Chương 1: Bối cảnh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác thuộc địa của thực dân pháp và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng | Bài tập môn Lịch sử Đảng
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng (LLCT220514)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Chương 1: Bối Cảnh Lịch Sự Việt Nam Dưới Chính Sách Thống Trị, Khai
Thác Thuộc Địa Của Thực Dân Pháp Và Cương Lĩnh Chính Trị Đầu Tiên Của Đảng
1.1. Bối cảnh lịch sử trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
1.1.1 Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng
cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp
bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống
nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -
Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài
người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng
sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong
việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2 Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được
các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam ra
thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị
riêng. Đồng thời vớichính sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa
chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, đầu
tư khai thác tài nguyên, xây dựng một số cơ sở công nghiệp, xây dựng hệ thống đường
giao thông, bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa
của Pháp đã tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số
ngành kinh tế mới…) những cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế nước ta bị lệ thuộc
vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân,
dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu. Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai
trị thực dân ở Đông Dương, “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách
nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng
rượu… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục
thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc : Giai cấp địa chủ , Giai
cấp nông dân, giai cấp công nhân , giai cấp tư sản Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản
thương nghiệp… ,giai cấp tiểu tư sản:bao gồm học sinh, tri thức, viên chức và những
người làm nghề tự do. Trong đó giới tri thức và học sinh là bộ phận quan trọng của
tầng lớp tiểu tư sản.Tóm lại chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh
mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị kinh tế văn hóa xã hội. Trong đó
đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp
tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận của người dân mất nước
ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách cai trị áp
bức bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản
trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với giai cấp địa chủ phong kiến.
Trong đó mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong
kiến. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là,
xóa bỏ chế độ phong kiến giành quyền tự chủ cho nhân dân, chủ yếu là đất cho nông
dân. Trong đó chống đế quốc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
1.1.3 Phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị phong kiến và tư sản từ
cuối thế kỷ XIX đến đầu năm 1930
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến tiêu biểu là:
Phong trào Cần Vương (1885-1896) do vua Hàm Nghi và cụ Tôn Thất Thuyết
lãnh đạo, hoạt động tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ. (Ngày 13/7/1885 Vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương, phong trào Cần Vương phát triển mạnh mẽ ra nhiều địa phương ở
Bắc Kỳ ,Trung Kỳ và Nam Kỳ. Ngày 1/11/1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt nhưng
phong trào vẫn tiếp tục phát triển cho đến năm 1896 mới kết thúc. Thất bại của các
phong trào trên đã chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo
phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam).Khởi nghĩa
Ba Đình (1886-1887) do Phạm Bành và Đinh Công Tráng lãnh đạo diễn
ra tại Thanh Hóa. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo,
diễn ra ở các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình.Khởi nghĩa Hương
Khê (1885-1896) do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo, diễn ra ở địa bàn
Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh. Khởi nghĩa nông dân Yên Thế (1885-
1913) do Hoàng Hoa Thám và Lương Văn Nắm lãnh đạo diễn ra tại Bắc Giang. Khởi
nghĩa đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều có khó khăn, thiệt hại
nhưng đến năm 1913 thì bị dập tắt.
Tóm lại: Thất bại của phong trào cần vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư
tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ dành độc lập cho lịch sử đặt ra và
từ đây phong trào cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến
bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp,
tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng :
Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu ( 1867-1941)-quê Nghệ
An với chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục
nền độc lập cho dân tộc - Phát động phong trào Đông Du đưa du học sinh Việt Nam
sang Nhật học tập. Chọn Nhật vì đây là quốc gia “đồng văn, đồng chủng”, nền kinh tế
phát triển mạnh, hùng mạnh về quân sự.
Đại diện cho khuynh hướng cải cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận
động cải cách văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn
vua quan phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân
trí, chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu
viện nước ngoài, cầu xin Pháp đến khai hóa cho Việt Nam.
Ngoài ra, trong thời kỳ này ở Việt nam còn nhiều phong trào đấu tranh khác
như: Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách
trú”(1919); Phong trào chống độc quyền xuất nhập ở cảng Sài Gòn (1923); đấu tranh
trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải cách tự do dân chủ…
Từ trong phong trào đấu tranh các tổ chức Đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (năm
1923); Đảng Thanh niên (tháng 3-1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt
Nam nghĩa đoàn (năm 1925). Sau nhiều lần đổi tên, tháng 7-1928 lấy tên là Tân Việt
cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12-1927). Các đảng phái chính trị
tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp
trong đó nổi bật là Tân Việt cách mạng Đảng và và Việt Nam Quốc dân Đảng.
Tóm lại trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh
chống Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng
tới giành độc lập cho dân tộc nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi
phục chế độ phong kiến hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập hiến hoặc cao hơn là thiết
lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu tranh diễn ra với các phương thức và
biện pháp khác nhau bạo động hoặc cải cách với quan điểm và tập hợp lực lượng bên
ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để thực hiện cải cách hoặc dựa vào ngoại viện để đánh
Pháp nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam đã diễn ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với
những hình thức đấu tranh phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế
quốc của giai cấp tư sản ở Việt Nam nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản
Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị nên không đủ sức giương cao ngọn
cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, chưa có đường lối chính trị rõ ràng và
một hình thức tổ chức chặt chẽ.
Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước
kiên cường bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển của
phong trào yêu nước đã tạo cơ sở thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin,
quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân
tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.4. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản và những yêu cầu đặt ra
đối với cách mạng Việt Nam
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Trong quá trình tìm
đường cứu nước, Người đã tìm hiểu kỹ các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
Người đánh giá cao tư tưởng tự do bình đẳng bác ái và quyền con người của cuộc
cách mạng tiêu biểu như cách mạng Mỹ (1776) cách mạng Pháp (1789) nhưng cũng
nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản. Từ đó Nguyễn Ái Quốc
khẳng định con đường cách mạng tư sản không thể đem lại độc lập và hạnh phúc thật
sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm, tìm hiểu cách mạng tháng 10 Nga năm 1917.
Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do bình đẳng
thật”.Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo.
Người tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải và con đường giải phóng cho nhân
dân Việt Nam và vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế
giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác Lênin.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920). Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự
kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước
đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài
con đường cách mạng vô sản “.Từ đây cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với
phong trào cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để
thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng
Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925 người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên. Chương trình và điều lệ của hội nêu rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc và
cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công, hội chủ trương thành lập chính
phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội cộng sản
chủ nghĩa thực hiện, đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các
lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được
nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế chính trị trong nước. Năm 1928, hội thực hiện chủ
trương “vô sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lập
trường quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin và lý luận
giải phóng dân tộc vào phong trào cách mạng Việt Nam.
Ngoài việc trực tiếp huấn luyện cán bộ của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, Nguyễn Ái Quốc còn lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gửi đi học lại
trường Đại học Phương Đông( Liên Xô) và trường Lục Quân Hoàng phố (Trung
Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.Năm 1927 bộ tuyên truyền của
Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm Đường Cách Mệnh (tập hợp
các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên).Đường Cách Mệnh chỉ rõ tính chất và trách nhiệm của cách mạng
Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc mở đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hai
cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau; cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người, do
đó phải đoàn kết toàn dân nhưng cái cốt của nó là công nông và phải luôn ghi nhớ
rằng công nông là người chủ cách mệnh công nông là gốc cách mệnh.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một Đảng
lãnh đạo, Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chín chắn nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.
Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc phải giác ngộ và tổ
chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích của cách
mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cách mạng phải
biết cách làm, phải có “mưu chước”, có như thế mới đảm bảo thành công cho cuộc
khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.
Sự phát triển phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của phong trào dân tộc trên lập
trường tư sản, phong trào công nhân chống lại sự áp bức bóc lột của tư sản thực dân
cũng diễn ra từ rất sớm. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, các cuộc đấu tranh của
công nhân Việt Nam trong giới chủ diễn ra với hình thức sơ khai như: bỏ trốn tập thể,
phá giao kèo, đưa đơn phản kháng… về sau tiến đến hình thức đấu tranh cao hơn như
bãi công. Trong những năm 1919-1925, phong trào công nhân diễn ra dưới các hình
thức đình công, bãi công, tiêu biểu như các cuộc bãi công của công nhân Ba Son (Sài
Gòn) do Tôn Đức Thắng tổ chức (1925) và cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi
Nam Định 30-4-1925 đòi chủ nghĩa tư bản phải tăng lương, phải bỏ đánh đập…
Nhìn chung, phong trào công nhân năm 1919-1925 đã có những bước phát triển so
với trước chiến tranh thế giới thứ nhất. Hình thức bãi công đã trở nên phổ biến, các
cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra quy mô lớn hơn với thời gian lâu hơn.
Trong những năm 1926-1929 phong trào công nhân dân dưới sự lãnh đạo của
các tổ chức như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, công hội đỏ và các tổ chức
cộng sản ra đời từ năm 1929. Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam mang tính
chất chính trị rõ rệt, mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành,
và các địa phương.Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản.Cùng vào thời gian này phong trào yêu nước phát triển mạnh
mẽ đặc biệt là phong trào nông dân, diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước. Năm 1927,
nông dân làng Ninh Thạnh Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và chủ nghĩa
chiếm ruộng đất. Nông dân các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Nghệ
An, Hà Tĩnh đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất đòi chia ruộng công. Phong trào
nông dân và công nhân đã hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống thực dân, phong
kiến.Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được
giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát
mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt
Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức Đảng
chính trị lãnh đạo.Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản
được tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929). Ở Nam
Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự
tồn tại của ba tổ chứccộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn
đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh
đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người
duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ
chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
1.2. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1.2.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã diễn ra.
Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam,
thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ
vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là
một Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai
cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là
kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá
trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách
mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước
ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước.Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường
lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ
sức lãnh đạo cách mạng.
1.2.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được
Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định phương hướng chiến lược của cách
mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản”. Đó là một quá trình phát triển lâu dài, phải trải qua những giai đoạn
chiến lược khác nhau, mà trước tiên là giành độc lập dân tộc.
Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực lượng
và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng. Cụ
thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản.Cương lĩnh xác định các nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
Việt Nam bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống
phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống Đế Quốc giành độc lập dân tộc. Cụ thể:
Thứ nhất, về đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xác
định cách mạng Việt Nam nằm trong phạm trù cách mạng vô sản, độc lập dân tộc là
bước đi đầu tiên, là điều kiện tiên quyết để đi đến xã hội cộng sản. Chánh cương vắn
tắt của Đảng viết: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”1i. Với việc xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam
là làm cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản đã
cho thấy, ngay từ trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng đã xác định con đường phát triển
của cách mạng Việt Nam là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đây chính là sự vận
dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện một
nước thuộc địa, phong kiến; là định hướng quan trọng để trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng đã từng bước cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với
từng giai đoạn cách mạng. Vì vậy, trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng luôn nhất quán khẳng định sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Ngay cả đến hiện nay, tại Đại hội XIII, trong các quan điểm định hướng
phát triển đất nước trong giai đoạn tới, Đảng tiếp tục khẳng định phải kiên định mục
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.2, tr.2
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đây là vấn đề có tính nguyên tắc, ý
nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép
ai được ngả nghiêng, dao động.
Thứ hai, về nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Cương lĩnh đã xác định những
nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp bách của cách mạng Việt Nam: Về phương diện
chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập; Dựng ra Chính phủ công nông binh; Tổ chức ra quân đội
công nông. Về phương diện xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; Nam nữ bình
quyền; Phổ thông giáo dục theo công nông hóa. Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu hết
các thứ quốc trái; Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; Thâu
hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; Bỏ sưu
thuế cho dân cày nghèo; Mở mang công nghiệp và nông nghiệp; Thi hành luật ngày
làm 8 giờ.Cương lĩnh xác định những nhiệm vụ cơ bản, những mục tiêu cấp bách của
cách mạng Việt Nam như vậy là hoàn toàn phù hợp với tính chất và mâu thuẫn cơ bản,
mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội nước ta lúc bấy giờ là xã hội phong kiến, thuộc địa.
Đây là cơ sở rất quan trọng để Đảng xác định đúng về lực lượng cách mạng và thực
hiện các phương pháp, sách lược trong đấu tranh để đưa cách mạng đi đến thành công
kể cả trong đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, về lực lượng cách mạng. Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng
gồm toàn bộ những người Việt Nam yêu nước, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bao
gồm: Công nhân, Nông dân, Tiểu tư sản, Trí thức, Trung nông...; tranh thủ, làm trung
lập phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản. Trong đó, Sách lược vắn tắt viết: Đảng
“phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh
đạo được dân chúng”; “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo”; “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức,
trung nông (...) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”, “Đối với (...) phú nông, trung,
tiểu địa chủ, tư sản (...) thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm chí họ đứng trung lập”.Nội
dung trên đây thể hiện quan điểm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, do liên
minh công nhân và nông dân làm nền tảng. Chính quan điểm về lực lượng cách mạng
được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên là tiền đề, cơ sở, định hướng để Đảng
thực hiện xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Hiện nay Đảng vẫn luôn chú chú trọng xây dựng và phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo phương châm không phân biệt giai cấp,
địa vị, dân tộc, tôn giáo. Chính điều đó đã tạo nên nguồn lực to lớn cho sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, về vấn đề đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại. Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới,
Sách lược vắn tắt viết: “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập,
phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp
thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp” Nội dung này thể hiện kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam
với phong trào công nhân quốc tế, với phong trào đấu tranh của các dân tộc bị áp bức
và với nhân loại tiến bộ là một vấn đề khách quan. Quan điểm này đã được hiện thực
hóa trong suốt quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và là yếu tố quan trọng
tạo nên thành công của cách mạng Việt Nam trong suốt chặng đường 93 năm qua.
Thứ năm, về phương pháp cách mạng. Cương lĩnh xác định phương pháp thực
hiện độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội phải tiến hành bằng con
đường cách mạng, sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực; không đi vào con đường
cải lương, thỏa hiệp. Việc xác định phương pháp cách mạng như vậy thể hiện Đảng đã
quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng và
cũng xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, thực dân Pháp luôn dùng bạo lực phản cách
mạng để đàn áp Nhân dân, vì vậy muốn thoát khỏi sự áp bức, bóc lột của thực dân
Pháp thì không có con đường nào khác con đường bạo lực cách mạng, chứ không phải
con đường cải lương, thỏa hiệp. Quan điểm dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực
phản cách mạng của được nêu trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên là cơ sở cho đường
lối quân sự với phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng ta trong lãnh đạo cách
mạng, là một trong những yếu tố hết sức quan trọng để đưa tới thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trong đấu tranh giành chính quyền và trong các cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm, để đem lại nền hòa bình cho dân tộc.
Thứ sáu, về vai trò lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xác định lực lượng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam, “đội tiên phong của vô sản giai
cấp”. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Nội dung này vừa
khẳng định vai trò và bản chất giai cấp của Đảng, vừa là sự định hướng quan trọng
cho công tác xây dựng Đảng. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng luôn khẳng định và quan tâm bồi đắp bản chất giai cấp công nhân của Đảng;
khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng.Từ thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam và từ những nội
dung được đề cập trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có thể khẳng định
rằng, đây là lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một văn kiện chính trị phản ánh
đúng quy luật phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới; đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời
đại. Chính nhờ có Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên ngay từ khi mới ra
đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng trở thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp
xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con đường cách mạng mà Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Nhân dân đã lựa chọn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định:
“Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là
nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản,
hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân -
không ngừng củng cố và tăng cường” Tiểu kết chương 1
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của Nhân dân
tachống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả.
Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp
phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan
Đình Phùng (năm1896). Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là
khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên
Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong
trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối
truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch
sử.Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các
phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng
sâu sắc về đường lối cứu nước.
Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên
đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam – thời kì đấu tranh giành độc lập dân
tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được
những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được
những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất
các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt
sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào
cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của
dân tộc.Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn 2
của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên
những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới. 2 i