Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng HCM
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Họ và tên SV:
Lớp tín chỉ:
Marketing CLC 63C_AEP(221)_CLC_29
Mã SV:
11211217
GVHD:
TS
HÀ NỘI, NĂM 2022
lOMoARcPSD| 45469857
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU __________________________________________________________________ 1
NỘI DUNG ________________________________________________________________ 1
CHƯƠNG 1 - ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ______ 1
I. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm Mác Lênin ________________________________________________ 1
II. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ
tư tưởng Hồ Chí Minh ___________________________________________________ 5
CHƯƠNG 2 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI _____________________________________________________ 7
I. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội ________________ 7
II. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
quá trình cách mạng Việt Nam _____________________________________________ 9
CHƯƠNG 3 - THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON
ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA _____________________________________________ 11
KẾT LUẬN _______________________________________________________________ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ___________________________________________________ 16
lOMoARcPSD| 45469857
1
MỞ ĐẦU
tưởng Hồ Chí Minh một khoa học, dựa trên sở chủ nghĩa Mác - Lênin và trở
thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa
xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Nội
dung đó được thể hiện không chỉ tưởng của Người về dân tộc, vquan hệ dân tộc giai
cấp cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa hội con đường xây dựng chủ nghĩa
hội, về đại đoàn kết dân tộc, về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về Đảng
Cộng sản xây dựng Nhà nước của dân, do dân, n còn tư tưởng đạo đức văn
hoá Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị có giá trị
lý luận và thực tiễn quan trọng. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ bản chất của cách mạng vô sản,
sở của những hành động cách mạng. Nó thể hiện u sắc phẩm chất, nhân cách mẫu
mực, tự giác giáo dục rèn luyện bản thân, kết hợp lòng yêu nước chân chính với tinh thần
quốc tế cao cả, trong sáng… Trong bài luận này, tôi sẽ chứng minh tính thống nhất trong
tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 - ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm Mác Lênin
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, ngoài việc nghiên cứu các cuộc cách
mạng trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Người khẳng định: Trên thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga đã thành công
và thành công đến nơi đến chốn vì dân chúng được hưởng tự do và độc lập.
Đến khi bản Yêu sách đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân An Nam
được Hồ Chí Minh thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị hòa nh
Vécxây (1919) không được các nước đế quốc chấp nhận. Sau việc này, Nguyễn Ái Quốc càng
nhận ra bộ mặt thật của giai cấp sản chnghĩa bản. Người thấy rằng, nó không như
những giai cấp sản thường rao giảng “Tự do - bình đẳng - c ái” cho mọi người
cho các dân tộc. Điều này đối lập hoàn toàn với tư tưởng của Lênin. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí
lOMoARcPSD| 45469857
2
Minh rút ra bài học Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ thtrông cậy vào bản thân
mình”. Đồng thời “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Một là, quyết tâm giành độc lập cho dân tộc.
Từ một người yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu bản chất học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, và mục tiêu của
chủ nghĩa hội khoa học trên sở quan điểm duy vật lịch sử. Người đã thấy trong học
thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin con đường chân chính để giải phóng dân tộc. Năm 1920,
sau khi đọc tác phẩm “Những luận cương về vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa” của Lênin,
Người rút ra chân lý: Muốn cho nước nhà được độc lập phải đi theo con đường cách mạng vô
sản và chỉ chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức giai cấp công nhân toàn thế giới. Hay, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Kể từ
đây, người hoàn toàn tin theo Lênin và tin theo quốc tế thứ ba.
Với tư tưởng biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định giữa cách mạng dân tộc dân
chủ cách mạng hội chủ nghĩa mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn trước làm
tiền đề cho giai đoạn sau. Giai đoạn sau kế tiếp củng cố, phát triển giai đoạn trước.
tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa hội trở thành cốt lõi, xuyên suốt trong quá trình
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 trong văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng, bản Chánh cương vắn tắt do Người soạn thảo ghi con đường của cách mạng Việt
Nam “làm sản dân quyền cách mạng thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”.
Con đường cách mạng này trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
hội chủ nghĩa. Người xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho Việt Nam còn xuất phát từ thực tế của
đất nước thời kỳ đó khi các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng tư
lOMoARcPSD| 45469857
3
sản đều không thành ng. Đến như nhà yêu nước Phan Bội Châu, người theo con đường nhờ
nước Nhật đánh Pháp để cứu lấy Tổ quốc đang bị người Pháp đô hộ phải thốt lên rằng: “Than
ôi! Đời tôi một trăm lần thất bại không một lần thành công!”. Chỉ đến khi Chtịch Hồ
Chí Minh đi theo con đường cách mạng sản, Cách mạng Tháng ời Nga đại năm 1917
thì nước ta mới giành được độc lập, dân ta mới có tự do, ấm no và hạnh phúc.
Khi thời giành độc lập cho Tổ quốc đã đến, vào khoảng tháng 7 năm 1945, dù đang
ốm nặng, Bác vẫn nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp rằng: “… dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trong Bản Tuyên
ngôn độc lập được Bác thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố trước quốc
dân đồng bào năm 1945, cũng lúc Người dự liệu được tình hình đất nước sẽ khó khăn trong
việc giữ gìn độc lập của Tổ quốc trước dã tâm tái xâm lược của đế quốc
Pháp cũng như của chủ nghĩa đế quốc. Người đã tuyên bố với thế giới rằng: “Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần lực ợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”.
Trong Lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc (11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt
dân tộc Việt Nam thể hiện quyết tâm khi khẳng định rằng: “Nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho T
quốc độc lập cho đất nước”. Đến tháng 12 năm 1946, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, Hồ Chí Minh đã gửi đi thông điệp cho đế quốc Pháp sẽ cùng toàn thể dân tộc Việt Nam
bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước bằng ý chí sắt đá: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, không chịu làm lệ”. Nối tiếp mạch duy về nền độc lập cho dân
tộc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, chân lý đó tiếp tục được Người khẳng định khi tuyên bố trong
Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Độc lập dân tộc là giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm đối với bất kỳ một quốc gia,
dân tộc nào trên thế giới cũng như của dân tộc Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người đã giành cả cuộc đời để phấn đấu cho chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”.
Hai là, đưa Việt Nam đi lên CNXH sau khi giành được độc lập cho dân tộc.
lOMoARcPSD| 45469857
4
Chịu ảnh hưởng sâu sắc tưởng của V.I.Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc và
ủng hộ các nước đi lên CNXH, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam trong thời đại mới: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: con
đường cách mạng của Việt Nam là tiến tới chủ nghĩa xã hội, quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa.
sao Người lại chọn đi lên CNXH chứ không phải đi lên CNTB mặc Người đã
sống ở các nước TBCN phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… trong suốt phần lớn thời gian 30 năm
đi tìm đường cứu nước? Điều này đã được Người khẳng định rằng, đấu tranh giành độc lập
để gắn với con đường phát triển bản chủ nghĩa hoàn toàn không phải con đường phát
triển của dân tộc Việt Nam.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mặc dù đất nước ta tiếp tục
cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp nhưng toàn Đảng, toàn dân ta vẫn khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội hợp quy luật, hợp lòng dân của cách mạng Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
từng khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của dân tộc không ai ngăn nổi.
Sở Người chọn con đường đi lên chủ nghĩa hội sau khi nước ta giành được độc
lập như Người từng lý giải rằng: chủ nghĩa hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa tư bản; khỏi áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói, lầm than và trả lại cho
họ tính người vốn có, đầy đủ trong quá trình phát triển. Chính chủ nghĩa hội là niềm tin,
ước mơ, là lý tưởng cao đẹp của tất cả những người lao động đang bị giai cấp tư sản áp bức,
bóc lột trên toàn thế giới. đó, con người sống với nhau thân ái, hòa bình, bình đẳng, cùng
tiến bộ được tôn trọng. Chỉ chủ nghĩa xã hội mới điều kiện để con người thể hiện
“sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”.
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa hội không phải
sự áp đặt khiên cưỡng cội nguồn trong chiều sâu văn hóa dân tộc. Bởi ở Việt Nam
đã từng tồn thuyết hội đại đồng của Nho giáo quan niệm “Thiên hvi công” (thiên hạ
của chung). Về quan hsở hữu, đất ớc chúng ta đã tồn tại hàng nghìn năm chế độ công
điền, công thổ, chế độ tỉnh điền; nguyên tắc vần công, đổi công trong lao động nông nghiệp...
lOMoARcPSD| 45469857
5
Đây những cơ sở chính trị kinh tế quan trọng để Nguyễn Ái Quốc đưa ra tưởng độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Người tin rằng điều đó sẽ thành công. Và thực tế ở Việt
Nam đã chứng minh quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy, trên cơ sở các nhân tố khách quan và chủ quan, kinh tế và chính trị, lịch sử và
hiện tại để Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Tư
tưởng của Người còn là sự thỏa mãn khát vọng của dân tộc Việt Nam trong việc ơn lên
những giá trị vĩnh hằng nhân loại ước muốn như độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc! Cho
đến nay, dù tình nh đất nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng. Những chân lý của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội vẫn giữ nguyên giá
trị. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là nền tảng, là kim chỉ nam tiếp tục
soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ vinh quang. Toàn Đảng, toàn dân,
ta đang nỗ lực cố gắng quyết m thực hiện mong ước của Chủ tịch HChí Minh: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một ớc
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
II. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ tư
tưởng Hồ Chí Minh
Độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận
hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở
thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh
chỉ các bài viết của Người chỉ một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong
kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội thể hiện một cách tập trung những luận
điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo
đường lối cách mạng Việt Nam đóng góp quan trọng vào việc phát triển luận về cách
mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chnghĩa Mác Lênin trên
lOMoARcPSD| 45469857
6
nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt luận về cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội sự phản ánh chính xác mục đích,
tưởng, khát vọng ham muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai ng cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội phản ánh tính triệt để cách mạng của
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người
ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng.
lOMoARcPSD| 45469857
7
CHƯƠNG 2 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN
LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc mục tiêu trực tiếp, trước hết, sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa
hội. Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân cách mạng hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân ch hai
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ n
chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế những mâu thuẫn
khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó còn một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc lập n tộc bao
hàm trong đó cả nội dung dân tộc dân chủ. Đó nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn,
chứ không phải thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư ởng Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, độc lập n tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, m no hạnh phúc của nhân dân
lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã
hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu
cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, mục tiêu trước hết của quá trình cách
mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời điều kiện hàng đầu, quyết định để
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng hội chủ
nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa
lOMoARcPSD| 45469857
8
xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng n tộc dân chủ được thể
hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công
nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các sở kinh tế mang tính chất hội chủ nghĩa,
từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần
chúng công - nông - trí thức và các giai tầng hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong
một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển
tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu
thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh
đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc toàn dân Việt Nam yêu
nước nòng cốt khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định
tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng
dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng n tộc dân chủ nhân dân
Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó.
lOMoARcPSD| 45469857
9
II. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong quá
trình cách mạng Việt Nam
Độc lập n tộc tiến lên chủ nghĩa hội ở Việt Nam một tất yếu lịch sử. Nhưng để
hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau đây.
Một là, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng Cộng sản điều kiện bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội.
Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo
cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong
trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế độ hội
chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên
và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với cách điều kiện bản bảo đảm để độc lập dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ
yếu sau đây:
Hoạch định cương nh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lãnh đạo hội, trước hết lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập
dân tộc gắn liền với chnghĩa hội bằng ch thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng
viên của mình.
Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng lãnh đạo công tác
kiểm tra trong c tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành độc lập dân tộc
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính
khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh thường
xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt
qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị,
tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
lOMoARcPSD| 45469857
10
Hai là, xây dựng, củng cố tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân
và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực
hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người
xác định: công - nông gốc, chủ lực của cách mạng, các giai tầng, nhân yêu nước
bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước ớc vào xây dựng chnghĩa hội Người đòi hỏi
công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng hội chủ
nghĩa đều cần đến không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây
dựng theo tưởng Hồ Chí Minh hạt nhân cốt lõi liên minh công - nông trí thức để
đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ
Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó
được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam
cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Hồ Chí Minh luôn những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống Mỹ, trong
thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán
bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu tố
quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
lOMoARcPSD| 45469857
11
CHƯƠNG 3 - THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN
CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập n tộc gắn liền với chủ nghĩa hội ra đời phát
triển thời đại quá độ từ chủ nghĩa bản n chủ nghĩa hội trên phạm vi thế giới.
tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 và đến mùa xuân m 1930 với s
kiện Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân
tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 70 năm qua. tưởng Hồ C
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tế, có thể chia
ra làm ba thời kỳ.
Thời kỳ 1930 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn tắt,
sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong đó, Đảng Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng sản dân quyền cách mạng ruộng đất,
đấu tranh xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục. Đảng xác
định mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân n Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, đỉnh cao cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công,
chấm dứt chế độ phong kiến o dài hàng nghìn năm, chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp
sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta ớc sang một
kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện qua
những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh:
Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng
sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với toàn thể n
tộc bị lệ dưới ách đế quốc Pháp tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của
cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện nét trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
lOMoARcPSD| 45469857
12
Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược, phong kiến
tay sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc.
Xác định lực lượng cách mạng Việt Nam toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân,
nông dân, tầng lớp tiểu sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong
đó nòng cốt là liên minh công - nông. Lực ợng cách mạng hùng hậu này được tập hợp dưới
ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam một bộ phận của cách
mạng sản thế giới, mối quan hệ khăng khít với cách mạng sản “chính quốc”, cách
mạng giải phóng dân tộc tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng sản
“chính quốc", tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc".
Thời kỳ 1945 1954, Đảng lãnh đạo toàn n tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa
cầu. Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập, tự do, cthể hóa ởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc. Sau hiệp định Giơnevơ
(20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Sau khi hòa bình lập lại,
miền Bắc tiến hành cách mạng hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương lớn cho cách mạng
giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội trong
giai đoạn này hai chiến lược cách mạng:ch mạng hội chủ nghĩa ở miền Bắc cách
mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội,
thực hiện “kháng chiến kiến quốc”. thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển
những quan điểm lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm bằng cách xác
định mục tiêu, động lực, các điều kiện bảo đảm thắng lợi của từng giai đoạn cách mạng, trong
mỗi giai đoạn đều kết hợp giải quyết các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ chủ nghĩa xã hội, tạo
tiền đề đẩy cách mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng kkhăn phức tạp hơn.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức
độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
lOMoARcPSD| 45469857
13
Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở
thời kỳ này Người đã đề ra thực thi nhất quán đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ
nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới.
Thời kỳ 1954 – 1975, cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy truyền thống dựng nước giữ
nước của ông cha, truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước xuống
đường, cả ớc hướng về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chtịch Hồ Chí Minh
Đảng ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng kiến sự kết hợp
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội trên phạm vi, quy lớn như thời điểm y của
cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975,
miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất ớc thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới:
kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa hội trên phạm vi cả nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tưởng về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ
Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa hội miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn thành công
mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh xác định rất
vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền tác động lẫn nhau của chúng. Vthực chất,
đây sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm
vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì
bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân
lOMoARcPSD| 45469857
14
tộc, xác định rõ kẻ thù số một dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh đổ đế
quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu ởng “không quý hơn độc lập tự do” thể hiện ý chí,
quyết tâm lớn lao của cả dân tộc trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Về
tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh những quan niệm cách làm sáng tạo, trên sở đánh
giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh
đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng mặt trận”: Mặt trận n
tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống
Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba tầng
mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vô địch.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn chỉnh, thống nhất
về chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của HChí
Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm đặc điểm lớn nhất của Việt
Nam khi bước vào thời kỳ quá độ n chủ nghĩa hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến
tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Đặc biệt, Hồ
Chí Minh đã những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước
đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa hội trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn,
thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh tàn phá; Mỹ phương Tây tiến hành bao vây,
lập, cấm vận Việt Nam; các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến tranh phá hoại
nhiều mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng lãnh đạo từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng ớc hồi sinh đất nước về mọi
mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định phải giương cao ngọn
cờ "Độc lập dân tộc chủ nghĩa hội". Công cuộc đổi mới theo định hướng hội chủ
nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan trong thời k
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực
lOMoARcPSD| 45469857
15
hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong mối liên hệ gắn kết biện chứng.
KẾT LUẬN
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930 đến nay, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm
thực hiện. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và gần ba mươi
năm đổi mới đất nước đã chứng minh giành, giữ độc lập dân tộc gắn với xây dựng chủ nghĩa
hội như một quy luật tất yếu khách quan, phù hợp với sự vận động phát triển sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng hơn vấn đề độc lập dân tộc
CNXH trước bối cảnh toàn cầu hóa hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiến trình đổi mới là sự tiếp
tục vận động của những quan niệm mới về CNXH và con đường xây dựng CNXH của Đảng,
được hình thành dựa trên những nguyên của chủ nghĩa Mác - -nin, tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã tích lũy được trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là nội dung nổi bật, xuyên suốt và chủ
đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH là một trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc và mãi ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại a, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trong thế kỷ XXI của Đảng
và nhân dân Việt Nam.
Ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, tưởng “không có gì quý hơn độc
lập tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống của nó. Bởi vì, tình hình quốc tế diễn biến phức
tạp, thay đổi khó ờng. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn xu thế lớn. Nhưng xung đột
trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... vẫn diễn ra ở nhiều
nơi. Cách mạng khoa học công nghệ toàn cầu hóa tạo hội cho các nuớc phát triển, nhưng
lOMoARcPSD| 45469857
16
cạnh tranh, tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học
công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là
các nước đang và kém phát triển trước những thách thức gay gắt.
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo con
đường bản chnghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột
sắc tộc, n giáo, phe phái. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho quốc gia đó không thể có
độc lập thật sự. Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ, cải cách đã
mắc sai lầm bản về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ nghĩa hội, muốn
đưa đất nước đi theo con đường bản chủ nghĩa hay “xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong
chờ vào sự giúp đỡ của thế giới bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng giá tr
của hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia ng; đời sống của người lao
động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày ng gia tăng; đặc biệt c
động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của người dân và cách giải quyết của các
nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút; đồng thời, th
hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, với tất
cả mặt tích cực tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao ngọn cđộc lập dân tộc chủ nghĩa
xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong
sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa hội
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị vmột số định hướng lớn trong
công tác tư tưởng hiện nay, NXB Chính trị quốc gia.
lOMoARcPSD| 45469857
17
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB
Chính trị quốc gia.
3. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị - Hành chính.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia.
5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
| 1/19

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Chứng minh tính thống nhất trong tư tưởng HCM
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Họ và tên SV: Trần Minh Đại Lớp tín chỉ:
Marketing CLC 63C_AEP(221)_CLC_29 Mã SV: 11211217 GVHD: TS HÀ NỘI, NĂM 2022 lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU __________________________________________________________________ 1
NỘI DUNG ________________________________________________________________ 1
CHƯƠNG 1 - ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ______ 1
I. Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm Mác Lênin ________________________________________________ 1
II. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ
tư tưởng Hồ Chí Minh ___________________________________________________ 5
CHƯƠNG 2 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI _____________________________________________________ 7
I. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội ________________ 7
II. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
quá trình cách mạng Việt Nam _____________________________________________ 9
CHƯƠNG 3 - THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN CON
ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA _____________________________________________ 11
KẾT LUẬN _______________________________________________________________ 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ___________________________________________________ 16 lOMoAR cPSD| 45469857 MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và trở
thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa
xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Nội
dung đó được thể hiện không chỉ ở tư tưởng của Người về dân tộc, về quan hệ dân tộc – giai
cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội, về đại đoàn kết dân tộc, về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về Đảng
Cộng sản và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân mà còn ở tư tưởng đạo đức và văn
hoá Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị có giá trị
lý luận và thực tiễn quan trọng. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ bản chất của cách mạng vô sản,
là cơ sở của những hành động cách mạng. Nó thể hiện sâu sắc ở phẩm chất, nhân cách mẫu
mực, tự giác giáo dục và rèn luyện bản thân, kết hợp lòng yêu nước chân chính với tinh thần
quốc tế cao cả, trong sáng… Trong bài luận này, tôi sẽ chứng minh tính thống nhất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 - ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI I.
Sự tiếp cận của Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm Mác Lênin
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, ngoài việc nghiên cứu các cuộc cách
mạng trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917. Người khẳng định: Trên thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công
và thành công đến nơi đến chốn vì dân chúng được hưởng tự do và độc lập.
Đến khi bản Yêu sách đòi các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Nhân dân An Nam
được Hồ Chí Minh thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi tới Hội nghị hòa bình
Vécxây (1919) không được các nước đế quốc chấp nhận. Sau việc này, Nguyễn Ái Quốc càng
nhận ra bộ mặt thật của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Người thấy rằng, nó không như
những gì giai cấp tư sản thường rao giảng là “Tự do - bình đẳng - bác ái” cho mọi người và
cho các dân tộc. Điều này đối lập hoàn toàn với tư tưởng của Lênin. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí 1 lOMoAR cPSD| 45469857
Minh rút ra bài học “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân
mình”. Đồng thời “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Một là, quyết tâm giành độc lập cho dân tộc.
Từ một người yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc đến với chủ nghĩa Mác Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu bản chất học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, và mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử. Người đã thấy trong học
thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin con đường chân chính để giải phóng dân tộc. Năm 1920,
sau khi đọc tác phẩm “Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin,
Người rút ra chân lý: Muốn cho nước nhà được độc lập phải đi theo con đường cách mạng vô
sản và chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và giai cấp công nhân toàn thế giới. Hay, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Kể từ
đây, người hoàn toàn tin theo Lênin và tin theo quốc tế thứ ba.
Với tư tưởng biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định giữa cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn trước làm
tiền đề cho giai đoạn sau. Giai đoạn sau kế tiếp và củng cố, phát triển giai đoạn trước. Tư
tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trở thành cốt lõi, xuyên suốt trong quá trình
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần tư tưởng đó, năm 1930 trong văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng, bản Chánh cương vắn tắt do Người soạn thảo ghi rõ con đường của cách mạng Việt
Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Con đường cách mạng này trải qua hai giai đoạn là cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Người xác định: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm
cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”.
Việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho Việt Nam còn xuất phát từ thực tế của
đất nước thời kỳ đó khi các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến, hệ tư tưởng tư 2 lOMoAR cPSD| 45469857
sản đều không thành công. Đến như nhà yêu nước Phan Bội Châu, người theo con đường nhờ
nước Nhật đánh Pháp để cứu lấy Tổ quốc đang bị người Pháp đô hộ phải thốt lên rằng: “Than
ôi! Đời tôi một trăm lần thất bại mà không một lần thành công!”. Chỉ đến khi Chủ tịch Hồ
Chí Minh đi theo con đường cách mạng vô sản, Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917
thì nước ta mới giành được độc lập, dân ta mới có tự do, ấm no và hạnh phúc.
Khi thời cơ giành độc lập cho Tổ quốc đã đến, vào khoảng tháng 7 năm 1945, dù đang
ốm nặng, Bác vẫn nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp rằng: “… dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trong Bản Tuyên
ngôn độc lập được Bác thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố trước quốc
dân đồng bào năm 1945, cũng là lúc Người dự liệu được tình hình đất nước sẽ khó khăn trong
việc giữ gìn độc lập của Tổ quốc trước dã tâm tái xâm lược của đế quốc
Pháp cũng như của chủ nghĩa đế quốc. Người đã tuyên bố với thế giới rằng: “Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”.
Trong Lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc (11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt
dân tộc Việt Nam thể hiện quyết tâm khi khẳng định rằng: “Nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ
quốc và độc lập cho đất nước”. Đến tháng 12 năm 1946, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, Hồ Chí Minh đã gửi đi thông điệp cho đế quốc Pháp sẽ cùng toàn thể dân tộc Việt Nam
bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước bằng ý chí sắt đá: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Nối tiếp mạch tư duy về nền độc lập cho dân
tộc, ngày 17 tháng 7 năm 1966, chân lý đó tiếp tục được Người khẳng định khi tuyên bố trong
Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Độc lập dân tộc là giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm đối với bất kỳ một quốc gia,
dân tộc nào trên thế giới cũng như của dân tộc Việt Nam. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người đã giành cả cuộc đời để phấn đấu cho chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự do!”.
Hai là, đưa Việt Nam đi lên CNXH sau khi giành được độc lập cho dân tộc. 3 lOMoAR cPSD| 45469857
Chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của V.I.Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc và
ủng hộ các nước đi lên CNXH, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra quy luật phát triển của cách mạng
Việt Nam trong thời đại mới: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ: con
đường cách mạng của Việt Nam là tiến tới chủ nghĩa xã hội, quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Vì sao Người lại chọn đi lên CNXH chứ không phải đi lên CNTB mặc dù Người đã
sống ở các nước TBCN phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… trong suốt phần lớn thời gian 30 năm
đi tìm đường cứu nước? Điều này đã được Người khẳng định rằng, đấu tranh giành độc lập
để gắn với con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoàn toàn không phải là con đường phát
triển của dân tộc Việt Nam.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, mặc dù đất nước ta tiếp tục
cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp nhưng toàn Đảng, toàn dân ta vẫn khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội là hợp quy luật, hợp lòng dân của cách mạng Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh
từng khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của dân tộc không ai ngăn nổi.
Sở dĩ Người chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi nước ta giành được độc
lập như Người từng lý giải rằng: chủ nghĩa xã hội sẽ giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bóc lột của chủ nghĩa tư bản; khỏi áp bức, bóc lột, bất công, nghèo đói, lầm than và trả lại cho
họ tính người vốn có, đầy đủ trong quá trình phát triển. Chính chủ nghĩa xã hội là niềm tin, là
ước mơ, là lý tưởng cao đẹp của tất cả những người lao động đang bị giai cấp tư sản áp bức,
bóc lột trên toàn thế giới. Ở đó, con người sống với nhau thân ái, hòa bình, bình đẳng, cùng
tiến bộ và được tôn trọng. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có điều kiện để con người thể hiện
“sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện tự do cho tất cả mọi người”.
Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là
sự áp đặt khiên cưỡng mà có cội nguồn trong chiều sâu văn hóa dân tộc. Bởi vì ở Việt Nam
đã từng tồn thuyết xã hội đại đồng của Nho giáo quan niệm “Thiên hạ vi công” (thiên hạ là
của chung). Về quan hệ sở hữu, ở đất nước chúng ta đã tồn tại hàng nghìn năm chế độ công
điền, công thổ, chế độ tỉnh điền; nguyên tắc vần công, đổi công trong lao động nông nghiệp... 4 lOMoAR cPSD| 45469857
Đây là những cơ sở chính trị và kinh tế quan trọng để Nguyễn Ái Quốc đưa ra tư tưởng độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Người tin rằng điều đó sẽ thành công. Và thực tế ở Việt
Nam đã chứng minh quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Như vậy, trên cơ sở các nhân tố khách quan và chủ quan, kinh tế và chính trị, lịch sử và
hiện tại để Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng của Người còn là sự thỏa mãn khát vọng của dân tộc Việt Nam trong việc vươn lên
những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại ước muốn như độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc! Cho
đến nay, dù tình hình đất nước và quốc tế có những đổi thay nhanh chóng. Những chân lý của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá
trị. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Người là nền tảng, là kim chỉ nam tiếp tục
soi đường chỉ lối cho cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ vinh quang. Toàn Đảng, toàn dân,
ta đang nỗ lực cố gắng quyết tâm thực hiện mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Điều mong
muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
II. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ tư
tưởng Hồ Chí Minh
Độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở
thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh
chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong
kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận
điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo
đường lối cách mạng Việt Nam và đóng góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách
mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác Lênin trên 5 lOMoAR cPSD| 45469857
nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý
tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người
ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng. 6 lOMoAR cPSD| 45469857
CHƯƠNG 2 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN
LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân
chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn
khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến.
Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu
xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao
hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn,
chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu
cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã
hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu
cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách
mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa 7 lOMoAR cPSD| 45469857
xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa,
từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần
chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong
một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con
đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển
tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải
phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu
thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh
đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu
nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định
tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng
dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó. 8 lOMoAR cPSD| 45469857
II. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong quá
trình cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng để
hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau đây.
Một là, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo
cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong
trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế độ xã hội
chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô
và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình.
Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công tác
kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành độc lập dân tộc
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính
khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và thường
xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt
qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư
tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. 9 lOMoAR cPSD| 45469857
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân
và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực
hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người
xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là
bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi
công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ
nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây
dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để
đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ
Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó
được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam
và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ
sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống Mỹ, trong
thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán
bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính
tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu tố
quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 10 lOMoAR cPSD| 45469857
CHƯƠNG 3 - THỰC HIỆN ĐỘC LẬP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM, TIẾN LÊN
CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát
triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư
tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930 với sự
kiện Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân
tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 70 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tế, có thể chia ra làm ba thời kỳ.
Thời kỳ 1930 – 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh vắn tắt,
sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong đó, Đảng Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất,
đấu tranh xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục. Đảng xác
định mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công,
chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, chấm dứt sự đô hộ của thực dân Pháp
sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc Việt Nam đã đưa nước ta bước sang một
kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện qua
những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh:
Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng
vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với toàn thể dân
tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của
cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. 11 lOMoAR cPSD| 45469857
Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược, phong kiến
tay sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc.
Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân,
nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong
đó nòng cốt là liên minh công - nông. Lực lượng cách mạng hùng hậu này được tập hợp dưới
ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính quốc”, cách
mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản
“chính quốc", tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc".
Thời kỳ 1945 – 1954, Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa
cầu. Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giành độc lập, tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới đạt được ở miền Bắc. Sau hiệp định Giơnevơ
(20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Sau khi hòa bình lập lại,
miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương lớn cho cách mạng
giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
giai đoạn này là hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội,
thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”. Ở thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển
những quan điểm lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm rõ bằng cách xác
định mục tiêu, động lực, các điều kiện bảo đảm thắng lợi của từng giai đoạn cách mạng, trong
mỗi giai đoạn đều kết hợp giải quyết các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tạo
tiền đề đẩy cách mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức
độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. 12 lOMoAR cPSD| 45469857
Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở
thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ
nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới.
Thời kỳ 1954 – 1975, cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy truyền thống dựng nước và giữ
nước của ông cha, truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả nước xuống
đường, cả nước hướng về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được chứng kiến sự kết hợp
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô lớn như thời điểm này của
cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975,
miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới:
kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư tưởng về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ
Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn thành công
mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh xác định rất rõ
vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động lẫn nhau của chúng. Về thực chất,
đây là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm
vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì bảo vệ.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân 13 lOMoAR cPSD| 45469857
tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh đổ là đế
quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do” thể hiện ý chí,
quyết tâm lớn lao của cả dân tộc trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Về
tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh
giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh
đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng mặt trận”: Mặt trận dân
tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống
Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba tầng
mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vô địch.
Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn chỉnh, thống nhất
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí
Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn
trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt
Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và
tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Đặc biệt, Hồ
Chí Minh đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước
đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn,
thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh tàn phá; Mỹ và phương Tây tiến hành bao vây, cô
lập, cấm vận Việt Nam; các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến tranh phá hoại
nhiều mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng bước hồi sinh đất nước về mọi
mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta luôn xác định phải giương cao ngọn
cờ "Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực 14 lOMoAR cPSD| 45469857
hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong mối liên hệ gắn kết biện chứng. KẾT LUẬN
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930 đến nay, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội luôn là mục tiêu được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm
thực hiện. Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và gần ba mươi
năm đổi mới đất nước đã chứng minh giành, giữ độc lập dân tộc gắn với xây dựng chủ nghĩa
xã hội như một quy luật tất yếu khách quan, phù hợp với sự vận động phát triển sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng rõ hơn vấn đề độc lập dân tộc và
CNXH trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiến trình đổi mới là sự tiếp
tục vận động của những quan niệm mới về CNXH và con đường xây dựng CNXH của Đảng,
được hình thành dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kế thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã tích lũy được trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là nội dung nổi bật, xuyên suốt và chủ
đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH là một trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc và mãi là ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trong thế kỷ XXI của Đảng và nhân dân Việt Nam.
Ngày nay, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, tư tưởng “không có gì quý hơn độc
lập tự do” vẫn giữ nguyên giá trị và sức sống của nó. Bởi vì, tình hình quốc tế diễn biến phức
tạp, thay đổi khó lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ
trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố quốc tế, xung đột dân tộc, tôn giáo... vẫn diễn ra ở nhiều
nơi. Cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa tạo cơ hội cho các nuớc phát triển, nhưng 15 lOMoAR cPSD| 45469857
cạnh tranh, tranh giành thị trường, các nguồn nguyên liệu, năng lượng, nguồn lực khoa học
công nghệ giữa các quốc gia, các tập đoàn kinh tế diễn ra quyết liệt, đặt các quốc gia, nhất là
các nước đang và kém phát triển trước những thách thức gay gắt.
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột
sắc tộc, tôn giáo, phe phái. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho quốc gia đó không thể có
độc lập thật sự. Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ, cải cách đã
mắc sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí phản bội lại chủ nghĩa xã hội, muốn
đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay “xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong
chờ vào sự giúp đỡ của thế giới tư bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng về kinh tế - xã hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng giá trị
của xã hội bị đảo lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng; đời sống của người lao
động ngày càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng; đặc biệt tác
động của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của người dân và cách giải quyết của các
nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút; đồng thời, thể
hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá, với tất
cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong
sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,
đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong
công tác tư tưởng hiện nay, NXB Chính trị quốc gia. 16 lOMoAR cPSD| 45469857 2.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia. 3.
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị - Hành chính. 4.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia. 5.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. 17