất hàng hoá, sức lao động được coi là một loại hàng hoá đặc biệt, bởi
nó vừa mang những đặc điểm chung của hàng hoá, vừa có những thuộc tính riêng biệt gắn liền
với con người – chủ thể sáng tạo và vận hành mọi hoạt động sản xuất. Việc nghiên cứu và
chứng minh tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động không chỉ có giá trị về mặt lý luận
trong việc hiểu sâu sắc hơn tư tưởng kinh tế chính trị Mác – Lênin, mà còn mang ý nghĩa thực
tiễn đối với thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên – những người sẽ sớm gia nhập đội ngũ lao động xã hội.
Với tư cách là sinh viên đại học, chúng tôi nhận thức rằng việc trang bị kiến thức lý
luận, hiểu biết thực tiễn về thị trường lao động và nâng cao giá trị bản thân là vô cùng quan
trọng. Điều này giúp chúng tôi không chỉ tìm kiếm cơ hội việc làm thuận lợi sau khi tốt nghiệp
mà còn có thể chủ động thích ứng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường lao động,
từ đó khẳng định vai trò và vị trí của mình trong xã hội.
Chính vì vậy, nhóm chúng tôi lựa chọn đề tài thảo luận: “Chứng minh sức lao động là một
hàng hoá đặc biệt. Vận dụng đến việc học tập của bản thân sau khi tốt nghiệp ra nhập thị
trường sức lao động thuận lợi”. Thông qua đề tài, chúng tôi mong muốn làm rõ những luận
điểm lý luận về hàng hoá sức lao động, liên hệ với thực tiễn thị trường lao động hiện nay, đồng
thời rút ra những bài học và giải pháp thiết thực giúp sinh viên chuẩn bị hành trang vững chắc
để bước vào đời, cống hiến cho sự phát triển của đất nước.
1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Chứng minh sức lao động là một hàng hoá đặc biệt, từ đó liên hệ đến việc học tập của bản
thân để sau khi tốt nghiệp ra nhập thị trường sức lao động thuận lợi.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu lý thuyết về sức lao động, điều kiện và thuộc tính về sức lao động, phân biệt
sức lao động và lao động. 7
- Tìm hiểu sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, điều kiện để biến sức lao động thành hàng hoá.
- Tìm hiểu ưu điểm, nhược điểm của thị trường lao động Việt Nam hiện nay.
- Liên hệ thực tế với sinh viên về việc học tập và gia nhập vào thị trường lao động sau khi tốt nghiệp. 8 NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
I. LÍ LUẬN CỦA C.MÁC VỀ SỨC LAO ĐỘNG
1. Khái niệm
C.Mác viết: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và năng
lực tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra
vận động mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”.
2. Thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Cũng như các loại hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.
2.1. Giá trị
Giá trị hàng hóa sức lao động do số lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái
sản xuất ra sức lao động quyết định.
Giá trị hàng hóa sức lao động có thể được đo lường gián tiếp bằng giá trị của các tư
liệu sinh hoạt cần thiết như: lương thực, thực phẩm, quần áo, điện, nước, tiền đi lại, tiền thuê
nhà, tiền thuốc men, … để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời sống của công
nhân làm thuê và gia đình họ.
Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở
chỗ nó bao gồm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử của từng quốc gia, từng phong tục tập
quán trong từng thời kì, trình độ văn minh, điều kiện địa lí, khí hậu, quá trình hình thành giai
cấp công nhân. Điều này thể hiện ở chỗ ngoài nhu cầu về vật chất, công nhân còn có những
nhu cầu về tinh thần như vui chơi, giải trí, học tập, tiếp nhận thông tin, giao lưu văn hoá…
được phân tích rõ nhất trong tháp nhu cầu của Maslow. Tuy nhiên, tại một quốc gia và thời kì
lịch sử nhất định tư liệu sinh hoạt cần thiết có thể được xác định dựa trên 3 thành tố:
– Một là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì sức lao động của một người lao động.
– Hai là, phí tổn đào tạo người lao động.
– Ba là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đáp ứng đủ cho nhu cầu gia đình của sức lao động.
2.2. Giá trị sử dụng
Về giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động, chúng cũng giống như các hàng hóa
khác. Nó được thể hiện qua quá trình tiêu dùng sức lao động, nói cách khác là quá trình người 9
công nhân tiến hành lao động sản xuất. Người mua hàng hoá sức lao động mong muốn thoả
mãn nhu cầu có được giá trị lớn hơn, giá trị tăng thêm.
Hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá đặc biệt, mang yếu tố tinh thần và lịch sử. Giá
trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính năng đặc biệt mà không hàng hoá thông thường
nào có được, đó là trong khi sử dụng nó, không những giá trị của nó được bảo tồn mà còn tạo
ra được lượng giá trị lớn hơn. Đây chính là chìa khoá chỉ rõ nguồn gốc của giá trị hớn hơn giá
trị thặng dư nêu trên do hao phí sức lao động mà có.
II. TẠI SAO NÓI SỨC LAO ĐỘNG LÀ MỘT HÀNG HOÁ ĐẶC BIỆT?
1. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
Trong bất kì xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình lao
động sản xuất. Nhưng không phải trong bất cứ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hoá.
Để sức lao động có thể được coi là một “hàng hóa” trên thị trường – nghĩa là có thể mua bán
một cách tự nguyện và hợp pháp cần phải có hai điều kiện sau:
– Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể để có thể bán quyền sử dụng sức lao
động trong một thời gian nhất định.
Điều kiện này có nghĩa là người lao động phải là những cá nhân tự do, không bị ràng
buộc bởi bất kỳ hình thức nô lệ, lệ thuộc cá nhân hay cưỡng bức nào. Họ có quyền tự quyết
định việc “bán” khả năng làm việc của mình cho người khác, nhưng chỉ bán quyền sử dụng
tạm thời. Trong xã hội hiện đại, tự do thân thể là nền tảng để sức lao động trở thành hàng hóa.
Người lao động có thể ký hợp đồng lao động một cách tự nguyện, giống như bán một món
hàng trên chợ. Nếu không có tự do này, lao động sẽ không phải là “hàng hóa” mà là hình thức bóc lột cưỡng bức.
Ví dụ: Trong chế độ nô lệ cổ đại (như ở La Mã), nô lệ không tự do bán sức lao động
vì họ bị coi là tài sản của chủ nô. Hoặc trong xã hội phong kiến, nông nô bị ràng buộc với lãnh
chúa và không thể tự do di chuyển để tìm việc làm. Ngược lại, một người tự do, bạn có thể
chọn đi làm ở công ty A với lương 10 triệu đồng/tháng, hoặc công ty B với 12 triệu đồng, bạn
ký hợp đồng chỉ cam kết làm việc 8 giờ/ngày, và sau đó bạn vẫn tự do về thời gian cá nhân.
Sự tự do này làm cho sức lao động của bạn giống như một “dịch vụ” có thể mua bán, chứ
không phải bị ép buộc vĩnh viễn.
– Thứ hai, người lao động phải không có tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất bao gồm những thứ cần thiết để làm ra sản phẩm như: đất đai, máy
móc, nhà xưởng, nguyên liệu thô (ví dụ: máy may để sản xuất quần áo, hoặc máy tính để lập
trình phần mềm). Điều kiện này có nghĩa là người lao động không sở hữu hoặc kiểm soát được 10
những thứ đó, nên họ không thể tự sản xuất để tự kiếm sống mà buộc phải bán sức lao động
cho những người sở hữu tư liệu sản xuất (gọi là tư bản gia hoặc chủ doanh nghiệp). Ngược
lại, nếu người lao động có tư liệu sản xuất, họ có thể tự lao động mà không cần bán sức lao
động như một hàng hóa.
Ví dụ: Một nông dân nhỏ sở hữu ruộng đất có thể tự trồng lúa và bán lúa để sống, mà
không cần đi làm thuê. Nhưng trong xã hội tư bản, quá trình công nghiệp hóa và tích tụ tư bản
đã khiến đa số người lao động mất đi tư liệu sản xuất (qua các cuộc cách mạng công nghiệp
hoặc cải cách ruộng đất). Họ chỉ còn lại sức lao động là “tài sản” duy nhất, nên phải bán nó
để đổi lấy tiền công, giống như bán một món hàng để mua thức ăn.
Như vậy, nếu thiếu một trong hai điều kiện trên, lao động sẽ không phải là “hàng hóa
đặc biệt” mà chỉ là lao động tự cung tự cấp hoặc cưỡng bức. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện
nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động biến thành hàng hoá. Tuy nhiên hàng hóa sức lao
động bước đến sự phát triển vượt bậc khi chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ đỉnh cao. Đó là nền
tảng quan trọng để đánh dấu sự vượt bậc của văn minh nhân loại. Xét trên thực tế thì hàng hóa
sức lao động đã có mặt từ trước thời điểm xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên chỉ đến lúc tư
bản chủ nghĩa đã được hình thành thì chúng mới được khẳng định và trở nên phổ biến. Cũng
tại thời điểm này thì sự bóc lột lao động cũng không còn mà thay vào đó chính là sự thỏa thuận
theo dạng “thuận mua – vừa bán” – đánh dấu một bước ngoặt cực văn minh ra đời. Sức lao
động biến thành hàng hóa là điều kiện chủ yếu quyết định sự chuyển hóa tiền thành tư bản.
2. Sức lao động là một hàng hóa đặc biệt
Trong lý thuyết kinh tế chính trị Mác – Lênin, Sức lao động được coi là một loại hàng
hóa đặc biệt trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sức lao động không phải là lao động thực
tế, mà là khả năng lao động của con người – tức là khả năng sử dụng sức lực thể chất và trí
tuệ để sản xuất ra giá trị. Sức lao động trở thành hàng hóa khi người lao động tự do bán nó
cho nhà tư bản dưới hình thức sức lao động thuê mướn. Sức lao động có hai thuộc tính cơ bản,
giống như mọi hàng hóa khác theo học thuyết giá trị của Mác: giá trị và giá trị sử dụng. Hai
thuộc tính này quyết định bản chất kép của sức lao động, dẫn đến sự bóc lột giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản.
– Thứ nhất, giá trị của hàng hóa sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
Giá trị của một hàng hóa, theo lý thuyết giá trị lao động, được quyết định bởi lượng lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó. Với sức lao động – một loại hàng hóa đặc biệt – giá
trị của nó không phải là chi phí sản xuất một vật thể, mà là lượng lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Nói cách khác, giá trị sức lao động chính là chi phí để
duy trì và phát triển khả năng lao động của con người qua các thế hệ. Thời gian lao động xã 11
hội cần thiết ở đây được đo lường bằng giờ lao động trung bình xã hội, dưới điều kiện sản
xuất bình thường, và nó bao gồm ba yếu tố chính sau:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Đây là
yếu tố cốt lõi, chiếm phần lớn giá trị sức lao động. Tư liệu sinh hoạt bao gồm những thứ thiết
yếu để người lao động duy trì sức khỏe và khả năng làm việc hàng ngày, như thức ăn, quần
áo, nhà ở, y tế và giáo dục cơ bản. Những thứ này phải đủ để người lao động "tái sản xuất"
bản thân, nghĩa là phục hồi sức lực sau mỗi ngày làm việc và sẵn sàng lao động tiếp theo. Ví
dụ: Một công nhân cần ăn uống đủ chất (cơm, thịt, rau củ) để có sức làm việc 8 giờ/ngày. Nếu
xã hội phát triển, nhu cầu này có thể bao gồm cả điện thoại hoặc phương tiện di chuyển để đi
làm. Giá trị của những tư liệu này được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất chúng (ví dụ: lao động để trồng lúa, chăn nuôi). Trong xã hội tư bản, tiền lương của
người lao động thường chỉ đủ để mua những thứ này, giúp họ “sống sót” nhưng không dư
thừa. Nếu chi phí sinh hoạt tăng (do lạm phát), giá trị sức lao động cũng tăng theo, dẫn đến
đòi hỏi lương cao hơn.
Hai là, phí tổn đào tạo người lao động. Sức lao động không chỉ là sức khỏe thể chất
mà còn bao gồm kỹ năng và tri thức, nên giá trị của nó phải tính đến chi phí đào tạo để người
lao động có thể thực hiện công việc hiệu quả. Điều này bao gồm giáo dục phổ thông, đào tạo
nghề, học đại học hoặc các khóa học chuyên môn. Thời gian lao động xã hội cần thiết ở đây
là lượng lao động để xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo (xây trường học, trả lương giáo
viên). Ví dụ: Một kỹ sư phần mềm cần học đại học 4-5 năm, với chi phí sách vở, học phí và
thời gian không làm việc. Giá trị sức lao động của kỹ sư cao hơn công nhân phổ thông vì phí
đào tạo lớn hơn. Trong xã hội hiện đại, các công ty thường hỗ trợ đào tạo thêm, nhưng chi phí
cơ bản vẫn được tính vào giá trị sức lao động, thể hiện qua mức lương cao hơn cho lao động
có tay nghề. Nếu đào tạo mất nhiều thời gian hơn (do công nghệ thay đổi), giá trị sức lao động sẽ tăng.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết nuôi gia đình người lao động. Sức lao
động không tồn tại cô lập mà cần được tái sản xuất qua các thế hệ, nên giá trị của nó phải bao
gồm chi phí nuôi dưỡng gia đình để thế hệ sau có thể kế thừa khả năng lao động. Gia đình
người lao động cần thức ăn, quần áo, giáo dục cho con cái – những thứ giúp duy trì lực lượng
lao động xã hội. Thời gian lao động xã hội cần thiết ở đây là lượng lao động để sản xuất các
tư liệu sinh hoạt cho toàn bộ gia đình. Ví dụ: Một công nhân có con nhỏ cần tiền để mua sữa,
quần áo và gửi con đi học mẫu giáo. Nếu không tính đến yếu tố này, lực lượng lao động sẽ
suy giảm (con cái không được nuôi dưỡng tốt). Trong các nước phát triển, mức lương thường
đủ để nuôi gia đình trung bình (2-3 con), phản ánh giá trị tái sản xuất xã hội. Điều này giải
thích tại sao tiền lương ở các nước có chi phí nuôi con cao (như châu Âu với trợ cấp gia đình)
lại lớn hơn so với các nước nghèo. 12
– Thứ hai, giá trị sử dụng của sức lao động là công dụng của sức lao động và nó được thể
hiện trong quá trình tiêu dùng sản xuất của nhà tư bản.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là công cụ của nó để thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng sức lao động của người sử dụng sức lao động. Giá trị này phản ánh chất lượng, hiệu quả
thực hiện công việc lao động.
Khác với hàng hoá thông thường (sau một thời gian sử dụng thì sẽ bị mất đi giá trị và
giá trị sử dụng theo thời gian) thì hàng hoá sức lao động, khi được tiêu dùng, ngoài việc sản
xuất ra một loại hàng hoá nào đó thì đồng thời nó cũng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn
giá trị của bản thân nó. Đặc biệt là đối với người lao động có tay nghề, trình độ cao. Phần lớn
hơn đó chính là giá trị thặng dư.
– Thứ ba, đặc biệt khi tiêu dùng sức lao động, sức lao động sẽ tạo ra một lượng giá trị lớn
hơn giá trị của bản thân nó đó là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư là một khái niệm trong lý thuyết kinh tế của C.Mác, chỉ phần giá trị
mà công nhân làm thuê tạo ra ngoài giá trị sức lao động của họ, nhưng bị nhà tư bản chiếm
đoạt mà không trả cho họ. Giá trị thặng dư là nguồn gốc của lợi nhuận và là biểu hiện của sự
bóc lột lao động trong chủ nghĩa tư bản. Đây là điểm then chốt làm nên sự đặc biệt của sức
lao động. Khi nhà tư bản mua sức lao động với giá trị bằng tiền lương (ví dụ: 8 giờ lao động
tương đương 8 giờ giá trị), người lao động trong quá trình làm việc tạo ra giá trị lớn hơn (ví
dụ: 12 giờ giá trị). Phần giá trị thừa (4 giờ) chính là giá trị thặng dư (GTTD), mà nhà tư bản
chiếm đoạt dưới dạng lợi nhuận.
Ví dụ: Một công nhân may mặc được trả lương cho 8 giờ làm việc (giá trị sức lao động
= 200.000 đồng). Nhưng trong 8 giờ đó, anh ấy may được quần áo trị giá 300.000 đồng (giá
trị mới tạo ra). Nhà tư bản bán quần áo lấy 300.000 đồng, trừ đi chi phí khác, phần thừa
100.000 đồng là GTTD – nguồn gốc lợi nhuận. Không hàng hóa nào khác có khả năng này:
nếu mua vải để may, vải chỉ tạo ra giá trị bằng chính nó, không thừa. Sức lao động đặc biệt vì
nó là nguồn lao động sống, có khả năng sáng tạo giá trị mới.
Như vậy, từ đặc điểm trên, sức lao động nổi bật so với hàng hóa thông thường: nó gắn
liền với con người (không tách rời), có giá trị sử dụng tạo ra giá trị thặng dư, và chỉ tồn tại
trong xã hội tư bản (nơi người lao động tự do nhưng không có tư liệu sản xuất). Điều này làm
cho sức lao động trở thành “hàng hóa đặc biệt” – nền tảng của sự bóc lột tư bản mà không cần bạo lực trực tiếp.
3. Ví dụ
Để thấy rõ được sức lao động chính là một loại hàng hoá đặc biệt, ta hãy cùng xem xét ví dụ sau: 13
Giả sử sản xuất giá trị thặng dư được thực hiện dưới hình thái sản xuất cụ thể là sản xuất
bàn gỗ. Trong quá trình sản xuất này, nhà tư bản thuần tuý chỉ đóng vai trò là người chủ sở
hữu tư liệu sản xuất (gỗ, máy cưa, máy bào…), và chỉ có một người công nhân là người trực tiếp lao động.
Để tiến hành sản xuất bàn gỗ, nhà tư bản phải ứng ra số tiền như sau:
– 150 USD mua 1m³ gỗ, đinh, sơn… (nguyên liệu).
– 30 USD hao mòn máy móc (máy cưa, máy bào, máy sơn) để làm được 10 chiếc bàn gỗ.
– 40 USD mua hàng hóa sức lao động để sử dụng trong một ngày làm việc 8 giờ và điều
này được người công nhân thoả thuận chấp nhận.
=> Như vậy, nhà tư bản ứng ra chi phí tổng là: 220 USD để sản xuất 10 chiếc bàn gỗ.
Trong quá trình sản xuất bàn gỗ, trong 4 giờ đầu, công nhân gia công gỗ thành một chiếc
bàn gỗ thô. Giá trị chiếc bàn thô và hao mòn máy móc được chuyển vào giá trị của chiếc bàn
gỗ. Bằng lao động trừu tượng người công nhân tạo ra giá trị mới, giả định, trong 4 giờ lao
động công nhân đã chuyển toàn bộ 1m³ gỗ thành chiếc bàn gỗ thô. Giá trị bàn gỗ thô bao gồm:
Giá trị nguyên liệu chuyển vào: 150 USD Hao mòn máy móc: 30 USD
Giá trị mới bằng giá trị sức lao động: 40 USD
Tổng cộng: 220 USD
Nhà tư bản ứng ra 220 USD, giả định 10 bàn gỗ được bán hết, thu về 220 USD. Nếu
quá trình lao động dừng lại tại điểm này thì không có giá trị thặng dư, tiền ứng ra chưa trở thành tư bản.
Để có giá trị thặng dư, thời gian lao động phải vượt quá cái điểm bù lại giá trị sức lao
động. Lưu ý là nhà tư bản mua sức lao động của công nhân để sử dụng trong 8 giờ (với 40
USD như đã thoả thuận), không phải là 4 giờ.
Công nhân phải tiếp tục làm việc trong 4 giờ nữa. Trong 4 giờ này, nhà tư bản chỉ phải
bỏ thêm 150 USD để mua nguyên liệu và 30 USD hao mòn máy móc.
Quá trình lao động 4 giờ sau diễn ra như quá trình đầu. Số bàn gỗ được tạo ra trong 4
giờ lao động sau cũng có giá trị 220 USD, bao gồm:
Giá trị nguyên liệu chuyển vào: 150 USD Hao mòn máy móc: 30 USD 14
Giá trị mới tạo thêm: 40 USD
Tổng cộng: 220 USD
Sau khi bàn gỗ được bán hết, giá trị thu về sau 8 giờ lao động của công nhân là: 220 USD + 220 USD = 440 USD
Tổng cộng nhà tư bản ứng ra:
300 USD + 60 USD + 40 USD = 400 USD
trong khi đó số bàn sản xuất ra có giá trị 440 USD.
Do đó, nhà tư bản thu được lượng giá trị thặng dư là: 440 USD – 400 USD = 40 USD
Phần chênh lệch này là giá trị thặng dư. Đây là giá trị mới do người lao động tạo ra
ngoài hao phí lao động tất yếu. Phần giá trị mới này nhà tư bản năm lấy do địa vị là người chủ sở hữu.
Như vậy, giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do
công nhân tạo ra, là kết quả của lao động không công của công nhân cho nhà tư bản.
B. LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN
1. Thực trạng thị trường lao động hiện nay
1.1. Khái quát thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay trong mối liên hệ với lý
luận Mác – Lênin
Theo quan điểm của C. Mác, sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt bởi nó vừa
mang lại giá trị sử dụng, vừa có khả năng tạo ra giá trị mới và giá trị thặng dư. Theo C.Mác,
sức lao động chỉ trở thành hàng hoá trong điều kiện người lao động bị tách rời khỏi tư liệu sản
xuất, buộc phải bán sức lao động của mình để tồn tại. Trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, quá trình đó diễn ra một cách cụ thể trên thị
trường lao động. Thị trường lao động chính là nơi diễn ra quá trình mua bán hàng hoá sức lao
động, trong đó người lao động bán sức lao động của mình để nhận về tiền công, còn nhà tư
bản hoặc người sử dụng lao động mua sức lao động đó để tiến hành sản xuất kinh doanh. Khi
vận dụng lý luận này vào thực tiễn Việt Nam hiện nay, có thể thấy rõ sự tương đồng trong sự
vận động của thị trường lao động. 15
Năm 2024, Tổng cục Thống kê công bố rằng lực lượng lao động Việt Nam từ 15 tuổi
trở lên đạt khoảng 52,6 triệu người, trong đó có khoảng 51,4 triệu người có việc làm, tỷ lệ
tham gia lực lượng lao động chiếm trên 68% dân số trong độ tuổi, cho thấy quy mô rất lớn
của hàng hoá sức lao động đang lưu thông. Tuy nhiên, như C.Mác từng phân tích, không phải
mọi sức lao động đều có giá trị và giá trị sử dụng như nhau, mà chúng khác nhau tùy thuộc
vào trình độ, kỹ năng và điều kiện tái sản xuất sức lao động. Tỷ lệ thất nghiệp chung chỉ ở
mức 2,3%, phản ánh nền kinh tế có khả năng hấp thụ lao động tương đối tốt. Tuy nhiên, tỷ lệ
thất nghiệp của thanh niên (15–24 tuổi) lại lên đến 6,7%, gấp gần 3 lần tỷ lệ thất nghiệp bình
quân. Đây là minh chứng sống động cho nhận định của Mác về “dư thừa tương đối” trong lao
động – tức là trong quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản, luôn tồn tại một bộ phận lao động
dư thừa, đóng vai trò như một “quân dự bị công nghiệp”. Bộ phận này chính là lực lượng lao
động trẻ, trong đó sinh viên mới ra trường chiếm tỷ lệ không nhỏ.
Bảng dưới đây minh hoạ thực trạng lao động Việt Nam năm 2024:
Bảng 1. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam (2024) Chỉ tiêu Giá trị
Tỷ lệ (%) Lực lượng lao 68,4% dân số 52,6 triệu động (15+) LĐ Số người có việc 97,7% lực 51,4 triệu làm lượng Thất nghiệp 1,2 triệu 2,3% chung Thất nghiệp thanh niên (15– 450 nghìn 6,7% 24)
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo cáo Quý IV và Cả năm 2024)
Phân tích sâu hơn, cơ cấu việc làm cho thấy sự chuyển dịch mạnh sang khu vực dịch
vụ và công nghiệp, trong khi lao động nông nghiệp giảm dần. Đây cũng chính là kết quả của 16
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời phản ánh quy luật phát triển của
lực lượng sản xuất mà C. Mác đã đề cập.
Xu hướng lao động đến năm 2025–2030 dự báo sẽ tiếp tục dịch chuyển mạnh theo
hướng tăng nhu cầu ở các ngành có hàm lượng chất xám và công nghệ cao như công nghệ
thông tin, tài chính – ngân hàng, thương mại điện tử, logistics, marketing số. Điều này đòi hỏi
sinh viên – đặc biệt là sinh viên khối ngành kinh tế, quản trị, thương mại – phải trang bị kiến
thức và kỹ năng mới, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường lao động.
1.2. Phân tích chung thị trường lao động chung Việt Nam hiện nay và nhận định so với
khu vực và thế giới
Trong lý luận Kinh tế Chính trị Mác – Lênin, hàng hoá sức lao động chỉ có thể được
tiêu thụ thông qua quá trình trao đổi trên thị trường, tức là thông qua quan hệ giữa người lao
động và người sử dụng lao động. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng thị trường lao động Việt
Nam chính là nghiên cứu quá trình vận động của hàng hoá đặc biệt này trong bối cảnh nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2024, thị trường lao động Việt Nam ghi nhận
những đặc điểm cơ bản sau:
Bảng 2. Những đặc điểm cơ bản của thị trường lao động Việt Nam (2024)
Giá trị ước Chỉ tiêu tính 2024 Nhận định
Tỷ lệ thất nghiệp chung (15 2,24% (~1,06
Thấp so với chuẩn quốc tế, phản ánh sức tuổi trở lên) triệu người)
hấp thụ việc làm tương đối ổn định
Cao gấp hơn 3 lần mức chung, cho thấy
Tỷ lệ thất nghiệp thanh niên (15–24 tuổi) 7,8%
nhóm lao động trẻ gặp khó khăn khi gia nhập thị trường
Chiếm đa số, phản ánh tình trạng thiếu an
Tỷ lệ lao động phi chính thức 63–64%
toàn, thiếu bảo hộ pháp lý
Thu nhập bình quân tháng của 7,7 triệu đồng
Có sự chênh lệch rõ giữa khu vực, ngành lao động nghề 17
Ngành có thu nhập cao (công 15–20
triệu Sức lao động phức tạp, tạo ra giá trị thặng
nghệ thông tin, tài chính…) đồng dư lớn
Ngành có thu nhập thấp (nông
Sức lao động giản đơn, dễ bị thay thế và
nghiệp, dệt may, dịch vụ giản 5–6 triệu đồng bị ép giá đơn)
(Nguồn: Số liệu được trích dẫn từ Báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2024)
Nhìn vào tình hình chung, có thể thấy thị trường lao động Việt Nam những năm gần
đây vừa mang tính phục hồi, vừa bộc lộ nhiều mâu thuẫn vốn có. Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, năm 2024 tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động duy trì ở mức 2,24%, tương
đương khoảng 1,06 triệu người. Con số này cho thấy sức lao động, xét trên tổng thể, vẫn tìm
được khả năng tiêu thụ trên thị trường. Tuy nhiên, nếu nhìn sâu hơn vào nhóm thanh niên từ
15–24 tuổi, tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn nhiều, đạt gần 7,8%. Điều này phản ánh quy luật mà
C. Mác từng nêu: sự vận động của sức lao động với tư cách là hàng hoá không bao giờ diễn
ra một cách đồng đều; nó luôn chịu tác động của cung – cầu và của mối quan hệ giữa tư bản
và lao động. Ở đây, sinh viên và lao động trẻ chính là nhóm yếu thế, khi giá trị sử dụng của
sức lao động chưa được kiểm nghiệm đầy đủ, còn giá trị trao đổi lại bị ép xuống thấp.
Một đặc điểm nổi bật khác của thị trường lao động Việt Nam là tỷ lệ lao động phi chính
thức còn rất cao. Theo các báo cáo năm 2024, khoảng 63–64% lao động đang làm việc không
có hợp đồng lao động, không được đóng bảo hiểm xã hội và thiếu sự bảo hộ pháp lý. Về mặt
lý luận, điều này cho thấy quá trình tái sản xuất sức lao động chưa được bảo đảm bền vững.
Khi người lao động chỉ có thể bán sức lao động của mình trong những điều kiện thiếu an toàn
và thiếu ổn định, giá trị sức lao động thực tế mà họ nhận được thường thấp hơn so với giá trị
cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động đó. Đây chính là biểu hiện cụ thể của sự bóc lột trong nền kinh tế hàng hoá.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động năm 2024 được ghi nhận ở mức 7,7 triệu
đồng/tháng. Tuy nhiên, con số này nếu đặt trong sự phân hoá ngành nghề thì cho thấy rõ sự
chênh lệch. Lao động trong các ngành công nghệ thông tin, tài chính, dịch vụ logistics thường
có thu nhập cao hơn nhiều so với lao động trong các ngành dệt may, nông nghiệp hay dịch vụ
giản đơn. Theo Mác, đây chính là sự phản ánh khác biệt trong giá trị sử dụng cụ thể của sức 18
lao động. Những loại sức lao động gắn với kỹ năng phức tạp, tri thức cao thường mang lại giá
trị thặng dư lớn hơn cho nhà tư bản, do đó được trả công cao hơn. Ngược lại, sức lao động
giản đơn bị ép giá, thậm chí chỉ được trả mức gần sát với giá trị tối thiểu để tái sản xuất ra bản thân nó.
Không chỉ dừng lại ở thực trạng hiện tại, xu hướng phát triển của thị trường lao động
Việt Nam trong giai đoạn 2025–2030 cũng đặt ra những yêu cầu mới. Một mặt, sự phát triển
của cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) và chuyển đổi số làm gia tăng nhu cầu đối với lao
động có kỹ năng số, ngoại ngữ và khả năng thích ứng với công nghệ mới. Mặt khác, những
công việc giản đơn, có thể thay thế bằng máy móc, sẽ ngày càng mất dần. Điều này làm nổi
bật mâu thuẫn giữa một bên là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, và bên kia là sự
lạc hậu của một bộ phận không nhỏ người lao động chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng. Mâu
thuẫn này nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp cơ cấu, đồng thời gia
tăng sức ép lên sinh viên mới tốt nghiệp – những người đang trong quá trình tìm kiếm nơi tiêu thụ sức lao động.
Như vậy, thực trạng thị trường lao động Việt Nam vừa phản ánh quy luật chung của nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, vừa đặt ra những vấn đề cụ thể trong bối cảnh định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đó là sự tồn tại song song của hai mặt: một bên là tỷ lệ thất nghiệp chung
thấp, thu nhập bình quân tăng, thị trường lao động phục hồi; nhưng bên kia lại là thất nghiệp
thanh niên cao, lao động phi chính thức lớn, chênh lệch ngành nghề và nguy cơ đào thải lao
động giản đơn. Tất cả những điều này minh chứng rõ ràng cho luận điểm cơ bản của C. Mác:
hàng hoá sức lao động, với tính chất đặc biệt của nó, luôn vận động trong sự giằng xé giữa
nhu cầu tái sản xuất của bản thân người lao động và yêu cầu tối đa hoá lợi nhuận của tư bản.
Dưới đây là báo cáo tổng hợp nghiên cứu thị trường lao động Việt Nam hiện nay tính
đến hết Quý I năm 2025, đây là bản báo cáo chi tiết, xác thực, thời sự nhất theo dữ liệu từ
nhiều nguồn trang thông tin uy tín trong và ngoài nước:
Giá trị 2024/Quý đầu Chỉ tiêu Nhận định 2025
Lực lượng lao động từ 15 ~ 52,9 triệu người (Quý Tăng ~ 532.000 so với tuổi trở lên I/2025) cùng kỳ năm trước 19 (theo Vietnam+ (theo Vietnam+ (VietnamPlus)) (VietnamPlus))
Giảm nhẹ so với cùng kỳ
Tỷ lệ tham gia lực lượng ~ 68,5% (Quý III/2024) năm trước lao động (theo Cục Thống kê (theo Cục Thống kê Quốc gia) Quốc gia) ~ 51,5 triệu người (9 Tăng khoảng 212.000 so Số người có việc làm tháng đầu năm 2024)
với cùng kỳ năm trước
toàn bộ thị trường (15+) (theo Vietnam+ (theo Vietnam+ (VietnamPlus)) (VietnamPlus))
Giảm nhẹ so với các năm
Tỷ lệ thất nghiệp chung ~ 2,24% (năm 2024) trước (theo vietnamnews.vn) (theo Cục Thống kê Quốc gia)
Cao hơn nhiều so với tỷ Tỷ lệ thanh niên thất ~ 7.9% (Quý I/2025) lệ chung nghiệp (15-24 tuổi) (theo ETHRWorld.com) (theo ETHRWorld.com) ~ 63-64% lao động phi chính thức; ~ 28-29% lực
Phản ánh chất lượng lao
Tỷ lệ lao động phi chính
lượng lao động có bằng
động còn thấp, thiếu ổn thức / không chứng chỉ
cấp, chứng chỉ nghề (đào định nghề tạo nghề) (theo Lao Động) (theo ETHRWorld.com) Thu nhập bình quân ~ 8,3 triệu đồng (Quý Tăng so với năm trước tháng I/2025 toàn quốc) (theo ETHRWorld.com) (theo ETHRWorld.com) ~ 10-11% thanh niên 15- Tình trạng NEET (không Tăng nhẹ năm-tháng học, không làm, không 24 tuổi (Quý I/2025) (theo VnExpress Quốc đào tạo) (theo VnExpress Quốc Tế) Tế)
2. Vị trí của sinh viên
2.1. Thực trạng việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp – minh chứng cho tính đặc biệt của
hàng hoá sức lao động
Trong số các loại sức lao động, sức lao động trí óc của sinh viên mới tốt nghiệp là loại
hàng hoá đặc biệt trong hàng hoá đặc biệt. Đây là bộ phận vừa mang trong mình giá trị (chi
phí đào tạo, nuôi dưỡng, tích lũy tri thức) vừa có giá trị sử dụng đặc thù (khả năng sáng tạo,
thích ứng công nghệ, đóng góp cho sự phát triển tri thức). Số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo
(2024) cho thấy tỷ lệ việc làm của sinh viên sau 12 tháng tốt nghiệp đạt bình quân 85–90%.
Tại các trường kinh tế lớn như Đại học Thương mại, Ngoại thương, Kinh tế Quốc dân hay 20